Dataset Viewer
Auto-converted to Parquet
Document
stringlengths
162
259k
Topic
int64
-1
616
Name
stringclasses
560 values
Representation
sequencelengths
10
10
Representative_Docs
sequencelengths
3
3
Top_n_words
stringclasses
560 values
Probability
float64
0
1
Representative_document
bool
2 classes
Internet Society hay ISOC là một tổ chức quốc tế hoạt động phi lợi nhuận, phi chính phủ và bao gồm các thành viên có trình độ chuyên ngành. Tổ chức này chú trọng đến: tiêu chuẩn, giáo dục và các vấn đề về chính sách. Với trên 145 tổ chức thành viên và 65.000 thành viên cá nhân, ISOC bao gồm những con người cụ thể trong cộng đồng Internet. Mọi chi tiết có thể tìm thấy tại website của ISOC. Internet Society nằm ở gần thủ đô Washington, DC, Hoa Kỳ và Geneva, Thụy Sĩ. Số hội viên của nó bao gồm hơn 145 tổ chức thành viên và hơn 65.000 cá nhân. Thành viên còn có thể tự lập một chi nhánh của tổ chức tùy theo vị trí hoặc sở thích. Hiện nay tổ chức có tới 90 chi nhánh trên toàn thế giới. Nhiệm vụ và mục đích hoạt động. Bảo đảm, cổ vũ cho sự phát triển, mở rộng và sử dụng Internet được thuận lợi nhất cho mọi người trên toàn thế giới.
311
311_international_isc_ifpri_khoa
[ "international", "isc", "ifpri", "khoa", "iccrom", "irena", "icsu", "hip", "nghin", "chc" ]
[ "Liên đoàn Khoa học đất Quốc tế hay Liên đoàn Quốc tế về Khoa học đất, viết tắt theo tiếng Anh là IUSS (International Union of Soil Sciences) là một \"tổ chức phi chính phủ - phi lợi nhuận quốc tế\" hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học đất và ứng dụng của nó.\nIUSS thành lập năm 1924 với tên gọi \"Hiệp hội Khoa học đất Quốc tế\" (ISSS - International Society of Soil Science), năm 1998 đổi sang tên gọi hiện nay.\nIUSS là thành viên liên hiệp khoa học của \"Hội đồng Khoa học Quốc tế\" (ISC) , và của Hội đồng Quốc tế về Khoa học (ICSU) trước đây từ năm 1993.,\nIUSS hiện có 86 thành viên quốc gia và vùng lãnh thổ, với khoảng 55.000 nhà khoa học trên khắp thế giới, và thành viên cá nhân ở khoảng 57 quốc gia nữa.\nHoạt động.\nIUSS có mục đích là thúc đẩy tất cả các ngành khoa học đất và ứng dụng của nó, thúc đẩy kết nối giữa các nhà khoa học và những người tham gia vào việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học đất; thúc đẩy nghiên cứu khoa học và đẩy mạnh việc áp dụng các nghiên cứu vì lợi ích của nhân loại.\nIUSS hợp tác với Hội liên hiệp Địa lý Quốc tế IGU, Liên hiệp Khoa học Địa chất Quốc tế IUGS, Liên đoàn Quốc tế về Hoá học Thuần túy và Ứng dụng IUPAC, Liên hiệp Khoa học Sinh học Quốc tế IUBS, Liên hiệp Hội Vi sinh học Quốc tế IUMS, và với nhiều cơ quan liên ngành của Hội đồng Khoa học Quốc tế ISC và các sáng kiến chung, chẳng hạn như Ủy ban Dữ liệu Khoa học và Công nghệ CODATA, Ủy ban Nghiên cứu Vũ trụ COSPAR, Chương trình Địa quyển-Sinh quyển Quốc tế (IGBP) và Ủy ban Khoa học về Vấn đề Môi trường (SCOPE).\nCác đại hội và chủ tịch.\nIUSS tổ chức \"Hội nghị Thế giới về Khoa học đất\" (WCSS, World Congress of Soil Science) bốn năm một lần. Các ủy ban thực hiện điều hành giữa các kỳ đại hội..\nHoạt động thế giới về Đất.\nCác Ngày lễ quốc tế về đất:\n\"Ngày Đất Thế giới\" (World Soil Day) là ngày 5 tháng Mười Hai được Liên Hợp Quốc chọn trong Nghị quyết A/RES/68/232 là ngày lễ quốc tế, nhằm nâng cao nhận thức về của thế giới về vai trò của đất. Mỗi năm ngày Đất Thế giới có một chủ đề xác định .\n\"Năm Đất quốc tế\" (International Year of Soils) là năm 2015 , được tổ chức FAO chọn và được Liên Hợp Quốc thông qua. IUSS là tổ chức liên kết hữu trách trong việc tổ chức sự kiện..\n\"Thập niên Đất quốc tế\" (International Decade of Soils) được IUSS chọn là thấp niên 2015-2024 .", "Viện Nghiên cứu Chính sách Thực phẩm Quốc tế (International Food Policy Research Institute - IFPRI) là một trung tâm nghiên cứu nông nghiệp quốc tế được thành lập vào đầu những năm 1970 để nâng cao sự hiểu biết về chính sách nông nghiệp và lương thực quốc gia để thúc đẩy việc thông qua đổi mới trong công nghệ nông nghiệp. Ngoài ra, IFPRI đã có nghĩa là để làm sáng tỏ thêm về vai trò của phát triển nông nghiệp và nông thôn trong con đường phát triển rộng lớn của một quốc gia.Nhiệm vụ của IFPRI là để tìm kiếm các giải pháp bền vững cho kết thúc đói nghèo thông qua nghiên cứu.IFPRI thực hiện nghiên cứu chính sách lương thực và phổ biến nó thông qua hàng trăm ấn phẩm, bản tin, hội nghị, và các sáng kiến ​​khác. IFPRI đã được tổ chức như một quận của Columbia phi lợi nhuận, công ty không cổ trên 05 tháng 3 năm 1975 và bản tin nghiên cứu đầu tiên được sản xuất vào tháng 2 năm 1976.IFPRI có văn phòng ở nhiều nước đang phát triển, bao gồm cả Trung Quốc, Ethiopia, và Ấn Độ, và có nhân viên nghiên cứu làm việc tại nhiều quốc gia khác trên thế giới. Hầu hết các nghiên cứu diễn ra ở các nước đang phát triển ở Trung Mỹ, Nam Mỹ, châu Phi và châu Á. IFPRI là một phần của một mạng lưới các viện nghiên cứu quốc tế tài trợ một phần bởi CGIAR, mà lần lượt được tài trợ bởi các chính phủ, các doanh nghiệp tư nhân và các quỹ và Ngân hàng Thế giới.\nPhạm vi.\nChiến lược của IFPRI dựa trên ba trụ cột:. nghiên cứu, nâng cao năng lực, truyền thông và chính sách.\nLĩnh vực nghiên cứu.\nĐề tài nghiên cứu đã bao gồm cây trồng thấp và năng suất vật nuôi, và suy thoái môi trường, quản lý nước, các vùng đất mỏng manh, quyền sở hữu, hoạt động tập thể, thâm canh bền vững của sản xuất nông nghiệp, tác động của biến đổi khí hậu đối với nông dân nghèo, các vấn đề và cơ hội của công nghệ sinh học, an ninh lương thực, suy dinh dưỡng vi chất dinh dưỡng, các chương trình tài chính vi mô, an ninh lương thực đô thị, phân bổ nguồn lực trong các hộ gia đình,và cho ăn học ở các nước có thu nhập thấp.\nGiới và Phát triển.\nMột lĩnh vực chính của nghiên cứu là giới tính và phát triển, Một nghiên cứu được tiến hành ở tiểu vùng Sahara châu Phi, nhìn vào năng suất tương đối của khu đất trang trại được kiểm soát bởi những người đàn ông so với lô điều khiển bởi phụ nữ. Họ phát hiện ra rằng phần lớn các nguồn lực dành cho lô điều khiển bởi những người đàn ông, nhưng nếu nguồn lực đã được chuyển hướng đến âm mưu kiểm soát bởi năng suất phụ nữ có thể tăng đến 20%. Trong một nghiên cứu ở Kenya, nơi phụ nữ có được hầu như không có giáo dục, họ xác định rằng nếu phụ nữ nông dân được cung cấp trong một năm của giáo dục tiểu học, sản xuất ngô có thể tăng nhiều như 24%.\nBiến đổi khí hậu.\nMột trong những lĩnh vực nghiên cứu cho IFPRI là tác động của biến đổi khí hậu đối với các nước đang phát triển. Biến đổi khí hậu mô tả một sự thay đổi toàn cầu trong khí hậu, nhưng điều này không có nghĩa là tất cả các khu vực trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng như nhau hoặc là tất cả họ sẽ trải qua cùng một loại biến đổi khí hậu. Một số khu vực có thể trở nên ấm áp hơn khi những người khác có thể trở nên lạnh hơn. IFPRI đã tiến hành nghiên cứu để mô hình các tác động của biến đổi khí hậu lên các quần thể phát triển.\nTrong năm 2011, IFPRI công bố kết quả của một nghiên cứu tại Cộng hòa Yemen dự đoán kết quả kinh tế của biến đổi khí hậu trong cộng đồng Yemen đô thị và nông thôn. Nghiên cứu dự đoán rằng GDP của nước này sẽ giảm, nhưng đó GDP nông nghiệp sẽ tăng lên. Nó dự đoán rằng lũ sẽ gây ra người nông dân mất một số cây trồng, nhưng nông nghiệp nói chung sẽ được hưởng lợi. Nhóm này dự kiến ​​sẽ phải chịu nhiều nhất sẽ là vùng nông thôn phi nông dân. Về lâu dài, biến đổi khí hậu được dự đoán sẽ gây tổn hại an ninh lương thực và gây giảm GDP hộ gia đình. Trong tháng 12 năm 2011, IFPRI xuất bản một báo cáo gửi cho Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (UNFCCC) nêu bật sự cần thiết phải nghiên cứu hệ thống nông nghiệp có khả năng bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu. Họ nhấn mạnh rằng 12 họ đề nghị nên có nhiều ưu tiên nghiên cứu:\n- Sâu và bệnh\n- Các hệ sinh thái đất\n- Động vật nhai lại Nông nghiệp\n- Cơ cấu thủy lợi và hiệu quả\n- Trồng cây lâu năm\n- Chất lượng hạt\n- Lưu trữ\n- Công nghệ sinh học\n- Sử dụng đất\n- Thương mại quốc tế\n- Sở hữu trí tuệ\n- Phát triển nguồn nhân lực\nSuy dinh dưỡng.\nIFPRI đã thực hiện nghiên cứu sâu rộng sang các lĩnh vực liên quan đến suy dinh dưỡng. Họ đã tiến hành nghiên cứu trên toàn thế giới về các vấn đề khác nhau mà phát sinh từ hoặc gây suy dinh dưỡng. Họ đã nhìn HIV và sốt rét và cách suy dinh dưỡng ảnh hưởng đến dịch tễ học của các bệnh này. Họ đã xem xét các tác động của suy dinh dưỡng ở trẻ em đối với sức khỏe của người lớn. Họ đã xem xét các lợi ích tiềm năng của cây trồng CNSH về dinh dưỡng trẻ em, và những ảnh hưởng của việc bổ sung vitamin nói chung.\nMột nghiên cứu ở Ethiopia để kiểm tra hiệu quả chi phí của hai phương pháp khác nhau để điều trị suy dinh dưỡng ở trẻ em đã được thực hiện bởi Tekeste Asayehegn. Trong nghiên cứu này các so sánh hai phương pháp khác nhau chăm sóc dài hạn cho các trẻ em bị suy dinh dưỡng. Trong phương pháp đầu tiên trẻ em được đưa đến Trung tâm ăn điều trị nơi họ vẫn là bệnh nhân nội trú. Phương pháp thay thế liên quan đến các nguồn cung cấp để điều trị suy dinh dưỡng trẻ em được gửi đến phòng khám địa phương và các cơ sở y tế, nơi trẻ em được đưa vào một cơ sở hàng tuần hoặc hai tuần để điều trị. sau đó các chất bổ sung dinh dưỡng được đưa về nhà với con. Các tình nguyện viên kiểm tra trên các bệnh nhân tại nhà và đưa họ đến các cơ sở điều trị. chương trình điều trị nội địa hóa này đã được tìm thấy để cắt giảm chi phí điều trị một đứa trẻ bị suy dinh dưỡng trong một nửa.\nTại Uganda, IFPRI tiến hành một nghiên cứu về mối quan hệ giữa suy dinh dưỡng và tỷ lệ mắc bệnh sốt rét. Có hai biến trong nghiên cứu đầu tiên là bằng chứng của suy dinh dưỡng ở trẻ em và thứ hai là có hay không việc trẻ em bị nhiễm HIV. Nghiên cứu chỉ ra rằng có thể có một mối tương quan giữa suy dinh dưỡng và tăng nguy cơ mắc bệnh sốt rét. Cả hai bệnh nhân HIV âm tính và dương tính đã được suy dinh dưỡng cho thấy tỷ lệ cao của bệnh sốt rét so với các nhóm chất dinh dưỡng tốt hơn.\nCây trồng biến đổi gen.\nIFPRI không hỗ trợ cũng không phản đối thực phẩm biến đổi gen, tuy nhiên, họ đã phát hành nhiều ấn phẩm về các tác động tiềm năng của việc sử dụng cây trồng biến đổi gen. Có rất nhiều loại cây trồng biến đổi gen. Một số thay đổi khả năng của cây để sản xuất thuốc trừ sâu tự nhiên trong khi những người khác ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng của các loại cây trồng chính mình. Năm 2009 IFPRI phát hành một ấn phẩm đó là một cái nhìn tổng quan về việc sử dụng cây trồng CNSH từ năm 1997 đến năm 2007. Kể từ học viện duy trì quan điểm trung lập về vấn đề này, họ đã chọn thuật ngữ \"công nghệ sinh học\" như là ít viêm hơn \"biến đổi gen\" hoặc \" chuyển gen. \" việc công bố là một đánh giá của nhiều nghiên cứu được tiến hành trong khoảng thời gian mười năm ở một số nước trên thế giới.\nHọ quan sát thấy rằng nhiều nghiên cứu đã không thể kết luận về giá trị kinh tế của cây trồng. Ví dụ, các nghiên cứu cho thấy kết luận rằng việc sử dụng bông Bt làm giảm nhu cầu điều trị thuốc trừ sâu và tăng năng suất cây trồng, nhưng họ không cho thấy cho dù đó tăng lợi nhuận cho các trang trại nhỏ tham gia.Họ xác định rằng các thông tin được cung cấp cho người tiêu dùng là quan trọng trong nghiên cứu luận án. thông điệp tiêu cực là rất hiệu quả trong việc sử dụng dissuading. Nhìn chung, các nhà nghiên cứu xác định rằng một số chủng loại cây trồng công nghệ sinh học được đầy hứa hẹn về kinh tế đặc biệt là ở các nước như Ấn Độ và Trung Quốc. Họ không muốn làm quá mạnh một phán quyết trên các dữ liệu được cung cấp giới thiệu các nghiên cứu tốt hơn được thực hiện trong mười năm sau để có được một sự hiểu biết đầy đủ hơn về những tác động kinh tế của cây trồng CNSH ở các nước đang phát triển. Ấn phẩm này đã không quan sát về các vấn đề môi trường và sức khỏe liên quan đến tiềm năng có liên quan với các loại cây trồng. Nó chỉ đơn giản là xử lý với lợi nhuận tiềm năng và tác động kinh tế.\nIFPRI cũng phân tích những cải cách thị trường nông nghiệp, chính sách thương mại, đàm phán Tổ chức Thương mại Thế giới trong bối cảnh nông nghiệp, hiệu quả thể chế, cây trồng và đa dạng hóa thu nhập, hoạt động sau thu hoạch, và nông lâm.Viện có liên quan đến đo lường dự án Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và hỗ trợ các chính phủ trong việc xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển.Công việc tiếp theo bao gồm nghiên cứu về các hệ thống đổi mới nông nghiệp và vai trò của tăng cường năng lực trong phát triển nông nghiệp.\nSản phẩm và ấn phẩm.\nIFPRI mục tiêu chính sách và nghiên cứu sản phẩm của mình cho nhiều khán giả, bao gồm hoạch định chính sách phát triển quốc gia, các tổ chức phi chính phủ (NGO), các tổ chức xã hội dân sự \", lãnh đạo ý kiến\", các nhà tài trợ, cố vấn, và phương tiện truyền thông.\nẤn phẩm của IFPRI bao gồm sách, báo cáo nghiên cứu, mà còn các bản tin, tóm tắt, và tờ.mà cũng có sẵn từ Repository Kiến thức IFPRI của.Nó cũng tham gia vào việc thu thập dữ liệu sơ cấp và việc soạn thảo và xử lý dữ liệu thứ cấp.\nBáo cáo chính sách lương thực toàn cầu là một trong những ấn phẩm hàng đầu của IFPRI của. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc vào sự phát triển chính sách lương thực chủ yếu và các sự kiện. Đáp lại sự quan tâm quốc tế về thực phẩm và dinh dưỡng an toàn và bền vững, báo cáo thường niên này cung cấp một cái nhìn tổng quan về sự phát triển chính sách thực phẩm đã đóng góp vào hoặc cản trở sự tiến bộ trong thực phẩm và dinh dưỡng, an ninh. Nó đánh giá những gì đã xảy ra trong chính sách lương thực và lý do tại sao, xem xét những thách thức và cơ hội chính, cổ phiếu chứng cứ và kiến ​​thức mới, cập nhật chỉ số chính sách lương thực chính, và nổi bật các vấn đề đang nổi lên.