text
stringlengths
212
226k
topic_id
int64
0
47
topic_name
stringclasses
83 values
topic_probability
float64
0.4
1
Domain
stringclasses
11 values
url
stringlengths
39
236
perplexity
float64
14.8
7.19k
Thành phố Hồ Chí Minh (viết tắt TP.HCM) hay Sài Gòn, là thành phố lớn nhất Việt Nam và là một siêu đô thị trong tương lai gần. Đây còn là trung tâm kinh tế, giải trí, một trong hai trung tâm văn hóa và giáo dục quan trọng tại Việt Nam. Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc trung ương thuộc loại đô thị đặc biệt của Việt Nam. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, thành phố này hiện có 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện, tổng diện tích 2.095 km2 (809 dặm vuông Anh). Theo kết quả điều tra dân số sơ bộ vào năm 2021 thì dân số thành phố là 9.166.800 người (chiếm 9,3% dân số Việt Nam), mật độ dân số trung bình 4.375 người/km² (cao nhất cả nước). Tuy nhiên, nếu tính những người cư trú không đăng ký hộ khẩu thì dân số thực tế của thành phố này năm 2018 là gần 14 triệu người. Thành phố Hồ Chí Minh năm 2011 chiếm 21,3% tổng sản phẩm (GDP) và 29,38% tổng thu ngân sách của cả Việt Nam. Thành phố có chỉ số phát triển con người ở mức cao, đứng thứ hai trong số các đơn vị hành chính của Việt Nam. Năm 2020, thành phố có GRDP theo giá hiện hành ước là 1.372 ngàn tỷ đồng, theo giá so sánh 2010 đạt 991.424 tỷ đồng (số liệu địa phương cung cấp, Tổng cục Thống kê sẽ công bố GRDP đánh giá lại), tăng 1,39% so với năm 2019, đóng góp trên 22% GDP và 27% tổng thu ngân sách cả nước. GRDP bình quân đầu người ước năm 2020 là 6.328 USD/người, xếp thứ 4 trong số các tỉnh thành cả nước, nhưng so với năm 2019 là giảm. Thu nhập bình quân đầu người năm 2019 sơ bộ là 6,758 triệu VND/tháng, cao thứ hai cả nước sau Bình Dương. Nhờ điều kiện tự nhiên, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông của Việt Nam và Đông Nam Á, bao gồm cả đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Vào năm 2019, thành phố đón khoảng 8,6 triệu khách du lịch quốc tế. Các lĩnh vực giáo dục, truyền thông, thể thao, giải trí, Thành phố Hồ Chí Minh đều giữ vị thế hàng đầu. Tuy nhiên, khoảng một thập kỷ gần đây, dưới nhiều tác động và áp lực khác nhau, các chỉ số trên của thành phố có sự giảm sút. Thành phố cần được tháo gỡ nhiều điểm nghẽn để đóng góp nhiều hơn cho đất nước. Tên gọi. Vùng đất này ban đầu được gọi là Prey Nokor theo tiếng Khmer của người dân bản địa, có nghĩa là "thành trong rừng". Vì sự sụp đổ của đế chế Khmer, vùng Nam Bộ trở thành đất vô chủ, về sau đã sáp nhập vào Đại Việt nhờ công cuộc khai phá miền Nam của chúa Nguyễn. Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập huyện Tân Bình thuộc phủ Gia Định, đánh dấu sự ra đời thành phố. Phủ Gia Định khi đó bao gồm Sài Gòn và các tỉnh xung quanh hiện nay (Tây Ninh, Long An...), còn huyện Tân Bình là chỉ vùng đất Sài Gòn. Địa danh Sài Gòn có trên 300 năm và từng được dùng để chỉ một khu vực với diện tích khoảng 1 km² ("Chợ Lớn") có đông người Hoa sinh sống trong thế kỷ 18. Địa bàn đó gần tương ứng với khu Chợ Lớn ngày nay. Năm 1747, theo danh mục các họ đạo trong Launay, "Histoire de la Mission Cochinchine", có ghi chép "Rai Gon Thong" (Sài Gòn Thượng) và "Rai Gon Ha" (Sài Gòn Hạ). Theo "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn viết năm 1776, năm 1674, Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ "Lũy Sài Gòn" (theo chữ Hán viết là 柴棍 - "Sài Côn"). Đây là lần đầu tiên chữ "Sài Gòn" xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán 棍 - "Côn" được dùng thế cho "Gòn". Nếu đọc theo chữ Nôm là "Gòn", còn đọc theo chữ Hán thì là "Côn". Trong tiếng Trung thì Sài Gòn còn được gọi là "Tây Cống" (chữ Hán: 西貢, bính âm: "Xī Gòng", Việt bính: "Sai1Gung3"). Sau đó, danh xưng Sài Gòn được dùng để chỉ các khu vực nằm trong "lũy Lão Cầm" (năm 1700), "lũy Hoa Phong" (năm 1731) và "lũy Bán Bích" (năm 1772), chỉ với diện tích 5 km². Ngoài ra theo một số nhà nghiên cứu thì Thụ Nại cũng từng là tên gọi của vùng đất Sài Gòn xưa trước khi Nguyễn Hữu Cảnh đến khai phá. Khi Pháp vào Đông Dương, để phục vụ công cuộc khai thác thuộc địa, thành phố Sài Gòn được thành lập và nhanh chóng phát triển, trở thành một trong hai đô thị quan trọng nhất Việt Nam. Địa giới Sài Gòn lúc này bao gồm vùng đất Sài Gòn và Bến Nghé cũ. Sài Gòn cũng là thủ đô của Liên bang Đông Dương giai đoạn 1887–1901 (về sau, Pháp chuyển thủ đô Liên bang Đông Dương ra Hà Nội). Năm 1931 Khu Sài Gòn - Chợ Lớn được thành lập, bao gồm Thành phố Sài Gòn và Thành phố Chợ Lớn. Năm 1941 Chợ Lớn được sáp nhập vào Sài Gòn. Năm 1949, Sài Gòn trở thành thủ đô của Quốc gia Việt Nam, một chế độ chống cộng liên minh với Pháp trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương, và sau này là thủ đô của Việt Nam Cộng hòa (chế độ kế tục Quốc gia Việt Nam). Kể từ đó, Sài Gòn được xem là thủ đô và trở thành một trong những đô thị quan trọng nhất của miền Nam Việt Nam sau khi bị chia cắt vào năm 1954. Sau khi Việt Nam Cộng hòa sụp đổ trong sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản chính quyền và quyết định hợp nhất Đô thành Sài Gòn và tỉnh Gia Định thành Thành phố Sài Gòn – Gia Định. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Việt Nam tái thống nhất và Quốc hội nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên "Sài Gòn – Gia Định" thành "Hồ Chí Minh", theo tên Chủ tịch nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Hiện nay trong văn bản hành chính thì thành phố luôn được gọi đầy đủ là "Thành phố Hồ Chí Minh" (viết tắt là "TP. HCM") thay vì chỉ gọi "Hồ Chí Minh", để tránh nhầm lẫn với chủ tịch Hồ Chí Minh. Tương tự với tiếng Anh là "Ho Chi Minh City" (viết tắt là "HCMC"). Tên "Sài Gòn" vẫn được sử dụng thường xuyên vì sự lâu đời và thân thuộc của nó. Lịch sử. Thời kỳ hoang sơ. Con người xuất hiện ở Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy, ở đây đã tồn tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ từ nhiều thiên niên kỷ về trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nghiệp. Văn hóa Sa Huỳnh từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu Công Nguyên cho tới thế kỷ 7, khu vực miền Nam Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với những vương quốc này. Sau khi Đế quốc Khmer hình thành, lãnh thổ miền Nam Đông Dương thuộc quyền kiểm soát của đế chế này. Tuy nhiên, dân cư của Đế quốc Khmer sống ở vùng này rất thưa thớt, không có khu dân cư lớn nào hình thành tại đây. Cho đến trước thế kỷ 16, vị trí tiếp giáp với các quốc gia cổ cũng khiến Sài Gòn trở thành nơi gặp gỡ của nhiều cộng đồng dân cư như Khmer, Châu Ro, S’Tiêng. Sài Gòn – Gia Định vẫn là địa bàn của một vài nhóm dân cư cổ cho tới khi người Việt xuất hiện. Khai phá. Những người Việt đầu tiên tự động vượt biển tới khai phá vùng đất này hoàn toàn không có sự tổ chức của nhà Nguyễn. Nhờ cuộc hôn nhân giữa Công nữ Ngọc Vạn với vua Chân Lạp Chey Chetta II từ năm 1620, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chân Lạp trở nên êm đẹp, dân cư hai nước có thể tự do qua lại sinh sống. Khu vực Sài Gòn, Đồng Nai bắt đầu xuất hiện những người Việt định cư. Trước đó, người Khmer, người Chăm, người Man cũng sinh sống rải rác ở đây từ xa xưa. Giai đoạn từ 1623 tới 1698 được xem như thời kỳ hình thành của Sài Gòn sau này. Năm 1623, chúa Nguyễn sai một phái bộ tới yêu cầu con rể là vua Chey Chettha II cho lập đồn thu thuế tại Prey Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobei (Bến Nghé). Tuy đây là vùng rừng rậm hoang vắng, nhưng lại nằm trên đường giao thông của các thương nhân Việt Nam, Trung Quốc... qua Campuchia và Xiêm. Hai sự kiện quan trọng tiếp theo của thời kỳ này là lập doanh trại và dinh thự của Phó vương Nặc Nộn và lập đồn dinh ở Tân Mỹ (gần ngã tư Cống Quỳnh – Nguyễn Trãi ngày nay). Có thể nói Sài Gòn hình thành từ 3 cơ quan chính quyền này. Năm 1679, chúa Nguyễn Phúc Tần cho một số nhóm người Hoa tị nạn triều Mãn Thanh tới Mỹ Tho, Biên Hòa và Sài Gòn để lánh nạn. Đến năm 1698, chúa Nguyễn sai tướng Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lý miền Nam. Trên cơ sở những lưu dân Việt đã tự phát tới khu vực này trước đó, Nguyễn Hữu Cảnh cho lập phủ Gia Định và hai huyện Phước Long, Tân Bình. Vùng Đông Nam Bộ được sáp nhập vào cương vực Việt Nam. Thời điểm ban đầu này, khu vực Biên Hòa, Gia Định có khoảng 10.000 hộ với 200.000 khẩu. Công cuộc khai hoang được tiến hành theo những phương thức mới, mang lại hiệu quả hơn. Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18, Mỹ Tho và Cù lao Phố là hai trung tâm thương mại lớn nhất Nam Bộ. Tuy nhiên, cuối thế kỷ 18, sau các biến loạn và chiến tranh, thương nhân dần chuyển về vùng Chợ Lớn. Khu vực Sài Gòn dần trở thành trung tâm kinh tế lớn nhất Nam Bộ. Năm 1788, chúa Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người Pháp là kỹ sư Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel (1768–1799), Chúa Nguyễn Ánh cho xây dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi đó được đổi thành "Gia Định kinh". Năm 1802, sau khi chiến thắng Tây Sơn, vua Gia Long lên ngôi và đẩy mạnh công cuộc khai khẩn miền Nam. Miền Nam được chia thành 5 trấn, gọi là "Gia Định ngũ trấn". Các công trình kênh đào Rạch Giá – Hà Tiên, Vĩnh Tế... được thực hiện. Qua 300 năm, các trung tâm nông nghiệp phát triển bao quanh những đô thị sầm uất được hình thành. Sáu năm sau, 1808, "Gia Định trấn" lại được đổi thành "Gia Định thành". Trong khoảng thời gian 1833 đến 1835, Lê Văn Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, Thành Bát Quái trở thành địa điểm căn cứ. Sau khi trấn áp cuộc nổi dậy, năm 1835, vua Minh Mạng cho phá Thành Bát Quái, xây dựng Phụng Thành thay thế. Thời kỳ Pháp thuộc. Ngay sau khi chiếm được thành Gia Định vào năm 1859, thực dân Pháp gấp rút quy hoạch lại Sài Gòn thành một đô thị lớn nhằm phục vụ mục đích khai thác thuộc địa và làm nơi cư trú cho quan chức Pháp. Đồ án thiết kế được Phó Đô đốc Pháp là Page (về sau là Charner) cử trung tá công binh Pháp là Paul Florent Lucien Coffyn (1810 – 1871), nguyên Lãnh sự Pháp ở Hoa Kỳ, thiết kế. Theo bản đồ của Coffyn được công bố vào ngày 13/5/1862, quy hoạch ban đầu của Sài Gòn bao gồm cả tỉnh Chợ Lớn với khoảng 500.000 dân (Saigon ville de 500.000 âmes), tức khoảng 20.000 dân/km². Quy hoạch này tương ứng với quy hoạch khu vực phòng thủ của tướng Nguyễn Cửu Đàm năm 1772, khi dân số Sài Gòn chỉ khoảng 20.000–30.000 người. Nhưng đến 1864, nhận thấy diện tích dự kiến của thành phố quá rộng, khó bảo đảm về an ninh, Soái phủ Pháp ở Nam Kỳ "(Gouverneur Amiral de la Cochinchine)" lúc đó là Chuẩn đô đốc Pierre Rose quyết định tách Chợ Lớn khỏi Sài Gòn. Ngày 3 tháng 10 năm 1865, Pierre Rose ra lệnh quy hoạch lại Sài Gòn chỉ còn là khu vực nằm giữa rạch Thị Nghè, sông Sài Gòn, rạch Bến Nghé và đường mới khu cầu Ông Lãnh hiện nay. Toàn bộ quy hoạch chỉ còn rộng khoảng 3 km².Rất nhanh chóng, các công trình quan trọng của thành phố, như Dinh Thống đốc Nam Kỳ, Dinh Toàn quyền, được Pháp thiết kế và huy động nhân công xây dựng. Sau 2 năm người Pháp xây dựng và cải tạo, khu quy hoạch rộng khoảng 3 km² nói trên đã hoàn toàn thay đổi. Thành phố Sài Gòn khi đó được thiết kế theo mô hình châu Âu, nơi đặt văn phòng nhiều cơ quan công vụ như: dinh thống đốc, nha giám đốc nội vụ, tòa án, tòa thượng thẩm, tòa sơ thẩm, tòa án thương mại, tòa giám mục... Nam Kỳ Lục tỉnh là thuộc địa của Pháp và Sài Gòn nằm trong tỉnh Gia Định. Vào năm 1861, địa phận Sài Gòn được giới hạn bởi một bên là rạch Thị Nghè và rạch Bến Nghé với một bên là sông Sài Gòn cùng con đường nối liền chùa Cây Mai với những phòng tuyến cũ của đồn Kỳ Hòa. Đến năm 1867, việc quản lý Sài Gòn được giao cho Ủy ban thành phố gồm một ủy viên và 12 hội viên; đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp tên là Charles Marie Louis Turc (1867–1871). Cho tới nửa đầu thập niên 1870, thành phố Sài Gòn vẫn nằm trong địa hạt hành chính tỉnh Gia Định. Ngày 15 tháng 3 năm 1874, Tổng thống Pháp Jules Grévy ký sắc lệnh thành lập thành phố Sài Gòn. Đứng đầu là viên Thị trưởng người Pháp, đầu tiên là G. Vinson (1874 –1876). Đến năm 1879 thì Pháp cho lập thêm Hội đồng thành phố Sài Gòn (hay đúng ra là Ủy hội thành phố – "Commission municipale"). Sau Cách mạng Tháng Tám, ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tái chiếm thành phố. Tháng 8 năm 1946, phòng Nam Bộ Trung ương đã tổ chức họp, bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đã đề nghị đổi tên Sài Gòn thành Thành phố Hồ Chí Minh, và 57 người phòng Nam Bộ Trung ương (đứng đầu danh sách là Trần Hữu Nghiệp, Trần Công Tường, Nguyễn Tấn Gi Trọng...) đã ra quyết nghị, gửi lên Quốc hội và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề xuất này, tuy nhiên, do nhiều việc cấp bách phải giải quyết nên chưa được quyết định chính thức. Về danh hiệu "Hòn ngọc viễn Đông" thời Pháp thuộc. Trong suốt thời kỳ Pháp thuộc, Sài Gòn trở thành trung tâm quan trọng, cả về hành chính lẫn kinh tế, văn hóa, giáo dục của Liên bang Đông Dương, được thực dân Pháp mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" ("la perle de l'Extrême-Orient") hoặc một "Paris nhỏ ở Viễn Đông" ("le petit Paris de l'Extrême-Orient") trong số các thuộc địa của Pháp. Trước đó, thực dân Anh đã chiếm Ấn Độ và gọi nước này là "hòn ngọc trên vương miện của Nữ hoàng Anh", vì vậy Pháp đặt ra danh xưng này cho Sài Gòn để tỏ ý muốn cạnh tranh việc xâm chiếm thuộc địa với đối thủ Anh. Tuy được Pháp gọi là "Hòn ngọc Viễn Đông", nhưng thực ra thời ấy Sài Gòn rất nhỏ, chỉ cần đi xa 20 km là có thể săn thú rừng. Theo quy hoạch của Pháp, Sài Gòn khi đó chỉ rộng khoảng 3 km²; gần bằng một nửa Quận 1 hiện nay (rộng khoảng 8 km²), bao bọc bởi sông Sài Gòn – Nguyễn Thái Học – Nguyễn Thị Minh Khai – rạch Bến Nghé. Chính quyền thuộc địa Pháp tập trung tất cả những gì sang trọng, giàu có nhất mà họ có được ở diện tích 3 km² này, phần còn lại của Sài Gòn thì vẫn còn rất hoang sơ, đầm lầy ngổn ngang. Theo Sơn Nam trong "Bến Nghé xưa" thì khi Chợ Bến Thành hoàn thành năm 1914, "trước mặt còn là ao vũng sình lầy. Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp (…), còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch cạn. Giữa Sài Gòn và ở phần đất cao còn nhiều chòm tre, cây da, mồ mả to xen vào những đám rẫy trồng rau cải và bông hoa, những xóm nhà ổ chuột; bầy bò dê đi lang thang ăn cỏ". Khu Hòa Hưng (Quận 10 hiện nay) cho đến ngã tư Bảy Hiền hiện nay có vô số nghĩa trang, mồ mả. Khu Nguyễn Thiện Thuật, Lý Thái Tổ, Nguyễn Đình Chiểu (Quận 3 hiện nay) toàn nhà lá nền đất xây dựng tạm bợ không theo quy hoạch nào. Khu Quận 4, Quận 7, khu Cầu Ông Lãnh, Cầu Kho,… sát cạnh chợ Bến Thành đa số là nhà tranh vách lá tạm bợ. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, kiến trúc sư He’brerd được mời sang Đông Dương chỉnh lý lại các dự án quy hoạch Sài Gòn. Ông đề ra hướng phát triển công nghiệp và xuất khẩu cho Sài Gòn, điều chỉnh hệ thống kỹ thuật hạ tầng, củng cố thêm phố thị Khánh Hội và Nhà Bè. Nhưng kế hoạch bất thành do thiếu ngân sách, đụng chạm quyền lợi của giới độc quyền kinh doanh địa ốc, cũng như xung đột nội bộ. Nó chứng minh rằng các mô hình lý thuyết về quy hoạch xây dựng thường vấp phải trở ngại từ giới cầm quyền thực dân, giới tư bản chỉ nhìn thấy quyền lợi trước mắt. Như vậy, từ lúc đánh chiếm Gia Định năm 1859 cho đến khi rời Sài Gòn (năm 1954), người Pháp chỉ tập trung "trau chuốt" khu vực rộng 3 km², nơi mà kiều dân Pháp sinh sống (Quận 1 hiện nay). Dù nhiều lần điều chỉnh địa giới mở rộng, nhưng những khu mở rộng này không được Pháp đầu tư nên khá là tạm bợ. Đến năm 1954, những phần Sài Gòn mở rộng này (rộng khoảng 50 km²) vẫn hoang sơ, thậm chí đầm lầy ngổn ngang. Phê phán quy hoạch thành phố Sài Gòn thời kỳ Pháp thuộc, nhiều nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng: người Pháp nặng về việc phô trương quyền lực thực dân với một số trục đường hoành tráng, cửa nhà khang trang, nhưng lại chưa xây dựng được cơ sở hạ tầng đô thị, và nhất là đẩy người bản xứ vào các khu ở chật chội, lầy lội, thiếu vệ sinh. Nhà nghiên cứu Mỹ Gwendolyn Wright khi nghiên cứu về các đô thị thuộc địa Pháp cho rằng kiểu làm đó là lối "quy hoạch giả tạo" không giải quyết được các vấn đề cơ bản của đô thị và mang tính phân biệt đối xử giữa người Pháp và dân thuộc địa. Theo cụ Vương Hồng Sển ghi chép thì danh xưng "Hòn ngọc Viễn Đông" do quan chức thực dân Pháp đặt ra để chỉ nơi ăn chơi của họ, người Việt chẳng được thụ hưởng gì mà còn phải chịu sự bóc lột để người Pháp duy trì sự xa xỉ đó, và rằng ""Nó hoàn toàn không phải là "hòn ngọc" với thợ thuyền người Việt ở xưởng đóng tàu Ba Son, cu li bốc vác ở cảng Sài Gòn, phu xe kéo và đông đảo người dân bản xứ mang trên mình bản án kiếp nô lệ, kẻ mất nước. Để phục vụ cho hòn ngọc ấy, cả một xã hội Sài Gòn trở thành thuộc địa, phải cung phụng cho Pháp mà nhiều địa danh còn được giữ đến tận bây giờ: Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Dầu, Xóm Bàu Sen (gần đồn Cây Mai), Xóm Giá (làm giá đậu xanh gần cầu Cây Gõ), xóm Lò Bún (gần giếng Hộ Tùng), Xóm Ụ Ghe, Xóm Rẫy Cái, Xóm Cây Cui..." Nhà sử học Henry Kamn nhận xét về sự tương phản giữa đời sống của giới thượng lưu Pháp với người dân Sài Gòn địa phương: So với các thuộc địa của Nhật Bản hoặc một số nước thực dân khác (Anh, Mỹ, Hà Lan...), các thuộc địa của Thực dân Pháp ở Đông Dương chỉ có một trạng thái mong manh yếu ớt. Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam kiếm lợi nhuận chủ yếu thông qua việc bóc lột tài nguyên thuộc địa, nên Pháp không cần thành lập một bộ máy hành chính hiệu quả nhằm tăng năng suất, cũng không cần thực hiện công nghiệp hóa ở quy mô lớn. Quy mô nền công nghiệp của thực dân Pháp ở Việt Nam quá nhỏ, kinh tế Việt Nam khi đó vẫn chủ yếu là nông nghiệp. Điều này dẫn tới quy mô các đô thị do Pháp xây dựng ở thuộc địa Đông Dương (tiêu biểu là Sài Gòn) cũng khá nhỏ bé, ngay cả khi so sánh với các thành phố thuộc địa của Anh, Mỹ và Hà Lan. Xét về quy mô dân số, các phương pháp thống kê khác nhau từ những nguồn khác nhau cho ra những số liệu khác nhau. Năm 1940, theo điều tra dân số, khu vực đô thị Sài Gòn và tỉnh Chợ Lớn có tổng cộng 256.000 dân. So với các thành phố lớn trong khu vực thì khá nhỏ, như Singapore năm 1940 có 755.000 dân, Hồng Kông năm 1941 có 1,6 triệu dân, Manila hay Jakarta cũng có khoảng gần một triệu dân. Đô thành Sài Gòn. Từ năm 1946, Sài Gòn đã là thủ đô của Cộng hòa tự trị Nam Kỳ rồi năm 1949 là thủ đô của Quốc gia Việt Nam. Đến năm 1955, Việt Nam Cộng hòa được thành lập, Sài Gòn khi đó là thành phố lớn nhất tại miền Nam Việt Nam đã được chọn làm thủ đô với tên gọi chính thức "Đô thành Sài Gòn" (lưu ý, cách viết thông dụng thời đó là "Saigon" hoặc "Sài-gòn"). Sau năm 1955, tên đường phố Sài Gòn vốn trước kia toàn là tên Pháp nay đồng loạt đổi tên tiếng Việt (trừ một số ngoại lệ). Việc này do Phòng Họa đồ thuộc Ty Kỹ thuật do Ngô Văn Phát điều hành; ông sắp xếp và chọn lựa tên các danh nhân dựa trên tầm vóc lịch sử và quy tụ gần nhau những nhân vật cùng thời kỳ có liên quan với nhau, như đường Cô Giang và Cô Bắc thì phải gần đường Nguyễn Thái Học; đường Lê Lai thì nhỏ, gần Đại lộ Lê Lợi lớn hơn. Những ý tưởng như Công lý, Tự do, Cộng hòa cũng được dùng đặt tên, tạo cho thành phố những đặc trưng mới. Khi Chiến tranh Đông Dương lan rộng thì di dân từ nông thôn lên thành thị tăng nhanh. Vào thời điểm 1948, vùng Sài Gòn dân số đã lên đến 1,179 triệu người, đến năm 1949 thì dân số khu vực đã tăng lên 1.200.000, và sang năm 1954 với hàng trăm ngàn người di cư mới (phần đông là người Công giáo, còn gọi là dân Bắc Kỳ Công giáo) từ phía bắc vĩ tuyến 17 thì dân số Sài Gòn leo cao, đạt 2.000.000. Dân di cư tập trung tại các khu vực như Xóm Mới – Gò Vấp, Bình An – Quận 8, và rải rác tại các quận khác. Với Nghị định số 110-NV ngày 27 tháng 3 năm 1959 của Tổng thống Ngô Đình Diệm, từ 6 quận, Sài Gòn được chia lại thành 8 quận với tổng cộng 41 phường. Vào nửa cuối thập niên 1950, nhờ viện trợ đáng kể của Chính phủ Hoa Kỳ, Sài Gòn trở thành một trung tâm về chính trị, kinh tế, văn hóa, giải trí tại miền Nam Việt Nam, là thành phố lớn nhất của kinh tế Việt Nam Cộng hòa Từ giữa thập niên 1960 đến những năm đầu thập niên 1970, việc Quân đội Hoa Kỳ vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam cũng gây nên những xáo trộn đối với thành phố. Nhiều cao ốc, công trình quân sự mọc lên. Lối sống của giới trẻ Sài Gòn cũng chịu ảnh hưởng bởi văn hóa phương Tây được du nhập từ binh lính và sách báo Mỹ. Trung tâm thành phố có một số công trình, khu phố được xây dựng to đẹp và sang trọng, tuy nhiên, các công trình này chủ yếu do Pháp xây dựng từ thập niên 1940, các khu nhà mới rất ít được xây dựng kể từ sau năm 1950, trong khi đó dân cư nông thôn đổ về thành thị tìm việc và tránh chiến sự khiến một số khu vực ở Sài Gòn dần trở thành những khu ổ chuột khổng lồ. Khảo sát cho thấy khoảng 40% dân số khu vực Sài Gòn khi đó (tức khoảng 1,2 triệu người) phải sống tại khu ổ chuột với những điều kiện về y tế, vệ sinh rất kém Trên tạp chí Xây dựng tháng 9/1967, tác giả Phạm Hoàng Thanh viết: "Mỗi ngày dân chúng ở quê lũ lượt kéo lên thành phố khiến dân số nơi đây gia tăng một cách kinh khủng, có nơi mật độ lên tới 28.000 người một cây số vuông. Người ta chen lấn giành giựt nhau từng tấc đất để xây cất. Hiện giờ ở Sài Gòn, sau những cao ốc đẹp đẽ, có ai ngờ là hàng ngàn hàng vạn ngôi nhà ván lợp tôn chèn ép nhau, tối tăm bẩn thỉu, bên cạnh những ao tù nước đọng, những đống rác thối tha ghê tởm". Để giải quyết nạn khan hiếm nhà hết sức trầm trọng ở Sài Gòn lúc đó, theo tính toán, thành phố cần xây mới 50.000 căn hộ và giải tỏa 110.000 nhà ổ chuột. Thế nhưng, trong suốt 10 năm, chỉ có 15.700 căn hộ được xây dựng. Trong thời kỳ chiến tranh leo thang, viện trợ kinh tế dồi dào từ Mỹ đã tạo ra một khuynh hướng tiêu thụ xa xỉ "quá trớn" trong dân chúng (nhất là việc người giàu đua nhau mua xe máy, ô tô). Trong giai đoạn 1964–1969, số xe du lịch nhập khẩu đã bằng 80% số xe nhập khẩu trong suốt 10 năm trước, năm 1966, số xe gắn máy được nhập khẩu cao gấp 5 lần so với năm 1963. Nhiều người ngoại quốc tới Sài Gòn lúc đó đã đặt cho thành phố cái tên là "thành phố Honda", do có nhiều xe máy hiệu Honda được nhập khẩu. Nhìn bề ngoài thì nền kinh tế Sài Gòn đang "phát triển phồn vinh", nhưng thực ra đó chỉ là bề ngoài mang tính tạm thời và bất ổn, bởi đó là do yếu tố bên ngoài đem lại (viện trợ của Mỹ) chứ không phải nhờ khả năng sản xuất nội tại của nền kinh tế. Quan chức kinh tế chính phủ Sài Gòn cũng cảm thấy lo ngại về tình trạng này, khi nguồn ngoại tệ bị phung phí vào những mặt hàng xa xỉ chứ không được dùng để mua phương tiện sản xuất. Tuy số lượng xe máy, xe ô tô tăng nhanh nhờ viện trợ của Mỹ từ năm 1963, nhưng nhìn chung vẫn còn khá ít xét theo tỷ lệ dân số. Đầu thập niên 1970, toàn thành phố Sài Gòn có khoảng 250.000 xe gắn máy, 800 xe buýt và khoảng 20.000 xe ô tô (trên tổng dân số 2,5 triệu), trung bình cứ 10 người dân thì mới có một xe máy. Phần lớn người dân không có phương tiện di chuyển nào khác hơn là đi bộ hoặc đi xe đạp, người nghèo từ các khu ổ chuột ngoại ô thường phải đi bộ 2 giờ để tới làm việc ở trung tâm thành phố. Khi Mỹ dần rút quân thì các phương tiện giao thông cũng xuống dốc do thiếu tiền. Đến cuối năm 1969, do Mỹ ngừng thuê lao động người Việt và giảm viện trợ, nên kinh tế Việt Nam Cộng hòa bị suy thoái, lạm phát trở nên nghiêm trọng, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa phải ban lệnh cấm nhập khẩu xe hơi từ nước ngoài. Cuộc Khủng hoảng dầu mỏ 1973 tiếp tục giáng một đòn mạnh vào hệ thống giao thông Sài Gòn. Do giá dầu nhập khẩu tăng cao trong khi Mỹ giảm viện trợ kinh tế, xăng dầu trở nên khan hiếm, nhiều loại xe cộ phải xếp xó do chủ nhân không có đủ tiền mua xăng. Ngay cả ở Sài Gòn, số lượng người dân đi làm bằng xe đạp cũng tăng nhanh chóng từ năm 1973. Viện trợ của Mỹ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế Sài Gòn thời kỳ này. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) giống như một "Phủ Toàn quyền Đông Dương" có quyền lực cao hơn cả Chính phủ Sài Gòn. Nếu sức sản xuất của Sài Gòn kém, viện trợ từ Mỹ sẽ cung cấp một lượng hàng hóa nhập khẩu để tiêu thụ, nếu ngân sách bị thâm hụt thì viện trợ của Mỹ sẽ giúp bù đắp từ Quỹ đối giá. Kết quả là nền kinh tế Sài Gòn bị hàng nhập khẩu chi phối quá mức, cả những nhu yếu phẩm hàng ngày như gạo, thịt, cá cũng phải nhập khẩu. Sự sống của nền kinh tế Sài Gòn phụ thuộc chủ yếu vào nhập khẩu, mà nhập khẩu lại phụ thuộc vào viện trợ của Mỹ. Do vậy, khi nguồn viện trợ Mỹ bị cắt giảm đột ngột thì nền kinh tế của Sài Gòn cũng bị cắt nguồn sống, sức tiêu thụ cũng hết và ngân sách cũng cạn kiệt. Giáo sư Nguyễn Cao Hách – Phó Chủ tịch Hội đồng Kinh tế Xã hội của Chính phủ Sài Gòn nhận định rằng "nếu Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ, chính phủ chỉ có thể sống được 4 tháng thôi". Nói chung, từ năm 1963, nguồn viện trợ lớn từ Hoa Kỳ đã không giải quyết vấn đề cơ bản và cốt lõi nhất của nền kinh tế là ""sự tự chủ"." Trái lại, nó đã trở thành một loại ma túy nguy hại cho bản thân Sài Gòn. Nó tạo ra sự ỷ lại của người dân và quan chức, nền kinh tế phụ thuộc nặng vào viện trợ và thiếu động lực để tự lực cánh sinh. Về bản chất, viện trợ mà Hoa Kỳ cho Việt Nam Cộng hòa là mấu chốt để duy trì một lãnh thổ phụ thuộc vào Mỹ thay vì xây dựng một đất nước có thể tự lực Tới năm 1973 thì hậu quả của việc phụ thuộc quá mức vào viện trợ đã xảy đến: nền kinh tế miền Nam (trong đó có Sài Gòn) lâm vào khủng hoảng do Mỹ giảm viện trợ kinh tế. Nạn lạm phát trở nên nghiêm trọng: Năm 1970, tỷ lệ lạm phát (tính toán dựa trên chỉ số giá tiêu dùng tại Sài Gòn áp dụng cho tầng lớp lao động) đã là 36,8%. Năm 1973, tỷ lệ lạm phát tăng lên 44,5%, và năm 1974 đã vượt quá 200%. Hệ lụy và hậu quả trực tiếp của cuộc khủng hoảng kinh tế gây ảnh hưởng xấu tới Sài Gòn. Với việc Mỹ giảm viện trợ trong khi nền sản xuất nội tại thì yếu kém, nền kinh tế tiêu dùng dựa vào viện trợ của Việt Nam Cộng hòa đã không thể phát triển ổn định, bền vững Việc rút đi của hơn nửa triệu quân Mỹ đã để lại một khoảng trống khổng lồ trong nền kinh tế: hàng tỷ đôla hàng năm trước đây được lính viễn chinh Mỹ tung vào xã hội qua các dịch vụ mua sắm ở thành phố, nay không còn nữa. Một khối lượng lớn người lao động làm việc trong các "sở Mỹ" (các văn phòng, trụ sở quân sự của Mỹ) cũng không còn việc làm. Số lượng công nhân làm ở các cơ sở của Mỹ năm 1971 là 100.000 người, đến tháng 12 năm 1972 chỉ còn lại 10.000 người, tạo ra thất nghiệp hàng loạt". Theo phúc trình của VECCO xuất bản tháng 1/1975 thì: Sài Gòn năm 1974 có 3 triệu dân thì có đến 600.000 người thất nghiệp. Chênh lệch giàu nghèo rất lớn khi thu nhập của thiểu số "tầng lớp trên" chiếm 43,5% GDP, tầng lớp dưới chỉ đạt 1,8%. Nhà văn đoạt giải Nobel Gabriel García Márquez đã đến thăm Việt Nam mô tả: "Dưới thời Mỹ chiếm đóng, thành phố không còn giữ được bản sắc văn hóa của mình, trở thành một thiên đường nhân tạo được bao bọc bởi quân đội và sự trợ giúp của Mỹ, của hàng tấn đồ tiếp tế. Người dân Sài Gòn cuối cùng lại tin rằng đây là cuộc sống thực của họ. Vì thế, chiến tranh kết thúc khiến họ trở nên lạc lõng và xa rời thực tế, để rồi 4 năm sau khi người Mỹ cuối cùng rút đi, họ không thể gượng dậy được." Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, nhiều thường dân ở thành phố hoặc binh lính, sĩ quan, viên chức Việt Nam Cộng hòa và những người cộng tác với Mỹ đã ra nước ngoài định cư. Cũng trong thời gian này, ước tính 700.000 người khác được vận động đi kinh tế mới; nền văn hóa có ảnh hưởng phương Tây bị lu mờ rồi tàn lụi. 20 năm chiến tranh đã để lại cho Sài Gòn nhiều di sản nặng nề về xã hội. Theo một ước tính, thời điểm năm 1975, dân số Sài Gòn có khoảng 4 triệu người thì trong số đó đã có tới 150.000 người nghiện heroin. Thời điểm năm 1972, 500.000 người là gái mại dâm và gái quán bar, và khoảng 800.000 trẻ mồ côi lang thang trên các đường phố. Thành phố Hồ Chí Minh. Từ 30 tháng 4 năm 1975, chế độ Việt Nam Cộng hòa bị xóa bỏ và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam quản lý miền Nam. Đô thành Sài Gòn, tỉnh Gia Định và 2 quận Củ Chi và Phú Hòa kế cận dưới thời Việt Nam Cộng hòa được hợp nhất thành một đơn vị hành chính gọi là thành phố Sài Gòn – Gia Định. Đầu năm 1976, Đảng bộ và Ủy ban Nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đổi tên thành phố Sài Gòn – Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh, theo tên của nhà lãnh đạo cộng sản và Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đầu tiên, Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, vấn đề người Hoa tại Sài Gòn trở nên trầm trọng. Người Hoa treo quốc kỳ Trung Quốc và ảnh Mao Trạch Đông trong vùng Chợ Lớn, đồng thời từ chối đăng ký quốc tịch Việt Nam. Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng ở miền Nam từ năm 1963 đến năm 1975, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực quan trọng: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, người Hoa kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện...và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường. Cuối năm 1976, chính quyền mới đóng cửa tất cả trường học và tòa báo của người Hoa. Năm 1978, các tư doanh bị quốc hữu hóa. Trong bối cảnh quan hệ Hà Nội – Bắc Kinh chuyển biến xấu, tâm lý bài Hoa lan rộng khắp miền Bắc Việt Nam. Chính quyền Hà Nội thúc ép nhiều gia đình gốc Hoa hồi hương về Quảng Tây.. Vấn đề Hoa kiều được Chính phủ Việt Nam xem là một thử thách đối với chủ quyền quốc gia hơn là một vấn đề nội bộ đơn giản. Các chiến dịch Cải tạo tư sản miền Nam nhằm xóa bỏ giai cấp tư sản và thực hiện công hữu hóa theo nguyên lý của chủ nghĩa xã hội được tiến hành. Nhà nước đã quốc hữu hóa các cơ sở sản xuất, xí nghiệp công quản của tầng lớp tư sản lớn bỏ lại, chủ yếu là của người Hoa. Các doanh nghiệp vừa như nhà in, xưởng thủ công, cửa hàng, cửa hiệu quy mô nhỏ buộc phải kê khai tài sản, vốn liếng trưng thu, trưng mua, tịch thu chuyển thành hợp tác xã. Nhiều chủ doanh nghiệp bị buộc tịch biên không được làm kinh doanh phải chuyển qua sản xuất nông nghiệp hoặc đi kinh tế mới. Năm 1978, Nhà nước hoàn thành căn bản cải tạo tư sản công nghiệp loại vừa và nhỏ ở miền Nam, xóa bỏ việc người Hoa kiểm soát nhiều ngành công nghiệp. Đến tháng 5 năm 1979, tất cả các xí nghiệp công quản lúc đầu ở miền Nam đều đã được chuyển thành xí nghiệp quốc doanh. Khó khăn về kinh tế, sự lo sợ về chiến tranh biên giới Tây Nam khiến cho nhiều người người Hoa rời thành phố. Số lượng người Hoa tại thành phố đã giảm đi hơn một nửa trong giai đoạn này. Chính sách quản lý kinh tế quan liêu và cơ chế bao cấp của Nhà nước lên nền kinh tế (cải cách giá-lương-tiền) khiến cho kinh tế lâm vào trì trệ, lạm phát phi mã mà đỉnh điểm của nó là vào năm 1985. Khi công cuộc Đổi mới toàn diện 1986 bắt đầu, Thành phố Hồ Chí Minh đứng ở vị trí tiên phong và đi đầu trong thu hút vốn, công nghệ và đầu tư nước ngoài. Sau khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành năm 1987, trong vòng 3 năm 1988 đến 1990, Thành phố đã cấp 88 giấy phép với tổng số vốn đầu tư là 976 triệu USD. Cơ cấu ngành công nghiệp bắt đầu chuyển dịch từ sản xuất công nghiệp nặng sang các ngành công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng định hướng xuất khẩu. Với sự phát triển mạnh mẽ về hạ tầng và cởi trói về cơ chế thương mại, mậu dịch, Thành phố ngày càng khẳng định là đi đầu kinh tế của Việt Nam và đạt nhiều chỉ số và thành tựu phát triển kinh tế khá ấn tượng. Đến cuối năm 2018, GDP bình quân đầu người của Thành phố ước đạt hơn 6000 USD/người, cao gấp gần 2.5 lần so với mức trung bình cả nước. Nếu như năm 2000, Thành phố đóng góp khoảng 19% GDP cả nước thì đến năm 2014, thành phố đã chiếm 30% GDP của cả nước. Tuy nhiên tỷ lệ ngân sách được giữ lại của Thành phố Hồ Chí Minh là thấp, năm 2000 tỷ lệ ngân sách được giữ lại là 33% nhưng giảm xuống còn 18% trong giai đoạn 2017-2020. Đây là một trong những lý do khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố so với bình quân cả nước đang giảm. Trong giai đoạn 2001-2010 tốc độ này bằng 1,6 lần cả nước, thì đến giai đoạn 2011-2019 chỉ bằng 1,2 lần. Về cán cân thu - chi, năm 2017 TP HCM bội chi 2.900 tỷ đồng; năm 2018 bội chi hơn 4.880 tỷ đồng; 2019 bội chi gần 3.560 tỷ đồng. Vì thế, Trung ương luôn phải cấp thêm từ nguồn ngân sách để bù đắp cho các khoản chi của thành phố Đến cuối những năm 2000, thành phố bước vào công cuộc đổi mới cơ bản về hạ tầng giao thông vận tải, tiến hành xây dựng và khai trương nhiều công trình trọng điểm như Đại lộ Nguyễn Văn Linh, Đại lộ Đông Tây, cầu Phú Mỹ. Nhiều cảng biển quốc tế được khánh thành và nhiều đường cao tốc được xây dựng nối Thành phố với các tỉnh thành lân cận tạo thuận lợi cho thông thương hàng hóa và phát triển giao thương ngày càng lớn cho thành phố. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có diện tích rộng 2.095 km², lớn hơn gấp 30 lần so với đô thị Sài Gòn trước năm 1975 (67,5 km²). Trong đó, tính riêng diện tích khu đô thị là 820 km² (năm 2010), lớn gấp 33 lần so với trước năm 1975 (rộng 25 km²). Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay bao gồm toàn bộ đô thành Sài Gòn cũ, cộng thêm toàn bộ tỉnh Gia Định, quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương và quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa cũ (hợp nhất thành huyện Củ Chi). Theo đà phát triển của kinh tế, lượng người nhập cư đổ vào thành phố cũng ngày càng tăng. Về dân số, tháng 4 năm 2014, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 7,95 triệu dân (trong đó khoảng 6,7 triệu dân sống ở khu đô thị), như vậy là đã tăng 3,2 lần so với mức 2,5 triệu dân của đô thị Sài Gòn ở thời điểm tháng 4 năm 1975. Năm 2017, nếu tính cả người cư trú không đăng ký thì dân số toàn thành phố đã đạt đến 13 triệu người, tăng gấp 5,2 lần so với thời điểm tháng 4 năm 1975. Thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7,6 triệu xe máy (chiếm 1/3 lượng xe máy cả nước) và khoảng 700.000 xe ôtô. Như vậy, số xe máy lưu thông trong thành phố đã tăng gấp 30 lần, số xe ô tô đã tăng gấp 35 lần so với giai đoạn trước năm 1975. Với tổng diện tích 2.096 km² và hơn 9 triệu dân (số liệu 2021), Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị lớn thứ 2 Việt Nam về diện tích (sau Hà Nội) và lớn nhất về dân số. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại thành 8 quận. 4 quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại, toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm 1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303 phường xã, thị trấn. Năm 2004, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 19 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn.. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện với 312 phường, xã, thị trấn. Ngày 24 tháng 11 năm 2017, Quốc hội Việt Nam ra Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, trong đó tăng thêm quyền hạn cho chính quyền thành phố trong việc quản lý đất đai, quản lý đầu tư, quản lý tài chính – ngân sách nhà nước. Thành phố Hồ Chí Minh sẽ có nhiều quyền hạn hơn trong việc quyết định chuyển đổi mục đích sử dụng đất, phê duyệt đầu tư công; có thêm những nguồn thu mới, có thể được giữ lại ngân sách nhiều hơn và được hưởng một phần số thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quản lý hoặc đại diện sở hữu, được chủ động vay vốn bằng các hình thức khác nhau. Ngoài ra, chính quyền thành phố các cấp còn được chủ động phân quyền cho chính quyền cấp dưới; quyết định mức thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức, chuyên gia thuộc thành phố quản lý. Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Hồ Chí Minh có toạ độ 10°10' – 10°38' Bắc và 106°22' – 106°54' Đông. Nằm ở phía Nam, thuộc miền Đông Nam Bộ, Thành phố Hồ Chí Minh cách Hà Nội 1.730 km theo đường bộ, trung tâm thành phố cách bờ biển Đông 50 km theo đường chim bay. Với vị trí tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là một đầu mối giao thông quan trọng về cả đường bộ, đường thủy và đường không, nối liền các tỉnh trong vùng và còn là một cửa ngõ quốc tế. Nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long, địa hình thành phố thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông. Vùng cao nằm ở phía bắc – Đông Bắc và một phần Tây Bắc, trung bình 10 đến 25 mét. Xen kẽ có một số gò đồi, cao nhất lên tới 32 mét như đồi Long Bình ở Thủ Đức. Ngược lại, vùng trũng nằm ở phía nam – tây nam và đông nam thành phố, có độ cao trung bình trên dưới một mét, nơi thấp nhất 0,5 mét. Các khu vực trung tâm, một phần thành phố Thủ Đức, toàn bộ huyện Hóc Môn và Quận 12 có độ cao trung bình, khoảng 5 tới 10 mét. Điều kiện tự nhiên. Địa chất, thủy văn. Địa chất Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm chủ yếu là hai tướng trầm tích Pleistocen và Holocen lộ ra trên bề mặt. Trầm tích Pleistocen chiếm hầu hết phần phía Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc thành phố. Dưới tác động của các yếu tố tự nhiên và hoạt động của con người, trầm tích phù sa cổ hình thành nhóm đất đặc trưng riêng: đất xám. Với hơn 45 ngàn hecta, tức khoảng 23,4% diện tích thành phố, đất xám ở Thành phố Hồ Chí Minh có ba loại: đất xám cao, đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và hiếm hơn là đất xám gley. Trầm tích Holocen ở Thành phố Hồ Chí Minh có nhiều nguồn gốc: biển, vũng vịnh, sông biển, bãi bồi... hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa biển với 15.100 ha, nhóm đất phèn với 40.800 ha và đất phèn mặn với 45.500 ha. Ngoài ra còn có một diện tích khoảng hơn 400 ha là "giồng" cát gần biển và đất feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò. Về thủy văn, nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch rất đa dạng. Sông Đồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Lâm Viên, hợp lưu bởi nhiều sông khác, có lưu vực lớn, khoảng 45.000 km². Với lưu lượng bình quân 20–500 m³/s, hàng năm cung cấp 15 tỷ m³ nước, sông Đồng Nai trở thành nguồn nước ngọt chính của thành phố. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng Hớn Quản, chảy qua Thủ Dầu Một đến Thành phố Hồ Chí Minh, với chiều dài 200 km và chảy dọc trên địa phận thành phố dài 80 km. Sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m³/s, bề rộng tại thành phố khoảng 225 m đến 370 m, độ sâu tới 20 m. Nhờ hệ thống kênh Rạch Chiếc, hai con sông Đồng Nai và Sài Gòn nối thông ở phần nội thành mở rộng. Một con sông nữa của Thành phố Hồ Chí Minh là sông Nhà Bè, hình thành ở nơi hợp lưu hai sông Đồng Nai và Sài Gòn, chảy ra biển Đông bởi hai ngả chính Soài Rạp và Gành Rái. Trong đó, ngả Gành Rái chính là đường thủy chính cho tàu ra vào bến cảng Sài Gòn. Ngoài các con sông chính, Thành phố Hồ Chí Minh còn có một hệ thống kênh rạch chằng chịt: Láng The, Bàu Nông, rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc –Thị Nghè, Bến Nghé, Tàu Hủ, Kênh Tẻ, Kênh Đôi... Hệ thống sông, kênh rạch giúp Thành phố Hồ Chí Minh trong việc tưới tiêu, nhưng do chịu ảnh hưởng dao động triều bán nhật của biển Đông, thủy triều thâm nhập sâu đã gây nên những tác động xấu tới sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành. Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực phía bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú. Nhưng về phía nam, trên trầm tích Holocen, nước ngầm thường bị nhiễm phèn, nhiễm mặn. Khu vực nội thành cũ có lượng nước ngầm đáng kể, tuy chất lượng không thực sự tốt, vẫn được khai thác chủ yếu ở ba tầng: 0–20 m, 60–90 m và 170–200 m (tầng trầm tích Miocen). Tại Quận 12, huyện Hóc Môn và huyện Củ Chi, chất lượng nước tốt, trữ lượng dồi dào, thường được khai thác ở tầng 60–90 m, trở thành nguồn nước bổ sung quan trọng. Khí hậu. Nằm trong vùng nhiệt đới xavan, cũng như một số tỉnh Nam Bộ khác, Thành phố Hồ Chí Minh không có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Nhiệt độ cao đều và mưa quanh năm (mùa khô ít mưa). Trong năm, Thành phố Hồ Chí Minh có 2 mùa là biến thể của mùa hè: mùa mưa – khô rõ rệt. Mùa mưa được bắt đầu từ tháng 5 tới tháng 11 (khí hậu nóng ẩm, nhiệt độ cao mưa nhiều), còn mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau (khí hậu khô, nhiệt độ cao và mưa ít). Trung bình, Thành phố Hồ Chí Minh có 160 tới 270 giờ nắng/tháng, nhiệt độ trung bình 27 °C, cao nhất lên tới 40 °C, thấp nhất xuống 13,8 °C. Hàng năm, thành phố có 330 ngày nhiệt độ trung bình 25 tới 28 °C. Lượng mưa trung bình của thành phố đạt 1.949 mm/năm, trong đó năm 1908 đạt cao nhất 2.718 mm, thấp nhất xuống 1.392 mm vào năm 1958. Một năm, ở thành phố có trung bình 159 ngày mưa, tập trung nhiều nhất vào các tháng từ 5 tới 11, chiếm khoảng 90%, đặc biệt hai tháng 6 và 9. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố không đều, khuynh hướng tăng theo trục Tây Nam – Đông Bắc. Các quận nội thành và các huyện phía bắc có lượng mưa cao hơn khu vực còn lại. Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính là gió mùa Tây – Tây Nam và Bắc – Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam từ Ấn Độ Dương, tốc độ trung bình 3,6 m/s, vào mùa mưa. Gió Gió Bắc – Đông Bắc từ biển Đông, tốc độ trung bình 2,4 m/s, vào mùa khô. Ngoài ra còn có gió mậu dịch theo hướng Nam – Đông Nam vào khoảng tháng 3 tới tháng 5, trung bình 3,7 m/s. Có thể nói Thành phố Hồ Chí Minh thuộc vùng không có gió bão. Cũng như lượng mưa, độ ẩm không khí ở thành phố lên cao vào mùa mưa (80%), và xuống thấp vào mùa khô (74,5%). Bình quân độ ẩm không khí đạt 79,5%/năm. Với những biến đổi khí hậu, Sài Gòn thuộc danh sách 10 thành phố trên thế giới bị đe dọa vì nguy cơ mực nước biển dâng cao. Theo dự tính của Liên Hợp Quốc thì đến năm 2050 nước biển sẽ dâng 26 cm và 70% khu đô thị Sài Gòn sẽ bị ngập lụt. Ngân hàng Phát triển Á châu ước lượng hậu quả là thiệt hại kinh tế lên đến hàng tỷ USD. Môi trường. Với tốc độ gia tăng dân số quá nhanh, cơ sở hạ tầng chưa kịp quy hoạch nâng cấp tổng thể, ý thức một số người dân lại quá kém trong nhận thức và bảo vệ môi trường chung... Vì vậy, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường rất lớn. Hiện trạng nước thải không được xử lý đổ thẳng vào hệ thống sông ngòi còn rất phổ biến. Nhiều cơ sở sản xuất, bệnh viện và cơ sở y tế chưa có hệ thống xử lý nước thải là một thực trạng đáng báo động. Tình trạng ngập lụt trong trung tâm thành phố đang ở mức báo động cao, xảy ra cả trong mùa khô. Diện tích khu vực ngập lụt khoảng 140 km² với 85% điểm ngập nước nằm ở khu vực trung tâm thành phố. Thiệt hại do ngập nước gây ra ước tính 8 tỷ đồng mỗi năm. Nguyên nhân là do hệ thống cống thoát nước được xây cách đây 50 năm đã xuống cấp. Ngoài ra, việc xây dựng các khu công nghiệp và đô thị ở khu vực phía nam – khu vực thoát nước của thành phố này đã làm cho tình hình ngập càng nghiêm trọng hơn. Việc thoát nước ở Sài Gòn vốn dựa vào hệ thống sông và kênh, rạch tự nhiên nhưng khoảng 30% diện tích kênh rạch đã bị chính quyền thành phố ra lệnh lấp. Theo một nghiên cứu của Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam thì chỉ trong 12 năm từ 1996 đến 2008, tại Sài Gòn đã có hơn 100 kênh, rạch với tổng diện tích khoảng 4000 hecta bị người dân lấp và bị lấn chiếm. Thậm chí, các con kênh thoát nước cho sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất cũng bị lấn chiếm với nhiều hình thức, các hộ dân xây lấn ra làm hẹp lòng mương, cùng với việc xả rác thải vào đó nên lưu lượng các con kênh này bị giảm đi Ngoài ra, sai lầm của chính quyền trong việc quy hoạch cũng khiến cho tình trạng ngập lụt Thành phố Hồ Chí Minh trở nên nghiêm trọng. Trước những bức xúc về thực trạng môi trường, Thành phố Hồ Chí Minh đang khẩn trương tìm mọi cách nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân trên địa bàn. Việc trích ra một nguồn vốn lớn nhiều tỷ đồng đầu tư xây dựng hồ sinh học cải tạo nước kênh Ba Bò là một ví dụ. Từ 2017 tới 2025, thành phố đặt mục tiêu giải tỏa di dời 28.500 căn nhà và tổ chức lại cuộc sống của người dân đang sống ven kênh, rạch để làm thông thoáng các kênh thoát nước này. Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới (Stockholm trên 70 m²/người). Việc thiếu cây xanh đã gây ảnh hưởng đến chất lượng không khí của thành phố. Tổ chức hành chính và chính quyền. Tổ chức hành chính. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay là một trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương của Việt Nam. Về mặt hành chính, thành phố được chia thành 16 quận, 1 thành phố và 5 huyện; trong đó có 312 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 249 phường, 58 xã và 5 thị trấn. Vào năm 1995, hệ thống quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có 976 địa chỉ, trong đó 47 thuộc trung ương, 73 thuộc thành phố, 549 thuộc các quận, huyện và 307 thuộc cấp phường xã. Các tổ chức đoàn thể, chính trị bao gồm cấp trung ương và thành phố có 291 địa chỉ, các đơn vị sự nghiệp có 2.719 địa chỉ. Đảng bộ và chính quyền. Chính quyền thành phố bao gồm Hội đồng Nhân dân, Ủy ban Nhân dân và Tòa án Nhân dân. Hội đồng Nhân dân thành phố, với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm, có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của thành phố. Đứng đầu HĐND gồm một Chủ tịch, một Phó Chủ tịch và một Ủy viên thường trực. HĐND chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhiệm kỳ khóa X (2021-2026) gồm 94 đại biểu. Chủ tịch HĐND Thành phố hiện tại là bà Nguyễn Thị Lệ. Hội đồng Nhân dân thành phố bầu ra Ủy ban Nhân dân thành phố, cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa trên địa bàn thành phố. Đứng đầu Ủy ban Nhân dân gồm một Chủ tịch và các Phó Chủ tịch. Các sở, ngành của Ủy ban Nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể, như y tế, giáo dục, đầu tư, tư pháp, tài chính... Tương tự, cấp quận, huyện cũng có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp thành phố. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. UBND Thành phố nhiệm kỳ khóa X (2021–2026) được HĐND Thành phố nhiệm kỳ 2021–2026 bầu ra gồm 24 thành viên và bầu ông Nguyễn Thành Phong làm Chủ tịch UBND Thành phố. Tuy nhiên cuối tháng 8/2021, ông Nguyễn Thành Phong đã được Bộ Chính trị điều động giữ chức Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương. HĐND Thành phố sau đó cũng đã tiến hành biểu quyết miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch UBND thành phố của ông và bầu mới Chủ tịch UBND TP (nhiệm kỳ 2021–2026) đương nhiệm là ông Phan Văn Mãi. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh bao gồm hai cấp: Tòa án nhân dân Thành phố và 22 Tòa án nhân dân cấp huyện. Tại cấp thành phố có 5 tòa chuyên trách: Tòa Hình sự, Tòa Dân sự, Tòa Kinh tế, Tòa Hành chính và Tòa Lao động. Hiện tại Việt Nam thực hiện hệ thống tòa án hai cấp, có nghĩa là tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền xét xử sơ thẩm những vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Còn Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cũng có thẩm quyền xét xử sơ thẩm, đồng thời có thể phụ trách xét xử phúc thẩm các vụ án mà tòa cấp dưới đã tuyên nhưng bản án bị kháng cáo, kháng nghị. Chánh án TAND Thành phố hiện nay là ông Lê Thanh Phong. Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (hay thường gọi là Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố. Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh khóa XI nhiệm kỳ 2020–2025 gồm 62 ủy viên chính thức, bầu ra Ban Thường vụ gồm 16 ủy viên. Cùng với Hà Nội, đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy của thành phố và phải là một đảng viên do Bộ Chính trị chỉ định chứ không do Thành ủy bầu ra, thường là một thành viên của cơ quan này. Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh hiện tại là ông Nguyễn Văn Nên. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Thành phố nhiệm kỳ 10 (2014–2019) gồm 140 ủy viên, bầu ra Ban Thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 13 ủy viên. Chủ tịch UBMTTQ đương nhiệm là bà Tô Thị Bích Châu, Ủy viên Ban Thường vụ Thành ủy (được bầu ngày 22/2/2017 thay thế ông Nguyễn Hoàng Năng do được điều động thuyên chuyển công tác). Kinh tế. Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đi đầu trong nền kinh tế Việt Nam. Thành phố chiếm 0,6% diện tích và 8,34% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,5% tổng sản phẩm GDP, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 37,9% dự án nước ngoài. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.966.400 lao động có độ tuổi từ 15 trở lên, trong đó 139 ngàn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn đang tham gia làm việc. Năm 2008, lực lượng lao động có độ tuổi từ 15 trở lên trên địa bàn thành phố gồm có 3.856.500 người, năm 2009 là 3.868.500 người, năm 2010 đạt 3.909.100 người, đến 2011 con số này đạt 4.000.900 người. Tính chung trong 9 tháng đầu năm 2012, GRDP đạt 404.720 tỷ đồng, tăng khoảng 8,7%. Năm 2021, GRDP đã đạt mức 1.298.791 tỉ đồng (tương ứng 56,47 tỉ USD), trong đó khu vực thương mại dịch vụ đạt khoảng 63,4%, khu vực công nghiệp và xây dựng đạt 22,4%, khu vực nông-lâm-thủy sản chỉ chiếm 0,6%. GRDP bình quân đầu người năm 2021 đạt 142,6 triệu đồng (tương đương 6.173 USD). Thu ngân sách năm 2012 ước đạt 215.975 tỉ đồng, đến năm 2021 đã tăng lên là 383.703 tỉ đồng. Trong đó, thu nội địa năm 2021 đạt 253.281 tỷ đồng, vượt 2% dự toán; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 116.400 tỉ đồng, vượt 7% dự toán. Năm 2013, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã trình Hội đồng nhân dân Thành phố 29 chỉ tiêu về kinh tế và xã hội trong năm 2013, đặt mục tiêu thu nhập bình quân đầu người năm 2013. Trong đó có một số chỉ tiêu kinh tế gồm có GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.000 USD/người/năm, tổng sản phẩm trong nước (GDP) dự kiến tăng 9,5-10%, tốc độ kim ngạch xuất khẩu là 13%, tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội dự kiến khoảng 248.500-255.000 tỷ đồng, bằng 36-37% GDP, chỉ số giá tiêu dùng thấp hơn tốc độ tăng của cả nước. Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ, thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính... Cơ cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm 44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm 47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%. Ngành công nghiệp thành phố hiện đang hướng tới các lĩnh vực công nghệ cao, đem lại hiệu quả kinh tế hơn. Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 ngàn tỉ VND. Thành phố cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007. Riêng trong năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, Thành phố Hồ Chí Minh xếp ở vị trí thứ 8/63 tỉnh thành. Về thương mại, Thành phố Hồ Chí Minh có một hệ thống trung tâm mua sắm, siêu thị, chợ đa dạng. Chợ Bến Thành là biểu tượng về giao lưu thương mại từ xa xưa của thành phố, hiện nay vẫn giữ một vai trò quan trọng. Những thập niên gần đây, nhiều trung tâm thương mại hiện đại xuất hiện như Saigon Trade Centre, Diamond Plaza... Mức tiêu thụ của Thành phố Hồ Chí Minh cũng cao hơn nhiều so với các tỉnh khác của Việt Nam và gấp 1,5 lần thủ đô Hà Nội. Sở Giao dịch Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, có mã giao dịch là VN-Index, được thành lập vào tháng 7 năm 1998. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007, toàn thị trường đã có 507 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 138 cổ phiếu với tổng giá trị vốn hóa đạt 365 ngàn tỷ đồng. Tuy vậy, nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn. Toàn thành phố chỉ có 10% cơ sở công nghiệp có trình độ công nghệ hiện đại. Trong đó, có 21/212 cơ sở ngành dệt may, 4/40 cơ sở ngành da giày, 6/68 cơ sở ngành hóa chất, 14/144 cơ sở chế biến thực phẩm, 18/96 cơ sở cao su nhựa, 5/46 cơ sở chế tạo máy... có trình độ công nghệ, kỹ thuật sản xuất tiên tiến. Cơ sở hạ tầng của thành phố lạc hậu, quá tải, chỉ giá tiêu dùng cao, tệ nạn xã hội, hành chính phức tạp... cũng gây khó khăn cho nền kinh tế. Đầu tư hạ tầng tại Thành phố Hồ Chí Minh không tương xứng với vai trò kinh tế của nó do tỷ lệ ngân sách mà thành phố này được giữ lại ngày càng giảm. Năm 2021, GRDP Thành phố Hồ Chí Minh sụt giảm chưa từng có trong lịch sử do đại dịch COVID-19, với mức 6,78%. Mọi thành phần của GRDP đều tăng âm, cao nhất là ngành dịch vụ với -54,93%. Các ngành thông tin - truyền thông, tài chính - ngân hàng - bảo hiểm, giáo dục, y tế thì có mức tăng trưởng dương, nhất là ngành tài chính với 8,16%. Sau khi nới lỏng giãn cách vào cuối năm 2021, thành phố lên kế hoạch phục hồi và phát triển kinh tế cho năm 2022. Trong 8 tháng, nền kinh tế thành phố phục hồi gần như hoàn toàn. Xã hội. Dân cư. Dân số năm 1929 là 123.890 người, trong số đó có 12.100 người Pháp. Gần 40 năm sau, năm 1967, thành phố đã tăng gấp 10 lần với dân số là 1.485.295. Kể từ sau năm 1976, dân số Sài Gòn gia tăng nhanh, nhất là dân nhập cư. Theo thống kê chính thức, dân số Sài Gòn năm 1975 là 3.498.120 người. Năm 2021, dân số toàn Thành phố Hồ Chí Minh là 9.166.800 người, chiếm 9,3% dân số cả nước; với diện tích 2095,39 km², mật độ dân số đạt 4.375 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 7.239.600 người, chiếm 79% dân số toàn thành phố và dân số sống tại nông thôn đạt 1.927.200 người, chiếm 21% dân số thành phố. Dân số nam đạt 4.510.400 người, trong khi đó nữ đạt 4.656.400 người. Trong các thập niên gần đây, Thành phố Hồ Chí Minh luôn có tỷ số giới tính thấp nhất Việt Nam (2019: 95 nam/100 nữ), luồng nhập cư từ các tỉnh khác vào Thành phố Hồ Chí Minh luôn có số nữ nhiều hơn số nam. Thành phố Hồ Chí Minh gặp phải tình trạng quá tải dân số, tạo áp lực lớn lên nền kinh tế và đời sống người dân. Cứ 5 năm, dân số Thành phố Hồ Chí Minh tăng thêm trung bình 1 triệu người. Sự phân bố dân cư ở Thành phố Hồ Chí Minh không đồng đều. Năm 2019, trong khi một số quận như 4, 5, 10 và 11 có mật độ lên tới trên 40.000 người/km², thì huyện ngoại thành Cần Giờ có mật độ là 102 người/km². Về mức độ gia tăng dân số, trong khi tỷ lệ tăng tự nhiên khoảng 1,07% thì tỷ lệ tăng cơ học lên tới 2,5%. Những năm gần đây, dân số các quận trung tâm có xu hướng giảm, trong khi dân số các quận mới lập vùng ven tăng nhanh, do đón nhận dân từ trung tâm chuyển ra và người nhập cư từ các tỉnh thành khác đến sinh sống. Theo ước tính năm 2005, trung bình mỗi ngày có khoảng một triệu khách vãng lai tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đến năm 2010, con số này còn có thể tăng lên tới 2 triệu. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 1.738.411 người, nhiều nhất là Công giáo đạt 845.720 người, tiếp theo là Phật giáo có 770.220 người, đạo Cao Đài chiếm 56.762 người, đạo Tin lành có 45.678 người, Hồi giáo chiếm 9.220 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 7.220 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 2.267 người. Còn lại các tôn giáo khác như Ấn Độ giáo có 395 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 298 người, Minh Sư Đạo có 283 người, đạo Bahá'í có 192 người, Bửu Sơn Kỳ Hương 89 người và 67 người theo Minh Lý Đạo.. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có đủ 54 thành phần dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó, nhiều nhất là người Kinh có 6.699.124 người, các dân tộc khác như người Hoa có 414.045 người, người Khmer có 24.268 người, người Chăm 7.819 người, người Tày có 4.514 người, người Mường 3.462 người, ít nhất là người La Hủ chỉ có một người. Những khu vực tập trung nhiều người nước ngoài hay Việt kiều sinh sống tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo thành một nét rất riêng đó là những khu chợ, cửa hàng, dịch vụ, món ăn đặc sản của nước đó. Có thể kể đến: Phố Mã Lai tập trung người Mã Lai, người Chăm tại đường Nguyễn An Ninh, phường Bến Thành, Quận 1); chợ Campuchia từ đình chợ Lê Hồng Phong, chạy dọc dài theo đường Hồ Thị Kỷ, Phường 1, Quận 10 đa phần là Việt kiều trở về từ Campuchia; phố Hàn Quốc tại đường Hậu Giang đến các đường lân cận thuộc Phường 4, quận Tân Bình; phố Nhật Bản tại giao lộ Thái Văn Lung – Lê Thánh Tôn thuộc phường Bến Nghé, Quận 1, khu đô thị Phú Mỹ Hưng (Năm 2018, Phú Mỹ Hưng có trên 30.000 người sinh sống, chiếm hơn 50% là người nước ngoài đến từ hàng chục quốc gia, đông hơn cả vẫn là công dân các nước và vùng lãnh thổ châu Á, nhiều nhất đến từ Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Trung Quốc). Y tế. Thành phố Hồ Chí Minh, với dân số đông, mật độ cao trong nội thành, cộng thêm một lượng lớn dân vãng lai, đã phát sinh nhu cầu lớn về y tế và chăm sóc sức khỏe. Các tệ nạn xã hội, như mại dâm, ma túy, tình trạng ô nhiễm môi trường... gây ảnh hưởng lớn tới sức khỏe dân cư thành phố. Tuổi thọ trung bình của nam giới ở thành phố là 73,19, con số ở nữ giới là 77,00. Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có 21.780 nhân viên y tế, trong đó có 3.399 bác sĩ. Tỷ lệ bác sĩ đạt 5.45 trên 10 ngàn dân, giảm so với con số 7.31 của năm 2002. Toàn thành phố có 19.442 giường bệnh, 56 bệnh viện, 317 trạm y tế và 5 nhà hộ sinh. Thế nhưng, mạng lưới bệnh viện chưa được phân bổ hợp lý, tập trung chủ yếu trong nội ô. Theo con số năm 1994, chỉ riêng Quận 5 có tới 13 bệnh viện với 5.290 giường, chiếm 37% số giường bệnh toàn thành phố. Bù lại, hệ thống y tế cộng đồng tương đối hoàn chỉnh, tất cả các xã, phường đều có trạm y tế. Bên cạnh hệ thống nhà nước, thành phố cũng có 2.303 cơ sở y tế tư nhân và 1.472 cơ sở dược tư nhân, góp phần giảm áp lực cho các bệnh viện lớn. Cũng tương tự hệ thống y tế nhà nước, các cơ sở này tập trung chủ yếu trong nội ô và việc đảm bảo các nguyên tắc chuyên môn chưa được chặt chẽ. Sở Y tế Thành phố hiện nay quản lý 8 bệnh viện đa khoa và 20 bệnh viện chuyên khoa. Nhiều bệnh viện của thành phố đã liên doanh với nước ngoài để tăng chất lượng phục vụ. Giáo dục. Về mặt hành chính, Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh chỉ quản lý các cơ sở giáo dục từ bậc mầm non tới trung học phổ thông. Các trường đại học, cao đẳng phần lớn trực thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. Trong năm học 2008–2009, toàn thành phố có 638 cơ sở giáo dục mầm non, 467 trường cấp I, 239 trường cấp II, 81 trường cấp III và 55 trường cấp II, III. Ngoài ra, theo con số từ 1994, Thành phố Hồ Chí Minh còn có 20 trung tâm xóa mù chữ, 139 trung tâm tin học, ngoại ngữ và 12 cơ sở giáo dục đặc biệt. Tổng cộng 1.308 cơ sở giáo dục của thành phố có 1.169 cơ sở công lập và bán công, còn lại là các cơ sở dân lập, tư thục. Hệ thống các trường từ bậc mầm non tới trung học trải đều khắp thành phố. Trong khi đó, những cơ sở xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tập trung chủ yếu vào 4 huyện ngoại thành Củ Chi, Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ. Các trường ngoại ngữ ở Thành phố Hồ Chí Minh không chỉ giảng dạy những ngôn ngữ phổ biến mà còn một trường dạy quốc tế ngữ, một trường dạy Hán Nôm, 4 trường dạy tiếng Việt cho người nước ngoài. Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cũng có 40 trường quốc tế do các lãnh sự quán, công ty giáo dục đầu tư. Là thành phố lớn nhất Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một trong hai trung tâm giáo dục bậc đại học lớn nhất. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh với 8 trường đại học thành viên thuộc Chính phủ. Nhiều trường đại học lớn khác của thành phố như Trường Đại học Kiến trúc, Đại học Y Dược, Trường Đại học Ngân hàng, Trường Đại học Luật, Trường Đại học Kinh tế, Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Mở, Trường Đại học Tài chính – Marketing đều là các đại học quan trọng của Việt Nam. Trong số học sinh, sinh viên đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng của thành phố, 40% đến từ các tỉnh khác của quốc gia.. Giáo dục bậc đại học, trên địa bàn thành phố có trên 80 trường, đa số do Bộ Giáo dục và Đào tạo quản lý, trong đó chỉ có 2 trường đại học công lập (Trường Đại học Sài Gòn và Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch) do thành phố quản lý. Mặc dù đạt được những bước tiến quan trọng trong thời gian gần đây, nhưng giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh vẫn còn nhiều khiếm khuyết. Trình độ dân trí chưa cao và chênh lệch giữa các thành phần dân cư, đặc biệt là ngoại ô so với nội ô. Tỷ lệ trẻ em người Hoa không biết chữ vẫn còn nhiều, gấp 13 lần trẻ em người Kinh. Giáo dục đào tạo vẫn chưa tương xứng với nhu cầu của xã hội. Hệ thống cơ sở vật chất ngành giáo dục thành phố còn kém. Nhiều trường học sinh phải học 3 ca. Thu nhập của giáo viên chưa cao, đặc biệt ở các huyện ngoại thành. Giao thông vận tải. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam và Đông Nam Á. Khác với Hà Nội, vận tải thủy ở Thành phố Hồ Chí Minh chiếm tỷ lệ quan trọng. Tính riêng vận tải hàng hóa, đường biển chiếm khoảng 29% và đường sông chiếm khoảng 20% tổng khối lượng thông qua đầu mối thành phố. Đường bộ chỉ chiếm 44% vận tải hàng hóa nhưng chiếm tới 85,6% vận tải hành khách. Về giao thông đường không, Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất là sân bay lớn nhất Việt Nam về diện tích và công suất nhà ga. Năm 2006, vận tải thành phố đã vận chuyển tổng cộng 73.743 tấn hàng hóa, 239 triệu lượt người và bốc xếp 44.341 tấn hàng. Đến tháng 9 năm 2011, toàn thành phố có 480.473 xe ôtô và 4.883.753 xe môtô. Đường bộ. Thống kê giữa năm 2017 cho thấy thành phố có tới gần 7,6 triệu xe máy (chiếm 1/3 lượng xe máy cả nước) và khoảng 700.000 ôtô, trong khi tổng dân số là 13 triệu. Ùn tắc giao thông ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và là một trong những thách thức của thành phố. Những năm gần đây, hạ tầng đường bộ của thành phố đã có nhiều đổi thay ngoạn mục. Hiện nay, thành phố được kết nối với các vùng qua hai đường cao tốc chính: Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Long Thành - Dầu Giây và Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương. Ngoài ra, các tuyến Quốc lộ và Xa lộ cửa ngõ cũng đã được đầu tư mở rộng đáng kể, như tuyến Đại lộ Nguyễn Văn Linh (Nam Sài Gòn), Xa lộ Hà Nội (đi Biên Hòa) và Đại lộ Đông – Tây cùng Hầm Thủ Thiêm vượt sông Sài Gòn. Thành phố cũng đầu tư nhiều cầu lớn để tăng cường giảm tải lưu lượng xe cộ ra ngoại thành, tiêu biểu là Cầu Phú Mỹ, Cầu Sài Gòn 2 và Cầu Thủ Thiêm. Giao thông trong nội đô, do tốc độ tăng dân số nhanh, quy hoạch yếu, hệ thống đường sá nhỏ... khiến thành phố luôn phải đối mặt với vấn đề ùn tắc. Thành phố có 239 cây cầu nhưng phần lớn chiều rộng nhỏ hơn chiều rộng của đường nên gây khó khăn cho các phương tiện giao thông. Không những thế, một phần các cây cầu có trọng tải thấp hay đang trong tình trạng xuống cấp. Tại các huyện ngoại thành, hệ thống đường vẫn phần nhiều là đường đất đá. Thành phố có 2 bến xe khách liên tỉnh được phân bố ở các cửa ngõ ra vào: Miền Đông, Miền Tây cùng vài bến xe phụ trợ ở Quận 8, An Sương và Ngã Tư Ga. Mạng lưới khả năng tiếp nhận trên 1.200 xe/ngày, vận chuyển gần 41.000 khách/ngày đi các tỉnh Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long. Nhiều hãng xe tư nhân cũng tham gia vận chuyển hành khách vào các bến bãi không chính thức ở nhiều khu vực nội đô, gần khu dân cư và trung tâm du lịch. Cũng theo số liệu từ 1994, tổng lượng hành khách liên tỉnh qua thành phố khoảng 106,4 triệu lượt người/năm, nhiều nhất qua Quốc lộ 1. Đường sắt. Giao thông đường sắt của thành phố gồm tuyến nội ô và khu vực phụ cận do Xí nghiệp Liên hiệp đường sắt 3 quản lý, tuyến Bắc - Nam và một vài đoạn đường chuyên dụng, hiện hầu như đã ngưng khai thác. Trong thành phố có hai nhà ga chính: Sóng Thần và Sài Gòn. Bên cạnh đó còn có một số nhà ga nhỏ như Dĩ An, Thủ Đức, Bình Triệu, Gò Vấp. Do mạng lưới đường sắt không được nối trực tiếp với các cảng, cơ sở đã cũ kỹ nên giao thông đường sắt Thành phố Hồ Chí Minh không phát triển, chỉ chiếm khoảng 6% khối lượng hàng hóa và 0,6% khối lượng hành khách. Đường thủy. Thành phố hiện có tuyến đường thủy chở hành khách liên tỉnh là tuyến tàu cánh ngầm nối Cảng Nhà Rồng với Cảng Cầu Đá, Thành phố Vũng Tàu. Ngoài ra còn có khoảng 50 bến đò, phà phục vụ giao thông hành khách, trong đó lớn nhất là Phà Cát Lái nối thành phố Thủ Đức với huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai. Khu vực Thành phố Hồ Chí Minh có 4 cảng biển chính: Sài Gòn, Bến Nghé, Nhà Bè, Tân Cảng cùng các cảng sông Bình Đông, Tân Thuận, Tôn Thất Thuyết, Bình Lợi, Bình Phước... Cảng Sài Gòn là một trong những cảng lớn nhất Việt Nam, chiếm 25% trong tổng khối lượng hàng hóa thông qua các cảng biển cả nước. Cảng Bến Nghé nằm phía hạ lưu sông Sài Gòn, rộng 32ha, tổng chiều dài cầu cảng 528m, có thể cho tàu có tải trọng từ 15.000 – 20.000 tấn cập bến. Tuy năng lực của các cảng của Thành phố Hồ Chí Minh lớn nhưng việc chuyển tiếp giữa giao thông đường bộ, đường biển và đường sông gặp khó khăn. Tại hầu hết các cảng đường sông, do thiết bị thiếu, vẫn phải bốc dỡ thủ công. Đường hàng không. Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất nằm trên địa bàn Quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, cách trung tâm thành phố chỉ 7 km. Đây là sân bay nhộn nhịp nhất và có lưu lượng vận chuyển cao nhất cả nước, là cửa ngõ hàng không quốc tế lớn của khu vực Đông Nam Á, với hơn 41 triệu lượt khách đi và đến năm 2019. Hiện có 43 hãng hàng không quốc tế mở đường bay đến sân bay này. Nhà ga thứ 3 sẽ được xây dựng nhằm nâng công suất sân bay Tân Sơn Nhất lên 45 triệu khách/năm, dự kiến khởi công vào quý III/2022. Trong tương lai, khi sân bay quốc tế Long Thành được hoàn tất xây dựng và mở cửa, sân bay này sẽ gánh một lượng hành khách đáng kể từ Tân Sơn Nhất, giúp giảm tình trạng quá tải toàn diện hiện tại. Giao thông công cộng. Để giải quyết vấn đề giao thông đô thị, Thành phố Hồ Chí Minh đang đầu tư cho hệ thống giao thông công cộng. Năm 2008, thành phố có 3.250 xe buýt và 8.000 xe taxi, mỗi năm chỉ đáp ứng khoảng 10% nhu cầu đi lại. Trong đó, hệ thống xe buýt được phục hồi từ năm 2002 đóng vai trò chủ đạo của thành phố. Mặc dù được đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất và trợ giá trên hầu hết các tuyến, mạng lưới này chưa đem lại hiệu quả cao, 65% tuyến trùng lặp. Cùng mạng lưới xe buýt, dự án tàu điện ngầm Thành phố Hồ Chí Minh cũng được đang tiến hành. Theo quy hoạch được duyệt vào năm 2013, thành phố sẽ có 8 tuyến đường sắt đô thị, tổng chiều dài hơn 160 km. Dự kiến đến đầu năm 2024, tuyến metro đầu tiên (tuyến metro số một Bến Thành - Suối Tiên) khởi công tháng 3 năm 2007 sẽ đi vào hoạt động sau hơn 17 năm xây dựng. Đây là tuyến đường sắt đô thị có tổng vốn đầu tư cao nhất, đội vốn nhiều nhất lên tới 2,7 lần so với dự toán ban đầu cụ thể chi phí ban đầu 17.387 tỷ đồng điều chỉnh hiện tại 43.757,15 tỷ đồng đội vốn tương đương khoảng 26.400 tỷ đồng. Bên cạnh đó, dự án các tuyến buýt đường sông Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã được lên kế hoạch và vận hành. Hiện nay, tuyến buýt đường sông số một (Bạch Đằng, Q.1 - Linh Đông, TP.Thủ Đức) đã được vận hành khai thác từ ngày 25 tháng 11 năm 2017. Quy hoạch và kết cấu đô thị. Theo thiết kế đô thị ban đầu của người Pháp vào năm 1860, thành phố Sài Gòn sẽ là nơi sinh sống cho 500.000 dân. Thời Việt Nam Cộng hòa, quy mô dân số của thành phố đã lên đến 3 triệu dân. Tính đến năm 2019, thành phố có dân số (kể cả số lượng người cư trú tạm thời) là 8,99 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải. Khi còn thưa dân, Sài Gòn từng là thành phố nhiều cây xanh với không gian kiến trúc theo quy hoạch của Pháp. Sau này, do dân số tăng nhanh, thành phố đã thay đổi với việc thu hẹp không gian xanh để xây dựng nhà cửa, không gian kiến trúc trở nên chật chội bởi nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất. Công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém. Đến thời điểm đầu năm 2008, mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1/2000 được thực hiện. Quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực hiện xong. Công tác xây quy hoạch và xây dựng đô thị mới vẫn mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp. Trong 10 năm gần đây, khu vực đô thị mới để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị Phú Mỹ Hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng. Quy hoạch Thành phố Hồ Chí Minh tính tới thời điểm 2010 có khoảng trên dưới 600 dự án quy hoạch tại 13 quận huyện. Chiến lược quy hoạch của Thành phố hiện nay là tránh dồn ứ dân cư về nội thành, đồng thời phát triển một số khu đô thị mới góp phần làm giảm mật độ dân số vốn đã quá cao như hiện nay. Tuy nhiên số lượng khu đô thị mới còn rất ít. Quá trình đô thị hóa phần lớn diễn ra một cách tự phát do sự gia tăng dân số chứ không phải bằng việc xây dựng các khu đô thị mới được quy hoạch bài bản. Hạ tầng cũng không phát triển kịp với sự gia tăng dân số trong quá trình đô thị hóa. Du lịch. Trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, trong khoảng 18 triệu khách quốc tế đến Việt Nam vào năm 2019, 8,5 triệu khách đã tới thăm Thành phố Hồ Chí Minh, khoảng 47% cả nước và tăng 13% so với cùng kỳ. Ngoài ra, 33 triệu lượt khách nội địa đã đến thành phố. Doanh thu ngành du lịch 2019 đạt 150.000 tỷ VND, tăng 14,5%. Là một thành phố trẻ chỉ với 300 năm lịch sử, nhưng Thành phố Hồ Chí Minh đã xây dựng được không ít công trình kiến trúc và sở hữu một nền văn hóa đa dạng. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh có 2.320 khách sạn (2019) với 48.182 phòng (2017). Phục vụ những khách cao cấp, thành phố có 20 khách sạn 5 sao, gồm: Caravelle, Sheraton, Mövenpick (Omni cũ), New World, Equatorial, Lotte Legend, Renaissance Riverside, Windsor Plaza, Sofitel Plaza, Park Hyatt, Majestic với tổng cộng 3.592 phòng. Hầu hết các khách sạn này đều do những tập đoàn quốc tế như Accor, Furama, Mariot hay Sheraton quản lý và tập trung nhiều nhất tại Quận 1. Bên cạnh đó, thành phố còn 8 khách sạn 4 sao với 1.281 phòng, 20 khách sạn 3 sao với 1.621 phòng. Do sự phát triển của du lịch, số phòng cao cấp tại thành phố hiện đang thiếu trầm trọng. Mặc dù nhiều nhà đầu tư có ý định xây dựng tiếp các khách sạn sang trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh nhưng họ lại gặp khó khăn trong việc tìm địa điểm. Theo dự kiến, đến năm 2020, thành phố sẽ có thêm 10.000 phòng 4 hoặc 5 sao. Các địa điểm du lịch của thành phố tương đối đa dạng. Với hệ thống 11 viện bảo tàng, chủ yếu về đề tài lịch sử, Thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu Việt Nam về số lượng viện bảo tàng. Bảo tàng lớn nhất và cổ nhất thành phố là Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh với 30 ngàn hiện vật. Trong khi phần lớn khách thăm Bảo tàng Chứng tích chiến tranh là người nước ngoài thì bảo tàng thu hút nhiều khách nội địa nhất là Bảo tàng Hồ Chí Minh. Thành phố Hồ Chí Minh cũng là một đô thị đa dạng về tôn giáo. Trên địa phận thành phố hiện nay, có hơn 1000 ngôi chùa, đình, miếu được xây dựng qua nhiều thời kỳ. Còn các nhà thờ xuất hiện chủ yếu trong thế kỷ 19 theo các phong cách Roman, Gothic. Nhà thờ lớn và nổi tiếng nhất của thành phố là Nhà thờ Đức Bà, nằm ở Quận 1, hoàn thành năm 1880. Thời kỳ thuộc địa đã để lại cho thành phố nhiều công trình kiến trúc quan trọng, như Trụ sở Ủy ban Nhân dân Thành phố, Nhà hát Lớn, Bưu điện trung tâm, Bến Nhà Rồng... Dinh Độc Lập và Thư viện Khoa học Tổng hợp được xây dựng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Kiến trúc hiện đại ghi dấu ấn ở thành phố bằng các cao ốc, khách sạn, trung tâm thương mại như Diamond Plaza, Saigon Trade Center... Khu vực ngoài trung tâm, Địa đạo Củ Chi, Rừng ngập mặn Cần Giờ, Vườn cò Thủ Đức cũng là những địa điểm du lịch quan trọng. Thành phố Hồ Chí Minh còn là một trung tâm mua sắm và giải trí. Bên cạnh các phòng trà ca nhạc, quán bar, vũ trường, sân khấu, thành phố có khá nhiều khu vui chơi như Công viên Đầm Sen, Suối Tiên, Thảo Cầm Viên. Các khu mua sắm, như Chợ Bến Thành, Diamond Plaza... hệ thống các nhà hàng, quán ăn cũng là một thế mạnh của du lịch thành phố. Văn hóa. Truyền thông. Là một trong hai trung tâm truyền thông của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh năm 2009 có 38 đơn vị báo chí thành phố và 113 văn phòng đại diện báo chí trung ương và các tỉnh, 3 nhà xuất bản của thành phố và 21 chi nhánh nhà xuất bản trung ương cùng mạng lưới thông tấn xã, các đài phát thanh, truyền hình địa phương và trung ương. Tổng cộng, trên địa bàn thành phố hiện nay có trên 1000 người hoạt động trong lĩnh vực báo chí. Năm 2020, thành phố còn 28 cơ quan báo chí địa phương (16 báo, 1 đài truyền hình, 1 đài tiếng nói và 10 tạp chí), 161 văn phòng đại diện cơ quan báo chí trung ương, 10 chi nhánh đơn vị truyền hình trả tiền, 46 đơn vị truyền hình vệ tinh. Năm 2022, sau khi sắp xếp giai đoạn 1 theo đề án, Thành phố Hồ Chí Minh còn 19 cơ quan báo chí địa phương, gồm 8 cơ quan báo in, 9 tạp chí, 1 đài truyền hình và 1 đài phát thanh. Trong giai đoạn 2, 2021-2025, thành phố sẽ nghiên cứu để sắp xếp báo chí còn 1 cơ quan truyền thông đa phương tiện. Trong lĩnh vực xuất bản, từ năm 1995 tới nay, 3 nhà xuất bản của thành phố chiếm 1/7 số đầu sách xuất bản của cả Việt Nam. Ước tính khoảng 60 đến 70% số lượng sách của cả nước được phát hành tại Thành phố Hồ Chí Minh. Những năm gần đây, nhiều trung tâm sách, cửa hàng sách hiện đại xuất hiện. Sài Gòn cũng là nơi ra đời tờ "Gia Định báo", tờ báo quốc ngữ đầu tiên. "Sài Gòn giải phóng", "Thanh Niên", "Tuổi Trẻ" nằm trong số những tờ báo lớn nhất Việt Nam hiện nay. Ngoài ra, còn có thể kể đến những báo và tạp chí lớn khác như "Công an thành phố", "Người lao động", "Thời báo kinh tế Sài Gòn", "Thời trang", "Thế giới mới", "Kiến thức ngày nay"... Ngoài báo chí tiếng Việt, Thành phố Hồ Chí Minh còn có "Saigon Times", "Thanhniennews" bằng tiếng Anh (đã ngừng hoạt động), một ấn bản "Sài Gòn giải phóng" bằng tiếng Hoa. Truyền hình đã xuất hiện tại Sài Gòn từ trước năm 1975 do Mỹ xây dựng nhằm phục vụ quân viễn chinh Mỹ, khi miền Bắc còn đang trong giai đoạn thử nghiệm. Ngay sau ngày Chính phủ Sài Gòn sụp đổ, Đài truyền hình Giải phóng đã thu giữ các cơ sở do Mỹ để lại và bắt đầu phát sóng. Đến nay, Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh – HTV trở thành đài truyền hình địa phương quan trọng bậc nhất Việt Nam. Ngoài 2 kênh phát trên sóng analog là HTV7 và HTV9, HTV còn phát triển dịch vụ truyền hình cáp, truyền hình kỹ thuật số và truyền hình độ nét cao HD. Hiện từ ngày 15/06/2016 và 16/08/2016, HTV đã tắt sóng analog lần lượt hai kênh HTV7 và HTV9, tất cả các kênh truyền hình của HTV đang được phát qua hệ thống truyền hình số mặt đất DVB-T2, truyền hình cáp và truyền hình kỹ thuật số theo Lộ trình số hóa của Chính phủ. Đối tượng chính của HTV là dân cư thành phố và đa số các tỉnh miền Nam. Về phát thanh, Đài Tiếng nói Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (VOH) hiện nay đang phát sóng các kênh phát thanh FM 99.9 (phát sóng từ những năm 60), 95.6, 87.7 MHZ và AM 610 KHZ phục vụ nhu cầu thông tin văn hóa giải trí của khán thính giả thành phố và các tỉnh lân cận. Thể dục, thể thao. Theo số liệu thống kê vào năm 1994, toàn Thành phố Hồ Chí Minh có 492,7 hecta dành cho hoạt động thể thao, tức trung bình 1,02 m²/người, trong đó nội thành là 0,26 m²/người. Với sự gia tăng dân số, con số thực tế hiện nay thấp hơn. Vào năm 2005, toàn thành phố có 91 sân bóng đá, 86 bể bơi, 256 phòng tập thể thao. Sân vận động lớn nhất thành phố hiện nay là sân Thống Nhất, với 25.000 chỗ ngồi. Sân vận động lớn thứ hai là sân Quân khu 7, nằm ở quận Tân Bình. Không chỉ dành cho thi đấu thể thao, đây còn là địa điểm tổ chức nhiều chương trình ca nhạc quy mô lớn. Một địa điểm thể thao quan trọng khác của thành phố là Trường đua Phú Thọ. Xuất hiện từ thời thuộc địa, Trường đua Phú Thọ hiện nay là trường đua ngựa duy nhất của Việt Nam. Sở Thể dục – Thể thao thành phố cũng quản lý một số câu lạc bộ như Phan Đình Phùng, Thanh Đa, Yết Kiêu. Thành phố Hồ Chí Minh cũng có những câu lạc bộ thể thao giàu thành tích. Môn bóng đá, Câu lạc bộ Thép Miền Nam – Cảng Sài Gòn, có sân nhà là sân Thống Nhất, từng 4 lần vô địch V-League. Đội bóng đá Công an Thành phố cũng từng một lần vô địch vào năm 1995. Các bộ môn thể thao khác có thể kể đến Câu lạc bộ Bưu điện Thành phố Hồ Chí Minh môn bóng chuyền, các câu lạc bộ bóng rổ, cờ vua, điền kinh, bóng bàn... của thành phố. Câu lạc bộ bóng chuyền Thành phố Hồ Chí Minh là đội bóng chuyên nghiệp đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam Trung tâm văn hóa, giải trí. Những lý do lịch sử và địa lý đã khiến Sài Gòn luôn là thành phố đa dạng văn hóa. Ngay từ giai đoạn thành lập, dân cư của Sài Gòn đã thuộc nhiều dân tộc khác nhau: Kinh, Hoa, Chăm... Thời kỳ thuộc địa rồi Chiến tranh Việt Nam, Sài Gòn hấp thụ thêm nền văn hóa Âu – Mỹ. Cho tới những thập niên gần đây, những hoạt động kinh tế, du lịch tiếp tục giúp thành phố có nền văn hóa đa dạng hơn. Với vai trò trung tâm văn hóa của Việt Nam, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay có 22 đơn vị nghệ thuật, 9 rạp hát, 11 bảo tàng, 22 rạp chiếu phim, 25 thư viện. Hoạt động của ngành giải trí ở Thành phố Hồ Chí Minh nhộn nhịp hơn bất cứ thành phố nào ở Việt Nam. Hầu hết các hãng phim tư nhân lớn của Việt Nam hiện nay, như Phước Sang, Thiên Ngân, HKFilm, Việt Phim... đều có trụ sở chính ở Thành phố Hồ Chí Minh. Doanh thu các rạp của thành phố chiếm khoảng 60–70% doanh thu chiếu phim của cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh cũng sở hữu những sân khấu đa dạng. Nhà hát kịch Sân khấu nhỏ tại Quận 3 với những vở kịch thử nghiệm, những vở thư giãn ở Sân khấu Hài 135 Quận 1, Sân khấu kịch IDECAF với những vở lấy từ tuồng tích cổ hoặc tái hiện các danh tác trên thế giới. Lĩnh vực ca nhạc, Thành phố Hồ Chí Minh là thị trường sôi động nhất, điểm đến của phần lớn các ca sĩ nổi tiếng. Ngoài những sân khấu lớn như Nhà hát Thành phố, Nhà hát Bến Thành, Nhà hát Hòa Bình, Sân khấu Trống Đồng... hoạt động âm nhạc ở thành phố ở những phòng trà, quán cà phê đa dạng: Tiếng Tơ Đồng, M&T, Catinat, ATB, Bodega, Carmen... Thành phố kết nghĩa. Thành phố Hồ Chí Minh đã kết nghĩa với các thành phố khác trên thế giới như sau:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.749753
Địa lý & Hành chính
null
null
Lào Cai là một tỉnh vùng cao biên giới thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam. Năm 2020, Lào Cai là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 55 về số dân, xếp thứ 45 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ trong 15 trong 16 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 730.420 người dân, GRDP đạt 49.310 tỉ Đồng (tương ứng với 2,14 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 76,29 triệu đồng (tương ứng với 3.317 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,55%. Vị trí địa lý. Tỉnh Lào Cai giáp ranh giữa vùng Tây Bắc và vùng Đông Bắc. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Lào Cai, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 290 km, có vị trí địa lý: Địa danh. Tên gọi Lào Cai hình thành từ cuối thế kỷ 19 khi người Pháp để ý đến Việt Nam và khám phá vùng núi Bắc Việt. Tại vùng đất Lào Cai ở đầu cầu Cốc Lếu ngày nay, thì xưa kia có một khu chợ. Vùng biên giới trở nên nhộn nhịp khi vào những năm 1870 người Pháp như Jean Dupuis đến "thám hiểm", mở đường buôn bán vũ khí và mua khoáng sản với Vân Nam, Trung Quốc. Người Pháp dựa vào người H'Mông để tiếp xúc, buôn bán, vận chuyển và tránh mặt giới chức Việt địa phương. Tuy nhiên chợ đã bị quân Cờ đen chiếm giữ đóng đồn, nên người ta mở ra một chợ mới ở nơi nay là Phố Mới. Chợ cũ trong tiếng H'Mông là ""Lao Cai" (RPA: "Log Kab", Chữ Hmông Việt: "Laol Caz"), và Jean Dupuis ghi vào "Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879" ở chỗ chợ này là "Lao-kai, residence du Chef des Pavillone noirs"" (Lao-kai, dinh thủ lĩnh quân Cờ đen). Sau này người Pháp quen dùng nên thành tên của thủ phủ vùng . Giáo sư Đào Duy Anh do không để ý tiếng địa phương, nên nói "khi làm bản đồ, người Pháp viết "Lão Nhai" là "Lao Cai" và sau thành "Lao Kay"". Tên "Lao Kay" đã được người Pháp sử dụng trong các văn bản và con dấu hành chính. Sau tháng 11 năm 1950, đã thống nhất gọi là Lào Cai cho đến ngày nay. Dân số. Dân số năm 2007 của tỉnh Lào Cai là 593.600 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 314.520 người, chiếm khoảng 53% . Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 dân số tỉnh là 613.075 người. Dân số năm 2014 của tỉnh Lào Cai là 665.200 người, trong đó số người trong độ tuổi lao động: 412.600 người, chiếm khoảng 62% Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 30.162 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 10.996 người, tiếp theo là Công giáo đạt 9.009 người, Phật giáo có 8.680 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 12 người, đạo Cao Đài có ba người, Minh Lý đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi tôn giáo chỉ có một người. Dân số tính đến ngày 1/4/2019 của toàn tỉnh đạt 730.420 người, bao gồm dân số thành thị 171.401 người, chiếm 23,5%; dân số nông thôn 559.019 người, chiếm 76,5%; dân số nam 371.306 người, chiếm 50,83%; dân số nữ 359.114 nghìn người, chiếm 49,17%. Dân tộc Kinh có 246.756 người, chiếm 33,8% dân số toàn tỉnh, còn lại các dân tộc khác có 483.664 người, chiếm 66,2% dân số toàn tỉnh. Lịch sử. Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình được hình thành cách nay 50-60 triệu năm, trong đợt tạo sơn cuối cùng, vỏ trái đất vặn mình, đứt gãy. Hơn vạn năm trước, con người đã có mặt tại địa bàn tại đây. Tổ tiên người bản địa Lào Cai nay hồi đó cư trú khá tập trung ở các dải đồi ven sông Hồng, sông Chảy, các cửa ngòi Mi, ngòi Nhù. Các chủ nhân văn hóa Hòa Bình ở Lào Cai đã biết làm nông nghiệp . Trong buổi đầu các bộ tộc xác định ranh giới chủ quyền, thời Hùng Vương thuộc Tân Hưng, là một trong 15 bộ của Nhà nước Văn Lang. Thời Âu Lạc thì vùng phía đông và phía nam Lào Cai thuộc bộ lạc Tây Vu, còn một phần đất phía tây và phía bắc Lào Cai hiện nay thuộc phạm vi của các bộ lạc nhỏ hơn không chịu thuần phục Lạc Việt. Thời Bắc thuộc, ban đầu là địa phận thuộc huyện Tây Vu, quận Giao Chỉ. Sau này thuộc là quận Tân Hưng, đất Giao Châu (thời Tây Tấn), sau là đất châu Đan Đường, Chu Quý thuộc Giao Chỉ (thời Tùy), tiếp đổi Lâm Tây châu, Đức Hóa châu thuộc phủ An Nam (thời Đường, 679) Năm Điều Lộ đầu tiên (679), vua Cao Tông nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, đất tỉnh Lào Cai ngày nay, là Lâm Tây Nguyên (林西原, Cao nguyên Lâm Tây) thuộc An Nam đô hộ phủ thời đó. Đất châu Thủy Vĩ, theo lời chú trong Đồng Khánh địa dư chí, là phần lớn đất tỉnh Lào Cai ngày nay, theo đó cũng thuộc Lâm Tây Nguyên, vùng biên giới của An Nam đô hộ phủ nhà Đường với vương quốc Nam Chiếu. Vùng đất huyện Hà Khẩu (châu Hồng Hà), huyện Mã Quan (châu Văn Sơn) và một phần huyện Kim Bình châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc ngày nay là là động Thất Quán (七綰洞), thuộc Lâm Tây Nguyên của An Nam đô hộ phủ. Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu chép rằngː ""Lâm Tây nguyên ở phía tây Phong Châu, bên cạnh Lâm Tây Nguyên có động Thất Quán của người dân tộc thiểu số mà thủ lĩnh là Lý Do Độc (李猶獨), bộ thuộc có thêm các động như động Đào Hoa (桃花), tất cả đều giúp Trung Quốc canh phòng và thu thuế nơi biên ải với Nam Chiếu. Đường thư chép: Lâm Tây Nguyên trước có binh lính canh phòng cả vào mùa đông. Vào năm Đại Trung thứ tám (854) (thời vua Đường Tuyên Tông), Lý Trác, giữ chức đô hộ An Nam, đã bãi bỏ binh lính biên phòng và giao hết việc phòng biên cho thổ tù Lý Do Độc. Lý Do Độc ở vào thế cô lập không có đủ quân để canh phòng. Nhân đó, viên Thác Đông tiết độ sứ nước Nam Chiếu dụ dỗ mua chuộc ông ta theo về Nam Chiếu. Từ đó, An Nam bắt đầu bị Nam Chiếu xâm lấn. Tân Đường Thư chép rằngː An Nam Đô hộ phủ cai trị quản lĩnh châu Lâm Tây (林西州). Châu này có 2 huyện làː Lâm Tây và Cam Quất (甘橘)." Động Đào Hoa về sau có thể là ải Lê Hoa, tức ải Liên Hoa, nằm trên biên giới Đại Việt và Trung Hoa, nay là hương Liên Hoa Than (Ghềnh Liên Hoa) của huyện Hà Khẩu. Cam Quất có thể là đất thị xã Cam Đường tỉnh Lào Cai Việt Nam ngày nay. Sách Tân Đường thư cũng chépː "An Nam Đào Lâm nhân giả, cư Lâm Tây nguyên, Thất Quán động thủ lĩnh Lý Do Độc chủ chi, tuế tuế thú biên。Lý Trác chi tại An Nam, dã tấu bãi phòng đông binh lục thiên nhân, vị Do Độc khả đương nhất đội, át man chi nhập。Man tù dĩ nữ thê Do Độc tử, Thất Quán động cử phụ man, Vương Khoan bất năng chế。"" . Dịch nghĩa làː Một người gốc Đào Lâm (桃林) ở An Nam, sống ở Lâm Tây Nguyên (林西原), là chúa Lý Do Độc (李由獨), thủ lĩnh của động Thất Quán (七綰洞), canh gác biên giới hàng năm. Lý Trác (李琢) cũng ở An Nam, tuyên bố rút bỏ 6000 binh lính phòng biên mùa đông, và bảo với Lý Do Độc hãy dùng đội thổ binh duy nhất thuộc quyền để mà kiềm chế sự xâm nhập của Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu kết thông gia với Lý Do Độc. Độc đem toàn bộ động Thất Quán theo về Nam Chiếu, mà Vương Khoan (王寬) không thể kiểm soát được. (Vương Khoan làm đô hộ An Nam năm 861). Đại Việt sử ký tiền biên viết: "... "Người Đào Lâm, Phong Châu, An Nam ở động Thất Quán [thuộc] Lâm Tây Nguyên, do thủ lĩnh Lý Do Độc làm chủ, hàng năm vẫn đóng thú biên giới gọi là phòng thủ binh, lại thường giúp Trác [thu] nộp tô thuế. Viên tri châu Phong Châu nói với Trác hãy xin bãi quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc phòng giữ. Trác tâu xin bãi 6 nghìn người ở phòng thú binh và bảo Do Độc có thể tương đương một đội. Thế là Do Độc thế cô không tự lập được. Quan Thác đông tiết độ của Nam Chiếu viết thư mời Do Độc, rồi đem gả con gái cho con trai Độc, bổ làm Thác đông Thác nha (Thác đông là nói sẽ khai thác biên giới phía đông. Giao Chỉ ở phía đông Nam Chiếu cho nên đặt chức ấy). Từ đó An Nam bắt đầu có mối lo về người Man [Nam Chiếu]." Đất Hà Khẩu Vân Nam Trung Quốc ngày nay, thuộc động Thất Quán thời kỳ (854-860) cũng theo về sáp nhập vào Thác Đông tiết độ sứ (拓東節度使) của Nam Chiếu. Phần còn lại của Lâm Tây Nguyên, thuộc An Nam đô hộ phủ, là đất hai huyện Lâm Tây và Cam Quất sau có lẽ lập thành đạo Lâm Tây (林西道), (hay châu Lâm Tây), nay là tỉnh Lào Cai của Việt Nam. Trong thời tự chủ phong kiến thuộc đạo Lâm Tây (林西), hay Đại Cồ Việt thời Đinh, Tiền Lê và Đại Việt thời Lý; đất Đăng Châu (鐙州) thời Lý; tiếp là huyện Thủy Vĩ, trấn Quy Hóa, đạo Đà Giang (水尾縣光化鎭沱江道) thời nhà Trần. Đại Việt sử ký toàn thư chépː "Vào năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ tư (1013), mùa đông, tháng 10 âm lịch, châu Vị Long (渭龍) liên kết với man Nam Chiếu (vương quốc Đại Lý) nổi dậy chống nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ tự dẫn quân đi đánh châu này. Thủ lĩnh châu Vị Long là Hà Yến Tuấn (何晏俊) sợ hãi, dẫn các thuộc hạ chạy vào rừng núi… Vào năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1014, tức năm Đại Trung Tường Phủ thứ bảy nhà Tống), mùa xuân, tháng Giêng âm lịch, các tướng nước Đại Lý là Dương Trường Huệ (楊長惠), Đoàn Kính Chí (段敬至) dẫn 200000 quân Đại Lý vào cướp phá lãnh thổ Đại Cồ Việt, lập doanh trại ở bến Kim Hoa (金華步), đặt tên là Ngũ Hoa trại (五花寨). Châu mục châu Bình Lâm (平林) là Hoàng Ân Vinh (黃恩榮) đã báo cáo vụ việc cho nhà Lý. Vua sai Dực Thánh Vương (翊聖王) đưa quân đi đánh quân Đại Lý xâm lược, chặt đầu hàng nghìn người và bắt sống vô số binh lính và ngựa chiến. Vua ban chiếu cho các viên ngoại lang là Phùng Chân (馮真) và Lý Thạc (李碩) sang nước Tống báo tin thắng trận, và đem biếu 100 ngựa thu được của quân Đại Lý. Vua Tống ban chiếu cho nơi sở tại đưa các sứ nước Việt đến cửa khuyết và đón tiếp đầy đủ. Khi đến nơi, vua Tống cho mời đoàn của Phùng Chân vào yết kiến tại cung Sùng Đức, rồi theo thứ bậc ban thưởng mũ, áo, vải lụa… Vào năm Ất Mão, niên hiệu Thuận Thiên thứ sáu (1015), mùa xuân, … tháng 2 âm lịch, … Vua ban chiếu cho Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương (武德王) đi đánh các châu Đô Kim (都金), Vị Long, Thường Tân (常新), Bình Nguyên (平原) , bắt được thủ lĩnh Hà Yến Tuấn đem về kinh sư, bêu đầu ở chợ Đông." "Năm Đinh Sửu niên hiệu Thông Thụy thứ 4 (1037), mùa xuân, ngày mồng 1 tháng 2, vua Lý Thái Tông thân đi đánh đạo Lâm Tây (林西道), sai Khai Hoàng Vương Nhật Tôn làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, cho Phụng Càn Vương Nhật Trung làm Kinh sư lưu thủ. Quân đi từ Kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, vua từ đạo Lâm Tây về đến kinh."" Năm 1397, Hồ Quý Ly làm phụ chính thái sư, sửa đổi chế độ hành chính, đã đổi các bộ phủ làm trấn và Đà Giang đổi thành trấn Thiên Hưng (天興). Trong đó, huyện Thủy Vĩ, huyện Văn Bàn (文盤) được thành lập trực thuộc châu Quan Hóa. Từ nay Thủy Vĩ, Văn Bàn (vùng đất Lào Cai xưa) đã chính thức trở thành tên đơn vị hành chính của nhà nước phong kiến Đại Việt. Triều Lê đổi đổi lộ làm phủ và đổi trấn làm châu, khi đó lộ Quy Hóa đổi thành phủ Quang Hóa, huyện Văn Bàn, huyện Thủy Vĩ trở thành châu Văn Bàn, châu Thủy Vĩ trực thuộc Phủ Quang Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa. Năm Hồng Đức thứ 31 (1490) đạo thừa tuyên Hưng Hóa đổi thành xứ Hưng Hóa. Đến đời Hồng Thuận Lê Tương Dực (1509-1516) đổi xứ Hưng Hóa thành trấn Hưng Hóa (興化鎭). Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ yếu thuộc đất của châu Thủy Vỹ, châu Văn Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa. Sau khi đánh chiếm Lào Cai (tháng 3 năm 1886), đế quốc Pháp cai quản địa hạt Lào Cai theo chế độ quân sự, cai trị đầu tiên là Đại tá De Maussion . Ngày 7 tháng 1 năm 1899, đạo quan binh IV được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên Bái và Tiểu quân khu Lào Cai Lào Cai là đạo lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV. Để dễ bề kiểm soát và tiến hành khai thác, thực dân Pháp đã chia lại khu vực hành chính và thay đổi chế độ cai trị. Ngày 12 tháng 7 năm 1907, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ đạo quan binh IV Lào Cai, chuyển từ chế độ quân quản sang chế độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh Lào Cai. Emmerich được cử làm Công sứ Pháp đầu tiên của Lào Cai thay tướng Louis Edouard Messager đang làm Tư lệnh Đạo quan binh số 4 Lào Cai. Từ đây địa danh tỉnh Lào Cai được xác định trên bản đồ Việt Nam. Ngày 12 tháng 7 năm 1907 được xác định là ngày thành lập tỉnh Lào Cai. Trải qua những biến động thăng trầm của lịch sử, địa lý Lào Cai cũng có nhiều thay đổi. Sau khi Lào Cai vừa được thành lập, Toàn quyền Pháp ra Nghi định chia lại đơn vị hành chính Lào Cai: phần đất của châu Thủy Vỹ bên hữu ngạn sông Hồng sáp nhập vào Chiêu Tấn, vẫn lấy tên là châu Thủy Vỹ; phần đất của châu Thủy Vỹ bên tả ngạn sông Hồng được tách ra lập thành châu Bảo Thắng. Tỉnh Lào Cai gồm hai châu Thủy Vỹ, Bảo Thắng và các đại lý Mường Khương, Phong Thổ, Bát Xát, Bắc Hà (Pa Kha) và thị xã Lào Cai. Đến 1910, dưới thời của Công sứ Emmerich, một số tổng của Lào Cai (ở châu Thủy Vĩ) được trích ra cùng với một số tổng của Lai Châu lập ra châu Than Uyên do Công sứ Pháp Hernández của tỉnh Sơn La quản hạt. Năm 1930, thời công sứ Pháp ở Lào Cai Henry Wintrebert, địa lý của Lào Cai cơ bản như sau: - Châu Bảo Thắng (bên tả ngạn) có 10 xã và khu tương đương với 34 thôn và 1 khu phố Lào Cai với 3 phố là Tân Bảo, Tân Tèo, Cốc Lếu.  - Châu Thủy Vỹ (bên hữu ngạn) có 4 xã là xã Nhạc Sơn (16 thôn bản), xã Xuân Giao (14 thôn bản), xã Cam Đường (37 thôn bản), xã Gia Phú (16 thôn bản). Tổng cộng là 83 thôn bản.  - Đại lý Mường Khương có 3 xã là xã Mường Khương (45 thôn bản), xã Pha Long (39 thôn bản), xã Bản Lầu (57 thôn bản).  - Đại lý Pa Kha (Bắc Hà) có 3 xã là xã Bắc Hà Đông, xã Bắc Hà Tây, xã Si Ma Cai; 149 thôn bản và 1 khu phố với 2 dãy phố.  - Đại lý Phong Thổ có 4 xã là xã Phong Thổ (có 80 thôn bản), xã Giào San (28 thôn bản), xã Tam Đường (có 58 thôn bản), xã Bình Lư (có 28 thôn bản). Tổng cộng có 194 thôn bản.  - Đại lý Bát Xát có 3 xã:Bát Xát (8 thôn bản), Trịnh Tường (20 thôn bản), Mường Hum (4 thôn bản).  - Khu hành chính Sa Pa có 37 thôn bản. Sau năm 1954, tỉnh Lào Cai có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị xã thị xã Lào Cai (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Bắc Hà, Bảo Thắng, Bát Xát, Mường Khương, Phong Thổ, Sa Pa. Ngày 13 tháng 5 năm 1955, chuyển huyện Phong Thổ về khu tự trị Thái - Mèo quản lý (nay địa bàn Phong Thổ là thành phố Lai Châu và 2 huyện Phong Thổ, Tam Đường thuộc tỉnh Lai Châu). Ngày 11 tháng 2 năm 1963, thành lập thị xã Cam Đường trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của xã Cam Đường thuộc huyện Bảo Thắng. Ngày 15 tháng 11 năm 1966, chia huyện Bắc Hà thành 2 huyện: Bắc Hà và Si Ma Cai. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Lào Cai được hợp nhất với 2 tỉnh Yên Bái và Nghĩa Lộ hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 17 tháng 4 năm 1979, sáp nhập thị xã Cam Đường vào thị xã Lào Cai; sáp nhập huyện Si Ma Cai vào huyện Bắc Hà. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia lại thành 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Khi tách ra, tỉnh Lào Cai có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Lào Cai và 8 huyện: Bắc Hà, Bảo Thắng, Bảo Yên, Bát Xát, Mường Khương, Sa Pa, Than Uyên, Văn Bàn (riêng huyện Than Uyên trước đây thuộc tỉnh Nghĩa Lộ cũ, hai huyện Bảo Yên và Văn Bàn trước đây thuộc tỉnh Yên Bái). Ngày 9 tháng 6 năm 1992, tái lập thị xã Cam Đường. Ngày 18 tháng 8 năm 2000, tái lập 2 huyện Bắc Hà và Si Ma Cai trên cơ sở tách huyện Bắc Hà. Ngày 31 tháng 1 năm 2002, tái sáp nhập thị xã Cam Đường vào thị xã Lào Cai. Ngày 26 tháng 12 năm 2003, chuyển huyện Than Uyên về tỉnh Lai Châu quản lý. Ngày 30 tháng 11 năm 2004, chuyển thị xã Lào Cai thành thành phố Lào Cai. Ngày 30 tháng 10 năm 2014, thành phố Lào Cai được công nhận là đô thị loại II. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển huyện Sa Pa thành thị xã Sa Pa. Tỉnh Lào Cai có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện như hiện nay. Hành chính. Lào Cai có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 152 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 16 phường, 9 thị trấn và 127 xã. Kinh tế - xã hội. Lào Cai là một trong những tỉnh liên tục đứng ở vị trí tốp đầu về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh trong bảng xếp hạng những năm gần đây. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Lào Cai xếp ở vị trí thứ 1/63 tỉnh thành. Tài nguyên. Đất: Lào Cai Có 10 nhóm đất chính, được chia làm 30 loại đất. 10 nhóm đất là: đất phù sa, đất lầy, đất đen, đất đỏ vàng, đất mùn vàng đỏ, đất mùn alit trên núi, đất mùn thô trên núi, đất đỏ vàng bị biến đổi do trồng lúa, đất xói mòn mạnh trơ sỏi đá và đất dốc tụ. Nước: hệ thống sông suối dày đặc được phân bố khá đều trên địa bàn tỉnh với hai con sông lớn chảy qua là sông Hồng và sông Chảy bắt nguồn Trung Quốc và hàng nghìn sông, suối lớn nhỏ. Đây là điều kiện thuận lợi cho Lào Cai phát triển các công trình thủy điện vừa và nhỏ. Trên địa bàn tỉnh có bốn nguồn nước khoáng, nước nóng có nhiệt độ khoảng 40 °C và nguồn nước siêu nhạt ở huyện Sa Pa, hiện chưa được khai thác, sử dụng. Rừng: 278.907 ha, chiếm 43,87% tổng diện tích tự nhiên, trong đó có 229.296,6 ha rừng tự nhiên và 49.604 ha rừng trồng, rất phong phú cả về số lượng loài và tính điển hình của thực vật. Động vật rừng Lào Cai có 442 loài chim, thú, bò sát, ếch nhái. Khoáng sản: Lào Cai đã phát hiện được 150 mỏ và điểm mỏ với trên 30 loại khoáng sản, trong đó có một số mỏ chất lượng thuộc loại quy mô lớn nhất nước và khu vực như: mỏ apatit Cam Đường với trữ lượng 2,5 tỷ tấn, mỏ sắt Quý Xa trữ lượng 124 triệu tấn, mỏ đồng Sin Quyền trữ lượng 53 triệu tấn, mỏ Molipden Ô Quy Hồ trữ lượng 15,4 nghìn tấn. Hạ tầng. Lào Cai là một trong số ít tỉnh miền núi có mạng lưới giao thông vận tải đa dạng, bao gồm: đường bộ, đường sắt, đường sông, và hiện tại đang xây dựng sân bay Sa Pa ở địa bàn xã Cam Cọn, huyện Bảo Yên, dự kiến đi vào hoạt động năm 2026. Đây cũng là điểm cuối của đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai tại vị trí đấu nối với đường cao tốc Côn Minh – Hà Khẩu thuộc phường Duyên Hải, thành phố Lào Cai. Tuyến đường này đi qua địa bàn 4 huyện thị: Văn Bàn, Bảo Yên, Bảo Thắng và thành phố Lào Cai. Được thiết kế theo tiêu chuẩn đường cao tốc hiện đại nhất Việt Nam với tốc độ chạy xe tối thiểu từ 80 km – 100 km/h, Dự án có tổng mức đầu tư lên tới 19.984 tỷ đồng (1,249 tỷ USD), trong đó 1,096 tỷ USD là vốn vay của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Đây là dự án đường cao tốc đầu tiên tại Việt Nam được xây dựng do nhà đầu tư (Công ty Đầu tư Phát triển đường cao tốc Việt Nam - VEC) tự huy động vốn, không sử dụng vốn ngân sách nhà nước. Với tổng mức đầu tư lên tới 1,24 tỷ USD, Dự án có thể coi là "một gói kích cầu lớn" đầu tư vào lĩnh vực đường bộ cho vùng Tây Bắc và các tỉnh thuộc lưu vực sông Hồng. Tuyến đường cao tốc từ Lào Cai về Hà Nội có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở tầm quốc gia mà còn là con đường thúc đẩy phát triển kinh tế của 6 nước trong tiểu vùng sông Mê Kông là: Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam. Toàn bộ dự án được hoàn thành vào năm 2014, dự kiến hoàn vốn sau 32 năm khai thác thu phí, với mức phí là 1000 đồng/km/phương tiện quy đổi. Tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 296 km, đoạn qua địa phận Lào Cai dài 62 km được nối với đường sắt Trung Quốc, năng lực vận tải khoảng 1 triệu tấn/năm và hàng ngàn lượt khách/ngày đêm. Du lịch. Với 25 dân tộc cùng sinh sống, Lào Cai trở thành mảnh đất phong phú về bản sắc văn hóa, về truyền thống lịch sử, di sản văn hóa. Trong đó Người Việt chiếm số đông, có mặt khá sớm và đặc biệt chiếm tỉ lệ cao trong những năm 1960 bởi phong trào khai hoang và cán bộ được điều động từ thành phố Hải Phòng các tỉnh Phú Thọ,Thái Bình, Hà Nam...lên. Trong số các dân tộc khác thì đông hơn cả là Người H'Mông, Tày, Dao, Người Dáy... Người Hoa chiếm tỉ lệ đáng kể. Chính sự phong phú về đời sống các dân tộc đã tạo ra một bản sắc riêng của Lào Cai. Việc các tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai cùng phối hợp tiến hành khai thác Du lịch về cội nguồn chính là phát huy thế mạnh này và đã thu hút được dự quan tâm của du khách. Là tỉnh miền núi cao, đang phát triển nên Lào Cai còn giữ được cảnh quan môi trường đa dạng và trong sạch. Đây sẽ là điều quan trọng tạo nên một điểm du lịch lý tưởng đối với du khách trong và ngoài nước. Khu du lịch nghỉ mát Sa Pa - là một trong 21 khu du lịch quốc gia của Việt Nam. Đây là khu du lịch nổi tiếng hội tụ đủ những giá trị văn hóa đặc sắc, lâu đời của nhiều dân tộc bản địa cùng với khung cảnh thiên nhiên núi non hùng vĩ và khí hậu mát mẻ mang theo săc thái của vùng ôn đới với nhiệt độ trung bình 15-18 °C. Sa Pa nằm ở độ cao trung bình từ 1.200 m - 1.800 m, khí hậu mát mẻ quanh năm, có phong cảnh rừng cây núi đá, thác nước và là nơi hội tụ nhiều hoạt động văn hóa truyền thống của đồng bào các dân tộc như chợ vùng cao, chợ tình Sa Pa. Sa Pa là một trong những địa điểm hiếm hoi có tuyết rơi tại Việt Nam, từ 1957 tới 2013 đã có 21 lần tuyết rơi tại Sa Pa. Lần tuyết rơi mạnh nhất vào ngày 13 tháng 2 năm 1968, liên tục từ 3 giờ sáng đến 14 giờ cùng ngày, dày tới 20 cm. Dãy núi Hoàng Liên Sơn có đỉnh Fansipan được mệnh danh là nóc nhà của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào và Campuchia) và có khu bảo tồn thiên nhiên Hoàng Liên đa dạng sinh học, hấp dẫn nhiều nhà khoa học, khách du lịch đến tham quan, nghiên cứu. Lào Cai có nhiều địa danh lịch sử, hang động tự nhiên và các vùng sinh thái nông nghiệp đặc sản như mận Bắc Hà, rau ôn đới, cây dược liệu quý, cá hồi, cá tầm... Cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai (Việt Nam) - Hà Khẩu thuộc Vân Nam (Trung Quốc) tách nhau qua sông Nậm Thi cũng là một điểm du lịch thú vị cho người tham quan. Văn hóa. Cư dân sinh sống ở tỉnh Lào Cai gồm nhiều dân tộc khác nhau. Mỗi dân tộc đều có những phong tục, tập quán, trang phục, kiểu kiến trúc khác nhau mang dấu ấn văn hóa riêng. Đặc điểm này đã tạo cho Lào Cai bức tranh văn hóa rất đa dạng và phong phú. Nét văn hóa đặc sắc của tỉnh là những phiên chợ vùng cao. Chợ không chỉ là nơi mua bán, trao đổi hàng hóa mà phiên chợ ở đây cũng là dịp giao lưu, hát múa, vui chơi. Chợ còn là nơi trai gái hò hẹn, gặp gỡ hay tìm hiểu bạn đời... Các dân tộc trong tỉnh có một kho tàng văn hóa nghệ thuật dân gian rất đa dạng như truyện cổ, thơ ca, tục ngữ. Người Tày có lối hát giao duyên khá phổ biến với các làn điệu như lượn, phong slu... Người Mường có hát xéc bùa, hát bọ mẹng, hát đồng dao, hát ru... Người Dao thích múa. Người Thái có các điệu múa xòe, sạp, hát thơ... Người H'Mông lại có điệu thổi khèn hay dùng kèn lá, đàn môi để trao đổi tâm tình... Một số lễ hội văn hóa tiêu biểu ở Lào Cai: Hội múa xòe ở Tả Chài Đây là lễ hội của người Tày ở Tả Chài diễn ra cào rằm tháng Giêng hàng năm để suy tôn Thần Nông, một vị thần cai quản ruộng nương. Trong lễ hội có nghi lễ và nhiều trò chơi dân gian thú vị, đậm bản sắc dân tộc vùng núi. Hội chơi núi mùa xuân Là lễ hội của người H'Mông còn được gọi là Gầu Tào hay Sán Sải. Lễ hội thường diễn ra sau Tết nguyên đán. Hội mang màu sắc tín ngưỡng như cầu may, cầu mệnh, cầu phúc... và còn là nơi vui chơi như đôi nam nữ, bắn nỏ, hát giao duyên, múa khèn, ném pa páo (giống quả còn)... Tết nhảy của người Dao Đỏ Khoảng cuối giờ Thìn đầu giờ Tỵ ngày mùng một hoặc mùng hai Tết ba dòng họ lớn ở Tả Phìn là Lý, Bàn, Triệu tổ chức nhảy trong nhà ông trưởng họ. Toàn bộ có 14 điệu nhảy như: mở đường, bắc cầu đưa đón thần linh, chào tổ tiên bố mẹ, mời lên nương, tiểu nữ giáng trần, tổ sư, thầy cả về dự Tết... Sau đó là lễ rước và tắm tượng tổ tiên. Tết nhảy giàu bản sắc, độc đáo, đậm tính nhân văn. Hội Lồng Tồng của người Tày Đây là lễ hội của nhiều tỉnh có người Tày sinh sống trong đó có huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai. Lễ hội tổ chức vào tháng Giêng. Lễ hội phản ánh ước nguyện được mùa, con người khỏe mạnh, sinh nhiều con cháu... Phần lễ có nhiều nghi thức như rước nước, cúng thần bản, thần núi, thần suối, cúng cây. Trong lễ hội còn có rất nhiều trò chơi. Lễ hội Roóng Poọc của người Dáy Đây là lễ hội của người Dáy ở Tả Van, thị xã Sa Pa được được tổ chức vào ngày Thìn đầu tiên của tháng Giêng hàng năm. Đây là lễ hội cầu mùa thu hút đông đảo dân quanh vùng Mường Hoa nên đã trở thành lễ hội chung. Lễ Lập tịch của người Dao Lễ hội ở vùng Khe Mạ, Bảo Thắng được tổ chức trước hoặc sau Tết. Đây là nghi lễ của các gia đình khi có con trai 14 - 15 tuổi thì mời thầy đến làm lễ. Nghi lễ có nhảy từ tháp xuống lưới võng, lễ răn dạy. Nghi lễ cũng là ngày vui của cộng đồng. Sau nghi lễ có múa trống đất, múa sạp, múa gà, ca hát... Ẩm thực. Đặc điểm. Lào Cai là tỉnh có nhiều đặc sản ẩm thực phong phú và đặc sắc. Có được điều này vì đây là nơi có nhiều dân tộc đang sinh sống trong đó có dân tộc Mông, Dao, Tày, Dáy, Nùng là nhiều nhất. Mỗi dân tộc lại có những món ẩm thực đặc trưng riêng. Người Mông sinh sống nhiều nhất ở các huyện Mường Khương, Si Ma Cai, Sa Pa, Bát Xát, Bắc Hà với những ẩm thực phổ biến như lợn cắp nách, gà đen, thắng cố, mèn mén, thịt gác bếp... Người Dao sinh sống nhiều nhất ở các huyện thấp và các huyện hữu ngạn sông Hồng với các ẩm thực như lạp xưởng, xôi màu, bánh lá rừng, thịt nướng... Người Tày sinh sống chủ yếu ở các huyện thấp như Bảo Yên, Bảo Thắng, Văn Bàn có các ẩm thực như cơm lam, bánh chưng đen, xôi ngũ sắc, phở chua, bánh khảo, lạp xưởng... Cộng đồng người Dao và người Tày do cùng sinh sống gần nhau nên nét ẩm thực có phần hơi tương đồng. Người Nùng ở Lào Cai sinh sống chủ yếu ở các huyện Si Ma Cai, Mường Khương, Bắc Hà cũng có các món ăn đặc trưng của dân tộc và ảnh hưởng của ẩm thực người Mông do cùng sinh sống. Ngoài ra còn người Dáy ở Bát Xát và số ít các dân tộc khác như Hà Nhì, Phù Lá, Bố Y, La Chí, Mường... càng làm thêm phong phú về ẩm thực. Sự giao thoa giữa văn hóa ẩm thực người Kinh ở vùng đồng bằng sông Hồng như các tỉnh Thái Bình, Hải Dương, Nam Định... với nhiều người trước đây lên lập nghiệp sinh sống và ở lại đã mang đến và để lại tại nơi đây. Sự phân hóa đa dạng của tự nhiên, từ vùng thung lũng bằng phẳng và núi thấp ở Bảo Yên, Bảo Thắng đến vùng núi cao Sa Pa, Bát Xát; từ vùng mưa nhiều sườn đông Hoàng Liên Sơn đến vùng núi đá, vùng cao nguyên Bắc Hà, vùng ít mưa hơn, vùng Mường Khương, Si Ma Cai làm đa dạng hệ thực vật từ các đặc sản nhiệt đới phổ biến đến các loại rau củ quả, dược liệu làm thực phẩm, dược liệu quý của vùng ôn đới như rau cải mèo, rau củ khởi, đỗ trọng, cải xoăn, đương quy, mắc cọp, đào, táo, sa nhân, hồng, atiso... Danh sách các đặc sản, ẩm thực. Cá hồi Sa Pa, mận tam hoa Bắc Hà, rượu sán lùng Bát Xát, hạt dẻ Sa Pa, măng Văn Bàn, nấm chân chim Bắc Hà, gà đen, óc đậu dưa chua Bắc Hà, nấm hương rừng Sa Pa - Y Tý, khẩu rang Bắc Hà, thịt gừng Nùng Dín, chè san bản Liền, nộm rau dớn Tả Van, cải mèo, phở cốn sủi, lợn cắp nách, bánh tam giác mạch Si Ma Cai, rượu nấm ngọc cẩu, mèn mén, phở chua Bắc Hà, đào Sa Pa, bánh chưng đen Văn Bàn, bánh bỏng Mường Khương, vịt Sín Chéng, bánh phở Nàn Sán, bánh đúc ngô, rượu táo mèo Sa Pa, sâm đất Y Tý, mận Tả Van, bia Hà Nhì, thảo quả, củ ấu tẩu, phở hồng Bắc Hà, rượu men lá Na Lang, gừng Cán Cấu, khâu nhục Mường Khương, cải xoăn Lùng Phình, gạo séng cù, quế Bảo Yên, hạt mắc khén, rượu ngô Bản Phố, nem măng đắng Bảo Yên, atiso Sa Pa, gà đen nướng mắc khén Bắc Hà, dứa Bản Lầu, quả thanh mai Si Ma Cai, đậu phụ nhự Tà Chải, bưởi múc Thái Niên, rượu sâu chít Sa Pa, lê Si Ma Cai, thắng cố Bắc Hà, trám Nghĩa Đô, đương quy Bắc Hà, rượu thóc Sim San, phở chua Bắc Hà, nậm pịa, thịt chó nấu rau cải Bát Xát, cải mầm đá Sa Pa, thịt chuột La Chí, rau pạ phì, bánh lẳng Bảo Yên, chấm chéo, su su Sa Pa, xôi bảy màu Nùng Dín, rượu Mán Thẩn, chè xanh Bảo Yên, lạp xưởng Mường Khương, canh gà đen Mường Khương, rượu thóc Nậm Pung, miến đao Bản Xèo, khoai môn Bảo Yên, tương ớt Mường Khương, chuối ngự Cam Cọn, lợn đen Mường Khương, cá suối Mường Hum, bánh hạt dẻ Sa Pa, bánh khoải Mường Khương, lá hoa đu đủ xào Bắc Hà, trâu Bảo Yên, chè san Tà Thàng, nếp khẩu tan Thẩm Dương.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Giang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Năm 2018, Hà Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 48 về số dân, xếp thứ 58 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) và là tỉnh nghèo trong số 6 tỉnh nghèo nhất cả nước, có huyện Xín Mần thuộc diện huyện nghèo trong 6 huyện nghèo nhất cả nước, xếp thứ 63 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 58 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 846.500 người dân, GRDP đạt 20.772 tỉ Đồng (tương ứng với 0,7610 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 20,7 triệu đồng (tương ứng với 899 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,76%. Địa lý. Vị trí địa lí. Tỉnh Hà Giang nằm ở cực bắc Việt Nam, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Hà Giang:. Trung tâm hành chính của tỉnh là Thành phố Hà Giang, cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 320 km. Địa hình của tỉnh Hà Giang khá phức tạp, có nhiều ngọn núi đá cao và sông suối , có thể chia làm 3 vùng. Vùng cao núi đá phía bắc nằm sát chí tuyến bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà Giang mang nhiều sắc thái ôn đới. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp. Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung lũng sông Lô và Thành phố Hà Giang. Hà Giang có nhiều núi non hùng vĩ, ngoài hai đỉnh núi cao là Tây Côn Lĩnh (2419 m) và Chiêu Lầu Thi (2402m), ở đây còn có các cao nguyên đá tai mèo lởm chởm đặc trưng với những vách đá dựng đứng. Về thực vật, Hà Giang có nhiều khu rừng nguyên sinh, nhiều gỗ quý, và có tới 1000 loại cây dược liệu. Động vật có hổ, chim công, chim trĩ, tê tê, và nhiều loài khác. Khí hậu. Nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa và là miền núi cao, khí hậu Hà Giang về cơ bản mang những đặc điểm của vùng núi Việt Bắc – Hoàng Liên Sơn, song cũng có những đặc điểm riêng, mát và lạnh hơn các tỉnh miền Đông Bắc, nhưng ấm hơn các tỉnh miền Tây Bắc. Khí hậu tỉnh Hà Giang mang nét đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa kết hợp với khí hậu á nhiệt đới vùng núi cao, có mùa đông lạnh kéo dài, lạnh nhất từ tháng XII đến tháng I năm sau. Mùa hè nóng, mưa nhiều, nóng nhất vào tháng VII và tháng VIII. - Nhiệt độ Nhiệt độ trung bình năm tại khu vực thực hiện nhiệm vụ từ 21,8oC đến 23,6oC. Nhiệt độ tại khu vực thành phố Hà Giang và huyện Bắc Quang thường cao hơn khu vực huyện Bắc Mê và Hoàng Su Phì khoảng 1oC đến 2oC. Nhiệt độ trung bình tháng thấp nhất vào tháng I từ 14,5oC đến 19,5oC, nhiệt độ trung bình tháng cao nhất vào tháng VI, VII, VIII từ 25,9oC đến 35,6oC. Theo số liệu quan trắc nhiều năm, có những thời điểm về mùa đông nhiệt độ xuống rất thấp, nhất là vùng cao núi đá có khu vực xuất hiện băng, tuyết có những nơi nhiệt độ thấp nhất xuống tới -0,1oC đo được tại trạm Hoàng Su Phì ngày 27/12/1982. Nhiệt độ thấp nhất tại các trạm vào mùa đông thường nhỏ hơn 10oC. Nhiệt độ cao nhất đo được có thời điểm lên tới 41oC vào ngày 03/5/1994, nhiệt độ cao nhất ngày của các trạm ghi được khoảng 35,2oC đến 41oC. - Độ ẩm Hà Giang là một trong những vùng có độ ẩm cao ở hầu hết các mùa trong năm, độ ẩm bình quân năm là 77-88%, trong đó độ ẩm thấp nhất trung bình tháng là 71% vào tháng 3/1986 và tháng 4/2012 đo được tại trạm Hoàng Su Phì. Độ ẩm cao nhất là 99% vào tháng 10/1997. Độ ẩm cao diễn ra vào các tháng cuối mùa hạ (tháng VII và tháng VIII). - Nắng Số giờ nắng bình quân năm thời kỳ 1981-2019 cả tỉnh khoảng 1.586 giờ, trong năm số giờ nắng nhiều là năm 1981 với 2.241 giờ nắng đo được tại trạm Hà Giang và số giờ nắng ít là năm 2011 với 1.104 giờ đo được tại trạm Bắc Quang. Trong năm, tháng có giờ nắng nhiều nhất rơi vào tháng VII, tháng VIII với số giờ nắng lên tới 348,6 giờ vào tháng IX năm 2010. Tháng có số giờ nắng ít nhất là tháng I, tháng II với số giờ nắng trong tháng chỉ là 10,6 giờ vào tháng I năm 2013. - Gió Hướng gió chính ở Hà Giang phụ thuộc vào địa hình thung lũng, gió trong các thung lũng thường yếu với tốc độ trung bình khoảng 1-1,3 m/s, trong đó tháng VII, tháng VIII là tháng có tốc độ gió lớn nhất: từ 20 m/s (trạm Hoàng Su Phì) đến 35 m/s (trạm Bắc Mê). - Mưa Mùa mưa kéo dài từ tháng V đến cuối tháng IX và mùa khô bắt đầu từ tháng X đến tháng IV năm sau. Lượng mưa năm biến động rất mạnh so với yếu tố khí tượng khác, giá trị cực tiểu, cực đại của lượng mưa có thể chênh nhau từ hai đến ba lần. Xét theo không gian lượng mưa năm thời kỳ 1990-2019 thì trong khu vực dao động trong khoảng 1.200-4.600mm, trong đó tâm mưa lớn nhất là khu vực Bắc Quang, theo kết quả quan trắc lượng mưa tại trạm Bắc Quang thì với lượng mưa năm trung bình thời kỳ 1961-2019 khoảng 4.551mm, là một trong những tâm mưa lớn của khu vực, vào năm 1971 lượng mưa năm lớn nhất đạt 6.366mm. Lượng mưa nhiều nhất vào tháng VI và tháng VII. Địa phương có lượng mưa lớn nhất là huyện Bắc Quang có tháng tới 1.429mm và mưa ít nhất là huyện Hoàng Su Phì, có tháng chỉ 24,2mm. Ngoài ra, tỉnh Hà Giang còn có hiện tượng mưa phùn (32 ngày/năm) nhưng ít chịu ảnh hưởng trực tiếp từ bão. Tuy nhiên, vào mùa mưa dễ gây lũ quét, lũ ống, mưa đá làm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và sinh hoạt của nhân dân địa phương. Đặc điểm địa hình. Do cấu tạo địa hình khá phức tạp, thiên nhiên tạo ra và ưu đãi cho Hà Giang một nguồn tiềm năng to lớn về khí hậu, đất đai, tài nguyên và khoáng sản... Từ những đặc điểm khí hậu, thổ nhưỡng, địa hình Hà Giang được chia thành ba vùng với những điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội khác biệt, mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng đó là: "- Vùng I:" Là vùng cao núi đá phía Bắc gồm 4 huyện: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh và Quản Bạ. Diện tích toàn vùng là 2.352,7 km², dân số trên 20 vạn người chiếm xấp xỉ 34,3% dân số toàn tỉnh. Do điều kiện khí hậu rét đậm về mùa đông, mát mẻ về mùa hè nên rất thích hợp với việc phát triển các loại cây ôn đới như cây dược liệu thảo quả, đỗ trọng; Cây ăn quả như mận, đào, lê, táo... Cây lương thực chính ở vùng này là cây ngô. Chăn nuôi chủ yếu là bò, dê, ngựa và nuôi ong. Những giống gia súc trên đây là giống riêng của vùng ôn đới, có đặc điểm to hơn và chịu được rét đến cả độ âm. Đàn ong ở đây chủ yếu chỉ phát triển vụ hè - thu với 2 loại hoa chính là hoa ngô và hoa bạc hà. Mật ong hoa bạc hà là  thứ mật ong đặc biệt có giá trị trong việc chữa bệnh và bồi dưỡng sức khoẻ. "- Vùng II:" Là vùng cao núi đất phía tây gồm các huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần. Diện tích tự nhiên 1.211,3 km², dân số chiếm 15,9%. Điều kiện tự nhiên vùng này thích hợp cho việc phát triển cây trẩu và cây thông lấy nhựa. Cây lương thực chính vùng này là lúa nước và ngô. Chăn nuôi chủ yếu là trâu, ngựa, dê và các loại gia cầm.Vùng này là vùng đất của chè Shan tuyết và chủ nhân lâu đời của nó là người Dao - Một dân tộc có kinh nghiệm trồng và chăm sóc cây chè núi lâu đời. "- Vùng III:" Là vùng núi thấp gồm các huyện: Bắc Quang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Quang Bình và thành phố Hà Giang là vùng trọng điểm kinh tế của Hà Giang. Diện tích tự nhiên 4.320,3 km², dân số chiếm 49,8%. Điều kiện tự nhiên thích hợp với các loại cây nhiệt đới, thuận lợi cho việc phát triển nghề rừng, trồng các loại cây nguyên liệu giấy như bồ đề, mỡ, thông và đây cũng là vùng tre, nứa, vầu, luồng lớn nhất trong tỉnh... Ngoài ra đây còn là vùng trồng các loại cây ăn quả có múi như cam, quýt, chanh... Tài nguyên thiên nhiên. a. Thổ nhưỡng Thổ nhưỡng của Hà Giang rất phong phú với 9 nhóm đất chính, trong đó nhóm đất xám chiếm diện tích lớn nhất với 585.418 ha, chiếm 74,28% diện tích tự nhiên. Đây là nhóm đất rất thích hợp để trồng và phát triển các loại cây ăn quả (cam, quýt, lê, mận...), cây công nghiệp (chè, cà phê...), cây dược liệu (đỗ trọng, thảo quả, huyền sâm...). Các nhà khoa học đã xác định và phân chia các khu vực thổ nhưỡng chính của Hà Giang như sau: - Khu vòm nâng sông Chảy, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 2 nhóm đá chính là măcma axit và đá biến chất. Địa hình nơi đây được xếp vào kiểu núi khối tảng dạng vòm trên nền nguyên sinh phân cắt mạnh. Khu vực này có lượng mưa trung bình hàng năm khá lớn (3.000 mm). Với những điều kiện như vậy, đã tạo nên ở đây một lớp phủ thổ nhưỡng đa dạng, trong đó phần lớn là đất mùn màu vàng đỏ, phù hợp để phát triển những cánh rừng thuộc kiểu á nhiệt đới. - Khu Quản Bạ - Bắc Mê, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền 3 nhóm đá chính là trầm tích đá hạt mịn bị biến chất, tướng đá lục hoặc  lục yếu tiếp đến là loại đá vôi hoặc sét vôi và đá lục nguyên hạt vừa và mịn. Địa hình ở đây được xếp vào kiểu núi khối tảng trên nền nguyên sinh, bị phân cắt rất mạnh. Đây cũng là khu vực có lượng mưa trung bình năm khá lớn (3.000 mm). Vì vậy, lớp phủ thổ nhưỡng ở đây đa phần là nhóm đất mùn màu vàng đỏ và mùn xám sẫm, tạo nên một thảm thực vật hết sức phong phú với những cánh rừng kiểu á nhiệt đới thường xanh. Khu vực Đồng Văn - Mèo Vạc, lớp thổ nhưỡng hình thành trên nền đá vôi bị phân hoá mạnh, địa hình karst. Phần lớn lớp phủ thổ nhưỡng ở đây là loại đất đỏ xám hoặc vàng sẫm, với thảm thực vật chủ yếu là các loại cây thấp, mật độ thưa. Rừng ở khu vực này thường có các loại cây lấy gỗ thuộc nhóm tứ thiết như trai, nghiến... - Khu tây bắc Vĩnh Tuy, lớp thổ nhưỡng hình thành trên cấu trúc địa chất của vòm nâng sông Chảy. Địa hình nơi đây có đặc trưng là các dải đồi, núi và gò thấp, sườn ít dốc. Khu vực này có lượng mưa lớn nhất cả nước, do vậy lớp phủ thổ nhưỡng ở đây chủ yếu là nhóm đất màu xám sẫm hơi đen, phù hợp với trồng cây ăn quả nhất là cam. b. Tài nguyên khoáng sản Căn cứ trên những cứ liệu về cấu trúc địa chất, các nhà khoa học đã dự báo rằng Hà Giang là một địa bàn có tiềm năng và triển vọng lớn về khoáng sản như sắt, mangan, chì, thiếc, antimon, vàng, đá quý... Sắt ở dạng manhetit - hematit - sulfide đã từng thấy ở Tùng Bá - Bắc Mê. Cũng ở khu vực này còn có mỏ chì - kẽm. Ở vùng đông nam vòm nâng sông Chảy đã phát hiện các mỏ và điểm quặng mangan. Ơ Bắc Quang đã gặp các điểm quặng đồng (Cu - Ni) có nguồn gốc măcma. Ở khu vực từ Cao Bồ đến Việt Lâm có nhiều mạch quặng đa kim - vàng. Đồng thời dọc theo các bãi bồi nhất là từ chỗ gặp nhau giữa sông Lô và sông Gâm trở lên thượng nguồn là nơi có nhiều vàng sa khoáng. Ngoài ra, Hà Giang còn có một trữ lượng khá lớn các loại khoáng sản không kim loại như: Cao lanh, sét gốm, đá vôi, cát, sỏi, cát kết, đá phiến, laterit, granit, gabro, ryolit... và có cả than, trong đó quan trọng hơn cả là vỉa than Phó Bảng. c. Tài nguyên rừng Là một tỉnh vùng núi cao, núi đồi chiếm hơn 3/4 diện tích, môi trường thuận lợi cho thực vật tự nhiên cũng như rừng trồng phát triển. Rừng là thế mạnh kinh tế chủ yếu của Hà Giang và còn có ý nghĩa lớn vào khoa học và bảo vệ môi trường. Do đặc điểm địa hình, thổ nhưỡng, khí hậu, rừng Hà Giang khá phong phú và được coi là một trong những khu vực đặc trưng của kiểu loại rừng á nhiệt đới, với nhiều chủng loại. Diện tích đất rừng của Hà Giang thuộc vào loại lớn của cả nước. Diện tích có rừng tính đến 31/12/2005 là 345.860 ha, đất trống quy hoạch cho lâm nghiệp 262.918 ha. Những năm gần đây, với những chủ trương, chính sách của nhà nước, biện pháp tích cực của địa phương trong triển khai chính sách giao đất, giao rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, nên hàng năm tỉnh trồng thêm được từ 3.000 - 5.000 ha rừng tập trung, do đó đưa độ che phủ đạt 42,9% vào cuối năm 2005. Điều đó không những có tác dụng chống xói mòn đất bề mặt, mà vành đai rừng phòng hộ đầu nguồn đã khống chế phần nào lũ lụt, bảo vệ môi trường sinh thấy. Rừng còn cung cấp nguồn nguyên liệu quan trọng cho công nghiệp giấy, vật tư xây dựng... Người ta đã từng phát hiện ở rừng Hà Giang có nhiều loại động vật quý hiếm như: hổ, báo gấm, vọc má trắng, gấu ngựa, lợn rừng, khỉ, hoẵng... Riêng khu vực Tây Côn Lĩnh đã thống kê được 47 loài thú, 140 loài chim thuộc 25 bộ, 75 họ. Rừng xã Phong Quang (Vị Xuyên) được xếp vào hệ thống các khu bảo tồn thiên nhiên điển hình của hệ rừng núi đá vùng Đông Bắc Việt Nam, với hệ động thực vật rừng phong phú và có giá trị kinh tế cao. d. Tài nguyên thủy sản Tuy là một tỉnh miền núi không có thế mạnh về thủy sản nhưng ở khu vực Hà Giang lại có thể tìm thấy những loài thủy sản quý, hiếm, có giá trị đặc biệt. Trên lưu vực sông Gâm có thể tìm thấy các loại tôm, cua, cá chỉ có ở khu vực nguồn sông có nhiều ghềnh đá. Đặc biệt ở đây có loại cá Dầm xanh, cá Anh vũ ngon nổi tiếng, đã từng là những loại đặc sản cúng tiến cung đình. Trên sông Lô, cũng có một số loài cá, tôm theo nguồn nước sông Hồng ngược lên và được coi là đặc sản ở sông Lô như: cá chép, cá bống, cá măng, ba ba... Phát huy nguồn lợi thủy sản, những năm gần đây, ở nhiều nơi nhân dân đã biết tận dụng mặt nước, các đầm, ao, hồ để chăn thả các loại tôm cá có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao. Một số nơi bà con nông dân còn kết hợp trồng lúa và thả cá trên những chân ruộng nước. Nhiều trang trại của họ đã phát triển theo mô hình VACR (vườn, ao, chuồng, rừng) đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Lịch sử. Vào thời Hùng Vương, mảnh đất Hà Giang đã là một trong 15 bộ của quốc gia Lạc Việt. Thời Thục Phán An Dương Vương lập nước Âu Lạc, Hà Giang thuộc bộ lạc Tây Vu. Trong thời kỳ đô hộ của phong kiến phương Bắc kéo dài nghìn năm, khu vực Hà Giang vẫn nằm trong địa phận huyện Tây Vu thuộc quận Giao Chỉ. Từ năm 1075 (đời nhà Lý). Miền đất Hà Giang lúc đó thuộc về châu Bình Nguyên. Vào đầu đời Trần, khu vực Hà Giang, Tuyên Quang lúc đó gọi là châu Tuyên Quang thuộc lộ Quốc Oai. Năm 1397 đổi thành trấn Tuyên Quang. Địa danh Hà Giang lần đầu tiên được nhắc đến trong bài minh khắc trên chuông chùa Sùng Khánh (xã Đạo Đức, Vị Xuyên), được đúc nhân dịp trùng tu chùa vào đầu thời Vua Lê Dụ Tông tức năm Ất Dậu 1707. Năm Minh Mệnh thứ 16 (năm 1835), nhà Nguyễn bỏ châu Bảo Lạc, chia làm hai huyện: Vĩnh Điện (khoảng Bắc Mê, Yên Minh và một phần Quản Bạ ngày nay và huyện Để Định (khoảng huyện Bảo Lạc, Cao Bằng và một phần Đồng Văn, Mèo Vạc ngày nay). Lấy sông Lô phân giới để chia châu Vị Xuyên thành hai đơn vị hành chính mới: Khu vực phía hữu ngạn sông Lô được gọi là huyện Vĩnh Tuy, còn phía tả ngạn sông Lô là huyện Vị Xuyên. Năm Thiệu Trị thứ hai (năm 1842), triều đình nhà Nguyễn chia Tuyên Quang làm ba hạt: Hà Giang, Bắc Quang, Tuyên Quang. Hạt Hà Giang có một phủ là Tương Yên với bốn huyện: Vị Xuyên, Vĩnh Tuy, Vĩnh Điện, Để Định. Năm Thiệu Trị thứ tư (năm 1844), nhà Vua lại phê chuẩn cho các huyện châu thuộc tỉnh hạt biên giới phía Bắc, Tây Bắc, trong đó có Hà Giang, "vẫn theo như cũ đặt chức thổ quan". Đến đời Tự Đức thì chế độ "thổ quan" bị bãi bỏ trên phạm vi cả nước. Năm 1858, sau khi đánh chiếm hầu hết các tỉnh Nam Kỳ, Bắc Kỳ. Năm 1887, thực dân Pháp đánh chiếm Hà Giang và thay đổi chế độ cai trị bằng cách thiết lập các đạo quan binh. Ngày 20 tháng 8 năm 1891, tỉnh Hà Giang được thành lập, bao gồm phủ Tương Yên và huyện Vĩnh Tuy (tỉnh Tuyên Quang). Năm 1893, trong dịp cải tổ trong các quân khu, Hà Giang trở thành trung tâm của một quân khu và cùng với Tuyên Quang hợp thành Đạo quan binh thứ ba (quân khu 3). Ngày 17 tháng 9 năm 1895, Toàn quyền Đông Dương ra Quyết định số 1432 chia khu quân sự thứ ba thành ba tỉnh: Tuyên Quang, Bắc Quang và Hà Giang. Trong đó, Hà Giang bao gồm huyện Vị Xuyên (trừ tổng Phú Loan và Bằng Hành), cộng thêm các tổng Phương Độ và Tương Yên. Ngày 28 tháng 4 năm 1904, Toàn quyền Đông Dương lại ra quyết định sáp nhập tỉnh Bắc Quang và tỉnh Hà Giang thành Đạo quan binh Hà Giang. Đến thời điểm này, Đạo quan binh thứ ba Hà Giang đã được xác định ranh giới rõ ràng và tương đối ổn định. Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, Hà Giang có 4 châu Bắc Quang, Vị Xuyên, Đồng Văn, Hoàng Su Phì và thị xã Hà Giang. Ngày 23 tháng 3 năm 1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán Khu Lao - Hà - Yên, sáp nhập tỉnh Hà Giang vào Khu tự trị Việt Bắc. Ngày 15 tháng 12 năm 1962, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 211/QĐ-CP<ref name="211/1962/QĐ-CP">Quyết định số 211/QĐ-CP năm 1962 của Hội đồng Chính phủ</ref> về việc: Ngày 1 tháng 4 năm 1965, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 49–CP<ref name="49/1965/QĐ–HĐCP">Quyết định số 49–CP năm 1965 của Hội đồng Chính phủ</ref> về việc chia huyện Hoàng Su Phì thành 2 huyện: Hoàng Su Phì và Xín Mần. Tháng 12 năm 1974, tỉnh Hà Tuyên được thành lập trên cơ sở hợp nhất hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Ngày 14 tháng 5 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 185/1981/QĐ-CP<ref name="185/1981/QĐ-CP"></ref> về việc điều chỉnh địa giới một số xã thuộc các huyện Mèo Vạc, Quản Bạ, Vị Xuyên, Hoàng Xu Phì, Xín Mần. Ngày 21 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 179-HĐBT về việc điều chỉnh địa giới các huyện Yên Minh, Mèo Vạc và Đồng Văn. Ngày 18 tháng 11 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 136-HĐBT<ref name="136/1983/QĐ-HĐBT"></ref> về việc điều chỉnh địa giới một số huyện thuộc tỉnh Hà Tuyên: Ngày 19 tháng 2 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 14-HĐBT về việc chia tách một số xã, thị trấn thuộc huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Tuyên. Ngày 13 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 28-HĐBT về việc chia một số xã và thành lập thị trấn của các huyện Bắc Mê, Na Hang và Yên Sơn thuộc tỉnh Hà Tuyên. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 9 khoá VIII, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quyết định chia tỉnh Hà Tuyên thành hai tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang. Tỉnh Hà Giang được tái lập gồm 10 đơn vị hành chính là thị xã Hà Giang và 9 huyện, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Hà Giang. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/1994/NĐ-CP<ref name="112/1994/NĐ-CP">Nghị định số 112-CP năm 1994 của Chính phủ</ref> về việc: Ngày 29 tháng 1 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 8-CP<ref name="8/1997/NĐ-CP"></ref> về việc chia tách một số xã thuộc các huyện Yên Minh, Bắc Quang và Vị Xuyên thuộc tỉnh Hà Giang. Ngày 20 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 74/1999/NĐ-CP<ref name="74/1999/NĐ-CP"></ref> về việc điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị trấn và xã thuộc các huyện Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, Bắc Quang, Hoàng Su Phì và thị xã Hà Giang, tỉnh Hà Giang. Ngày 1 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 146/2003/NĐ-CP <ref name="146/2003/NĐ-CP"></ref> về việc: Ngày 9 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 104/2005/NĐ-CP<ref name="104/2005/NĐ-CP"></ref> về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập phường, xã thuộc thị xã Hà Giang và huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang. Ngày 23 tháng 6 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định 64/2006/NĐ-CP<ref name="64/2006/NĐ-CP"></ref> về việc điều chỉnh địa giới thị xã Hà Giang và huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang. Ngày 31 tháng 3 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 11/NĐ-CP<ref name="11/2009/NĐ-CP"></ref> về việc thành lập các thị trấn huyện lỵ tại các huyện Đồng Văn, Bắc Mê và Xín Mần thuộc tỉnh Hà Giang. Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP<ref name="35/2010/NQ-CP"></ref> về việc thành lập thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang trên cơ sở toàn bộ thị xã Hà Giang. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 827/NQ-UBTVQH14<ref name="827/NQ-UBTVQH14"></ref> về việc sắp nhập một số xã thuộc các huyện Hoàng Su Phì, Xín Mần thuộc tỉnh Hà Giang: Hành chính. Tỉnh Hà Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 10 huyện với 193 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 phường, 13 thị trấn và 175 xã. Đến năm 2012, tỉnh Hà Giang có 2.069 thôn, tổ dân phố. Toàn bộ các đơn vị hành chính của Hà Giang đều thuộc khu vực miền núi. Dân cư. Dân số tỉnh Hà Giang theo điều tra dân số ngày 1/4/2019 là 854.679 người. Trong đó, dân số thành thị là 135.465 người (chiếm khoảng 15,8% dân số). So với các tỉnh miền núi phía Bắc khác thì dân số Hà Giang tương đối đông. Các dân tộc: H'Mông (chiếm 32,9% tổng dân số toàn tỉnh), Tày (23,2 %), Dao (14,9 %), Việt (12,8 %), Nùng (9,7 %)... Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 40.393 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 35.960 người, tiếp theo là Công giáo đạt 4.110 người, Phật giáo có 290 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 26 người, đạo Cao Đài có ba người, Phật giáo Hòa Hảo có ba người và 1 người theo Minh Lý đạo. Du lịch. Hà Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch cả về thiên nhiên và văn hóa. Lễ hội. Hà Giang là nơi có nhiều sản phẩm văn hóa đặc sắc từ truyền thống lâu đời của hơn 20 dân tộc, một địa danh du lịch đáng nhớ bởi cảnh quan thiên nhiên và con người ở đây. Không giống với bất kỳ một nơi du lịch nào ở Việt Nam, đến Hà Giang, du khách có thể thấy được những sản phẩm kết tinh từ truyền thống văn hóa độc đáo của người miền núi, đó là các loại khăn thêu, túi vải, áo váy với các loại hoa văn rực rỡ. Du khách sẽ tham dự những phiên chợ vùng cao đầy thơ mộng. Lễ mừng nhà mới dân tộc Lô Lô: Lễ mừng nhà mới kéo dài khoảng 2 ngày 2 đêm ở ngôi nhà mới của người dân tộc Lô Lô. Cả bản kéo tới ăn mừng cho ngôi nhà mới. Thầy cúng đi hát, sau đó cùng ăn uống vui chơi, hòa tấu kèn sáo và hát giao duyên nam nữ. Lễ hội mùa xuân: Đây là lễ hội vui xuân của dân tộc H'mông và dân tộc Dao, thường được tổ chức vào những ngày sau Tết Nguyên Đán và kéo dài từ 3 đến 7 ngày. Lễ hội mang tính chất tổng hợp mừng công, cầu mưa, cầu con trai. Lễ hội có thi bắn nỏ, hát giao duyên, ném pa páo, uống rượu, mở tiệc đãi khách. Lễ hội vỗ mông của dân tộc Mông: Ngày mùng 5 Tết Nguyên Đán hằng năm, cái chàng trai, cô gái đổ về Mèo Vạc nhằm tìm cho mình vợ (chồng). Khi tham gia lễ hội, các chàng trai, cô gái tìm đối tượng mà họ cảm thấy phù hợp với mình rồi vỗ mông đối tượng và chờ "đối phương" đáp lại. Đáng buồn, tục lệ tảo hôn vẫn tiếp diễn trong lễ hội này. Lễ hội nhảy lửa của người Pà Thẻn: Lễ hội được tổ chức vào buổi tối ngày cuối năm. Bên đống lửa hồng có nhiều nghi lễ như mừng mùa, cầu thần linh phù hộ cho năm mới. Tại đây có nhiều người nhảy qua đống lửa, than. Trước đó họ đã được thầy mo cúng "nhập hồn" với sức mạnh của thần linh. Kinh tế. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh năm 2018 ước đạt 2.033 tỉ đồng. Hà Giang là vùng miền núi nên dân số ít, mật độ dân số thấp, người Mông chiếm đa số, còn lại là các sắc dân gồm Thổ, La Chí, Tày, Dao, Mán, Nùng, Giáy và Lô Lô... Phần đông đều thờ cúng tổ tiên, thần linh; và đều có những sắc thái văn hóa đặc thù. Cũng vì địa thế toàn rừng núi nên kinh tế Hà Giang tương đối kém phát triển. Lâm sản chính là vài loại gỗ quý như lát hoa, lát da đồng; và các loại gỗ cứng như lim, sến, trai, táu, đinh. Củ nâu, vầu, nứa ở đâu cũng có. Nông sản gồm lúa, ngô, khoai và các loại đậu đỗ. Vùng chân núi Tây Côn Lĩnh trồng nhiều trà. Dân chúng cũng trồng cây ăn trái, mận và lê ở vùng Đồng Văn, Hoàng Su Phì rất nổi tiếng. Nghề nuôi ong lấy mật khá thịnh hành. Rừng Hà Giang có nhiều động vật hoang dã như trăn, rắn, chim công, chim trĩ... Khoáng sản có quặng sắt, mỏ chì, đồng, thủy ngân và cát trộn vàng. Sông Năng và Bảo Lạc có các kỹ nghệ lọc vàng nhưng vẫn còn thô sơ, ngoài ra chỉ toàn những tiểu công nghệ sản xuất vật dụng hàng ngày. Nền thương mại Hà Giang chỉ giới hạn ở sự trao đổi lâm sản với miền xuôi và với Trung Quốc. Các vùng núi thấp như Vị Xuyên, Bắc Quang có kinh tế phát triển hơn vùng núi. Dựa vào sông Lô và lượng mưa lớn, các ngành nông nghiệp ở khu vực này rất phát triển, không kém gì vùng núi trung du. Nơi đây có vùng trồng cam sành nổi tiếng, những cánh đồng phì nhiêu... Rải rác từ Vĩnh Tuy lên đến Vị Xuyên là các nhà máy sản xuất trà, đặc sản của Hà Giang có trà Shan tuyết cổ thụ (xã Cao Bồ). Đặc điểm trà Shan Tuyết là sạch sẽ, không có thuốc trừ sâu và thuốc kích thích, các nhà máy sản xuất trà hiện nay còn khuyến khích nhân dân trong vùng trồng xen kẽ cây gừng giữa các luống trà. Trà Shan tuyết cổ thụ của Hà Giang thường được xuất khẩu sang thị trường Đài Loan, Nhật Bản và một số nước Tây Âu, chưa thịnh hành trong thị trường nội địa như trà Tân Cương - Thái Nguyên. Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực của Hà Giang như: cam sành Bắc Quang, thắng cố, mận đỏ Hoàng Su Phì, chè Lũng Phìn, cơm lam Bắc Mê, măng nứa, gà đen Hà Giang, gạo tẻ Già Diu, cháo ấu tẩu, lê Đồng Văn, hạt bí mèo đen Hà Giang, tam thất, bánh khảo Yên Minh, sâu tre Mèo Vạc, bánh tam giác mạch, tương đậu xị Hà Giang, thảo quả, bánh gai Tân Quang, mật ong bạc hà Mèo Vạc, phở Tráng Kìm, thịt ba chỉ hoa chuối rừng cuốn lá vả, xôi ngũ sắc Hà Giang, bún vịt làng người Tày, rượu ngô Thanh Vân, mèn mén, ý dĩ Chí Cà, bánh ngô Đồng Văn, cua đá Hà Giang, thịt lợn cắp nách, bánh cuốn chan Đồng Văn, bánh chưng gù Hà Giang, lạp xưởng, bánh cuốn trứng, cải mèo, hồng không hạt Quản Bạ, phở chua Hà Giang, tai chua, rêu nướng, thịt chuột La Chí, quả hồ đào, cá bỗng Hà Giang, thịt trâu gác bếp, thịt lợn gác bếp, chè san tuyết, thắng dền, bún vịt Hà Giang, ớt gió Bản Mồ, rau dớn, thịt bò vàng Mèo Vạc, gừng Suối Thầu, quả công xào thịt, bánh khoải Sà Phìn, chè Phìn Hồ, lá hoa đu đủ xào, rượu thóc Nàng Đôn, cốm Hòa Sơn, lợn đen Lũng Pù. Giao thông. Đường bộ. Hà Giang có Quốc lộ 279 (nối các tỉnh miền núi phía Bắc là Quảng Ninh, Bắc Giang, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La và Điện Biên với nhau) Đoạn cuối quốc lộ 279, từ chỗ giao với quốc lộ 6 đến cửa khẩu quốc tế Tây Trang là một phần của đường Xuyên Á AH13. Biển số xe cơ giới. Biển số xe mô tô tỉnh Hà Giang được quy định cụ thể đối với từng huyện: - Thành phố. Hà Giang: 23B1 - Huyện Bắc Quang: 23D1 - Huyện Quang Bình: 23E1 - Huyện Hoàng Su Phì: 23F1 - Huyện Xín Mần: 23G1 - Huyện Vị Xuyên: 23H1 - Huyện Bắc Mê: 23K - Huyện Mèo Vạc: 23P1 - Huyện Đồng Văn: 23N1 - Huyện Yên Minh: 23M1 - Huyện Quản Bạ: 23L1