\nNăm 1993 IFPRI giới thiệu Tầm nhìn 2020 Initiative, mà nhằm phối hợp và hỗ trợ một cuộc tranh luận giữa các chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, khu vực tư nhân, các tổ chức phát triển quốc tế, và các yếu tố khác của xã hội dân sự để đạt được an ninh lương thực cho tất cả vào năm 2020.\nĐến năm 2006 IFPRI sản xuất Chỉ số đói nghèo toàn cầu (GHI) hàng năm đo lường sự tiến bộ và sự thất bại của từng quốc gia và vùng lãnh thổ trong cuộc chiến chống đói nghèo. GHI là sự hợp tác của IFPRI, các Welthungerhilfe, Concern Worldwide.\nIFPRI đã sản xuất Chỉ số đói nghèo liên quan đối với các nước Ấn Độ (ISHI) (2008) và Tiểu Quốc Chỉ số đói nghèo cho Ethiopia (2009).\nCơ cấu tổ chức.\nIFPRI được tạo thành từ các văn phòng của Tổng giám đốc, Đông và Nam Phi Office, Nam Văn phòng khu vực châu Á, Tây và Trung Phi Office, Truyền thông & Kiến thức bộ phận quản lý, sự Tài chính và Hành chính, và 5 nghiên cứu bộ phận:\n- Chiến lược phát triển và quản trị\n- Công nghệ môi trường và sản xuất\n- Thị trường, thương mại, và các tổ chức\n- Đói nghèo, y tế, dinh dưỡng và\n- Truyền thông & Kiến thức quản lý\n- Tài chính và Quản trị\n- Đối tác, tác động và năng lực Tăng cường\nGiám đốc Tổng\n- Shenggen Fan (2009 -nay)\n- Joachim von Braun (2002 - 2009)\n- Mỗi Pinstrup - Andersen (1992 - 2002)\n- Chỉ cần Faaland (tạm DG, 1990-1992)\n- John W. Mellor (1977 - 1990)\n- Dale E. Hathaway (1975 - 1977, thành lập Tổng giám đốc)\nIFPRI cũng dẫn hai của chương trình nghiên cứu của CGIAR (CRPs): Chính sách, tổ chức, và Thị trường (PIM) và nông nghiệp vì dinh dưỡng và sức khỏe (A4NH).\nIFPRI tổ chức một số mạng lưới nghiên cứu:\n- Khoa học nông nghiệp và chỉ số công nghệ (ASTI)\n- Chương trình CGIAR toàn hệ thống về hành động tập thể và quyền sở hữu (Capri)\nHarvest Plus\nHarvestChoice\nAGRODEP\nReSAKSS\nImpact.\nCác đánh giá nghiên cứu định hướng chính sách đặt ra rất nhiều thách thức bao gồm những khó khăn để xác định tác động của kiến ​​thức và ý tưởng về giảm nghèo và hoặc tăng thu nhập hoặc sự ghi nhận thay đổi về những con số này cho một dự án nghiên cứu hoặc nghiên cứu cụ thể.\nMặc dù có những thách thức, nghiên cứu tìm thấy rằng nghiên cứu của IFPRI có hiệu ứng lan tỏa cho nghiên cứu cấp quốc gia cụ thể, mà còn trong việc thiết lập chương trình nghị sự chính sách toàn cầu, ví dụ như trong các lĩnh vực đa dạng sinh học (ảnh hưởng đến các Hiệp ước quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật) và thương mại (với đối với Vòng đàm phán Doha của đàm phán thương mại).\nMột ví dụ về tác động IFPRI về xây dựng chính sách là cuộc khủng hoảng giá lương thực 2007-2008 trên thế giới. IFPRI đã có thể nhanh chóng kéo nghiên cứu cùng có liên quan và kiến ​​nghị kết quả của nó đã được bao gồm trong khung toàn diện của Liên Hợp Quốc về hành động về an ninh lương thực.\nIFPRI dẫn một số các đối tác tham gia mà các bên liên quan khác nhau ảnh hưởng đến chính sách với một tác động về nghèo đói và tình hình lương thực của người nghèo. Mới nhất của các sáng kiến ​​này là Compact2025, một sự hợp tác phát triển và phổ biến các lời khuyên dựa trên bằng chứng để các chính trị gia và các nhà hoạch định khác nhằm chấm dứt nạn đói và suy dinh dưỡng trong 10 năm tới.\nPhê bình.\nCGIAR và các cơ quan của nó, bao gồm cả IFPRI, đã bị chỉ trích vì kết nối của họ cho các chính phủ phương Tây và kinh doanh nông nghiệp đa quốc gia, mặc dù các ấn phẩm nghiên cứu của nó cũng đã được trích dẫn bởi các nhà phê bình của sinh vật biến đổi gen trong nông nghiệp. IFPRI mô tả mình là \"không phải là một người ủng hộ cũng không phải là đối thủ của cây trồng biến đổi gen.\" Ngoài ra, nhiều nguồn tin nhận CGIAR là có hỗ trợ các hộ sản xuất nhỏ và nông dân nghèo Trung ương đến sứ mệnh của mình.", "Hội đồng Khoa học Quốc tế, viết tắt theo tiếng Anh là ISC (\"International Science Council\"), là tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận quốc tế cao nhất dành cho hợp tác quốc tế vì sự tiến bộ của khoa học. Các thành viên của ISC là các cơ quan khoa học quốc gia và các liên hiệp khoa học quốc tế.\nHội đồng Khoa học Quốc tế ISC ra đời ngày 4/7/2018, là hợp nhất của Hội đồng Quốc tế về Khoa học (ICSU, International Council for Science, cũng được dịch là \"Hội đồng Khoa học Quốc tế\") và Hội đồng Khoa học Xã hội Quốc tế (ISSC, International Social Science Council). Quyết định hợp nhất được đưa ra tại cuộc gặp của ICSU và ISSC ở Đài Bắc, Đài Loan tháng 10/2017.\nNăm 2020 Hội đồng Khoa học Quốc tế ISC có 142 tổ chức thành viên, có 40 thành viên hiệp hội (Member Unions and Associations) và 30 Thành viên liên kết (Affiliated Members) . Đầu năm 2021 ISC có 228 tổ chức thành viên.\nTrụ sở ISC đặt tại \"5 rue Auguste-Vacquerie, 16e arrondissement\", Paris, Pháp. Chủ tịch ISC đầu tiên, nhiệm kỳ 2018-2021, là Daya Reddy từ . Giám đốc điều hành từ 3/2015 là Heide Hackmann từ .\nNhiệm vụ.\nNhiệm vụ của Hội đồng Khoa học Quốc tế là đóng vai trò là tiếng nói toàn cầu cho khoa học.\nHoạt động.\nHội đồng triệu tập và huy động cộng đồng khoa học quốc tế về các vấn đề có tầm quan trọng khoa học và công cộng. Các hoạt động tập trung vào ba lĩnh vực công việc:\nHội đồng tham gia đồng tài trợ cho một số chương trình, mạng lưới và ủy ban nghiên cứu quốc tế.\nHội đồng trao giải thưởng uy tín Stein Rokkan cho nghiên cứu khoa học xã hội so sánh (Stein Rokkan Prize for Comparative Social Science Research).\nCác thành viên.\nNăm 2019 Hội đồng Khoa học Quốc tế ISC có 135 tổ chức thành viên. Đầu năm 2021 ISC có 228 tổ chức thành viên, với 85 thành viên hiệp hội quốc tế và vùng (liên quốc gia) và 143 thành viên hiệp hội quốc gia.\nThành viên quốc gia.\nGồm các thành viên là tổ chức khoa học các nước. Một thực thể địa lý có thể có nhiều tổ chức tham gia." ]
international - isc - ifpri - khoa - iccrom - irena - icsu - hip - nghin - chc
0.711257
false
Tiếng Việt, cũng gọi là tiếng Việt Nam hay Việt ngữ là ngôn ngữ của người Việt và là ngôn ngữ chính thức tại Việt Nam. Đây là tiếng mẹ đẻ của khoảng 85% dân cư Việt Nam cùng với hơn 4 triệu người Việt kiều. Tiếng Việt còn là ngôn ngữ thứ hai của các dân tộc thiểu số tại Việt Nam và là ngôn ngữ dân tộc thiểu số được công nhận tại Cộng hòa Séc. Dựa trên từ vựng cơ bản, tiếng Việt được phân loại là một ngôn ngữ thuộc ngữ hệ Nam Á. Tiếng Việt là ngôn ngữ có nhiều người nói nhất trong ngữ hệ này (nhiều hơn tổng số người nói của tất cả các ngôn ngữ còn lại trong ngữ hệ). Vì Việt Nam thuộc Vùng văn hoá Đông Á, tiếng Việt cũng chịu nhiều ảnh hưởng về từ tiếng Hán, do vậy là ngôn ngữ có ít điểm tương đồng nhất với các ngôn ngữ khác trong ngữ hệ Nam Á. Lịch sử. Theo A. G. Haudricourt giải thích từ năm 1954, nhóm ngôn ngữ Việt-Mường ở thời kỳ khoảng đầu Công nguyên là những ngôn ngữ hay phương ngữ không thanh điệu. Về sau, qua quá trình giao thoa với Hoa ngữ và nhất là với các ngữ thuộc ngữ hệ Tai-Kadai vốn có hệ thống thanh điệu phát triển cao hơn, hệ thống thanh điệu trong tiếng Việt xuất hiện và có diện mạo như ngày nay, theo quy luật hình thành thanh điệu. Sự xuất hiện các thanh điệu, bắt đầu khoảng thế kỷ thứ VI (thời kỳ Bắc thuộc trong lịch sử Việt Nam) với 3 thanh điệu và phát triển thêm vào khoảng thế kỷ XII (nhà Lý) với 6 thanh điệu. Sau đó một số phụ âm đầu biến đổi cho tới ngày nay. Trong quá trình biến đổi, các phụ âm cuối rụng đi làm thay đổi các kết thúc âm tiết và phụ âm đầu chuyển từ lẫn lộn vô thanh với hữu thanh sang tách biệt. Ví dụ của A.G. Haudricourt. Trước thời Pháp thuộc. Tiếng Việt là ngôn ngữ dùng trong sinh hoạt giao tiếp của dân thường từ khi lập nước. Giai đoạn từ đầu Công nguyên, tiếng Việt có những âm không có trong tiếng Trung. Từ khi tiếng Trung có ảnh hưởng tới Việt Nam thông qua các con đường và bao gồm các giai đoạn khác nhau, tiếng Việt bắt đầu có những âm vay mượn từ tiếng Trung. Các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu và Hoàng Trọng Phiến trong cuốn sách "Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt" chia quá trình tiếp xúc Hán – Việt thành 2 giai đoạn chính: Từ Hán cổ và từ Hán Việt gọi chung là từ gốc Hán. 1 số từ ngữ Hán cổ có thể kể đến như "đầu", "gan", "ghế", "ông", "bà", "cô", "chè", "ngà", "chén", "chém", "chìm", "buồng", "buồn", "buồm", "mùi", "mùa"... Từ Hán cổ là những từ gốc Hán du nhập vào tiếng Việt từ lâu hơn, đã đồng hoá mạnh hơn, nên những từ này hiện nay là từ thông thường trong hoạt động xã hội đối với người Việt. Hệ thống từ Hán Việt trong tiếng Việt bằng cách đọc các chữ Hán theo ngữ âm hiện có của tiếng Việt (tương tự như người Nhật Bản áp dụng kanji đối với chữ Hán và katakana với các tiếng nước ngoài khác). Hiện nay có 1945 chữ Hán thông dụng trong tiếng Nhật, cũng có khoảng 2000 từ Hán–Hàn thông dụng. Số lượng từ vựng tiếng Việt có thêm hàng loạt các yếu tố Hán–Việt. Như là "chủ", "ở", "tâm", "minh", "đức", "thiên", "tự do"... giữ nguyên nghĩa chỉ khác cách đọc; hay thay đổi vị trí như "nhiệt náo" thành "náo nhiệt", "thích phóng" thành "phóng thích", "đảm bảo" thành "bảo đảm"...; hoặc rút gọn như "thừa trần" thành "trần" (trong "trần nhà"), "lạc hoa sinh" thành "lạc" (trong "củ lạc", còn gọi là "đậu phộng")...; hoặc đọc chệch đi như "sáp nhập" (chữ Hán: 插入) thành "sát nhập", "thống kế" (統計) thành "thống kê", "để kháng" (抵抗) thành "đề kháng", "chúng cư" (眾居) thành "chung cư", "bảo cô" (保辜) thành "báo cô", "vãng cảnh" (往景) thành "vãn cảnh" (晚景), "khuyến mãi" (勸買) thành "khuyến mại" (勸賣), vân vân; hay đổi khác nghĩa hoàn toàn như "phương phi" trong tiếng Hán có nghĩa là "hoa cỏ thơm tho" thì trong tiếng Việt lại là "béo tốt", "bồi hồi" trong tiếng Hán nghĩa là "đi đi lại lại" sang tiếng Việt thành "bồn chồn, xúc động"... Mặt khác, người Trung Quốc gọi là Thái Sơn, Hoàng Hà, cổ thụ... thì người Việt lại đọc là núi Thái Sơn, sông Hoàng Hà, cây cổ thụ (mặc dù "sơn" = núi, "hà" = sông, "thụ" = cây)... Do tính quy ước của ngôn ngữ mà phần nào đó các cách đọc sai khác với tiếng Hán vẫn có ai đó chấp nhận và sử dụng trong khi các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay cũng như các cơ quan, các cấp quản lý, tổ chức xã hội – nghề nghiệp lẫn các nhà khoa học Việt Nam có thể chưa tìm được tiếng nói chung trong việc chuẩn hoá cách sử dụng tên riêng và từ vựng mượn từ tiếng nước ngoài. Bên cạnh đó, có những từ có thể đã dùng sai như "quan ngại" dùng và hiểu như "lo ngại", "vấn nạn" hiểu là "vấn đề nan giải", "vô hình trung" thì viết thành "vô hình chung" hay "vô hình dung", "việt dã" là "chạy dài"; "trứ tác" dùng như "sáng tác", "phong thanh" dùng như "phong phanh", "bàng quan" dùng như "bàng quang", "đào ngũ" dùng là "đảo ngũ", "tham quan" thành "thăm quan", "xán lạn" thành "sáng lạng"… Theo ước lượng của các nhà nghiên cứu, từ Hán Việt chiếm khoảng trên dưới 70% vốn từ trong phong cách chính luận, khoa học (Maspéro thì cho rằng, chúng chiếm hơn 60% lượng từ tiếng Việt). Tác giả Lê Nguyễn Lưu trong cuốn sách "Từ chữ Hán đến chữ Nôm" thì cho rằng về lĩnh vực chuyên môn và khoa học tỉ lệ này có thể lên đến 80% nhưng khi nhận xét về văn ngữ trong một cuốn tiểu thuyết thì chỉ còn 12,8%, kịch nói rút xuống còn 8,9% và ngôn ngữ nói chuyện hằng ngày còn thấp hơn nữa. Các từ và từ tố Hán Việt tạo ra các từ ngữ mới cho tiếng Việt như "sĩ diện", "phi công", "bao gồm", "sống động", "sinh đẻ", vân vân. Trong khi tiếng Việt gọi là "phát thanh" (發聲) thì tiếng Hán lại gọi là 廣播 "quảng bá"; tiếng Việt gọi là "truyền hình" (傳形) thì tiếng Hán gọi là 電視 "điện thị"; tiếng Việt gọi là "thành phố" (城鋪), "thị xã" (市社) thì tiếng Hán gọi là 市 "thị". Tiếng Việt đã lợi dụng được những thành tựu ngôn ngữ trong tiếng Hán để tự cải tiến mình. Kể từ đầu thế kỷ thứ XI, Nho học phát triển, việc học cổ văn gia tăng, tầng lớp trí thức mở rộng tạo tiền đề cho một nền văn chương của người Việt bằng cổ văn phát triển với các áng văn thư ví dụ như "Nam quốc sơn hà" bên sông Như Nguyệt (sông Cầu). Cùng thời gian này, ai đó xây riêng 1 hệ thống chữ viết cho người Việt theo nguyên tắc ghi âm tiết phát triển, đó là chữ Nôm. Để tiện cho việc học chữ Hán và chữ Nôm của người Việt, Ngô Thì Nhậm (1746–1803) đã biên soạn cuốn sách "Tam thiên tự giải âm" (còn gọi là Tam thiên tự, Tự học toản yếu). "Tam thiên tự giải âm" chỉ lược dạy 3000 chữ Hán, Nôm thông thường, đáp ứng nhu cầu cần thiết, nhớ chữ, nhớ nghĩa từng chữ, mỗi câu 4 chữ. Hiệp vần cũng có điểm đặc biệt, tức là vần lưng (yêu vận, vần giữa câu). Tiếng thứ 4 câu đầu hiệp với tiếng thứ hai câu dưới rồi cứ thế mãi đến 3000 chữ, 750 câu. Ví dụ: Thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – còn, tử – con, tôn – cháu, lục – sáu, tam – ba, gia – nhà, quốc – nước, tiền – trước, hậu – sau, ngưu – trâu, mã – ngựa, cự – cựa, nha – răng, vô – chăng, hữu – có, khuyển – chó, dương – dê... Trần Văn Giáp đánh giá đây tuy chỉ là quyển sách dạy học vỡ lòng về chữ Hán như đã nêu ở trên nhưng thực ra cũng có thể coi nó chính là sách "Từ điển Hán Việt" thông thường và phổ biến ở cuối thế kỷ XVIII, cùng thời với các sách "Chỉ nam ngọc âm, Chỉ nam bị loại" và xuất hiện trước các sách "Nhật dụng thường đàm", "Thiên tự văn" và "Đại Nam quốc ngữ". Thời Pháp thuộc. Từ khi Pháp xâm lược Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ thứ XIX, tiếng Pháp dần thay thế vị trí của cổ văn, trở thành ngôn ngữ chính thức trong giáo dục, hành chính và ngoại giao. Chữ Quốc ngữ (chữ Latinh tiếng Việt), do một số nhà truyền giáo châu Âu tạo ra, đặc biệt là hai tu sĩ người Bồ Đào Nha Gaspar do Amaral và Antonio Barbosa, với mục đích ban đầu là dùng ký tự Latinh ghi lại tiếng Việt, được chính quyền Pháp thuộc bảo hộ sử dụng nhằm thay thế chữ Hán với chữ Nôm để đồng văn tự với tiếng Pháp, dần dần sử dụng phổ biến trong xã hội cùng tiếng Pháp. "Gia Định báo" là tờ báo đầu tiên mà phát hành bằng chữ Quốc ngữ tại Nam Kỳ vào năm 1865, đặt nền móng cho sự phát triển và xu hướng của chữ Quốc ngữ như là chữ viết chính của tiếng Việt sau này. Mặt khác, những khái niệm chính trị xã hội, kỹ thuật mới dẫn đến việc nhập các thuật ngữ, từ ngữ mới. Có 2 xu hướng về cách thức nhập thuật ngữ là: Sau năm 1945. Tiếng Việt thay thế hoàn toàn tiếng Pháp và văn ngôn, trở thành ngôn ngữ làm việc cấp quốc gia duy nhất của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, sự phát triển tiếng Việt trong chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam diễn ra có khác nhau, chủ yếu ở sử dụng từ Hán-Việt và phiên âm tên trong tiếng nước ngoài. Tại miền Bắc (Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) có xu hướng chuyển sang sử dụng từ thuần Việt thay thế từ Hán Việt cùng nghĩa còn ở miền Nam (Việt Nam Cộng hòa) thì vẫn giữ nguyên việc sử dụng từ Hán Việt như thời trước 1945. Ví dụ như miền Nam vẫn giữ tên "Ngân hàng Quốc gia" trong khi miền Bắc đổi thành "Ngân hàng Nhà nước" (1960), miền Nam gọi là "phi trường" thì miền Bắc gọi là "sân bay", miền Nam gọi là "Ngũ Giác Đài" thì miền Bắc gọi là "Lầu Năm Góc", miền Nam gọi là "Đệ nhứt thế chiến" thì miền Bắc gọi là "Chiến tranh thế giới thứ nhất", miền Nam gọi là "hỏa tiễn" thì miền Bắc gọi là "tên lửa", miền Nam gọi là "thủy quân lục chiến" còn miền Bắc đổi thành "lính thủy đánh bộ"... Ngược lại ở miền Bắc lại dùng một số danh từ bắt nguồn từ tiếng Hán như "tham quan", "sự cố", "nhất trí", "đăng ký", "đột xuất", "vô tư"... thì miền Nam lại dùng những chữ "thăm viếng", "trở ngại/trục trặc", "đồng lòng", "ghi tên", "bất ngờ", "thoải mái"... Việc phiên dịch địa danh tiếng nước ngoài thì ở miền Nam vẫn theo cách trước 1945 là dùng tên theo từ Hán Việt, như Băng Đảo (Iceland), Úc Đại Lợi (Australia), Hung Gia Lợi (Hungary), Ba Tây (Brazil)... Tại miền Bắc thì chuyển sang dùng tên gọi bắt nguồn từ ngôn ngữ không phải tiếng Hán (thí dụ: Ai-xơ-len, Ô-xtrây-li-a, Hung-ga-ri...), trừ ra một số tên Hán Việt phổ biến như "Pháp", "Đức", "Anh", "Nga"... Cá biệt (có thể là duy nhất) 1 tên tiếng Trung là "Zhuang" (người Tráng) "phiên âm trực tiếp" thành "Choang" trong tên gọi chính thức ""Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây"." Sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975, quan hệ Bắc-Nam đã kết nối lại. Gần đây, sự phổ biến hơn của các phương tiện truyền thanh và truyền hình trên toàn quốc góp phần chuẩn hóa tiếng Việt về chính tả và âm điệu. Từ Hán Việt và từ thuần Việt được người Việt sử dụng song song tùy thuộc ngữ cảnh hay văn phong. Sự di cư để học tập và làm việc giữa các vùng miền giúp mọi người ở Việt Nam được tiếp xúc và hiểu nhiều hơn với các phương ngữ tiếng Việt. Phân bố. Theo Ethnologue, tiếng Việt có tại Anh, Ba Lan, Campuchia, Côte d'Ivoire, Đức, Hà Lan, Lào, Na Uy, Nouvelle-Calédonie, Phần Lan, Pháp, Philippines, Cộng hòa Séc, Sénégal, Thái Lan, Vanuatu, Đài Loan, Nga... Riêng Trung Quốc có người Kinh bản địa ở Đông Hưng, tiếng Việt của họ có pha trộn âm giọng của các ngôn ngữ Hán (Quan thoại, tiếng Quảng Đông...). Tiếng Việt là ngôn ngữ dân tộc thiểu số tại Cộng hòa Séc vì người Việt được công nhận là "dân tộc thiểu số" tại Séc. Phương ngữ. Tiếng Việt có sự thay đổi trong giọng nói từ Bắc vào Nam, không đột ngột mà "tiệm tiến" dần theo từng vùng liền nhau. Trong đó, giọng Bắc (Nam Định – Thái Bình), giọng Trung Huế và giọng Nam Sài Gòn là 3 phân loại chính. Những tiếng địa phương này khác nhau ở giọng điệu và từ địa phương. Thanh ngã và thanh hỏi ở miền Bắc rõ hơn ở miền Nam và Trung. Miền Bắc phát âm một số phụ âm (tr, ch, n, l...) khác với miền Nam và miền Trung. Giọng Huế có nhiều từ vựng địa phương hơn những giọng khác. Từ điển Việt-Bồ-La (1651) của Alexandre de Rhodes lấy tiếng miền Bắc làm nền tảng, Dictionarium Anamitico Latinum (1772-1773) của Pierre Pigneaux de Béhaine lấy tiếng miền Nam làm nền tảng. Theo trang thông tin của Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc và học giả Laurence Thompson thì cách đọc tiêu chuẩn hiện nay dựa vào giọng Hà Nội. Tuy nhiên, chưa có quy định nào nói rằng giọng Hà Nội là chuẩn quốc gia. Ngữ âm. Nguyên âm. Dưới đây là bảng các nguyên âm theo giọng Hà Nội. Trong bảng trên, các nguyên âm trước, giữa và nguyên âm mở là nguyên âm không tròn môi, còn lại là nguyên âm tròn môi. "Ă" và "â" là dạng ngắn của "a" và "ơ". Đồng thời, tiếng Việt còn có hệ thống nguyên âm đôi và nguyên âm ba. Phụ âm. Bảng dưới đây trình bày các phụ âm trong tiếng Việt và cách viết. 1 số phụ âm chỉ có một cách viết (như "b", "p") nhưng một số có nhiều hơn một cách viết như "k", có thể biểu diễn bằng "c", "k" hay "q". Đồng thời, các phụ âm có thay đổi tuỳ theo địa phương. Sự khác biệt về phụ âm giữa các vùng miền trình bày kỹ càng hơn trong bài phương ngữ tiếng Việt. Thanh điệu. Tiếng Việt là ngôn ngữ thanh điệu, mọi âm tiết của tiếng Việt luôn mang 1 thanh điệu nào đó. Do các thanh điệu của tiếng Việt trong chữ quốc ngữ biểu thị bằng các dấu thanh còn gọi là dấu nên một số người quen gọi các thanh điệu của tiếng Việt là các "dấu". Có sự khác biệt về số lượng thanh điệu và điệu trị của thanh điệu giữa các phương ngôn của tiếng Việt, thanh điệu có tên gọi giống nhau không đồng nghĩa với việc nói chúng sẽ giống nhau trong mọi phương ngôn của tiếng Việt. Phương ngôn tiếng Việt Bắc Bộ có 6 thanh điệu, phương ngôn tiếng Việt Trung Bộ và Nam Bộ có 5 thanh điệu. Thanh điệu của tiếng Việt tiêu chuẩn gồm 6 thanh: "ngang" (còn gọi là thanh không dấu do chữ quốc ngữ không có dấu thanh cho thanh điệu này), "sắc", "huyền", "hỏi", "ngã", "nặng" nhưng lại thiếu các quy định cụ thể về việc lấy cách phát âm trong phương ngôn nào của tiếng Việt làm cách phát âm tiêu chuẩn cho 6 thanh điệu này. Các âm tiết mang vần nhập thanh, tức là các vần kết thúc bằng 1 trong 3 phụ âm cuối (chữ quốc ngữ ghi lại bằng chữ cái "c" hoặc chữ cái nhị hợp "ch"), (chữ quốc ngữ ghi lại bằng chữ cái "t"), (chữ quốc ngữ ghi lại bằng chữ cái "p") chỉ có thể mang thanh sắc hoặc thanh nặng. 3 âm tắc trên đã làm cho các âm tiết mang vần nhập thanh chỉ có thể mang các thanh điệu có điệu trị ngắn và nhanh. Trong thơ ca các thanh điệu phân thành 2 nhóm: thanh bằng gồm có "ngang" và "huyền", thanh trắc gồm các thanh còn lại. Trong các thể thơ cổ như Đường luật và lục bát, có thể có sự hòa hợp thanh điệu bằng trắc giữa các tiếng trong 1 câu thơ. Ngữ pháp. Tiếng Việt là 1 ngôn ngữ đơn lập. Các quan hệ ngữ pháp thể hiện chủ yếu thông qua hệ thống hư từ và cách sắp xếp trật tự từ trong câu. Trật tự từ thông dụng nhất trong tiếng Việt là chủ ngữ - vị ngữ - tân ngữ (SVO). Tuy nhiên, trật tự trong câu có thể trong một số trường hợp sắp xếp theo kiểu ngôn ngữ nổi bật chủ đề, vì thế mà 1 câu có thể theo trật tự Tân ngữ - Chủ ngữ - Vị ngữ (OSV). Vị trí các từ sắp xếp theo thứ tự, từ mang ý chính đứng trước từ mang ý phụ đứng sau bổ sung nghĩa cho từ mang ý chính, tương tự như danh từ đứng trước tính từ đứng sau bổ sung nghĩa cho danh từ. Tuy nhiên trong một số trường hợp, bổ ngữ (bao gồm từ mang ý phụ và tính từ) sẽ đứng trước danh từ. Tiếng Việt còn có hệ thống đại từ nhân xưng dựa trên các từ ngữ chỉ quan hệ xã hội và hệ thống danh từ đơn vị. Từ vựng. Từ vựng tiếng Việt có 2 bộ phận chính: từ thuần Việt và từ mượn. Ngoài ra còn có những từ hỗn chủng là kết quả của sự kết hợp các yếu tố thuần Việt và ngoại lai. Từ thuần Việt. Từ thuần Việt là những từ xuất hiện lâu hơn trong tiếng Việt, biểu thị những sự vật, hiện tượng, khái niệm cơ bản nhất trong đời sống hằng ngày. Do có sự tiếp xúc từ sớm hơn với các ngôn ngữ nhóm Tày-Thái nên nhiều từ thuần Việt và các từ tương ứng trong các tiếng này có sự giống nhau nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa. Trước 1960, một số từ thuần Việt dùng để đặt tên thông tục cho người trong tầng lớp bình dân hoặc để tránh bị ma quỷ thần thánh bắt đi. Tại miền Bắc có các tên như "Rụt", "Tằm", "Cột", "Cu", "Gái"... Tại miền Nam có các tên như "Đực"... Sự phát triển dân trí dẫn đến cách đặt tên thông tục giảm dần. Từ Hán Việt. Sự tiếp xúc giữa tiếng Việt và tiếng Hán bắt đầu khi nhà Hán của Trung Quốc xâm chiếm khu vực Việt Nam. Quá trình tiếp xúc đã đưa vào tiếng Việt một khối lượng từ ngữ của tiếng Hán. Giai đoạn đầu, hiện tượng này diễn ra lẻ tẻ, rời rạc hơn chủ yếu thông qua đường khẩu ngữ qua sự tiếp xúc giữa người Việt và người Hán, tạo nên 1 lớp từ có nguồn gốc Hán cổ mà đã hoà lẫn với các từ thuần Việt. Đến đời Đường, tiếng Việt mới có sự tiếp nhận các từ ngữ Hán một cách có hệ thống qua đường sách vở. Các từ ngữ gốc Hán này chủ yếu đọc theo ngữ âm đời Đường tuân thủ nguyên tắc ngữ âm tiếng Việt gọi là âm Hán–Việt. Khi đưa vào tiếng Việt, bên cạnh việc thay đổi về mặt ngữ âm, một số từ Hán Việt thay đổi cả ngữ nghĩa. Từ Hán-Việt chiếm 1 phần trong vốn từ vựng tiếng Việt, chúng hiện diện một số lĩnh vực của đời sống xã hội. Từ có nguồn gốc Ấn–Âu. Kể từ khi Việt Nam trở thành thuộc địa của Pháp, tiếng Pháp đã có ảnh hưởng đến tiếng Việt và các từ ngữ gốc Pháp thâm nhập vào tiếng Việt. Sự ảnh hưởng này là do tiếng Pháp có sử dụng trong các văn bản, giấy tờ của Nhà nước và trong giảng dạy ở nhà trường cũng như trong các loại sách báo khác. Ảnh hưởng này kéo theo sự xuất hiện của các từ gốc Pháp trong các lĩnh vực khác nhau đặc biệt là trong khoa học kỹ thuật. Trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam, miền Bắc Việt Nam chịu ảnh hưởng của Liên Xô. Do đó, một số từ ngữ gốc Nga có điều kiện du nhập vào tiếng Việt. Đồng thời, cùng với sự tiếp xúc, hội nhập sâu rộng hơn với thế giới, trong tiếng Việt cũng xuất hiện các từ ngữ có nguồn gốc từ tiếng Anh. Nhìn chung, khi đưa vào tiếng Việt, những từ này đã Việt hoá về mặt âm đọc (thêm thanh điệu, thay đổi âm hoặc giảm bớt âm tiết). Những từ đơn âm tiết (hoặc đơn âm hoá), vay mượn qua khẩu ngữ thâm nhập vào tiếng Việt. Trong khi đó, những từ có 2 âm tiết trở lên, vay mượn thông qua sách vở vẫn còn dấu ấn ngoại lai. Có những từ vay mượn nguyên dạng nên tạo ảnh hưởng trong cách phát âm. Từ có nguồn gốc tiếng dân tộc thiểu số. Là 1 nước đa sắc tộc với 54 dân tộc đã công nhận, tiếng Việt phổ thông tiếp nhận 1 phần tiếng dân tộc thiểu số, gồm từ thông dụng và tên riêng của người hay địa vật và các từ này có thể có vần "phi Việt". Quá trình này diễn ra trong lịch sử. Dựa theo tên người/danh xưng đăng tải trên báo chí và các địa danh trên các bản đồ hành chính, chúng ta có thể phân loại các cách nhập tiếng dân tộc thiểu số như sau: Các chữ và vần "phi Việt" viết theo hướng dẫn trong Quyết định 240/QĐ "Về tên riêng không phải tiếng Việt", trong đó các chữ cái F, J, W, Z có thể tùy nghi sử dụng. Từ hỗn chủng. Từ hỗn chủng là những từ tạo thành từ các yếu tố có nguồn gốc khác nhau như giữa yếu tố thuần Việt và Hán Việt, giữa yếu tố thuần Việt và yếu tố Ấn-Âu. Cùng với sự phát triển của tiếng Việt, các từ hỗn chủng đã gia tăng, đóng 1 vai trò trong việc diễn đạt các khái niệm mới hơn trong xã hội. Ví dụ: Chữ viết. Theo dòng lịch sử phát triển, tiếng Việt có 3 dạng ký tự để viết là chữ Hán, chữ Nôm (dựa trên chữ Hán) và chữ Quốc ngữ (chữ Latinh). Chữ Hán và chữ Nôm là văn tự chính của Việt Nam trước thế kỷ 20. Tất cả các tác phẩm sử học và văn học cổ truyền Việt Nam đều viết bằng chữ Hán, chữ Nôm như Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Đoạn trường tân thanh, Đại Việt sử ký toàn thư... Chữ Quốc ngữ là chữ Latinh dựa trên bảng chữ cái và âm vị của tiếng Bồ Đào Nha đối chiếu với tiếng Việt, do các nhà truyền giáo Dòng Tên Bồ Đào Nha xây dựng vào đầu thế kỷ 17 rồi do giáo sĩ Alexandre de Rhodes người Avinhon chuẩn định. Đây là người cho in cuốn "Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum" năm 1651. Cuối thế kỷ 18 tại Đàng Trong diễn ra cuộc chỉnh lý chữ Quốc ngữ dưới sự điều phối của Giám mục Pierre Pigneau de Behaine (hay còn biết tới dưới tên Bá Đa Lộc), từ điển có tên "Dictionarium Anamatico-Latinum" soạn quãng năm 1772–1773 nhưng mới chỉ là bản viết tay. Sau đó, từ điển của Taberd mang tên "Nam Việt–Dương Hiệp Tự vị" (tựa Latinh giống với tựa cuốn của Bá Đa Lộc) xuất bản năm 1838 tại Serampore, Ấn Độ. Chữ Quốc ngữ từ lúc ra đời tuy có hơn 200 năm hình thành và phát triển, nhưng chưa đủ phổ biến để là văn tự chính ở Việt Nam vì chữ Hán và chữ Nôm vẫn là dạng văn tự phổ biến của tiếng Việt. Phải đến cuối thế kỷ 19, vào thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thuộc địa bảo hộ chữ Quốc ngữ và cổ súy thay thế chữ Hán và chữ Nôm để tiếng Việt đồng văn tự Latinh với tiếng Pháp, bắt đầu từ Nam Kỳ rồi tới Bắc Kỳ và Trung Kỳ để dễ dàng phổ biến tiếng Pháp và văn hóa Pháp. Còn các nhà cải cách Việt Nam ủng hộ việc truyền bá hệ chữ Latinh như phương tiện để khai dân trí, chấn dân khí. Cải cách giáo dục năm 1906 của vua Thành Thái cũng bao gồm chương trình dạy chữ Quốc ngữ. Tuy vậy trong giai đoạn này, sự bóc lột của Thực dân Pháp khiến người Việt không được đi học đầy đủ, nên hầu hết người Việt giai đoạn này trở nên mù chữ với cả chữ Hán, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Ngay sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lập quốc, Chính phủ phát động Bình dân học vụ với mục tiêu nhanh chóng giải quyết nạn mù chữ bằng cách đẩy mạnh dạy chữ Quốc ngữ cho người dân. Chữ Hán và chữ Nôm vẫn được một lượng người Việt sử dụng song song cùng chữ Quốc ngữ, nhưng đến năm 1950, giảng dạy chữ Hán Nôm bị loại ra khỏi chương trình giáo dục của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vì độ phổ biến ở Việt Nam không còn nhiều. Tại Việt Nam hiện nay, người dân chủ yếu sử dụng chữ Quốc ngữ là chính, còn chữ Hán và chữ Nôm thường dùng trong các hoạt động liên quan tới văn hóa truyền thống như viết thư pháp, câu đối, tìm hiểu lịch sử và văn học cổ, và được giảng dạy trong chuyên ngành Hán Nôm bậc đại học cũng như tại các tổ chức phong trào dạy học chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong tiếng Việt. Trái ngược lại là cộng đồng người Kinh bản địa ở Đông Hưng (Trung Quốc), do không bị ảnh hưởng bởi chính sách thay thế chữ Hán và chữ Nôm bằng chữ Quốc ngữ của Thực dân Pháp (vùng đất họ sống trở thành lãnh thổ Đại Thanh theo Công ước Pháp-Thanh ký năm 1887, nên họ không bị Thực dân Pháp đô hộ), những thế hệ con cháu ở đây không bị gián đoạn chuyện đi học và không bị mù chữ. Người Kinh bản địa ở Đông Hưng vẫn duy trì được sự phổ biến của chữ Hán và chữ Nôm trong cộng đồng và vẫn dùng làm văn tự chính cho tiếng Việt ở thời hiện đại giống như người Việt xưa, thay vì dùng chữ Latinh như người Việt ở Việt Nam hiện tại. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013, tại Chương I Điều 5 Mục 3, ghi tiếng Việt là ngôn ngữ quốc gia của Việt Nam. Không có bất kỳ văn bản nào ở cấp nhà nước quy định "giọng chuẩn" và "quốc tự" ("chữ viết quốc gia" hoặc "văn tự chính thức") của tiếng Việt. Phần lớn các văn bản hành chính tiếng Việt ở Việt Nam được viết bằng chữ Quốc ngữ theo ""Quy định về chính tả tiếng Việt và về thuật ngữ tiếng Việt" áp dụng cho các sách giáo khoa, báo và văn bản của ngành giáo dục", nêu tại Quyết định của Bộ Giáo dục số 240/QĐ ngày 5 tháng 3 năm 1984 do những người thụ hưởng giáo dục đó sau này ra làm việc trong mọi lĩnh vực xã hội hướng tới việc chuẩn hóa chính tả tiếng Việt. Không có luật lệ nào cấm người Việt viết tiếng Việt hiện đại bằng chữ Hán Nôm. Thư pháp. Cùng với chữ Hán, Kana và Hangul, có người "yêu thích" thư pháp nâng chữ viết tiếng Việt lên thành một bộ môn nghệ thuật. Thư pháp chữ Việt ban đầu là thư pháp chữ Nôm và chữ Hán. Sau này chữ Quốc ngữ trở nên phổ biến hơn trong khi nhu cầu và sở thích treo chữ trong nhà vẫn còn, người chơi chữ đã khởi xướng "thư pháp chữ Quốc ngữ". Còn thư pháp chữ Hán và chữ Nôm hiện nay vẫn duy trì song song. Bộ gõ tiếng Việt và giao tiếp tiếng Việt qua mạng. Tuy cùng là chữ Latinh, ngoài 22 ký tự không dấu có trong bảng chữ cái tiếng Anh thì chữ Quốc ngữ còn chứa lượng ký tự có dấu, bao gồm 7 ký tự Ă, Â, Đ, Ê, Ô, Ơ, Ư cùng 60 chữ nguyên âm (A, Ă, Â, E, Ê, I, O, Ô, Ơ, U, Ư, Y) mang thanh điệu "sắc-huyền-hỏi-ngã-nặng". Tổng cộng là máy tính hay điện thoại cần phải nạp thêm 67 ký tự, gấp hơn 2,5 lần bảng chữ cái của tiếng Anh (26 ký tự) thì mới đủ để viết tiếng Việt. Nên để có thể viết tiếng Việt trên máy tính và điện thoại di động cần có bộ gõ là phần mềm hỗ trợ soạn thảo văn bản bằng tiếng Việt đi kèm một số phông chữ Quốc ngữ. Người dùng cũng có thể cài đặt thêm các phông ký tự chữ Quốc ngữ khác phục vụ trang trí và nghệ thuật. Các bộ gõ tiếng Việt khác nhau sẽ quy định các phím bấm khác nhau để hiển thị các dấu thanh, dấu mũ và dấu móc. Có những quy ước chuẩn dấu tiếng Việt, bộ mã, cách gõ và những phần mềm khác nhau. Có bộ mã chữ Việt theo chuẩn quốc tế Unicode. Do ký tự có dấu phải mã hóa mất lượng bộ nhớ lớn hơn ký tự không dấu, việc tin nhắn SMS bằng tiếng Việt có dấu bị hạn chế 70 ký tự/tin nhắn (ít hơn một nửa so với 180 ký tự/tin nhắn của tiếng Anh) nên trước đây người Việt thường nhắn tin SMS không dấu để có thể viết nhiều nội dung hơn và tiết kiệm tiền hơn dù nội dung bằng tiếng Việt không dấu có thể gây hiểu nhầm. Một số trường hợp lợi dụng viết tắt, biến đổi ký tự nhằm giảm số lượng (j=gi; f=ph; bỏ "h" trong "gh","ngh") hay thể hiện rõ âm (z=d vì "đ" viết không dấu thành "d"). Hiện nay nhờ sự phát triển của Internet trên di động (như Wi-Fi, 4G không giới hạn dung lượng) cùng các ứng dụng OTT và mạng xã hội, việc nhắn tin bằng tiếng Việt có dấu trở nên thoải mái hơn mà không lo bị hạn chế ký tự. Đối với việc gõ chữ Hán và chữ Nôm bằng tiếng Việt, do dạng ký tự này hiện không được sử dụng phổ biến ở Việt Nam nên các hãng sản xuất máy tính, điện thoại hay phần mềm coi như loại bỏ. Thời gian gần đây để phục vụ cho nhu cầu tìm hiểu về lịch sử hay văn học cổ cũng như chuyên ngành Hán Nôm, một số cá nhân hay tổ chức đã tạo ra những trang web hay phần mềm giúp viết chữ Hán và chữ Nôm bằng bộ gõ chữ Quốc ngữ. Với chữ Hán do đồng bộ với các chữ của bộ gõ tiếng Trung và tiếng Nhật nên việc hiển thị không khó khăn, còn chữ Nôm do một lượng chữ chưa được mã hoá đầy đủ nên có thể hiển thị bị lỗi trên một số máy tính và điện thoại dưới dạng ô vuông hay dấu hỏi chấm.
24
24_ting_ngn_nhm_ngi
[ "ting", "ngn", "nhm", "ngi", "digan", "nhnh", "lo", "ni", "ng", "vit" ]
[ "Người Khương (, Hán-Việt: Khương tộc) là một nhóm sắc tộc tại Trung Quốc. Họ tạo thành một trong số 56 dân tộc tại Trung Quốc, được Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chính thức công nhận, với dân số khoảng 306.000 người (ước tính năm 2002), sinh sống chủ yếu tại miền tây tỉnh Tứ Xuyên, bao gồm miền đông châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá, địa cấp thị Miên Dương (các huyện Bắc Xuyên, Bình Vũ). Hiện nay, người Khương chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ của dân cư Trung Quốc, nhưng nói chung người ta tin rằng dân tộc này rất cổ đại, từng có thời đủ mạnh và đông đúc, với lịch sử có thể dò vết ít nhất là từ thời kỳ nhà Thương và các hậu duệ của họ được cho là tạo thành một bộ phận nhất định của người Tạng hiện đại, một bộ phận nhất định của người Hán hiện đại và nhiều sắc tộc thiểu số tại Miền Tây Trung Quốc.\nLịch sử.\nSơ kỳ.\nTrong các thư tịch Trung Hoa cổ đại, các cụm từ như \"người Khương, Tây Khương, rợ Khương\" thường được sử dụng như là thuật ngữ chung để chỉ các sắc tộc không phải người Hoa Hạ tại miền tây Trung Quốc ngày nay. Các dân tộc này thường xuyên gây chiến với các cư dân trong lưu vực sông Hoàng Hà. Phải cho đến thời Tần Mục công khi nước Tần nổi lên thì sự bành trướng lãnh thổ của người Khương mới bị ngăn chặn có hiệu quả.\nVào thời Tam quốc người Khương cũng đã nổi lên như một thế lực biên cương hùng hậu và gây áp lực cho nhà Hán, họ thường liên kết với các thế lực quân phiệt cát cứ ở phía Tây Bắc để tạo thêm thế lực. Đặc biệt, họ đã từng hưởng ứng và tham chiến trong hàng ngũ thuộc lực lượng quân sự của Mã Siêu trong các trận Đồng Quan và trận Ký Thành để chống lại triều đình.\nMột thủ lĩnh của người Khương là Diêu Trường sau này lập ra vương quốc Hậu Tần (384-417) trong thời kỳ Thập lục quốc tại Trung Quốc. Nhưng một điều cần lưu ý là người Khương không phải một dân tộc riêng biệt cho tới khoảng 20-30 năm trước đây. Thuật ngữ \"Khương\" (羌, chữ Hán gợi ý đó là những người chăn cừu) được sử dụng trong các thư tịch cổ Trung Hoa để nói chung tới các sắc tộc du mục khác nhau sinh sống tại miền tây và không có liên quan trực tiếp gì tới người Khương ngày nay. Chỉ trong vài thập niên gần đây thì các sắc tộc này mới tự nhận chính mình là người Khương.\nCấu trúc của ký tự 羌 cũng phản ánh quan điểm này. Nó bao gồm 2 thành phần: 人 (nhân: người) và 羊 (dương: dê, cừu), gợi ý rằng họ là những người chăn dê, cừu. Trong thời kỳ Đông Hán (25-220) và Ngụy-Tấn (220-420), người Khương sinh sống rộng khắp dọc theo các sườn núi ở miền bắc và đông cao nguyên Thanh Tạng, từ khu vực dãy núi Côn Lôn (崑崙山) trong tỉnh Tân Cương và miền đông Thanh Hải, tới miền nam tỉnh Cam Túc, miền tây tỉnh Tứ Xuyên và miền bắc tỉnh Vân Nam, tạo ra cái gọi là vành đai người Khương, theo thứ tự từ bắc xuống nam là Tham Lang Khương, Bạch Mã Khương, Bạch Cẩu Khương, Bạch Lang Khương, Thanh Y Khương, Mao Ngưu Khương v.v. Thời kỳ này, các thư tịch Trung Hoa cũng có các cố gắng nhằm tách một số sắc tộc ra khỏi khái niệm chung này. Vì thế mà có các tộc người như Hồ, Đê, Di v.v. Tuy nhiên, sự phân biệt không phải luôn rõ ràng. Cũng trong thời kỳ này những cuộc nổi dậy của người Khương dọc theo biên giới với Trung Quốc đã dẫn tới sự xâm nhập quy mô lớn của họ vào lãnh thổ Trung Quốc. Đây cũng là một yếu tố quan trọng trong việc phân rã cuối cùng của triều đại Đông Hán.\nTrong thời kỳ từ Nam Bắc triều (420-589), tới nhà Tùy (589-619) và nhà Đường (620-907), một vài thể chế chính trị tương đối lớn đã xuất hiện tại miền tây Trung Quốc, như các liên minh bộ lạc Đãng Xương, Đặng Chí, Đảng Hạng, Thổ Cốc Hồn và Thổ Phồn. Trong sử sách Trung Hoa, phần lớn dân của các chế độ này là người Khương hay chư Khương.\nSự nổi lên của Thổ Phồn trong thế kỷ 7 đặc biệt đáng chú ý. Sự bành trướng nhanh chóng sang hướng đông của vương quốc này đã gây ra một loạt vụ đối đầu với nhà Đường dọc theo sườn đông cao nguyên Thanh Tạng; một vành đai kéo dài từ miền nam Cam Túc về phía nam tới bắc Vân Nam, với dân cư của vành đai này được người Hán gọi là Khương. Từ giữa thế kỷ 7 tới thế kỷ 8, Thổ Phồn xâm chiếm gần như toàn bộ vành đai này và nhiều liên minh bộ lạc của người Khương, như Đảng Hạng, Dương Đồng, Đãng Xương và Đặng Chí trở thành nạn nhân của vương quốc này.\nSau sự sụp đổ của Thổ Phồn trong thế kỷ 9 và ngay cả sau khi nổi lên cũng như sụp đổ của vương quốc Tây Hạ (1038-1227) với cư dân của nó chủ yếu là người Đảng Hạng Khương, thì ảnh hưởng của văn hóa Tạng vẫn còn tồn tại trong vành đai ngoại biên này. Điều này không chỉ do phần lớn khu vực này vẫn còn được các thủ lĩnh địa phương, các hậu duệ của giới quý tộc hay tướng lĩnh Thổ Phồn, kiểm soát và cai trị mà còn do Lạt ma giáo đã trải rộng khắp khu vực ngoại biên này trong thời kỳ nhà Nguyên (1271-1368) và nhà Minh (1368-1644). Kết quả là, từ nhà Tống (960-1279) trở đi, đặc biệt là thời Minh-Thanh, nhãn sắc tộc phổ biến nhất mà người Hán gán cho các cư dân bản địa của khu vực này đã trở thành Phiên (番). Nhãn sắc tộc này được gán cho cư dân của Thổ Phồn trước kia cũng như của các dân tộc \"man di mọi rợ\" miền tây.\nTừ thế kỷ 14 tới thế kỷ 19, trong các trường hợp hiếm hơn thì các thuật ngữ Khương Nhung (rợ Khương), chư Khương (các bộ lạc Khương), và thường xuyên hơn là các thuật ngữ Phiên và Di, vẫn được áp dụng cho một phạm vi rộng các sắc tộc phi Hán ở miền tây theo ý nghĩa chung, nhưng chỉ có người Phiên sống tại thượng nguồn sông Dân và khu vực Bắc Xuyên cận kề mới được ghi chép là \"Khương, Khương dân\". Đáng chú ý là trong thời kỳ này người Hán luôn dùng thuật ngữ Khương dân để chỉ cư dân bản địa đã Hán hóa nhiều hơn từ châu Mậu tới huyện Quán, những người đã đăng ký các quyền công dân với chính quyền của người Hán địa phương, trong khi họ sử dụng các thuật ngữ Phiên, Sinh Phiên và Phiên Khương để chỉ những người ít Hán hóa hơn tại Tùng Phan, Điệp Khê và Hắc Thủy cận kề. Tuy nhiên, trong các sử liệu Minh-Thanh thì Phiên chắc chắn là sự nhận dạng phổ biến nhất đối với các sắc tộc sống tại thượng nguồn sông Dân và khu vực Bắc Xuyên.\nGần đây.\nHiện tại, người Khương tự nhận chính mình là Khương tộc (羌族) hay \"Nhĩ Mã\" (尔玛). Có khoảng 306.000 người Khương sinh sống tại miền tây Tứ Xuyên, chủ yếu trong 4 huyện Mậu, Vấn Xuyên, Lý và Hắc Thủy của châu tự trị dân tộc Tạng-Khương A Bá cũng như 2 huyện Bắc Xuyên và Bình Vũ của địa cấp thị Miên Dương. Ngày 12 tháng 5 năm 2008, khu vực sinh sống của người Khương hứng chịu ảnh hưởng nặng nề của trận động đất lớn, với chấn tâm trong huyện Vấn Xuyên.\nNgười Khương ngày nay là các cư dân miền núi. Một làng phòng thủ hay \"trại\" (寨), bao gồm 30 tới 100 hộ gia đình nói chung là đơn vị xã hội cơ bản phía trên hộ gia đình. Trung bình từ 2 tới 5 làng phòng thủ nằm trong một thung lũng nhỏ dọc theo các con suối chân núi, gọi là \"câu\" (溝), tạo ra một cụm làng (hay \"thôn\", 村). Các cư dân của các làng phòng thủ hay cụm làng có quan hệ gần gũi trong đời sống xã hội. Trong các thung lũng nhỏ này, người dân gieo trồng trên các mảnh ruộng bồi tích hẹp dọc theo các con suối hay các địa hình miền núi, săn bắt động vật hoặc thu nhặt nấm ăn và các loại thảo vật (làm thức ăn hay thuốc trị bệnh) trong các cánh rừng cận kề, chăn thả bò Tây Tạng và ngựa trên các bãi cỏ đỉnh núi, đồi. Trong quá khứ, tranh giành bạo lực giữa các làng cũng hay xảy ra.\nTừ quan điểm của ngôn ngữ học, mọi người Khương hiện đại đều nói một trong hai thứ tiếng của ngữ chi Khương, các thứ tiếng của ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tuy nhiên, các phương ngữ này là quá khác biệt đến mức giao tiếp giữa các nhóm Khương khác nhau thường sử dụng tiếng Trung làm ngôn ngữ giao tiếp trung gian. Do không có chữ viết riêng nên người Khương cũng sử dụng chữ Hán trong các giao dịch. Bắt đầu từ thập niên 1980, những người Khương có học thức đã bắt đầu xây dựng hệ thống chữ viết riêng (sử dụng bảng chữ cái Latinh) và soạn từ điển tiếng Khương, dựa trên phương ngữ Khúc Cốc (曲谷) chuẩn hóa. Từ năm 1994, có thêm nhiều giáo viên biết tiếng Khương và hệ thống chữ viết này đã được gửi tới các vùng làng quê để giảng dạy.\nTập quán.\nXã hội Khương theo chế độ mẫu hệ thông thường chủ yếu có quan hệ một vợ-một chồng, mặc dù tập quan đa phu và các cuộc hôn nhân anh em con bác-con cô hay con bá-con cậu cũng được chấp nhận. Do phần lớn những người phụ nữ già hơn chồng của họ và điều phối các công việc nhà nông nên họ thường cũng đóng vai trò chủ gia đình và xã hội.\nTình yêu lãng mạn được coi là quan trọng và tự do tình dục thì thịnh hành. Người Khương coi hôn nhân là quan trọng. Trong quá khứ, các cuộc hôn nhân do cha mẹ sắp xếp tổ chức, với sự chấp thuận của những người sẽ trở thành vợ chồng này. Điều bất thường là các cô dâu sống tại nhà cha mẹ họ trong một năm hay hơn thế sau lễ cưới. Trong quá khứ, con cái thường ra ở riêng sau lễ cưới, ngoại trừ người con trai cả. Tuy nhiên, thói quen này đã dần dần bị loại bỏ từ năm 1949, khi Trung Quốc trở thành một nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.\nNgười Khương cũng có hệ thống cấm kỵ cứng nhắc liên quan tới sinh và tử. Trước khi sinh đứa trẻ, người phụ nữ mang thai không được ra bờ sông hay bờ giếng, không được tới các lễ cưới hay đứng trong tháp canh.\nKhi sinh, một pháp sư gọi là Đoan công (端公) được mời đến để giúp đỡ bà mẹ sinh con, và những người lạ mặt không được phép than khóc hay bước chân vào nhà. Điều này được ngăn ngừa bằng cách treo một chiếc néo đập lúa lên trên cổng trong một tuần nếu đứa trẻ sinh ra là con trai và một cái thúng tre nếu đứa trẻ sinh ra là con gái.\nTrong vòng một tháng sau khi sinh con, sản phụ không được vào bếp. Nếu làm trái đi thì bị coi là hành động tội lỗi đối với các vị thần bếp và nhà. Sản phụ này cũng không được ra khỏi nhà và gặp bất kỳ người lạ nào trong vòng 40 ngày sau khi sinh con. Người ta tin rằng các rủi ro ma quỷ hay bệnh tật sẽ theo về nhà và làm hại người mẹ. Một lễ cúng tế gia súc được thực hiện tại bàn thờ gia đình, nơi đứa trẻ được đặt tên.\nNhững đứa trẻ chết lưu hay chết non không được người Khương coi là con người. Thay vì thế, những đứa trẻ bất hạnh này bị coi là ma quỷ làm cho người phụ nữ mang thai để gây tai họa cho gia đình. Thi thể chúng được ném vào trong các hốc trong lòng đất và phủ đất lên.\nVăn hóa và lối sống.\nDo sự đa dạng sắc tộc của mình nên văn hóa Khương có ảnh hưởng tới các nền văn hóa khác và chịu ảnh hưởng từ các nền văn hóa này. Nói chung, những người sống gần người Tạng thì chịu ảnh hưởng của văn hóa Tạng, trong khi phần lớn người Khương chịu ảnh hưởng nhiều hơn từ phía người Hán, với các liên kết chặt chẽ với lịch sử sắc tộc của dân tộc này.\nCả đàn ông và đàn bà đều mặc áo choàng làm từ vải đay, bông hay lụa với áo vét bằng len không tay. Tuân theo các truyền thống lâu đời, tay và chân của họ được bó. Phụ nữ mặc quần áo có dây buộc với cổ áo trang trí, bao gồm các đồ trang trí màu bạc hình quả mận. Giày thêu nhọn mũi, thắt lưng thêu và khuyên tai, vòng cổ, trâm cài đầu và phù hiệu bằng bạc cũng phổ biến.\nKê, đại mạch cao nguyên, khoai tây, lúa mì và kiều mạch là các nguồn lương thực ổn định của người Khương. Việc tiêu dùng rượu vang và hút thuốc làm từ lá lan cũng phổ biến trong số những người Khương.\nNgười Khương sống trong các ngôi nhà xây cất bằng đá granit và gỗ, nói chung có 2-3 tầng. Tầng một dùng làm nơi nhốt gia súc và gia cầm, trong khi tầng hai làm nơi ngủ nghỉ và tầng ba là nơi lưu giữ thóc lúa. Nếu không có tầng ba thì lương thực được lưu giữ tại tầng một hay tầng hai.\nKhéo tay trong việc xây dựng đường sá và cầu cống bằng tre nên người Khương có thể xây dựng chúng trên các vách núi đá và trên các con sông hay suối chảy nhanh. Chỉ sử dụng các cột trụ và các bản bằng gỗ, những cây cầu này có thể kéo dài tới 100 m. Những người Khương khác lại là các thợ nề giỏi việc đào giếng. Những khi mùa màng thất bát, họ thường đi nhiều nơi để đào giếng hay chạm trổ.\nThêu thùa được thực hiện tùy hứng mà không có các mẫu thiết kế. Các bài dân ca liên quan tới các chủ đề như rượu vang và núi đồi luôn được kèm theo là các điệu nhảy và âm nhạc từ các nhạc cụ truyền thống, như trống.\nTôn giáo, tín ngưỡng.\nPhần lớn người Khương theo tín ngưỡng đa thần, gọi là Ruism, một tín ngưỡng với niềm tin vào các viên đá trắng, được thờ phụng như là tượng trưng cho thần Mặt Trời sẽ đem lại điều may mắn cho các mặt của cuộc sống thường nhật của người Khương. Những người sống gần người Tạng thì theo Phật giáo Tây Tạng (Lạt ma giáo). Cũng có các nhóm nhỏ theo Hồi giáo và Đạo giáo.\nNgười Khương thờ phụng 5 vị đại thần, 12 vị tiểu thần, một số vị thần cây, và nhiều viên đá được thờ phụng trong vai trò đại diện cho các vị thần. Một vị thần đặc biệt được thờ phụng tại mỗi làng, được nói tới bằng tên gọi trong các bài thánh ca của các tu sĩ người Khương. Mubyasei hay Abba Chi là vị thần trên trời và được coi là vị thần tối cao. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để nói tới vị thần tổ tiên của đàn ông, Abba Sei. Tại một số nơi, Sơn vương, vị thần núi, lại được coi là vị thần tối cao. Người Khương cũng tuân theo nhiều thực tiễn của Đạo giáo.\nĐối với một số người Khương, phần lớn viên đá trắng được đặt tại các góc của mái nhà hay trên các tháp chùa, như là biểu tượng may mắn của mặt trời. Tại mỗi làng đều có một tháp chùa bằng đá nằm tại rìa làng trên đỉnh đồi cận kề. Tháp chùa này thường cao trên 2 m và phần trên cùng nhất của nó được dát bằng một vòng tròn các viên đá trắng nhỏ. Các viên đá trắng lớn hơn cũng được đặt trên chóp nhọn.\nCác tháp nhỏ đôi khi cũng được xây dựng trên mái nhà, với bình gốm sứ chứa ngũ cốc được đặt trong tháp. Trên đỉnh tháp, một viên đá trắng được đặt cùng sừng bò và cừu. Theo truyền thống, của nhà của người Khương quay mặt về phía nam và tháp nhỏ này được xây ở mặt bắc của mái nhà, thẳng hàng với của nhà. Mỗi buổi sáng, gia đình người Khương sẽ đốt hương trong tháp và khấu đầu trước tháp, cầu nguyện thần đá trắng che chở cho gia đình.\nTuy nhiên, với quá trình hiện đại hóa, việc thờ phụng thần đá trắng gần như không còn phổ biến như trước kia.", "Người Lô Lô (theo cách gọi ở Việt Nam và Thái Lan) hay người Di theo cách gọi ở Trung Quốc (), Mùn Di, Màn Di, La La, Qua La, Ô Man, Lu Lộc Màn, người Yi trong nhiều văn liệu quốc tế, là một sắc tộc có vùng cư trú truyền thống là tiểu vùng nam Trung Quốc - bắc bán đảo Đông Dương.\n\"Người Lô Lô\" là một trong số 54 dân tộc ở Việt Nam với số dân 4.827 người theo Điều tra dân số 2019.\nNgười Lô Lô cũng là một trong số các dân tộc thiểu số ở Thái Lan, Lào và Trung Quốc.\nTên gọi Lô Lô (Lolo) ở Trung Quốc có khi được coi là mang sắc thái không hay, nhưng lại là tên tự gọi ở Việt Nam và Thái Lan.\nDân số và địa bàn cư trú.\nNguồn sống chủ yếu của người Lô Lô là trồng ngô hoặc lúa nương. Người Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ thường cộng cư với nhau thành một làng.\nỞ Trung Quốc, với số dân 7.762.286 người, người Di (tên tự gọi theo phiên tự: \"Nuosu\") là dân tộc đông thứ 7 trong số 56 dân tộc được công nhận chính thức của Trung Quốc. Họ sống chủ yếu ở các vùng nông thôn, vùng núi thuộc các tỉnh Tứ Xuyên, Vân Nam, Quý Châu và Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây.\nNgười Lô Lô Tại Việt Nam.\nỞ Việt Nam, năm 1999 có 3.307 người Lô Lô, cư trú chủ yếu ở các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc (tỉnh Hà Giang), Bảo Lạc (tỉnh Cao Bằng), Mường Khương (Lào Cai).\nNgười Lô Lô tại Việt Nam nói tiếng Mantsi (là một ngôn ngữ Lô Lô-Miến thuộc nhóm Mondzi), có nét văn hóa đặc trưng riêng biệt với nhóm Di/Lô Lô tại Trung Quốc. Người Lô Lô phân thành các nhóm như Lô Lô Hoa ở Mèo Vạc, Đồng Văn. Lô Lô Đỏ, Lô Lô Trắng ở Mèo Vạc, Yên Minh. Riêng nhóm Lô Lô Đen tập trung ở Bảo Lạc, Cao Bằng.\nTheo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Lô Lô ở Việt Nam có dân số 4.541 người, cư trú tại 30 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Lô Lô cư trú tập trung tại các tỉnh: \nCao Bằng (2.373 người, chiếm 52,3% tổng số người Lô Lô tại Việt Nam), \nHà Giang (1.426 người), \nLai Châu (617 người).\nNgôn ngữ.\nNgười Lô Lô nói tiếng Lô Lô (hay tiếng Di), là một ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Tạng-Miến trong ngữ hệ Hán-Tạng. Tiếng Lô Lô có chữ viết riêng theo vần (âm tiết). Chữ viết của người Lô Lô trước kia là chữ tượng hình, nhưng hiện nay ít khi sử dụng; một số bài hát dân ca Lô Lô hay chương trình dạy tiếng Lô Lô trên truyền hình ở Trung Quốc đều chứa cả phụ đề tiếng Trung. Theo Ethnologue, nhóm các ngôn ngữ Di tại Trung Quốc bao gồm 29 ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với nhau.\nKhoảng thế kỷ 14, người Lô Lô đã có chữ tượng hình với 140 bộ thủ. Người ta dùng phương pháp ghép bộ thủ để diễn đạt nghĩa. Chữ được ghi trên các tấm gỗ mỏng, trên da thú hoặc loại giấy dày, thô. Tới nay chỉ có một số gia đình còn giữ lại được một vài mảnh có ghi lại loại chữ đó mà ít ai đọc được.\nLịch sử.\nTruyền thuyết nói rằng người Di bắt nguồn từ tộc người Khương cổ (古羌) ở miền Tây Trung Quốc. Người Khương cổ được coi là thủy tổ của các dân tộc Tạng, Nạp Tây và Khương (羌 \"Qiang\") ở Trung Quốc ngày nay. Người Di đã di cư từ vùng đông nam Tây Tạng qua Tứ Xuyên xuống Vân Nam, là nơi ngày nay họ tập trung đông nhất. Người Lô Lô còn có tên là Di có lẽ là do họ sống ở nam Trung Quốc.\nHôn nhân gia đình.\nHôn nhân theo tục Lô Lô là hôn nhân một vợ một chồng, cư trú nhà chồng.\nPhong tục cưới xin của người Lô Lô mang nặng tính gả bán với việc thách cưới cao (bạc trắng, rượu, thịt...). Sau hôn nhân, cô dâu cư trú bên chồng. Con trai cô có thể lấy con gái cậu song không được ngược lại.\nVăn hóa.\nVăn hóa dân gian Lô Lô đa dạng, đặc sắc thể hiện qua các điệu nhảy múa, hát ca, truyện cổ... Cách bố trí hoa văn trên khăn áo, váy, quần có nét riêng biệt\nLịch của người Lô Lô chia một năm thành 11 tháng, mỗi tháng tương ứng với tên một con vật.\nNgười Lô Lô có trống đồng, được bảo quản bằng cách chôn xuống đất và chỉ khi nào sử dụng mới đào lên. Tộc trưởng của mỗi họ là người được giữ trống. Trống chỉ được dùng trong các đám tang hoặc đánh để giữ nhịp cho các điệu nhảy múa. Họ là một trong số ít các dân tộc ở Việt Nam hiện nay còn sử dụng trống đồng trong sinh hoạt. Trống đồng là một nhạc cụ truyền thống của người Lô Lô gắn liền với huyền thoại về nạn hồng thủy. Theo huyền thoại thì ngày xưa có nạn lụt lớn, nước dâng cao đến tận trời. Có hai chị em nhờ trời cứu để chị vào trống đồng to, em vào trống đồng nhỏ. Hai chị em thoát chết nhờ trống nổi lên mặt nước. Hết lụt họ ở trên núi, sống với nhau thành vợ, thành chồng. Họ là thủy tổ của loài người tái sinh.\nQuan niệm về âm dương, sự sinh sôi nảy nở có lẽ còn được bảo tồn rõ ràng với lối hoà tấu hai trống đực và cái cùng một lúc. Trống treo trên giá đặt ở phía chân người chết; mặt của hai trống quay lại với nhau. Người đánh trống đứng ở giữa, cầm dùi đánh bằng hai đầu, cứ một đầu dùi đánh một trống. Chỉ những người đàn ông chưa vợ hoặc có vợ không ở trong thời kỳ thai nghén mới được đánh trống.\nTrống đồng không những là một tài sản quý, một nhạc cụ độc đáo mà còn là một khí cụ mang tính chất tôn giáo. Có tiếng trống đồng thì hồn người chết mới tìm được đường về nơi sinh tụ đầu tiên của tổ tiên.\nNhiều người Di ở tây bắc Vân Nam còn giữ một hình thức phức tạp của chế độ nô lệ. Người Di trắng và một vài nhóm tộc khác còn bị giữ làm nô lệ. Những nô lệ \"đẳng cấp cao\" thì được phép canh tác trên ruộng đất của họ, lại có nô lệ của mình và dần dần có thể \"mua\" tự do cho mình.\nTín ngưỡng.\nNgười Lô Lô thờ tổ tiên là chính. Họ theo tín ngưỡng coi mọi vật đều có linh hồn. Đứng đầu dòng họ là \"Thầu chú\" (Bimaw). Ông này phụ trách việc cúng bái và duy trì tục lệ của dòng họ. Họ vẫn còn giữ được một vài văn bản tôn giáo cổ viết bằng một thứ chữ tượng hình của họ. Tôn giáo của họ cũng mang nhiều yếu tố của Đạo giáo và Phật giáo.\nTang ma có nhiều lễ thức độc đáo như hoá trang, nhảy múa, đánh lộn... Dấu vết của tục săn đầu còn thể hiện khá rõ ở hiện tượng một người luôn đeo chiếc túi vải có đựng khúc gỗ hay quả bầu có vẽ mặt người trong tang lễ.\nCộng đồng, nhà cửa.\nNgười Lô Lô có nhiều dòng họ. Người trong dòng họ thường cộng cư với nhau thành một làng. Người Lô Lô thường lập làng ở lưng chừng núi, nhưng gần nguồn nước. Nhà cửa ở khá tập trung, mỗi làng từ 20 đến 25 nóc nhà. Người Lô Lô có ba loại nhà khác nhau: nhà đất, nhà sàn nửa đất và nhà sàn.\nTrang phục.\nPhong phú về chủng loại, kỹ thuật tạo dáng áo và độc đáo về phong cách mỹ thuật, khó lẫn lộn với bất cứ tộc người nào. Có nhiều nhóm địa phương.\nTrang phục nam.\nNam giới Lô Lô thường mặc áo xẻ nách năm thân dài tới gối, màu chàm. Quần cũng là loại xẻ dùng màu chàm. Trong đám tang mặc áo dài xẻ nách, trang trí hoa văn sặc sỡ theo từng chi và dòng họ.\nTrang phục nữ.\nPhụ nữ Lô Lô để tóc dài quấn ngang đầu. Bên cạnh đó họ còn dùng khăn quấn thành nhiều lớp trên đầu hoặc đội. Khăn cũng được trang trí các mô típ hoa văn và các tua vải màu sắc sặc sỡ. Ngoài ra còn có loại mũ khăn trang trí hoa văn theo lối ghép vải - một phong cách mỹ thuật khá điển hình của cư dân Tạng - Miến (mà Lô Lô là tộc biểu hiện khá tập trung và điển hình). Các nhóm Lô Lô ăn mặc khác nhau. Xưa người Lô Lô phổ biến loại áo dài cổ vuông, tay dài, chui đầu (vùng Bảo Lạc, Cao Bằng), hoặc loại áo ngắn thân cổ vuông, ống tay áo nối vào thân, có thể tháo ra. Cạnh đó còn có loại áo cánh ngắn, xẻ ngực, cổ cao, tròn cài cúc. Nhóm Lô Lô trắng có áo dài lửng ống tay rộng, xẻ nách cao, theo kiểu đuôi tôm, cổ áo gấu áo trước và sau được trang trí hoa văn trên nền sáng; hoặc còn có loại tương tự màu chàm nhưng ít trang trí hoa văn. Váy là loại kín (hình ống). Cạp váy chỉ dùng để dắt váy, dưới cạp được chiết ly, thân váy được thêu, ghép hoa sặc sỡ. Bên ngoài còn có tấm choàng váy, hai mép và phía dưới được trang trí hoa văn. Có nhóm mặc quần, đi giày vải.", "Người Hoa () là một dân tộc có nguồn gốc từ Trung Quốc và được công nhận là một trong 54 dân tộc của Việt Nam. Các tên gọi khác của họ là người Minh, người Trung Hoa, người Minh Hương, người Bắc, người Thanh, Khách nhân, họ cũng được gọi là người Đường (), người Trung Quốc, người Hán, hoặc dân tộc Hoa ().\nDân tộc Hoa cùng với dân tộc Ngái và Sán Dìu đều được xếp vào nhóm ngôn ngữ Hán. Thông thường, người Hoa ở Việt Nam được gọi là người Việt gốc Hoa để tránh trường hợp gây tranh cãi về thuật ngữ và thái độ kỳ thị. Người Hoa không gồm người Hán có quốc tịch Trung Quốc đang sống ở Việt Nam.\nDân tộc Hoa có dân số 749.466 người theo Điều tra dân số chính thức của Chính phủ Việt Nam năm 2019, chiếm 0,78% dân số Việt Nam.\nTên gọi.\nNhững người có nguồn gốc từ Trung Quốc (gọi chung là người Trung Quốc) đã qua lại để làm ăn, sinh sống, và hòa nhập với người Việt (người Kinh) bản địa ở Việt Nam vốn từ lâu đời, tùy theo từng các thời kỳ lịch sử, hoàn cảnh tiếp xúc hoặc nguyên nhân di cư mà người Trung Quốc đã tự xưng về tên dân tộc của mình khác nhau. Người Trung Quốc thường tự gọi mình là dân của các triều đại mà họ cho rằng văn minh, tự hào hoặc cho rằng nó phổ biến và được người bản xứ biết rõ, hoặc đã biết từ lâu như \"người Đường\" (\"tong4 jan4\", Thoòng dzằn), \"người Thanh\", \"người Bắc\" (quốc). Người Hoa còn tự gọi họ theo quê quán: người Quảng Đông (Quảng Đông), người Tiều (Triều Châu), người Khách Gia, người Hải Nam (Hải Nam), người Phúc Kiến (Phúc Kiến)... Người Việt còn có lệ gọi người Hoa là \"người Ngô\". Lệ này bắt nguồn từ lịch sử thời Xuân Thu có \"nước Ngô\" và \"nước Việt\", bản thân đây là 2 quốc gia phi Hán nhưng sau thì vùng này đã bị Hán hóa hoàn toàn từ phương Bắc. Điển hình là bản \"Bình Ngô đại cáo\" của Nguyễn Trãi vào thế kỷ XV sau khi Bình Định Vương Lê Lợi đuổi được giặc nhà Minh, do nhà Minh có tiền thân tự xưng là \"Ngô\".\nTừ phổ thông người Việt hay dùng để gọi người Hoa là \"người Tàu\"; \"chệt\"; từ \"cắc chú\", đọc trại từ chữ \"khách trú\" vì lúc đấy người Hoa không được nhìn nhận là cư dân mà chỉ là dân ở trú mà thôi. Bản báo sau đây đưa ra nguồn gốc khác cho \"cắc chú\" nhưng không có cơ sở:\n\"Theo Gia Định báo, đăng trong số 5, năm thứ 6, phát hành ngày 16 tháng 2 năm 1870: phần tạp vụ (một bài thuộc vào loại phiếm luận ngày nay)\"\"Người bên Tàu thường gọi là người Trung-Quốc nghĩa là nước ở giữa vì thuở xưa bên ấy có 18 nước chư hầu; chỗ Kinh thành Hoàng-đế ở lại vô ở giữa các nước chư hầu nên gọi là Trung Quốc. Người bên Tàu thường kêu mình là Đường-nhơn hay Thanh-nhơn, nghĩa là người nhà Đường nhà Thanh. An-nam ta kêu là Tàu, người bên Tàu, là vì khách thường đi tàu qua đây, lại dùng tàu chở đồ hàng hóa qua đây buôn bán; nên kêu là Tàu, hàng Tàu, đồ Tàu v.v...\"\n\"Người Bắc thì kêu là \"Ngô\", nghĩa là nước Ngô, có kẻ lại cắt nghĩa rằng vì bởi nó hay xưng mình là Ngô nghĩa là tôi. Từ này không còn phổ biến nữa.\"\n\"Kêu \"Các-chú\" là bởi người Minh-hương mà ra; mẹ An-nam cha Khách nên nhìn người Tàu là anh em, bằng không thì cũng là người đồng châu với cha mình, nên mới kêu là Các-chú nghĩa là anh em với cha mình. Sau lần lần người ta bắt chước mà kêu bậy theo làm vậy.\"\n\"Còn kêu là \"Chệc\" là tại tiếng Triều Châu kêu tâng Chệc nghĩa là chú. Người bên Tàu hay giữ phép, cũng như An-nam ta, thấy người ta tuổi đáng cậu, cô, chú, bác thì kêu tâng là chú là cậu vân vân. Người An-nam ta nghe vậy vịn theo mà kêu các ảnh là Chệc.. Nay không còn phổ biến nữa.\" \nTừ Ba Tàu có cách giải thích như sau: Ba có nghĩa là 3 vùng đất mà chúa Nguyễn cho phép người Hoa làm ăn và sinh sống: vùng Cù lao Phố (Đồng Nai), Chợ Lớn (Sài Gòn), Hà Tiên; từ Tàu bắt nguồn từ phương tiện đi lại của người Hoa khi sang An Nam. Còn có cách giải thích khác: Người Việt thường xưng hô theo thứ tự như anh Hai (con cả) anh Ba (con thứ)... Vì lý do đó mà người Tàu thường lễ phép gọi thân mật người Việt đang làm ở các cơ quan Pháp thời đó là anh Hai (cậu Hai) và xem mình là em (anh Ba).\nNgười Hoa Việt Nam thường tự gọi mình là Đường nhân 唐人 (\"Tong4 jan4\" theo tiếng Quảng Đông, \"Deung7 nang5\" theo tiếng Triều Châu, \"Tángrén\" theo tiếng Phổ Thông).\nMột danh từ để chỉ người Trung Quốc được chấp nhận và sử dụng phổ biến trên khắp thế giới là \"người Hoa\" (華人).\nNếu xếp theo phân loại của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thì người Hoa là người Hán.\nLịch sử.\nTrước năm 1945.\nCó ý kiến cho rằng những người Trung Quốc đầu tiên bắt đầu đi vào Việt Nam là từ thời nhà Tần vào Tượng Quận nhưng lần di dân đầu tiên được ghi nhận rõ ràng là từ năm 43 vào thời nhà Hán tức thời Bắc thuộc lần 2; người Trung Hoa di dân đến Việt Nam đến thời Trung Hoa Dân Quốc, gồm: binh lính, quan chức, thường dân, nhà buôn..., thậm chí là tội phạm (lý do thì đa dạng); người Trung Quốc di cư đến Việt Nam rất đông nhưng phần lớn họ kết hôn và \"nhập gia tùy tục\" với người bản xứ rồi con cháu họ cũng dần dần hòa tan vào xã hội Việt Nam xưa để thành người Kinh, hiện Việt Nam chính thức chỉ sót lại số ít người Hoa là còn giữ được bản sắc mà ta đang đề cập.\nVào thế kỷ XVII tại Trung Quốc, sự xâm lược Trung Quốc của người Mãn Châu (1618-1683) dẫn đến làn sóng người Hoa ở miền Nam Trung Quốc trung thành với nhà Minh (Trung Quốc) và không thần phục nhà Thanh (Mãn Châu) bỏ quê hương di dân sang vùng Đông Nam Á, ngoài ra sau này cho đến khi Mãn Thanh sụp đổ thì cũng có những người Hoa có tư tưởng trung lập di cư đến nhưng vẫn có những người bất mãn với triều đình, trong đó, phần lớn người Hoa chọn đến Việt Nam vì gần gũi về địa lý cũng như văn hóa, phong tục tập quán. Họ sang Việt Nam bằng nhiều con đường khác nhau, nhưng nhiều nhất là bằng thuyền buồm nên họ được người bản địa gọi là người Tàu hay Tàu Ô vì đặc trưng thuyền của người Hoa vượt biên sang Việt Nam là phần buồm của chúng có màu đen đặc như than tro.\nNăm 1671, Mạc Cửu và gia đình ông đến vùng đất Mang Khảm (nay là Hà Tiên), khi đó vẫn thuộc quyền kiểm soát của vương quốc Chân Lạp. Mạc Cửu đã mở rộng quyền kiểm soát ra các vùng lân cận, và sau đó quy thuận chúa Nguyễn.\nSách \"Đại Nam Thực lục (Tiền biên)\" chép:\nNhững cộng đồng người Hoa này được gọi là \"người Minh Hương\". Chữ \"hương\" ban đầu dùng chữ 香 có nghĩa là \"thơm\" khi kết hợp với chữ Minh 明 có nghĩa là \"hương hỏa nhà Minh\" (明香), đến năm 1827 thì vua Minh Mạng cho đổi chữ Hương 香 sang chữ Hương 鄉 nghĩa là \"làng\" để tránh đụng chạm với nhà Thanh, từ đó Minh Hương (明鄉) có thể hiểu là \"làng của người Minh\" và cũng có thể hiểu là \"làng sáng sủa\".\nNăm 1698, ở vùng Phiên Trấn - Bến Nghé - Sài Gòn đã hình thành nên làng Minh Hương ở Gia Thạnh, Chợ Lớn cũ. Từng có câu ca dao nói về phong hóa làng Minh Hương:\nTuy thu được nguồn lợi từ những người Hoa định cư tại Việt Nam, nhưng các vị vua chúa Việt Nam chưa bao giờ cảm thấy yên tâm về lòng trung thành của họ. Tại thời điểm xấu nhất của quan hệ giữa hai bên, 10 ngàn người Hoa vùng cù lao Phố đã bị Nguyễn Nhạc của nhà Tây Sơn tàn sát vào thế kỷ XVIII, và người Hoa cũng là lực lượng ủng hộ nhà Nguyễn chống Tây Sơn. Những khi khác, người Hoa rất có khiếu làm ăn, được hưởng tự do và sự giàu có nhưng họ luôn bị người bản xứ kỳ thị.\nSau khi nhà Nguyễn ban hành quy chế thành lập các Bang Hoa Kiều, người Hoa sinh sống ở Việt Nam có tất cả là 7 bang: Quảng Triệu (còn gọi là Bang Quảng Đông), Khách gia, Triều Châu, Phước Kiến, Phước Châu, Hải Nam và Quỳnh Châu. Trụ sở của 7 Bang (giống như Văn phòng Đại diện) thường được gọi là \"Thất Phủ công sở\" hoặc \"Thất Phủ hội quán\".\nĐến thế kỷ XIX, người Pháp tạo điều kiện cho người Hoa vào định cư ở Sài Gòn, Chợ Lớn ở miền Nam cũng như Hà Nội, Hải Phòng ở miền Bắc. Thời kì này người Hoa sang Việt Nam theo các đợt mộ phu khai thác đồn điền, hầm mỏ của các ông chủ tư bản người Pháp. Tháng Giêng năm 1885, Pháp ra lệnh sáp nhập Bang Phước Châu vào trong Bang Phước Kiến; sáp nhập Bang Quỳnh Châu vào trong Bang Hải Nam. Vì vậy mà từ đó về sau, người Hoa chỉ còn 5 bang.\nNgoài ra, riêng đối với Bang Khách gia ở Việt Nam thì không chỉ có người Hẹ. Theo lệnh của Thực dân Pháp, những người Trung Quốc sinh sống ở Việt Nam nhưng có nguyên quán (Tổ tịch) không thuộc 4 Bang kia, tất cả đều phải chịu sự quản lý của Bang Khách gia. Vì vậy mà trong Bang Khách gia Việt Nam có những người gốc Giang Tô, Thượng Hải, Chiết Giang, Hồ Bắc, Hồ Nam...\nKhoảng thời gian từ năm 1937-1945, có một số lượng không nhỏ người Hoa từ các khu vực bị phát xít Nhật chiếm đóng ở Trung Quốc chạy xuống Việt Nam lánh nạn.\nNăm 1949, sau khi Trung Quốc Quốc dân Đảng thua trận và bị mất quyền kiểm soát ở đại lục trước Đảng Cộng sản Trung Quốc thì có thêm rất nhiều người Hoa vượt biên sang Việt Nam lánh nạn. Họ chủ yếu là ông chủ của các hãng buôn, các xí nghiệp, các tiểu tư sản, trí thức, ... những người được coi là \"mầm họa tư bản cần phải được loại bỏ\" của Đảng Cộng sản Trung Quốc.\nTrước 1945, tại Việt Nam, chính quyền thuộc địa Pháp giành độc quyền buôn bán 3 mặt hàng quan trọng nhất là gạo, muối và rượu. Đặc biệt là thuốc phiện được Pháp công khai buôn bán, khuyến khích người Việt sử dụng chứ không bị cấm như ở chính quốc. Lợi nhuận từ thuốc phiện đã đóng góp tới 25% vào ngân sách của Pháp ở Đông Dương. Tổng ngân sách năm 1905 là 32 triệu đồng Đông Dương, trong số này nguồn thu từ độc quyền việc chế biến và kinh doanh thuốc phiện là 8,1 triệu đồng Đông Dương. Việc phân phối bán lẻ thuốc phiện được Pháp dành cho tư nhân, đa số là người Hoa Người Hoa thu được những món lợi lớn từ việc buôn thuốc phiện cho Pháp trong thời kỳ này, từ đó tạo nguồn lực cho việc họ khống chế kinh tế miền Nam cho tới thập niên 1980.\nTới trước năm 1949, người Hoa ở Việt Nam vẫn giữ quốc tịch Trung Quốc. Chính quyền Trung Hoa Dân quốc tuyên bố rằng tất cả người Hoa ở nước ngoài đều là công dân Trung Quốc, có nghĩa là Trung Quốc có quyền bảo vệ công dân của mình. Đến thập niên 1950, chính quyền Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới chính thức thu hồi lời tuyên bố trên.\nGiai đoạn 1954-1976.\nỞ miền Bắc.\nỞ miền Bắc, năm 1955, hai chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thống nhất rằng người Hoa ở Việt Nam sẽ do chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý và họ được hưởng đầy đủ quyền lợi như là công dân Việt Nam. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ước tính rằng quá trình bỏ dần quốc tịch Trung Quốc để thành công dân chính thức của Việt Nam với người Việt gốc Hoa sẽ kéo dài nhiều năm. Trong thời gian Chiến tranh Việt Nam diễn ra thì người Hoa ở miền Bắc được hưởng tất cả các quyền của công dân Việt Nam, kể cả quyền bầu cử, nhưng họ lại không phải chịu nghĩa vụ quân sự. Trong thập niên 1960, do ảnh hưởng của Cách mạng Văn hóa ở Trung Quốc, một số người Hoa bắt đầu các hoạt động \"Hồng Vệ binh\" của mình và tố cáo Đảng Cộng sản Việt Nam đang đi theo chủ nghĩa xét lại. Đối phó với việc này, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gia tăng áp lực trong việc chuyển đổi quốc tịch của người Hoa sang quốc tịch Việt Nam. Nếu không chuyển đổi quốc tịch đúng hạn thì lực lượng thi hành pháp luật của Việt Nam sẽ dùng biện pháp mạnh cưỡng chế tài sản và bị trục xuất vĩnh viễn khỏi Việt Nam. Bước sang thập niên 1970, đặc biệt là sau khi Giải phóng miền Nam, để giảm khả năng thao chính quyền Trung Quốc đại lục lợi dụng người Hoa ở Việt Nam để tiến hành thao túng nền kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam thì chính phủ Việt Nam đã bắt đầu giảm các bài học sử Trung Quốc và tiếng Trung Quốc tại các trường học của con cháu người Hoa tại Việt Nam. Từ vài năm trước đó, các biển hiệu bằng tiếng Trung bắt đầu biến mất và thay bằng tiếng Việt tại các thành phố lớn tập trung đông người Hoa ở miền Bắc như Hà Nội hay Hải Phòng.\nNgười Hoa ở miền Nam.\nTheo một số tài liệu, từ đầu thế kỷ XX, Thiên Địa hội đã phát triển khá mạnh ở thành thị và thôn quê 6 tỉnh Nam Kỳ, nơi tiếp nhận rất nhiều Hoa kiều sang làm ăn mua bán (mặt hàng nông sản, lúa gạo). Xu thế này vẫn tiếp diễn trong suốt thời kỳ Pháp thuộc và Việt Nam cộng hòa trước năm 1975. Các hoạt động ngầm của giới tội phạm gốc Hoa tại Việt Nam có liên hệ chặt chẽ với hội Tam Hoàng tại Hồng Kông, Đài Loan, Macau. Những hoạt động bất hợp pháp như tổ chức cờ bạc, mại dâm, bảo kê, cho thuê nặng lãi, buôn bán thuốc phiện... diễn ra bán công khai và được chính quyền thời bấy giờ nhắm mắt cho qua, vì những khoản tiền khổng lồ mà các tổ chức này nộp về chính quyền qua những thỏa thuận ngầm. Khu Đại Thế giới (Chợ Lớn) từng là địa bàn cát cứ hoạt động rất mạnh của giới xã hội đen gốc Hoa và là một điểm nóng trong các địa bàn hoạt động mạnh của Hội Tam Hoàng Trung Hoa tại Đông Nam Á dưới sự bảo trợ của Bảy Viễn, Thiếu tướng Quân đội Quốc gia, thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên (Vừa là quân đội, vừa là băng đảng xã hội đen) kiêm Tổng trấn Sài Gòn-Chợ Lớn, và cũng là một người gốc Hoa (Triều Châu). Họ thậm chí còn mua chuộc được một số tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, quận trưởng, tỉnh trưởng, để có thể giành được những hợp đồng đầu tư. Thực tế hội Tam Hoàng Trung Hoa đã bén rễ rất sâu và phức tạp vào xã hội và kinh tế miền Nam trước 1975.\nMột đặc điểm phổ biến của các cộng đồng người Hoa ở Đông Nam Á là tính biệt lập của họ. Người Hoa tạo nên những \"xã hội\" nhỏ, những \"khu tự trị\" trong quốc gia mà họ cư trú. Người Hoa sống tập trung lại với nhau thành từng khu (như là khu Chợ Lớn ở miền Nam), mỗi địa phương có bang trưởng được cử ra trong số người giàu có, thạo việc làm ăn để thay mặt cộng đồng giao thiệp với bên ngoài, hoặc giải quyết tranh chấp không qua sự can thiệp của chính quyền sở tại. Người Hoa cũng nổi tiếng là biết dùng tiền để mua chuộc quan chức trong chính quyền sở tại. Ý thức biệt lập dựa trên sự nuôi dưỡng tinh thần nước lớn, tổ chức nội bộ chặt chẽ, cơ sở kinh tế mạnh, có nhiều mưu mẹo, thêm vào đó là hậu thuẫn mạnh mẽ của tư sản Hoa kiều ở các nước khác, đó là những đặc điểm và cũng là điều kiện cho phép tư sản gốc Hoa thao túng hầu như toàn bộ nền kinh tế miền Nam trước năm 1975.\nViệt Nam bị chia cắt vào năm 1954, ở miền Nam, từ năm 1956, chính phủ Ngô Đình Diệm đề ra chính sách buộc tất cả người Hoa phải nhập quốc tịch Việt Nam hoặc bị trục xuất. Một sắc luật bổ túc (Số 52) ban hành ngày 29 tháng 8/1956 đòi hỏi tất cả người Hoa phải lấy tên tiếng Việt trong thời hạn 6 tháng nếu không sẽ bị phạt. Ngày 6 tháng 9 lại ban hành sắc luật Số 53 cấm người nước ngoài hoạt động trong 11 ngành nghề, kể cả buôn gạo và bán hàng tạp hóa, những ngành mà người Hoa chiếm ưu thế. Những người Hoa đang hoạt động trong khu vực kinh tế này có 6 tháng đến 1 năm để bán hay sang nhượng lại thương nghiệp cho công dân Việt Nam, nếu không sẽ có thể bị trục xuất hay phạt 5 triệu đồng. Chính phủ Ngô Đình Diệm cũng bắt các trường học của người Hoa trong vùng Sài Gòn − Chợ Lớn phải dùng tiếng Việt trong giảng dạy và bổ nhiệm Hiệu trưởng người Việt Nam. Đây là những chính sách nhằm thẳng vào khối 1 triệu người Hoa sinh sống ở miền Nam. Tháng 5 năm 1957, Bắc Kinh phản đối rằng đây là \"sự xâm phạm tàn nhẫn các quyền hợp pháp của người Hoa\".\nNgười Hoa xuống đường gây bạo động, phản đối chính sách của Ngô Đình Diệm. Đến mùa hè 1957, người Hoa đóng cửa gần hết trường học, hoạt động thương mại, và rút tiền ra khỏi ngân hàng. Khoảng 800 triệu đến 1,5 tỉ đồng − gần 17% tiền tệ đang lưu hành ở miền Nam − biến mất khỏi thị trường, thương mại bất chợt ngưng trệ. Đến khoảng giữa tháng 5/1957, có khoảng 6.000 cửa hàng của người Hoa đã đóng cửa, 200.000 người mất công ăn việc làm. Hoa kiều còn phản đối bằng việc ngừng vận tải hàng hóa (các hãng vận tải lớn đều do họ nắm giữ). Với sự hỗ trợ của giới buôn lớn, chủ ngân hàng Hoa kiều ở Đông Nam Á và chính quyền Đài Loan, người Hoa nhất loạt đình chỉ hoạt động, tẩy chay không bốc dỡ gạo Việt Nam đã cập bến cảng nước ngoài. Do ngừng mọi vận chuyển, nông sản ứ đọng ở vùng quê, trong khi Sài Gòn – Chợ Lớn lại rất khan hiếm. Nền kinh tế miền Nam Việt Nam gần như sụp đổ.\nNhận thấy ảnh hưởng không thể thay thế của người Hoa trong nền kinh tế, Chính phủ Ngô Đình Diệm nhượng bộ. Cuối tháng 7/1957, người Hoa được quyền ghi danh cửa hàng bằng tên của bà con sinh tại Việt Nam, hoặc nhập tịch Việt Nam theo thủ tục đơn giản. Hiệu trưởng các trường học chỉ cần là người Hoa sinh tại Việt Nam. Tiếng Hoa được sử dụng lại trong trường học trừ các môn lịch sử, địa lý và văn học. Người Hoa cũng được đối xử mềm mỏng khi áp dụng luật thi hành quân dịch. Đến năm 1961, theo một báo cáo của Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa, hơn 1 triệu người Hoa sống ở miền Nam chỉ còn chừng 2.000 người là không chịu đổi quốc tịch, phần lớn là những người đã già.\nTrong 15 năm tiếp theo, người Hoa ít khi bị động tới, tự trị tự quản về nhiều mặt, các khu người Hoa giống như vùng tự trị ngay trên đất nước Việt Nam. Cùng lúc chiến tranh leo thang, người Hoa đã góp phần không nhỏ vào tình trạng tham nhũng, hối lộ, trốn thuế, trốn quân dịch, gây bất ổn định chính trị trong xã hội miền Nam thời đó.\nThời điểm năm 1965, có khoảng 200 nghìn người Hoa, phần lớn sống tập trung ở quanh Sài Gòn, chia thành 5 bang, gồm Quảng Đông, Phúc Kiến, Triều Châu, Hẹ (hay còn gọi là Khách gia, Hà Cá) và Hải Nam. Đa số các xưởng cơ khí, chế tạo máy móc, dệt may ở Chợ Lớn đều do người Quảng Đông làm chủ. Người Phúc Kiến giỏi về giao thương với hàng loạt các công ty vận tải đường thủy, đường bộ. Người Triều Châu làm ăn nhỏ lẻ bằng cách mở tiệm ăn, tiệm tạp hóa, người Hẹ chuyên về tiểu thủ công nghiệp như lập lò rèn, nhà máy nước đá, đóng giày, làm bánh. Người Hải Nam chuyên kinh doanh thủy hải sản. Trong một bản tường trình gửi Thủ tướng Nguyễn Cao Kỳ có đoạn: \"Họ (những con buôn người Hoa) chi phối giá cả từ trên xuống dưới. Vàng chẳng hạn, cứ mỗi tối họ điện thoại sang Hồng Kông để nắm giá rồi sáng hôm sau, họ thông báo giá vàng trong ngày cho tất cả những đầu mối ở Sài Gòn, Chợ Lớn và các tỉnh miền Tây. Phân bón cũng vậy, qua tin mật báo của cảm tình viên Tổng đoàn, trong 6 kho ở bến Chương Dương, bến Hàm Tử, bến Bình Đông hiện vẫn còn trên dưới 50 nghìn tấn nhưng trên thị trường, họ ra lệnh cho các đại lý chỉ bán nhỏ giọt vì họ nắm được thông tin là phân sẽ lên giá…\".\nNăm 1973, thành phố Sài Gòn có 36 rạp chiếu bóng thì 17 rạp là của người Hoa. 25 trong tổng số 30 nhà nhập khẩu phim truyện của nước ngoài là Hoa, họ đồng thời là chủ các rạp chiếu bóng. Trong tổng số 35 rạp đăng quảng cáo có tới 23 rạp chiếu phim Đài Loan. Báo Sóng thần số ra ngày 14/6/1974 đăng quảng cáo cho 39 rạp phim vùng Sài Gòn – Chợ Lớn – Gia Định thì 28 rạp chiếu phim của Đài Loan, còn lại là của các nước khác, không một rạp nào chiếu phim Việt Nam. Trong tổng số 31 ngân hàng hoạt động ở miền Nam trước năm 1975, Đài Loan có 3, 7 ngân hàng khác là của người Hoa mang quốc tịch Việt. Ước lượng hàng năm các ngân hàng của người Hoa chiếm khoảng 80% tổng số tín dụng dành cho thương mại. Người Hoa làm chủ 42 trong tổng số 60 công ty có doanh số hàng năm trên 100 triệu đồng tiền cũ.\nTuyệt đại bộ phận lượng thóc gạo lưu thông ở miền Nam về cơ bản nằm trong tay tư sản Hoa kiều hoặc người Việt gốc Hoa. Chế độ Sài Gòn có lần định trực tiếp nắm việc phân phối lương thực, ít nhất là trong khu vực bán buôn, nhưng mọi cố gắng đều không đưa lại kết quả. Sau một thời gian, đầu năm 1970, chính quyền Sài Gòn tuyên bố \"trao trả việc phân phối lúa gạo lại cho tư nhân\", nhà nước chỉ đóng vai trò \"kiểm soát về giá cả và tham gia vận chuyển\". Thực tế đây là một sự đầu hàng trước tư sản người Hoa. Tháng 3 năm 1971, trả lời phỏng vấn của một tờ báo, chủ tịch Nghiệp đoàn Mễ cốc Việt Nam (Sài Gòn) đổ lỗi sở dĩ phải làm vậy là vì \"bảy thương gia hoạt động mạnh nhất và coi như đã nắm gần trọn hệ thống thu mua phân phối lúa gạo\", hầu hết đều là người Hoa.\nVề đường biển, đội thuyền buôn theo kiểm kê năm 1972, có 35 chiếc trọng tải từ 650 – 2.500 tấn, trong đó gần một nửa thuộc sở hữu tư nhân hoặc do tư nhân thuê của nước ngoài, tư nhân ở đây cũng toàn là người Hoa. Tháng 11 năm 1970, một tờ nguyệt san xuất bản tại Sài Gòn viết: \"Cho đến nay, ngành chuyên chở hàng hóa vẫn còn nằm dưới sự độc quyền của người Việt gốc Hoa, chưa có một hãng vận tải người Việt nào xen vào cạnh tranh nổi. Các doanh nhân thủ đô gởi hàng đi và các nhà nông từ các nơi đưa nông phẩm về Sài Gòn – Chợ Lớn đều phải nhờ các hệ thống vận tải của người Việt gốc Hoa. Riêng về ngành này, người Việt gốc Hoa có khoảng 170 hãng hoặc công ty vận tải.\"\nĐộc quyền vận tải cũng là phương sách để người Hoa ngầm khống chế thị trường. Người Hoa không bao giờ chở hàng của người Việt, nếu có mặt hàng đó cùng loại với hàng hóa do người gốc Hoa sản xuất. Nói cách khác, hệ thống vận chuyển và phân phối của người Hoa chỉ phục vụ lợi ích của người Hoa. Hàng do người Việt sản xuất nếu bị hệ thống vận tải độc quyền của người Hoa từ chối lưu thông thì sẽ tồn ứ ở trong kho, doanh nghiệp chỉ chờ phá sản\nCuối năm 1973, kiểm kê cho biết, trong số gần 10.000 xí nghiệp lớn nhỏ được kiểm kê, 80% là tài sản của tư sản gốc Hoa. Hai công ty nhập khẩu và chế biến bột mì lớn nhất là Sakybomi và Viflomico cung ứng 60% nhu cầu bột mì cho toàn miền, thì tư sản người Hoa làm chủ cả hai, ngoài ra họ còn làm chủ luôn 10 công ty nhỏ khác thuộc ngành này. Họ chiếm 90% số vốn của năm công ty và 182 cơ sở sản xuất mì gói. Công ty sản xuất mạch nha duy nhất với số vốn 200 triệu đồng là của tư sản người Hoa. Với sự góp vốn của Đài Loan, họ kiểm soát hoàn toàn 4 công ty sản xuất bột ngọt (mì chính). 30 trong tổng số 40 cơ sở sản xuất rượu ở miền Nam là của người Hoa. Ngoài ra, họ giữ 60% vốn của 14 công ty khai thác hải sản. Sài Gòn có 4 công ty dệt lớn là Sicovina, Vimytex, Vinatexco và Vinatefinco, thì ba công ty sau là của tư sản người Hoa, chiếm khoảng 70% sản lượng toàn ngành.\nTrong công nghiệp hóa chất, tư sản người Hoa là chủ của 14 trong tổng số 17 công ty. 55% vốn của các cơ sở sản xuất đệm mút, giày dép, đồ dùng bằng cao su; 50% vốn của các ngành sản xuất nến, diêm, phấn viết… là của người Hoa. Họ tổ chức 4 trong tổng số 5 công ty luyện kim. 60% vốn của khoảng 100 xưởng đúc gang, làm đinh… do tư sản người Hoa kiểm soát. Về sản phẩm cơ khí, đồ dùng điện và điện tử, tư sản người Hoa nắm từ 60 – 70% tổng số vốn, rải ra trên hàng trăm cơ sở. Người Hoa chiếm khoảng 50% doanh số bán lẻ của toàn miền Nam, về bán buôn (tiếng miền Nam gọi là \"buôn sỉ\") thì tư sản người Hoa gần như nắm độc quyền. Tư sản người Hoa cũng làm chủ khoảng một nửa số khách sạn lớn và 90% số khách sạn nhỏ, nhà trọ ở vùng Sài Gòn.\nNgười Hoa có có kỹ năng kinh doanh tốt, có truyền thống kinh doanh, khéo lợi dụng quan hệ huyết thống và tinh thần nước lớn (con dân nước Trung Hoa vĩ đại), cộng vào đó là những mưu mẹo, tính thích ứng với mọi hoàn cảnh, sự nhẫn nhục và cần cù. Người Hoa cũng giỏi móc ngoặc với tư bản quốc tế và lợi dụng guồng máy chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Có đủ căn cứ để cho rằng tổng số các nghiệp vụ tín dụng công khai hoặc ngấm ngầm của giới tư sản ngân hàng Hoa Kiều ở miền Nam trước năm 1975 là không dưới 150 tỷ đồng Sài Gòn cũ, trong đó khoảng 100 tỷ được dùng vào việc thu mua lúa gạo. Số tiền đó bằng 1/3 tổng số tiền lưu hành ở miền Nam thời đó, nên rất dễ hiểu tại sao một nhóm nhỏ người Hoa giàu có lại có thể thao túng nền kinh tế.\nTrong khi ở miền Bắc, Hoa kiều không đóng vai trò đặc biệt trong nền kinh tế nhà nước quản lý tập trung, thì ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường.\nSau năm 1976.\nSau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào năm 1975, khoảng 4% dân số Việt Nam là người Việt gốc Hoa, trong đó có hơn 1,5 triệu Hoa kiều sinh sống chủ yếu ở khu vực Chợ Lớn, Sài Gòn, và chỉ có khoảng 300.000 người Việt gốc Hoa sống ở miền Bắc.\nVấn đề về người Hoa càng thêm phần trầm trọng khi họ treo Quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn. Tháng 1 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam lệnh cho người Hoa ở miền Nam đăng ký quốc tịch. Đa số đăng ký là quốc tịch Trung Quốc mặc dù họ đã chuyển sang quốc tịch Việt Nam từ những năm 1956-1957. Tháng 2 năm đó, người Hoa được lệnh đăng ký lại theo quốc tịch đã nhận thời Việt Nam Cộng hòa. Những người vẫn tiếp tục đăng ký là quốc tịch Trung Quốc sau đó bị mất việc và giảm tiêu chuẩn lương thực. Cuối năm đó, tất cả các tờ báo tiếng Trung bị đóng cửa, tiếp theo là các trường học của người Hoa. Chính sách của Việt Nam năm 1976 (là năm Việt Nam tái thống nhất) (đánh tư sản những người Hoa và tịch thu tài sản của họ) đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi nhanh chóng của mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, với nỗi e ngại rằng Trung Quốc có thể sử dụng Hoa kiều để ép Việt Nam theo các chính sách của mình. Vấn đề Hoa kiều được chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản.\nNăm 1977, lạm phát 80% cùng với vấn đề tiếp diễn của sự thiếu thốn và nạn đầu cơ lương thực, Chính phủ Việt Nam sợ rằng Hoa kiều có thể bị lôi kéo theo các mục tiêu của Trung Quốc. Kèm theo đó là sự ngừng trệ nghiêm trọng của các vùng kinh tế phía Tây Nam do các xung đột tại biên giới với Campuchia. Người Hoa ở Chợ Lớn tổ chức biểu tình đòi giữ quốc tịch Trung Quốc. Những điều này làm cho chính phủ Việt Nam lo lắng về nguy cơ đất nước bị rối loạn cả từ bên trong lẫn từ bên ngoài và coi Hoa kiều là một lực lượng ở Việt Nam và sẵn sàng tiếp tay với Trung Quốc để phá hoại. Mặc dù không có bằng chứng cụ thể về các hoạt động phá hoại, nhưng sự giàu có của cộng đồng Hoa kiều bị xem là mối đe dọa đối với chính quyền Việt Nam. Trong các tháng 3, 4 năm 1978, khoảng 30.000 doanh nghiệp lớn nhỏ của Hoa kiều bị quốc hữu hóa. Vị thế kinh tế của đa số tư sản Hoa kiều bị hủy bỏ, nhà nước thắt chặt kiểm soát nền kinh tế. Chính quyền cũng tiếp quản cơ sở tổng hội quán người Hoa, bệnh viện Sùng Chính (đầu năm 1976) và 5 bệnh viện khác của 5 bang vào tháng Giêng 1978, đóng cửa 11 tờ báo Hoa ngữ. Khối lãnh đạo người Hoa ở Việt Nam xem như không còn hiện hữu, và việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp bị xóa bỏ.\nQuan hệ ngày càng xấu đi giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng làm tăng thêm số người Hoa rời Việt Nam. Phía Trung Quốc tố cáo Việt Nam đã xua đuổi người Hoa sống ở phía Bắc về Trung Quốc. Đầu tiên là những vụ di cư nhỏ lẻ, sau đó là trào lưu ồ ạt người di tản đi đến những bờ biển của các nước láng giềng. Kết quả là số người di tản từ Việt Nam tăng gấp đôi trong 6 tháng đầu năm 1979, trong những người di tản trong những năm 1978-1979, Hoa kiều chiếm đa số. Cộng thêm vào đó là khoảng 250.000 Hoa kiều sang Trung Quốc qua biên giới phía Bắc từ tháng 4 năm 1978 đến mùa hè năm 1979. Trung Quốc đã gọi đây là vấn đề \"nạn kiều\". Đến năm 1982, do khó khăn kinh tế và quan hệ chính trị thù địch giữa Việt Nam với Trung Quốc, người Hoa ở miền Nam đã vượt biên qua đường biển, đường bộ để trốn qua nước thứ ba. Khoảng 2/3 trong số nửa triệu người vượt biên từ Việt Nam là người gốc Hoa.\nĐến năm 1989, số người gốc Hoa tại Việt Nam đã giảm từ 1,8 triệu năm 1975 xuống còn 900.000. Người gốc Hoa không còn là thế lực kiểm soát nền kinh tế Việt Nam như trước nữa, và các phong tục, ngôn ngữ gốc Hoa của họ về mặt hình thức không còn phổ biến như trước. Đây là một ngoại lệ hiếm hoi so với những nước Đông Nam Á khác: người gốc Hoa về mặt cư trú, ngôn ngữ, giáo dục... đã gần như bị đồng hóa bởi người Việt Nam. Và cũng khó phân biệt giữa một người gốc Hoa và một người Việt về mặt hình thức dù họ vẫn giữ một số phong tục tập quán của tổ tiên mình. Mặc dù người Việt có thể phản đối hành vi của Trung Quốc ở Biển Đông hoặc các chính sách của chính quyền Trung Quốc, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù những gia đình người gốc Hoa ở địa phương họ sinh sống.\nTừ năm 1986 đến nay.\nSau khi Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh thực thi chính sách Đổi Mới vào năm 1986, sự kỳ thị chống người Hoa đã giảm rõ rệt, và kéo theo đó là chính sách khoan hòa với người Hoa để giảm xung đột với Trung Quốc. Chính phủ Việt Nam chủ động ngỏ lời muốn hòa giải chính trị và bình thường hóa quan hệ với chính phủ Trung Quốc . Đi kèm theo đó, chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chính sách hỗ trợ và đảm bảo văn hóa của người Hoa tại Việt Nam được giữ gìn. Cùng với đó, người Hoa cũng dần lấy lại ảnh hưởng kinh tế ở Việt Nam. Về mặt tư tưởng – nhận thức, cho đến cuối thế kỷ 20 – đầu thế kỷ 21, người gốc Hoa đã hòa nhập sâu sắc vào xã hội Việt Nam đến mức họ tự xem mình là người Việt Nam và mang gốc gác văn hóa thuộc dân tộc Hoa (được công nhận trong 54 dân tộc Việt Nam), chứ không phải là Hoa kiều sinh sống trên nước Việt Nam. Và về mặt tâm lý – tình cảm, người Việt gốc Hoa có khuynh hướng ủng hộ lập trường và quan điểm của phía chính phủ Việt Nam nơi họ đang sống hơn trong việc xử lý các sự vụ bất đồng - tranh chấp (nếu có phát sinh, với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), hoặc chí ít là có thái độ ôn hòa và trung hòa nên không thể hiện ý kiến phản đối hay ủng hộ chính phủ Việt Nam trong các sự vụ xung đột và khác biệt với Trung Quốc.\nSự kiện biến động ở Hồng Kông 1997.\nTính cho đến thời điểm trước, trong, và sau năm 1997, có nhiều nguồn dư luận trong cộng đồng dân cư Hồng Kông rằng họ sẽ có thể phải rời bỏ Hồng Kông để sang một nước thứ ba lánh nạn, khi Hồng Kông được trao trả từ tay nước Anh về cho Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Viễn cảnh một nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hà khắc sẽ tiếp quản và cai trị mọi mặt từ chính trị đến đời sống của người dân Hồng Kông vốn đã quen với các giá trị kiểu phương Tây, đã khiến một số lượng dân cư tại đây cảm thấy bất an và tìm đường sang một nước thứ ba để tránh xáo trộn và không bị đàn áp. Một trong những nơi có thể tiếp nhận được làn sóng người di cư Hồng Kông là Việt Nam. Thực tế, có một số nhà đầu tư đã nhạy bén và đón đầu xu thế này, một số công trình dân cư được đầu tư tài chính xây dựng nên tại Thành phố Hồ Chí Minh (chủ yếu là Chợ Lớn), tiêu biểu là Thuận Kiều Plaza, công trình này được thiết kế theo đúng kiểu mẫu của dạng cao ốc căn hộ tại Hồng Kông (trần nhà thấp và không gian mỗi căn hộ là rất nhỏ) để đón làn sóng di dân Hồng Kông sang.\nTuy nhiên, làn sóng ồ ạt người di cư Hồng Kông sang Việt Nam đã không xảy ra, chỉ có một số lượng ít di dân Hồng Kông chọn sang Mỹ hoặc Canada - nơi có cộng đồng Hoa kiều đông đảo hơn, một số chọn lựa ở lại Hồng Kông đánh cược với thời cuộc thay vì phải di cư sang một nước thứ ba và khởi nghiệp từ đầu. Vì thế đã không có thêm một làn sóng di dân mới nào nữa từ Trung Hoa sang Việt Nam thời điểm cuối thế kỷ XX. Nay quan hệ Việt-Trung rất tốt đẹp; rất nhiều khách du lịch, doanh nhân, và di dân CHNDTH đến Việt Nam.\nDân số, nơi cư trú và ngôn ngữ.\nTheo thống kê của cuộc điều tra dân số năm 1999, tổng số người Hoa ở Việt Nam là 862.371 (1,13% dân số ở Việt Nam), được xếp hạng thứ 6, trong đó có khoảng 50% người Hoa sinh sống tại vùng Chợ Lớn của Thành phố Hồ Chí Minh. Họ tập trung đông nhất ở các quận như Quận 5, Quận 11 (khoảng 45% dân số mỗi quận), Quận 6, Quận 8, Quận 10 với năm nhóm ngôn ngữ chính: tiếng Quảng Đông, tiếng Triều Châu, tiếng Phúc Kiến, tiếng Hải Nam và tiếng Khách Gia (Hakka, đôi khi còn gọi là tiếng Hẹ). Một thực tế là đối với cộng đồng người Hoa ở Thành phố Hồ Chí Minh đa phần giao tiếp bằng tiếng Quảng Đông là chủ đạo (so với các nhóm ngôn ngữ còn lại), và tiếng Quảng Đông là ngôn ngữ gần như chiếm chủ đạo trong các giao dịch làm ăn nội bộ của cộng đồng người Hoa Chợ Lớn, các nhóm cộng đồng phương ngữ khác (Triều Châu, Phúc Kiến, Khách Gia, Hải Nam) cũng tùy biến sử dụng tiếng Quảng Đông trong giao dịch làm ăn ở vùng Chợ Lớn do tính phổ dụng của nó. Nhiều ngôi đền và nhà cửa của người Hoa ở khu Chợ Lớn đã được khôi phục và xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia và quốc tế, giờ đây mỗi năm đón hàng triệu lượt khách du lịch. Kể từ năm 2007, chính quyền Tp. Hồ Chí Minh đã cho tổ chức Lễ hội Văn hóa Người Hoa định kỳ hàng năm.\nSố người Hoa còn lại sinh sống ở các tỉnh toàn quốc, mà hầu hết là ở nhiều tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh Đông Nam Bộ như Tây Ninh, Bình Dương, Bình Thuận, Đồng Nai (Hoa Nùng) và Khánh Hòa. Cộng đồng người Hoa ở Cà Mau, Sóc Trăng, Trà Vinh và Bạc Liêu phần lớn là người Triều Châu, đến từ Triều Sán. \nCộng đồng người Hoa tại miền Bắc Việt Nam hiện tập trung ở các tỉnh Bắc Giang, Quảng Ninh nói tiếng Pạc Và (Bạch Hỏa, một phương ngữ tiếng Quảng Đông) và tiếng Khách Gia. Người Ngái là cư dân bản địa sống rải rác ở vùng ven biển và trên các đảo phía bắc Bắc bộ, nói tiếng Ngái, một phương ngôn trong tiếng Khách Gia. \nTrong những khía cạnh quan trọng, người Việt gốc Hoa đã trở nên không thể phân biệt được khi sinh sống trong cộng đồng, và họ đã thành công đến mức, mặc dù các đám đông có thể phản đối những hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng không ai nghĩ đến việc trả thù nhằm vào các gia đình người gốc Hoa sống cạnh nhà mình.\nTheo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Hoa ở Việt Nam có dân số 823.071 người, có mặt tại tất cả 63 tỉnh, thành phố. Người Hoa cư trú tập trung tại: Thành phố Hồ Chí Minh (414.045 người, chiếm 50,3% tổng số người Hoa tại Việt Nam), Đồng Nai (95.162 người), Sóc Trăng (64.910 người), Kiên Giang (29.850 người), Bạc Liêu (20.082 người), Bình Dương (18.783 người), Bắc Giang (18.539 người).\nNgôn ngữ và văn hóa.\nNgôn ngữ.\nĐa phần người gốc Hoa thế hệ sau này ở Việt Nam đã có thể giao tiếp và sử dụng tiếng Việt một cách khá hoàn chỉnh và trôi chảy nhờ những nỗ lực của chính quyền trong việc quảng bá và cập nhật tiếng Việt đối với cộng đồng người gốc Hoa. Người Việt gốc Hoa hiện nay vừa giao tiếp thành thạo tiếng Việt với người bản xứ, trong khi vẫn sử dụng tiếng Hoa trong giao tiếp với cộng đồng người Hoa, là điều rất khó tìm thấy ở các thế hệ người Hoa trước đây. Việc sử dụng tiếng Việt không làm mất hẳn tiếng Hoa trong các thế hệ trẻ người Hoa, nhiều người trong số họ vẫn sử dụng và thực hành tiếng Hoa tại gia đình hoặc trong các giao tiếp trong cộng đồng người Hoa.\nVăn hóa.\nVề văn hóa, người Hoa và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng trong tập quán, tín ngưỡng, các quy chuẩn khuôn khổ đạo đức, và trong nhân sinh quan xã hội nói chung. Do đó, người Hoa hòa nhập rất dễ dàng vào xã hội người Việt. Điều này là rất khác nếu so với các cộng đồng người Hoa ở những đất nước như Malaysia, Indonesia hoặc Thái Lan, vốn có một nền văn hóa và tư tưởng khác hoàn toàn với văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên chính vì có rất nhiều điểm tương đồng giữa văn hóa Việt Nam và Trung Hoa mà có sự nhầm lẫn rằng người Hoa tại Việt Nam đang dần bị đồng hóa với người Việt và đánh mất bản sắc. Thực tế, thì ngoài những điểm rất tương đồng trong văn hóa và tư tưởng, người Hoa vẫn có những bản sắc riêng mà có thể khác biệt đôi chút với người Việt, như các ngày lễ hội riêng trong tập quán tín ngưỡng của người Hoa (lễ Nguyên Tiêu, lễ Đông Chí, lễ vía Quan Công, lễ vía bà Thiên Hậu...). Và một số quy chuẩn ứng xử của người Hoa trong một số tình huống cũng có thể sẽ khác đôi chút với người Việt .\nẨm thực.\nVề ẩm thực, có thể thấy người Hoa đã có sự giao lưu rất lớn với nền ẩm thực bản địa Việt Nam. Một số ý kiến cho rằng món \"ngưu nhục phấn\"() của người Hoa sinh sống ở Hà Nội đầu thế kỷ XX, vốn làm từ sợi bánh gạo nấu với thịt bò hầm, là khởi nguồn để người Việt biến tấu thành món \"phở bò\" quốc hồn quốc túy của Việt Nam , tuy nhiên qua khảo sát từ các nhà chuyên môn thì khẩu vị và cách thức chế biến của hai loại món ăn này cũng có khác nhau về cơ bản. Bên cạnh đó, người Hoa ở Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh) cũng đã mang theo nền ẩm thực Hoa đến quảng bá ở mảnh đất này từ rất lâu và mặc nhiên được xem là nét đặc sắc của văn hóa ẩm thực địa phương (Sài Gòn) . Các món hấp, chiên, xào chảo, chưng, hầm, tiềm... theo phong cách Hoa đã được người gốc Hoa giới thiệu và đã hòa nhập rất sâu vào nền ẩm thực tại địa phương (Sài Gòn) . Ở chiều ngược lại, những sản vật đặc thù tại địa phương đã được thêm vào các thành phần nguyên liệu chế biến món ăn, thay thế cho các thành phần nguyên liệu vốn cần để chế biến món ăn đó mà ở địa phương lại không có. Song song đó, những món ẩm thực của người Việt gốc Hoa cũng được tùy biến điều chỉnh về hương vị cho phù hợp hơn với khẩu vị của người Việt bản địa, nhưng vẫn giữ căn bản đặc trưng của món ăn đó. Do đó, đơn cử một món ăn \"cơm xào thập cẩm\" của người Việt gốc Hoa tại Việt Nam sẽ có thể khác biệt với món \"cơm xào thập cẩm\" nguyên bản Trung Hoa về thành phần và hương vị. Các phương pháp chế biến món ăn của người Việt và người Hoa cũng lại rất giống nhau, đơn cử như cách chế biến nước dùng (nước lèo) từ xương heo hầm (hoặc xương gà); các loại cơm hoặc món sợi (mì, hủ tiếu, miến, bún) cũng khá tương đồng trong chế biến và các nguyên liệu chính (thịt thái nhỏ, thịt băm, và đồ lòng động vật).\nTruyền thông.\nHiện tại ở Thành phố Hồ Chí Minh có một ấn bản Hoa văn của tòa báo Sài Gòn Giải Phóng là tờ \"Sài Gòn Giải Phóng nhật báo\" () xuất bản hàng ngày nhằm phục vụ cho cộng đồng người Việt gốc Hoa. Về phát thanh, Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (VOH) có mục tin tức bằng tiếng Quảng Đông và tiếng Quan thoại phát thanh hàng ngày trong tuần phục vụ cộng đồng người Việt gốc Hoa, và một chương trình ca khúc tiếng Hoa phát thanh định kỳ.\nNhững người Việt gốc Hoa nổi tiếng (đương đại).\nNgười Việt gốc Hoa ở Việt Nam do nguyên nhân khách quan nên rất ít hoặc không tham gia chính trị ở nước sở tại; ngược lại người Việt gốc Hoa lại đóng góp rất đáng kể trong các lĩnh vực kinh doanh, văn hóa, giải trí, thể thao... Một số lượng đáng kể những doanh nghiệp do người Việt gốc Hoa làm chủ đã đóng góp một phần rất lớn cho nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới, trong đó chủ đạo là cộng đồng doanh nghiệp của người Việt gốc Hoa trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn) nắm giữ vai trò kinh doanh quan trọng trên thị trường. Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh (Sài Gòn), trong số lượng hàng trăm ngàn doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, thì số doanh nghiệp gốc Hoa đã chiếm đến 30% tổng số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh. Có thể đơn cử một số người Việt gốc Hoa tiêu biểu:" ]
ting - ngn - nhm - ngi - digan - nhnh - lo - ni - ng - vit
0.773891
false
"Ohio (viết tắt là OH, viết tắt cũ là O.) là một tiểu bang khu vực Trung Tây (cũ(...TRUNCATED)
19
19_nha_pha_ty_canada
[ "nha", "pha", "ty", "canada", "bin", "lnh", "eo", "bang", "bc", "thuc" ]
["Lịch sử Canada bắt đầu khi người Da đỏ cổ đại đến vào hàng nghìn năm tr(...TRUNCATED)
nha - pha - ty - canada - bin - lnh - eo - bang - bc - thuc
1
false
"California (phát âm như \"Ca-li-phót-ni-a\" hay \"Ca-li-phoóc-ni-a\", nếu nhanh: \"Ca-li-pho(...TRUNCATED)
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
["Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc t(...TRUNCATED)
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
"Thụy Điển (, , tiếng Anh: Sweden), tên chính thức là Vương quốc Thụy Điển (, t(...TRUNCATED)
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
["Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc t(...TRUNCATED)
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
"Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt TP.HCM) hay Sài Gòn, là thành phố lớn nhất Vi(...TRUNCATED)
0
0_huyn_ngikm_yn_long
[ "huyn", "ngikm", "yn", "long", "tch", "thuc", "an", "ninh", "vnh", "giang" ]
["Mộc Hóa là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.\nMộc Hóa từng là tỉnh l(...TRUNCATED)
huyn - ngikm - yn - long - tch - thuc - an - ninh - vnh - giang
0.750096
false
"Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam.\nNăm 2(...TRUNCATED)
0
0_huyn_ngikm_yn_long
[ "huyn", "ngikm", "yn", "long", "tch", "thuc", "an", "ninh", "vnh", "giang" ]
["Mộc Hóa là một huyện thuộc tỉnh Long An, Việt Nam.\nMộc Hóa từng là tỉnh l(...TRUNCATED)
huyn - ngikm - yn - long - tch - thuc - an - ninh - vnh - giang
1
false
"World Wide Web Consortium (W3C) là tổ chức tiêu chuẩn quốc tế chính cho World Wide Web(...TRUNCATED)
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
["Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc t(...TRUNCATED)
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
"Bộ Kế hoạch và Đầu tư là một cơ quan của Chính phủ nước Cộng hòa xã hộ(...TRUNCATED)
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
["Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc t(...TRUNCATED)
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
"Lào (, , \"Lao\"), tên chính thức là Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào (, \"sǎːtʰáː(...TRUNCATED)
-1
-1_ca_nh_cc_trong
[ "ca", "nh", "cc", "trong", "mt", "ng", "nhng", "cng", "th", "vi" ]
["Trương Anh Ngọc (sinh ngày 19 tháng 1 năm 1976) là một phóng viên thời sự quốc t(...TRUNCATED)
ca - nh - cc - trong - mt - ng - nhng - cng - th - vi
0
false
End of preview. Expand in Data Studio
README.md exists but content is empty.
Downloads last month
101