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cao Bằng là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Địa lý. Tỉnh Cao Bằng nằm ở phía đông bắc Việt Nam, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Cao Bằng:. Trung tâm hành chính của tỉnh là Thành phố Cao Bằng, cách Hà Nội 279 km. Chiều dài của tỉnh theo chiều bắc - nam là 80 km, từ 23°7'12"B đến 22°21'21"B (tính từ xã Trọng Con huyện Thạch An đến xã Đức Hạnh huyện Bảo Lâm). Chiều rộng theo chiều đông - tây là 170 km, từ 105°16'15"Đ - 106°50'25"Đ (tính từ xã Quảng Lâm, huyện Bảo Lâm đến xã Lý Quốc huyện Hạ Lang), trung tâm địa lý của tỉnh nằm ở xã Trương Lương, huyện Hòa An. Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Cao Bằng có diện tích đất tự nhiên 6.690,72 km², là cao nguyên đá vôi xen lẫn núi đất, có độ cao trung bình trên 200 m, vùng sát biên có độ cao từ 600–1.300 m so với mặt nước biển. Núi non trùng điệp. Rừng núi chiếm hơn 90% diện tích toàn tỉnh. Từ đó hình thành nên 3 vùng rõ rệt: Miền đông có nhiều núi đá, miền tây núi đất xen núi đá, miền tây nam phần lớn là núi đất có nhiều rừng rậm. Trên địa bàn tỉnh có hai dòng sông lớn là sông Gâm ở phía tây và sông Bằng Giang ở vùng trung tâm và phía đông, ngoài ra còn có một số sông ngòi khác như sông Quây Sơn, sông Bắc Vọng, sông Nho Quế, sông Năng, sông Neo hay sông Hiến. Đa số diện tích Cao Bằng được che phủ bởi rừng vì thế không khí khá trong sạch ở các vùng nông thôn, các khu dân cư và ở trung tâm thành phố. Các tuyến đường chính của Cao Bằng có mức độ ô nhiễm bụi không cao, do phương tiện giao thông ít, mật độ dân số thấp. Nguồn nước sông đang bị ô nhiễm do ý thức vứt rác bữa bãi của một số người dân cùng với ngành khai thác cát đã làm cho các dòng sông ở đây bị ô nhiễm, hệ sinh thái bị ảnh hưởng. Các phương tiện giao thông trong tỉnh chủ yếu là xe máy, phương tiện ít làm cho mức tiêu thụ nhiên liệu không cao, Cao Bằng không bị ô nhiễm bởi các khí thải nhà kính và nhiều khí độc khác. Bởi vậy, so với các địa phương khác của Việt Nam, Cao Bằng là một trong những tỉnh có khí hậu trong lành và ít ô nhiễm nhất. Khí hậu. Nhìn chung Cao Bằng có khí hậu ôn hòa dễ chịu. Với khí hậu cận nhiệt đới ẩm, địa hình đón gió nên chịu ảnh hưởng trực tiếp từ các đợt không khí lạnh từ phương bắc. Tuy nhiên nhiệt độ của Cao Bằng chưa bao giờ xuống thấp quá 0 °C, hầu như vào mùa đông trên địa bàn toàn tỉnh không có băng tuyết (trừ một số vùng núi cao có băng đá xuất hiện vào mùa đông). Mùa hè ở đây có đặc điểm nóng ẩm, nhiệt độ cao trung bình từ 30 - 32 °C và thấp trung bình từ 23 - 25 °C, nhiệt độ không lên đến 39 - 40 °C. Vào mùa đông, do địa hình Cao Bằng đón gió nên nó có kiểu khí hậu gần giống với ôn đới, nhiệt độ trung bình thấp từ 5 - 8 °C và trung bình cao từ 15 - 28 °C, đỉnh điểm vào những tháng 12, 1 và 2 nhiệt độ có thể xuống thấp hơn khoảng từ 6 - 8 °C, độ ẩm thấp, trời hanh khô vào đầu mùa. Mùa xuân và mùa thu không rõ rệt, thời tiết thất thường; mùa xuân thường có tiết trời nồm, mùa thu mát, dễ chịu. Dân cư. Dân số toàn tỉnh là 530.341 người (theo điều tra dân số ngày 01/04/2019 của Cục Thống kê tỉnh Cao Bằng) . Thành thị: 123.407 người. Nông thôn: 406.934 người. Tỷ lệ đô thị hóa (2022): 23,2% Các dân tộc ở Cao Bằng gồm Tày: 216.577 người (chiếm 40,84% dân số), Nùng: 158.114 người (29,81 %), Mông: 61.579 người (11,65 %), Dao: 54.947 người (10,36 %), Kinh: 27.170 người (5,12 %), Sán Chay: 7.908 người (1,49%), Lô Lô: 2.861 người (0,54%), các dân tộc khác: 1005 người (0.19%). Lịch sử. Vùng đất tỉnh Cao Bằng bắt đầu thuộc lãnh thổ Việt Nam vào năm 1039, khi Lý Thái Tông đánh thủ lĩnh châu Thảng Do và châu Quảng Nguyên (sau này là huyện Quảng Uyên) là Nùng Tồn Phúc. Năm 1041 vợ A Nùng và con trai của Tồn Phúc là Nùng Trí Cao từ động Lôi Hỏa (Hạ Lôi, nay là khoảng hương Hạ Lôi huyện Đại Tân địa cấp thị Sùng Tả tỉnh Quảng Tây Trung Quốc, phía đông bắc huyện Trùng Khánh) về chiếm lại 2 châu trên, nhà Lý cử quân lên đánh bắt được Trí Cao nhưng không giết mà cho làm quan nhà Lý cai quản các châu động trên. Nhà Lý gộp thêm các động Vật Dương, động Lôi Hỏa, động Bình An, động Bà Tư (là các động vốn trong số 10 động thuộc quyền cai quản của Tồn Phúc), cùng châu Thảng Do vào đất Quảng Nguyên và gọi chung là châu Quảng Nguyên. Ngoài châu Quảng Nguyên, thì năm 1041, châu Tư Lang (nay là đất 2 huyện Trùng Khánh và Hạ Lang tỉnh Cao Bằng) nằm ở phía đông bắc châu Quảng Nguyên, nhà Lý cũng phụ vào đất cai quản của Trí Cao, coi như đất Đại Cồ Việt vùng Trí Cao cai quản mà sau đó nhà Lý đòi chủ quyền với nhà Tống gồm 2 châu Tư Lang và Quảng Nguyên (gộp cả Bình An (nay thuộc Cao Bằng), Bà Tư (nay thuộc Cao Bằng), Thảng Do, Lôi Hỏa (phía đông nam Vật Dương), Vật Dương (phía đông Vật Ác), Vật Ác (vùng phía nam trấn An Đức của Tĩnh Tây Quảng Tây ngày nay)). Tuy bề ngoài thần phục nhà Lý, nhưng bên trong Nùng Trí Cao nuôi chí tự cường lập quốc gia độc lập. Năm 1048 Trí Cao lại nổi dậy đánh chiếm động Vật Ác (vùng phía nam An Đức trấn của Tĩnh Tây Trung Quốc ngày nay), vốn thuộc nhà Lý từ năm 1039, nhà Lý đem quân lên đánh. Sau khi gây sự với nhà Lý không thành, Trí Cao đánh chiếm châu An Đức (Ande Zhou 安德州, nay là khoảng địa bàn trấn An Đức của thành phố cấp huyện Tĩnh Tây) và vùng biên giới các tỉnh Quảng Tây, Quảng Đông Trung Quốc. Nhà Tống tiêu diệt quốc gia của Trí Cao năm 1055. Các thủ lĩnh địa phương cai quản châu động kế thừa Trí Cao, không thực sự thần phục nhà Lý, đem một số động thuộc châu Quảng Nguyên (là phần đất phía bắc Cao Bằng ngày nay thuộc thành phố cấp huyện Tĩnh Tây Trung Quốc) sang thần phục nhà Tốngː Nùng Tông Đán (Tông Đản) năm 1049 đem động Vật Ác (sau thuộc Tống bị nhà Tống đổi thành Thuận An châu, nay là các hương trấn biên giới thuộc thành phố cấp huyện Tĩnh Tây địa cấp thị Bách Sắc khu Tự trị Dân tộc Choang Quảng Tây, nằm ở phía tây nam thành phố Tĩnh Tây tiếp giáp các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh tỉnh Cao Bằng, có thể là vùngː hương Nam Pha, hương Thôn Bàn, hương An Ninh, trấn Long Bang (An Bang)...), Nùng Trí Hội năm 1062 đem động Vật Dương sang Tống (nhà Tống đổi tên thành Quy Hóa châu, nay là các hương trấn phía đông nam thành phố cấp huyện Tĩnh Tây, tiếp giáp huyện Trùng Khánh Cao Bằng, có lẽ làː hương Nhâm Trang (Nhâm Động), trấn Nhạc Vũ, trấn Hồ Nhuận (Nhuận Động), trấn Hóa Động... Kèm theo đất Vật Dương nhập Tống đợt này, có thể có cả đất động Lôi Hỏa (Hạ Lôi)...). Đến Chiến tranh Tống-Việt, 1075-1077, châu Quảng Nguyên (bao gồm các vùng đất ngày nay là các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Quảng Uyên, Hòa An, thành phố Cao Bằng, Phục Hòa), châu Tư Lang (nay là Trùng Khánh, Hạ Lang), cùng các châu nay thuộc Lạng Sơn làː Thất Nguyên (Thất Khê, Tràng Định), Môn (Cao Lộc), Tô Mậu (Đình Lập), bị Quách Quỳ tướng nhà Tống chiếm đóng không trả lại Đại Việt sau chiến tranh (Giai đoạn này châu Quảng Nguyên bị nhà Tống đổi tên thành Thuận châu). Bằng chiến thuật vừa gây xung đột biên giới (lùng bắt Nùng Trí Hội), vừa ngoại giao triều cống và đàm phán, từ năm 1077 đến năm 1088, vua quan nhà Lý thời Lý Nhân Tông dần thu phục lại gần như hoàn toàn các vùng đất bị nhà Tống chiếm từ nhà Lý trước đó và trong cuộc chiến Tống - Việt. Kết quả đàm phán của phái đoàn Đào Tông Nguyên sứ thần nhà Lý năm 1079, thu lại được toàn bộ các châu nay là đất Lạng Sơn (là châu Tô Mậu, châu Môn và châu Thất Nguyên), đất nay thuộc Cao Bằng thì thu lại được châu Tư Lang, và phần lớn châu Quảng Nguyên (Thuận châu nhà Tống, phần đất nhà Tống chiếm trong cuộc chiến 1076-1077), trừ phân đất Vật Ác (châu Thuận An nhà Tống), Vật Dương (châu Quy Hóa nhà Tống), Lôi Hỏa mất về nhà Tống trước chiến tranh thì nhà Tống không trả. Năm 1084, phái đoàn Lê Văn Thịnh sứ thần nhà Lý, tiếp tục sang Bằng Tường Quảng Tây Trung Quốc đàm phán đòi lại đất hai động Vật Dương và Vật Ác từ nhà Tống. Nhưng thay vì trả đất hai động Vật Dương và Vật Ác của châu Quảng Nguyên, thì nhà Tống đổi lại trả cho nhà Lý vùng đất 6 huyệnː Bảo Lạc, Luyện, Miêu (Pác Miêu), Đinh, Phóng, Cận (là đất nay thuộc các huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm tỉnh Cao Bằng) cùng 2 động Túc (Tĩnh Túc), Tang (nay là khoảng vùng đất huyện Nguyên Bình Cao Bằng). Các huyện động này vốn là các châu động ki mi nằm kẹp giữa hai nước Lý, Tống, nằm ở phía tây châu Quảng Nguyên, ở phía đông châu Bình Nguyên (Vị Xuyên, Hà Giang). Tuy nhiên, nhà Lý vẫn kiên trì tiếp tục đàm phán đòi đất 2 động Vật Dương, Vật Ác cho đến năm 1088, nhưng không thành công. Từ đó đất 2 động Vật Ác (châu Thuận An nhà Tống), Vật Dương (châu Quy Hóa nhà Tống) vĩnh viễn thuộc Trung Quốc (ngày nay chúng là vùng đất phía nam của thành phố cấp huyện Tĩnh Tây địa cấp thị Bách Sắc khu Tự trị Dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây, tiếp giáp biên giới với các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, và Trùng Khánh của Cao Bằng). Đại Việt sử ký tiền biên, Ngô Thì Sĩ chépː ""Giáp Tý năm thứ 9 (1084, Tống Nguyên Phong năm thứ 7) mùa Hạ tháng 6, sai Thị lang bộ Binh là Lê Văn Thịnh sang Tống bàn việc biên giới. Họp với Hữu giang tuần kiểm nhà Tống là Thành Tác ở Quảng Tây bàn về biên giới Thuận An, Quy Hóa. Văn Thịnh đến nơi, mọi việc đều lựa chiều uốn nắn, không hề biện bác, chỉ từ từ lấy lý mà giảng giải, có câu rằngː "Bồi thần này không dám tranh chấp". Vua Tống nghe tin, ban chiếu cho Văn Thịnh là biết theo ý kính thuận, ban cho áo dài rồi nhân đó trả cho ta 6 huyện thuộc Bảo Lạc, 6 động thuộc Túc Tang ở phía ngoài cửa ải."" Thời Lê sơ, Lê Thánh Tông cho lập thừa tuyên Thái Nguyên (Ninh Sóc), thì Cao Bằng là 1 trong 3 phủ của thừa tuyên Thái Nguyên. Phủ Cao Bằng lúc này gồm 4 châuː Thượng Tư Lang (châu Thượng Lang, nay là huyện Trùng Khánh), Hạ Tư Lang (châu Hạ Lang, nay là huyện Hạ Lang), Quảng Uyên (đổi từ châu Quảng Nguyên, nay là các huyện Quảng Uyên, Phục Hòa), Thạch Lâm (nay là các huyện Hà Quảng, Trà Lĩnh, Thạch An, Hòa An, Nguyên Bình, và thành phố Cao Bằng). Phần phía tây tỉnh Cao Bằng ngày nay lại thuộc thừa tuyên Tuyên Quang là châu Bảo Lạc thuộc phủ Yên Bình, (châu Bảo Lạc nay là đất các huyện Bảo Lạc, Bảo Lâm của tỉnh Cao Bằng). Năm 1499 niên hiệu Cảnh Thống thứ 2, vua Lê Hiến Tông tách phủ Cao Bằng ra khỏi Thái Nguyên lập thành một trấn riêng mang tên Cao Bằng. Từ đây Cao Bằng trở thành đơn vị hành chính tương đương cấp tỉnh ngày nay. Nên hiện nay, Việt Nam lấy năm 1499 là năm thành lập tỉnh Cao Bằng.. Tuy nhiên, Đào Duy Anh thì cho rằng Cao Bằng chỉ thực sự tách khỏi Thái Nguyên thành một trấn (đơn vị hành chính cấp tỉnh) từ sau khi nhà Mạc bị diệt. Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, Đào Duy Anh viếtː "Phủ Cao Bằngː Nhất thống chí (Cao Bằng) chép rằng đời Lê Quang Thuận là phủ Bắc Bình; đời Hồng Đức mới đổi làm Cao Bình, tức Cao Bằng. Sau khi họ Mạc bị diệt hẳn mới đổi làm trấn Cao Bằng, vẫn lãnh một phủ là phủ Cao Bằng; đầu đời Gia Long đặt trấn thủ; năm thứ 7 (1808) đổi tên phủ làm [phủ] Trùng Khánh, năm Minh Mạng thứ 12 (1831) làm tỉnh Cao Bằng." Sau khi thất thủ Thăng Long năm 1592, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng và xây dựng vùng đất này để chống lại nhà Lê Trịnh cho đến 1677 mới chấm dứt. Thời Pháp thuộc. Từ năm 1886 – 1945, tên gọi, địa giới và số lượng các đơn vị hành chính tỉnh Cao Bằng luôn có sự thay đổi. Cuối thế kỷ XIX, tỉnh Cao Bằng gồm có phủ Trùng Khánh (với 3 châu: Thượng Lang, Hạ Lang, Quảng Uyên) và phủ Hòa An (với 3 châu: Thạch Lâm, Thạch An, Nguyên Bình). Tháng 10 năm 1886, thực dân Pháp đánh chiếm Cao Bằng, đặt J. Gallieni làm chỉ huy chính. Năm 1888, Cao Bằng là một quân khu, do Oudri làm chỉ huy trưởng. Quân khu Cao Bằng gồm Tiểu quân khu Cao Bằng và các đồn binh: Cao Bằng, Sóc Giang, Nguyên Bình, Ngân Sơn, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Lang, Phục Hoà, Nặm Nàng. Thực dân Pháp đã phân chia địa bàn từ Thanh Hoá trở ra bắc thành 14 quân khu. Mỗi quân khu do một sĩ quan cấp đại tá hoặc cấp tướng trực tiếp chỉ huy. Ngày 06/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định bãi bỏ các quân khu và thiết lập các đạo quan binh. Đạo quan binh là đơn vị hành chính đặc biệt do giới quân sự nắm quyền cai trị. Mỗi đạo quan binh do một sĩ quan đứng đầu làm tư lệnh với đầy đủ quyền dân sự và quân sự, thời kỳ đầu về dân sự ngang với Thống sứ Bắc Kỳ. Ngày 20/8/1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tại Bắc Kỳ 4 đạo quan binh: Đạo quan binh 1 Phả Lại, Đạo quan binh 2 Lạng Sơn, Đạo quan binh 3 Yên Bái, Đạo quan binh 4 Sơn La. Đạo quan binh thứ 2 thủ phủ đặt tại Cao Bằng (Cao Bằng là tiểu quân khu thuộc Đạo quan binh 2). Tư lệnh trưởng đầu tiên là Escoubet. Sau đó chuyển thành Đạo quan binh 2 Cao Bằng, đạo lỵ đặt tại Cao Bằng, gồm 3 tiểu quân khu: Cao Bằng, Bảo Lạc, Bắc Kạn. Ngày 01/01/1906, Toàn quyền Đông Dương ra quyết định: "các Đạo quan binh 2, 3 và 4 được đặt lại, về phương diện tài chính dưới quyền của Thống sứ Bắc Kỳ và được cai trị theo luật lệ hiện hành tại các tỉnh dân sự. Việc cai trị các Đạo quan binh 2, 3 và 4 vẫn đặt dưới quyền một sĩ quan cao cấp cấp đại tá hoặc trung tá. Mỗi đạo quan binh được phân thành 2 hạt. Việc chia thành khu vực bị bãi bỏ". Từ sau Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 16/4/1908, đạo quan binh chia thành các đơn vị hành chính và tư pháp ngang với công sứ các tỉnh dân sự. Năm 1926, theo sách "Địa dư các tỉnh Bắc Kỳ", "Cao Bằng là Đạo quan binh thứ nhì" gồm 1 phủ: Hòa An (phủ lỵ ở Nước Hai); 7 châu: Hà Quảng, Thạch An, (châu lỵ ở Đông Khê), Nguyên Bình, Phục Hoà (châu lỵ ở Tà Lùng), Quảng Uyên, Thượng Lang (châu lỵ ở Trùng Khánh phủ) và Hạ Lang; 3 đại lý: Quảng Uyên, Nguyên Bình và Đông Khê. Sau năm 1945. Năm 1948, Chính phủ quyết định bãi bỏ cấp tổng, phủ, đạo, châu. Cấp trên cấp xã và dưới cấp tỉnh thống nhất gọi là huyện. Tỉnh Cao Bằng lúc đó gồm thị xã Cao Bằng và 10 huyện: Bảo Lạc, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An, Nguyên Bình, Phục Hòa, Quảng Uyên, Thạch An, Trấn Biên, Trùng Khánh. Ngày 3 tháng 10 năm 1950, Cao Bằng hoàn toàn được giải phóng khỏi ách thống trị của thực dân Pháp. Ngày 1 tháng 7 năm 1956, Cao Bằng cùng các tỉnh Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang hợp thành Khu tự trị Việt Bắc. Ngày 20 tháng 3 năm 1958, huyện Trấn Biên được đổi tên thành huyện Trà Lĩnh. Ngày 14 tháng 3 năm 1963, thành lập thị trấn Tĩnh Túc trực thuộc tỉnh Cao Bằng theo Quyết định số 26-CP. Ngày 7 tháng 4 năm 1966, chia huyện Hà Quảng thành hai huyện Hà Quảng và Thông Nông. Ngày 8 tháng 3 năm 1967, hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên hợp nhất thành huyện Quảng Hòa theo Quyết định số 27-CP. Ngày 15 tháng 9 năm 1969, giải thể huyện Hạ Lang, nhập vào hai huyện Quảng Hòa và Trùng Khánh theo Quyết định số 176-CP. Đến ngày 27 tháng 12 năm 1975, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà (khoá V) kỳ họp thứ 2 quyết nghị bỏ cấp khu trong hệ thống các đơn vị hành chính. Tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn hợp nhất thành một tỉnh là Cao Lạng, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Cao Bằng. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, tái lập tỉnh Cao Bằng từ tỉnh Cao Lạng, đồng thời nhập hai huyện Ngân Sơn và Chợ Rã của tỉnh Bắc Thái vào tỉnh Cao Bằng theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ 4. Khi đó tỉnh Cao Bằng có tỉnh lị là thị xã Cao Bằng và 11 huyện: Bảo Lạc, Chợ Rã, Hà Quảng, Hòa An, Ngân Sơn, Nguyên Bình, Quảng Hòa, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được thị xã Cao Bằng và đã hủy diệt hầu như toàn thị xã, các công trình kiến trúc đã bị phá tan tành, kể cả chùa chiền đền miếu. Khu di tích chủ tịch Hồ Chí Minh tại hang Pác Bó, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng cũng bị đặt bom mìn phá sập cửa hang và các di tích của Bác, bức bia đá Bác viết khi vừa trở về Tổ quốc cũng bị nứt làm đôi. Ngày 1 tháng 9 năm 1981, tái lập huyện Hạ Lang từ các xã đã nhập vào hai huyện Quảng Hòa và Trùng Khánh theo Quyết định số 44-HĐBT ngày 1 tháng 9 năm 1981. Cùng ngày, chuyển thị trấn Tĩnh Túc trực thuộc huyện Nguyên Bình Quyết định số 44-HĐBT. Ngày 6 tháng 11 năm 1984, huyện Chợ Rã đổi tên thành huyện Ba Bể theo Quyết định số 144-HĐBT. Cuối năm 1995, tỉnh Cao Bằng có 1 thị xã Cao Bằng và 12 huyện: Ba Bể, Bảo Lạc, Hạ Lang, Hà Quảng, Hòa An, Ngân Sơn, Nguyên Bình, Quảng Hòa, Thạch An, Thông Nông, Trà Lĩnh, Trùng Khánh. Năm 1996, trả hai huyện Ngân Sơn và Ba Bể về tỉnh Bắc Kạn mới tái lập. Ngày 25 tháng 9 năm 2000, chia huyện Bảo Lạc thành huyện Bảo Lạc mới và huyện Bảo Lâm theo Nghị định số 52/2000/NĐ-CP. Ngày 13 tháng 12 năm 2001, tái lập hai huyện Phục Hòa và Quảng Uyên từ huyện Quảng Hòa. Ngày 25 tháng 8 năm 2012, chuyển thị xã Cao Bằng thành thành phố Cao Bằng theo Nghị quyết 60/NQ-CP. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập huyện Thông Nông vào huyện Hà Quảng. Ngày 1 tháng 3 năm 2020, sáp nhập huyện Phục Hòa, huyện Quảng Uyên và xã Quốc Toản thuộc huyện Trà Lĩnh thành huyện Quảng Hòa; sáp nhập phần còn lại của huyện Trà Lĩnh vào huyện Trùng Khánh. Tỉnh Cao Bằng có 1 thành phố và 9 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Cao Bằng có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 161 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 14 thị trấn, 8 phường và 139 xã. Du lịch. Nằm ở phía bắc vùng Việt Bắc, nơi địa đầu Tổ quốc, Cao Bằng được thiên nhiên ưu đãi những tiềm năng du lịch phong phú. Thắng cảnh. Cao Bằng có núi, rừng, sông, suối trải dài hùng vĩ, bao la, thiên nhiên còn nhiều nét hoang sơ, nguyên sinh. Khu vực thác Bản Giốc và động Ngườm Ngao tại huyện Trùng Khánh là một thắng cảnh đẹp. Thác nằm trên dòng chảy của sông Quây Sơn, được ca ngợi là một trong những thác nước đẹp nhất trong khu vực và trên thế giới. Động Ngườm Ngao (dịch theo tiếng địa phương là hang hổ) là thế giới của nhũ đá thiên nhiên gồm hàng nghìn hình khối khác nhau, có cái như đụn gạo, đụn vàng, đụn bạc, hình voi, rồng, hổ báo, mây trời, cây cối, hoa lá, chim muông, các khe suối ngầm róc rách mát rượi. Nơi đây đã hình thành điểm du lịch hấp dẫn, thu hút các du khách đến từ khắp nơi trong và ngoài nước đến thưởng ngoạn. Ngoài ra phải kể đến hồ núi Thang Hen ở huyện Quảng Hòa, núi Phia Oắc ở huyện Nguyên Bình. Ngày 12-4-2018, tại Kỳ họp lần thứ 204 tại Paris, Hội đồng Chấp hành UNESCO đã thông qua Nghị quyết công nhận Công viên Địa chất Non Nước Cao Bằng là Công viên địa chất toàn cầu UNESCO (CVĐCTC). Với danh hiệu này, CVĐC non nước Cao Bằng trở thành CVĐC toàn cầu thứ 2 ở Việt nam, sau CVĐC Cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang. Du lịch văn hóa. Cao Bằng là vùng đất có truyền thống cách mạng lâu đời, là nơi cội nguồn của cách mạng Việt Nam. Tiêu biểu như khu di tích lịch sử cách mạng Pác Bó, thuộc xã Trường Hà, huyện Hà Quảng. Nơi đây Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt chân về nước, sống và làm việc, lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành độc lập cho dân tộc từ năm 1941 đến 1945. Khu di tích Kim Đồng được xây dựng gồm có mộ anh Kim Đồng và tượng đài khang trang tại chân Rặng núi đá cao đồ sộ, tượng đài anh Kim Đồng với bộ quần áo nùng và tay nâng cao con chim bồ câu đưa thư, trước tượng đài có 14 bậc đá và 14 cây lát vươn cao xanh ngắt. Nơi đây có một khoảng sân rộng, hàng năm thiếu niên và Nhi đồng của tỉnh Cao Bằng, cả nước thường tụ hội tại đây cắm trại, vui chơi ca hát. Khu di tích lịch sử Rừng Trần Hưng Đạo, huyện Nguyên Bình, nơi đây đã thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hay được gọi là Việt Minh. Ở gần đây có Di tích về chiến thắng của Việt Minh trước quân đội Pháp đã chiếm đóng ở hai đồn Phai Khắt và Nà Ngần. Khu di tích Đông khê thuộc huyện Thạch An tỉnh Cao Bằng: Là chứng tích ghi lại chiến thắng lịch sử thời kỳ đầu kháng chiến của Việt Nam dân chủ cộng hòa chống lại chính quyền Pháp để giải phóng đất nước: Đồn Đông Khê và khu tưởng niệm Hồ Chí Minh đã chỉ huy mặt trận. Đền Xuân Lĩnh ở huyện Thạch An thờ Trần Quyết. Năm 1682, ông làm tướng tiên phong đi đánh nhà Mạc bị trọng thương và mất. Ông được phong làm Phúc thần, tên hiệu là Kỳ Lịch Đại Vương được dân bản dựng đền thờ phụng. Di tích có ý nghĩa lịch sử về truyền thống đấu tranh, khát vọng hòa bình thống nhất của dân tộc trên vùng cao biên cương địa đầu Tổ quốc. Chùa Viên Minh tọa lạc tại xã Xuân Lĩnh, huyện Thạch An. Chùa được xây dựng từ thời Lê đầu đời Cảnh Hưng, chùa từng bị hoang phế. Đến lúc yên hàn chùa được mở rộng tiền đường Phật điện, đúc chuông lớn chu vi 7 thước 5 tấc. Chùa là điểm văn hóa tâm linh và điểm du lịch của vùng. Làng rèn Phúc Sen là một làng nghề truyền thống ở một vùng sơn cước núi đá vôi thuộc huyện Quảng Uyên đã có cách đây hơn một trăm năm. Lễ hội mời Mẹ Trăng là lễ hội của người Tày vùng Đông Khê được tổ chức vào đầu mùa xuân sau tết Nguyên Đán kéo dài 7 đến 10 ngày. Hội chỉ mở riêng trong từng bản hoặc có mời thêm các người thân từ các bản lân cận cùng tham gia. Lễ hội với ước muốn cầu Mẹ Trăng ban điều tốt lành, mùa màng bội thu, gia súc cũng nhanh lớn không ốm đau. Lễ hội có nhiều trò vui như giao lưu, đánh quay, đánh yến... Lễ hội kết thúc gọi là Slống Hai tức là tiễn trăng về trời. Thành Bản Phủ thời nhà Mạc và chùa Đống Lân thời Đinh ở huyện Hòa An. Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực Cao Bằng như: miến rong Phia Đén, đường phên Bó Tờ, bánh khẩu si Nà Giàng, chè Đoỏng Lẹng, phở chua Cao Bằng, trám đen, lợn Hạ Lang, bí hương Thạch An, măng ngâm ớt, cốm Nà Pò, lê mắc cọp, bánh khảo Thông Huề, thịt chua, rau sắng, vịt cỏ Trùng Khánh, quả mắc kham, bún khô ngũ sắc Hồng Quang, bánh ngô non, giảo cổ lam, rượu báng Lũng Cải, bánh trứng kiến, vịt quay Cao Bằng, quýt Quang Hán, bánh chưng đen Bảo Lạc, rau bò khai, bò u Bảo Lâm, rượu men lá Thông Nông, mía vàng Thể Dục, bánh cuốn Cao Bằng, bánh coóng phù, hạt dẻ Trùng Khánh, chè dây, bánh pẻng khua Đông Khê, lạp xưởng hun khói, gạo nếp Pì Pất, măng, gà đen Bảo Lạc, khâu nhục, tương Mẹc Cảng, rau dớn, đường phên Vinh Quý, thịt gác bếp, rượu mía Phục Hòa, bánh coóc mò, mận máu Xuân Trường, bánh áp chao, rượu ngô, thạch đen Thạch An, mắc mật, lợn Hương, cá trầm hương Trùng Khánh, bánh cuốn canh Cao Bằng, hoa hồi, nếp cẩm Yên Thổ, chè xanh, đậu phụ chao Thông Huề, lợn quay Cao Bằng, xôi trám, gạo nếp ong Trùng Khánh. Kinh tế - xã hội. Năm 2018, Cao Bằng là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 60 về số dân, xếp thứ 62 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 62 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 49 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 540.400 người dân, GRDP đạt 14.429 tỉ Đồng (tương ứng với 0,6267 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 26,7 triệu đồng (tương ứng với 1.160 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,15%. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2018, tỉnh Cao Bằng xếp ở vị trí thứ 58/63 tỉnh thành. Thực hiện giai đoạn 5 năm 2016 - 2020, Cao Bằng không ngừng đổi mới, phát triển, đã đạt được những kết quả quan trọng: Tăng trưởng kinh tế ước đạt 6,57%/năm; thu nhập bình quân đầu người ước đạt 1.100 USD/người/năm; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 58,72% so với GRDP; thu ngân sách trên địa bàn tỉnh có bước phát triển ổn định, vượt so với dự toán Trung ương giao bình quân 27%/năm; tỷ lệ giảm nghèo bình quân trên 3%/năm, trong đó các huyện nghèo giảm bình quân trên 4%/năm; tỷ lệ che phủ rừng 54,5%; tỷ lệ dân cư thành thị được dùng nước sạch đạt trên 86%; tỷ lệ dân cư nông thôn được dùng nước hợp vệ sinh trên 88%. Giai đoạn 2016 – 2018, có 87 dự án được cấp chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đầu tư: 12.308 tỷ đồng. Dự kiến cả 17/17 chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó một số chỉ tiêu chính như sau: Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) ước tăng 7%; GRDP bình quân đầu người/năm ước đạt 24,9 triệu đồng, tương đương 1.100 USD, đạt kế hoạch; tổng thu ngân sách trên địa bàn ước đạt 1.550 tỷ đồng, tăng 37,9% so với dự toán TW giao; tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu qua địa bàn ước đạt 680 triệu USD. Tổng kim ngạch tính cả kim ngạch giám sát đạt trên 2.500 triệu USD; giảm tỷ lệ hộ nghèo trên 3% theo chuẩn nghèo đa chiều; tỷ lệ che phủ rừng 54,5%. Năm 2018, có 26 dự án được cấp chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đầu tư 2.025 tỷ đồng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Nội là thủ đô, thành phố trực thuộc trung ương và là một trong hai đô thị loại đặc biệt của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là thành phố lớn thứ hai, có vị trí là trung tâm chính trị, văn hóa, giáo dục, một trong hai trung tâm kinh tế quan trọng tại Việt Nam. Hà Nội nằm về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, với địa hình bao gồm vùng đồng bằng trung tâm và vùng đồi núi ở phía bắc và phía tây thành phố. Với diện tích 3.359,82 km², và dân số 8,4 triệu người, Hà Nội là thành phố trực thuộc trung ương có diện tích lớn nhất Việt Nam, đồng thời cũng là thành phố đông dân thứ hai và có mật độ dân số cao thứ hai trong 63 đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam, nhưng phân bố dân số không đồng đều. Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã. Hà Nội đã sớm trở thành một trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa ngay từ những buổi đầu của lịch sử Việt Nam. Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều địa điểm văn hóa giải trí, công trình thể thao quan trọng của đất nước, đồng thời cũng là địa điểm được lựa chọn để tổ chức nhiều sự kiện chính trị và thể thao quốc tế. Đây là nơi tập trung nhiều làng nghề truyền thống, đồng thời cũng là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam. Thành phố có chỉ số phát triển con người ở mức cao, dẫn đầu trong số các đơn vị hành chính của Việt Nam. Nền ẩm thực Hà Nội với nhiều nét riêng biệt cũng là một trong những yếu tố thu hút khách du lịch tới thành phố. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 2 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người và đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Thành phố được UNESCO trao tặng danh hiệu "Thành phố vì hòa bình" vào ngày 16 tháng 7 năm 1999. Khu Hoàng thành Thăng Long cũng được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Tên gọi. Trước khi có tên gọi như hiện nay, Hà Nội đã trải qua nhiều tên gọi khác nhau. Tên gọi “Hà Nội” bắt đầu được dùng làm địa danh ở Việt Nam từ năm Minh Mạng thứ 12 (năm 1831) khi có một tỉnh có tên là tỉnh Hà Nội được thành lập ở Bắc Thành. “Hà Nội” viết bằng chữ Hán là “”, nghĩa là "bao quanh bởi các con sông", tên gọi này phản ánh vị trí địa lý của tỉnh Hà Nội. Tỉnh này nằm giữa hai con sông là sông Nhị ở phía đông bắc và sông Thanh Quyết ở phía tây nam. Tỉnh Hà Nội gồm có bốn phủ là Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hoà và Lý Nhân. Toà thành nơi có đặt trị sở của tỉnh Hà Nội, tức tỉnh lị của tỉnh Hà Nội, được gọi là thành Hà Nội theo tên tỉnh. Thành Hà Nội nằm trên địa phận hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận. Cả hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận đều cùng thuộc phủ Hoài Đức. Ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ký chỉ dụ cắt toàn bộ huyện Thọ Xương và một phần huyện Vĩnh Thuận của tỉnh Hà Nội làm nhượng địa cho Pháp để Pháp thành lập thành phố Hà Nội. Trước đó, ngày 19 tháng 7, tổng thống Pháp Marie François Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội trước khi có sự công nhận của Triều đình Việt Nam. Năm 1890, phủ Lý Nhân bị tách khỏi tỉnh Hà Nội, đổi thành tỉnh Hà Nam. Năm 1896, tỉnh lị của tỉnh Hà Nội được dời ra làng Cầu Đơ thuộc tổng Thanh Oai Thượng, huyện Thanh Oai. Để tránh trùng tên với thành phố Hà Nội, năm 1902, tỉnh Hà Nội được đổi tên thành tỉnh Cầu Đơ theo tên của tỉnh lị. Ngày 6 tháng 12 năm 1904, quan toàn quyền Đông Dương ra nghị định đổi tên tỉnh Cầu Đơ và tỉnh lị của tỉnh này thành “Hà Đông”. Tên gọi “Hà Đông” là do quan đốc học tỉnh Cầu Đơ Vũ Phạm Hàm đề xuất, lấy từ một câu nói của Lương Huệ vương được ghi trong sách Mạnh Tử là “” (âm Hán Việt: "Hà Nội hung, tắc di kỳ dân ư Hà Đông, di kỳ túc ư Hà Nội"), có nghĩa là Hà Nội bị mất mùa thì chuyển dân ở Hà Nội sang Hà Đông, chuyển lương thực ở Hà Đông sang Hà Nội. “Hà Nội” trong câu nói trên của Lương Huệ vương là chỉ vùng phía bắc sông Hoàng Hà, còn “Hà Đông” là chỉ vùng phía đông sông Hoàng Hà, thuộc tây nam bộ tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc ngày nay. Lịch sử. Thời kỳ tiền Thăng Long. Những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội từ cách đây 2 vạn năm, giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Nhưng đến thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, các cư dân của thời đại đồ đá mới bị đẩy lùi lên vùng núi. Phải tới khoảng 4 hoặc 5 ngàn năm trước Công Nguyên, con người mới quay lại sinh sống ở nơi đây. Các hiện vật khảo cổ giai đoạn tiếp theo, từ đầu thời đại đồ đồng đến đầu thời đại đồ sắt, minh chứng cho sự hiện diện của Hà Nội ở cả bốn thời đại văn hóa: Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun và Đông Sơn. Những cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thế kỷ III trước Công Nguyên, trong cuộc chiến với quân Tần từ phương Bắc, Thục Phán quyết định đóng đô ở Cổ Loa, nay là huyện Đông Anh, cách trung tâm Hà Nội khoảng 15 km. Sự xuất hiện của thành Cổ Loa ghi dấu Hà Nội lần đầu tiên trở thành một đô thị trung tâm về chính trị và xã hội. Thất bại của Thục Phán đầu thế kỷ II trước Công Nguyên đã kết thúc giai đoạn độc lập của Âu Lạc, bắt đầu giai đoạn một ngàn năm do các triều đại phong kiến Trung Hoa thống trị. Thời kỳ nhà Hán, Âu Lạc cũ được chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, Hà Nội khi đó thuộc quận Giao Chỉ. Vắng bóng trong sử sách suốt năm thế kỷ đầu, đến khoảng năm 454–456 thời Lưu Tống, Hà Nội mới được ghi lại là trung tâm của huyện Tống Bình. Năm 226 Nhà Hán khi cai trị Giao Châu đã đổi tên Tống Bình thành Long Uyên (hoặc Long Biên). Năm 544, Lý Bí nổi dậy chống lại nhà Lương, tự xưng hoàng đế, đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Uyên. Người cháu của Lý Bí là Lý Phật Tử tới đóng đô ở Cổ Loa, nhưng nền độc lập này chỉ kéo dài tới năm 602. Thời kỳ Nhà Đường, An Nam được chia thành 12 châu với 50 huyện, Long Uyên lại được đổi thành Tống Bình, là trung tâm của An Nam đô hộ phủ. Năm 866, viên tướng nhà Đường Cao Biền xây dựng một thành trì mới, Tống Bình được đổi tên thành "Đại La" – thủ phủ của Tĩnh Hải quân. Theo truyền thuyết, khi đắp thành, Cao Biền thấy một vị thần hiện lên tự xưng là thần Long Đỗ. Vì vậy, sử sách còn gọi Thăng Long là đất "Long Đỗ". Thế kỷ X, sau chiến thắng của Ngô Quyền trước quân Nam Hán, Cổ Loa một lần nữa trở thành kinh đô của nước Việt. Thăng Long, Đông Đô, Đông Quan, Đông Kinh. Sau khi lên ngôi năm 1009 tại Hoa Lư, năm 1010, Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La. Theo một truyền thuyết phổ biến, khi tới Đại La, Lý Thái Tổ nhìn thấy một con rồng bay lên, vì vậy đặt tên kinh thành mới là "Thăng Long". Kinh thành Thăng Long khi đó giới hạn bởi ba con sông: sông Hồng ở phía Đông, sông Tô phía Bắc và sông Kim Ngưu phía Nam. Khu hoàng thành được xây dựng gần hồ Tây với cung điện hoàng gia cùng các công trình chính trị. Phần còn lại của đô thị là những khu dân cư, bao gồm các phường cả nông nghiệp, công nghiệp và thương nghiệp. Ngay trong thế kỷ X, nhiều công trình tôn giáo nhanh chóng được xây dựng như chùa Diên Hựu phía Tây hoàng thành xây năm 1049, chùa Báo Thiên xây năm 1057, Văn Miếu xây năm 1070, Quốc Tử Giám dựng năm 1076. Chỉ sau một thế kỷ, Thăng Long trở thành trung tâm văn hóa, chính trị và kinh tế của cả quốc gia. Nhà Trần nối bước nhà Lý cai trị Đại Việt, coi Thăng Long là kinh đô thứ nhất và Thiên Trường là kinh đô thứ hai, nơi các Thượng hoàng ở. Kinh thành Thăng Long tiếp tục được xây dựng. Hoàng thành được củng cố và xuất hiện thêm những cung điện. Năm 1230, Thăng Long được chia thành 61 phường, kinh thành đông đúc hơn dù địa giới không thay đổi. Giai đoạn này cũng ghi nhận sự xuất hiện của những cư dân ngoại quốc, như người Hoa, người Java và người Ấn Độ. Nền kinh tế công thương nghiệp cũng sản sinh tầng lớp thị dân và Thăng Long còn là nơi quy tụ của nhiều học giả, trí thức như Hàn Thuyên, Lê Văn Hưu và Chu Văn An. Trong cuộc chiến tranh với nhà Nguyên, kinh thành Thăng Long ba lần bị chiếm giữ nhưng đều kết thúc trong chiến thắng của Đại Việt. Cuối thế kỷ XIV, thời kỳ nhà Trần suy vi, một quý tộc ngoại thích là Hồ Quý Ly thâu tóm quyền lực, ép vua Trần dời kinh đô về Thanh Hóa. Khi Hồ Quý Ly chính thức lên ngôi, lập nên nước Đại Ngu năm 1400, kinh đô mới mang tên Tây Đô, Thăng Long được đổi thành "Đông Đô". Nhưng vương triều của nhà Hồ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Năm 1406, nhà Minh đưa quân xâm lược Đại Ngu, Thăng Long bị chiếm đóng và đổi tên thành "Đông Quan". Thời kỳ Bắc thuộc thứ tư bắt đầu từ năm 1407 và kéo dài tới năm 1428. Các nho sĩ và người dân Thăng Long thời ấy cũng thường tự nhận Thăng Long là "Tràng An", mang ý nghĩa "bình yên lâu dài" hoặc "phồn thịnh mãi mãi". Tuy nhiên một số nhà nghiên cứu cho rằng Tràng An là để chỉ vùng đất của Ninh Bình chứ không phải Thăng Long . Sau chiến thắng của khởi nghĩa Lam Sơn, Lê Lợi thành lập nhà Lê và Đông Đô cũng lấy lại vị thế kinh thành. Năm 1430, thành phố được đổi tên thành "Đông Kinh", đến 1466 được gọi là phủ Trung Đô. Hoàng thành Thăng Long dưới thời nhà Lê tiếp tục được mở rộng. Bên cạnh, khu vực dân cư được chia thành 2 huyện Vĩnh Xương và Quảng Đức, mỗi huyện 18 phường. Thời kỳ này, đứng đầu bộ máy hành chính là chức Phủ doãn. Thành phố tiếp tục một thời kỳ của những phường hội buôn bán, tuy bị hạn chế bởi tư tưởng ức thương của nhà Lê. Trong giai đoạn tranh giành quyền lực giữa nhà Lê, nhà Mạc và chúa Trịnh, Thăng Long vẫn duy trì vị trí kinh đô. Sự phức tạp của chính trị thời kỳ này cũng đem lại cho thành phố một điểm đặc biệt: Bên cạnh hoàng thành của vua Lê, phủ Chúa Trịnh được xây dựng và là trung tâm quyền lực thực sự. Nhờ nền kinh tế hàng hóa và sự phát triển của ngoại thương, đô thị Thăng Long bước vào thời kỳ phồn vinh, thu hút thêm nhiều cư dân tới sinh sống. Câu ca "Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến" nói lên sự sầm uất giàu có của thành phố, giai đoạn này còn có tên gọi khác là "Kẻ Chợ". Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes ước tính dân số Thăng Long khi đó khoảng 1 triệu người. William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh, đưa ra con số thường được xem hợp lý hơn, khoảng 2 vạn nóc nhà. Mùa hè năm 1786, quân Tây Sơn tiến ra miền Bắc lật đổ chính quyền chúa Trịnh, chấm dứt hai thế kỷ chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài. Sau khi Nguyễn Huệ cùng quân Tây Sơn quay về miền Nam, năm 1788, nhà Thanh đưa quân xâm lược Đại Việt. Tại Phú Xuân, Nguyễn Huệ lên ngôi ngày 22 tháng 12 năm 1788 rồi đưa quân ra Bắc. Sau chiến thắng ở trận Ngọc Hồi – Đống Đa, nhà Tây Sơn trị vì Đại Việt với kinh đô mới ở Phú Xuân. Hoàng đế Quang Trung đổi tên Thăng Long thành "Bắc Thành". Thời nhà Nguyễn và Pháp thuộc. Triều đại Tây Sơn sụp đổ sau một thời gian ngắn ngủi, Gia Long lên ngôi năm 1802 lấy kinh đô ở Phú Xuân, bắt đầu nhà Nguyễn. Năm 1805, Gia Long cho phá tòa thành cũ của Thăng Long, xây dựng thành mới mà dấu vết còn lại tới ngày nay, bao bọc bởi các con đường Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Trần Phú và Phùng Hưng. Năm 1831, trong cuộc cải cách hành chính của Minh Mạng, toàn quốc được chia thành 29 tỉnh, Thăng Long thuộc tỉnh "Hà Nội". Với hàm nghĩa "nằm trong sông", tỉnh Hà Nội khi đó gồm 4 phủ, 15 huyện, nằm giữa sông Hồng và Sông Đáy. Tỉnh Hà Nội gồm thành Thăng Long, phủ Hoài Đức của trấn Sơn Tây, và ba phủ Ứng Hoà, Thường Tín, Lý Nhân của trấn Sơn Nam; trong đó Phủ Hoài Đức gồm 3 huyện: Thọ Xương, Vĩnh Thuận, Từ Liêm; phủ Thường Tín gồm 3 huyện: Thượng Phúc, Thanh Trì, Phú Xuyên; phủ Ứng Hoà gồm 4 huyện: Sơn Minh (nay là Ứng Hòa), Hoài An (nay là phía nam Ứng Hòa và một phần Mỹ Đức), Chương Đức (nay là Chương Mỹ – Thanh Oai); và phủ Lý Nhân gồm 5 huyện: Nam Xang (nay là Lý Nhân), Kim Bảng, Duy Tiên, Thanh Liêm, Bình Lục. Hà Nội có tên gọi bắt đầu từ đây. Nền kinh tế Hà Nội nửa đầu thế kỷ XIX cũng khác biệt so với Thăng Long trước đó. Các phường, thôn phía Tây và Nam chuyên về nông nghiệp, còn phía Đông, những khu dân cư sinh sống nhờ thương mại, thủ công làm nên bộ mặt của đô thị Hà Nội. Bên cạnh một số cửa ô được xây dựng lại, Hà Nội thời kỳ này còn xuất hiện thêm những công trình tín ngưỡng, tôn giáo như đền Ngọc Sơn, chùa Báo Ân. Năm 1858, Pháp bắt đầu nổ súng xâm chiếm Đông Dương. Sau khi chiếm ba tỉnh Đông Nam Kỳ, quân đội Pháp dưới sự chỉ đạo của Francis Garnier tiến đến Hà Nội đầu tháng 11 năm 1873. Mặc dù triều đình nhà Nguyễn chủ hòa, nhưng dân chúng Hà Nội vẫn tiếp tục chống lại người Pháp dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu. Năm 1884, nhà Nguyễn ký hòa ước công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hà Nội cũng bước vào thời kỳ thuộc địa. Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hà Nội. Thành phố Hà Nội lúc này có diện tích nhỏ bao gồm 2 huyện Thọ Xương và huyện Vĩnh Thuận thuộc phủ Hoài Đức. Phạm vi thành phố bó hẹp nằm trong khu vực thành Đại La mở rộng thời nhà Mạc. 3 phủ Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa thuộc về tỉnh Hà Đông. Phủ Lý Nhân tách ra tạo thành tỉnh Hà Nam. Một thời gian ngắn sau, khu vực phía Tây vườn bách thảo và khu vực tương ứng với các quận Đống Đa, Tây Hồ ngày nay được tách ra thành huyện Hoàn Long, trực thuộc tỉnh Hà Đông, đến khoảng năm 1940 thì sáp nhập trở lại. Đến năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của toàn Liên bang Đông Dương. Nhờ sự quy hoạch của người Pháp, thành phố dần có được bộ mặt mới. Lũy thành thời Nguyễn đã bị triệt hạ, chỉ còn lại Cột Cờ, Cửa Bắc với vết đạn năm 1873, Đoan Môn và lan can rồng đá ở trong hoàng thành cũ; đến năm 1897 thì lũy thành hầu như bị phá hủy hoàn toàn. Năm 1901, các công trình phủ Thống sứ, Nhà bưu điện, Kho bạc, Nhà đốc lý, Nhà hát lớn, cầu Long Biên, Ga Hà Nội, những quảng trường, bệnh viện... được xây dựng. Hà Nội cũng có thêm trường đua ngựa, các nhà thờ Cơ Đốc giáo, trường Đại học Y khoa, Đại học Đông dương, Đại học Mỹ thuật, các trường Cao đẳng Pháp lý, Nông lâm cùng những nhà máy sản xuất rượu bia, diêm, hàng dệt, điện, nước... Khi những nhà tư bản người Pháp tới Hà Nội ngày một nhiều hơn, các rạp chiếu phim, nhà hát, khách sạn... dần xuất hiện, những con phố cũng thay đổi để phù hợp với tầng lớp dân cư mới. Vào năm 1921, toàn thành phố có khoảng 4.000 dân châu Âu và 100.000 dân bản địa. Sự xuất hiện của tầng lớp tư sản Việt Nam khiến văn hóa Hà Nội cũng thay đổi. Nền văn hóa phương Tây theo chân người Pháp du nhập vào Việt Nam kéo theo những xáo trộn trong xã hội. Không còn là một kinh thành thời phong kiến, Hà Nội ít nhiều mang dáng dấp của một đô thị châu Âu. Thành phố vẫn tiếp tục giữ vai trò trung tâm tri thức, nghệ thuật của cả quốc gia, nơi tập trung các nhà thơ mới, những nhạc sĩ tân nhạc cùng những trí thức, học giả nổi tiếng. Trong hai cuộc chiến tranh. Giữa thế kỷ XX, Hà Nội chịu những biến cố phức tạp của lịch sử. Sự kiện Nhật Bản tấn công Đông Dương năm 1940 khiến Việt Nam phải nằm dưới sự cai trị của cả đế quốc Pháp và Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, tại Hà Nội, quân đội Nhật đảo chính Pháp. Nhưng chỉ năm tháng sau, quốc gia này phải đầu hàng quân Đồng Minh, kết thúc cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai. Vào thời điểm thuận lợi đó, lực lượng Việt Minh tổ chức cuộc Cách mạng tháng Tám thành công, lật đổ nhà nước Đế quốc Việt Nam, buộc vua Bảo Đại thoái vị, giành lấy quyền lực ở Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thủ đô Hà Nội. Sau độc lập, thành phố chia thành các khu phố, đổi tên nhiều vườn hoa, đường phố, như đại lộ ("Avenue") Paul Doumer đổi tên là Nhân quyền, đường ("Rue de la") République đổi tên là Dân Quyền, đại lộ Puginier đổi tên là Dân Chủ Cộng Hòa, đường Ollivier đổi là Hạnh Phúc, đường Dr Morel đổi là Tự Do... Cuối năm 1945, quân đội Pháp quay lại Đông Dương. Sau những thương lượng không thành, Chiến tranh Đông Dương bùng nổ vào tháng 12 năm 1946 và thành phố Hà Nội nằm trong vùng kiểm soát của người Pháp. Sau khi Quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1949, Hà Nội được Pháp chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam quản lý. Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam Bảo Đại bổ nhiệm dược sĩ Thẩm Hoàng Tín làm Thị trưởng thành phố. Năm 1954, chiến thắng Điện Biên Phủ giúp Việt Minh kiểm soát toàn bộ miền Bắc Việt Nam, Hà Nội tiếp tục giữ vị trí thủ đô của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 30 tháng 9 năm 1954, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Pháp ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về quân sự; ngày 2 tháng 10, ký Hiệp định chuyển giao Hà Nội về hành chính. Vào thời điểm được tiếp quản, thành phố gồm 4 quận nội thành với 34 khu phố, 37.000 dân và 4 quận ngoại thành với 45 xã, 16.000 dân. Cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960, Hà Nội nhiều lần thay đổi về hành chính và địa giới. Năm 1958, bốn quận nội thành bị xóa bỏ và thay bằng 12 khu phố. Năm 1959, khu vực nội thành được chia lại thành 8 khu phố, Hà Nội cũng có thêm 4 huyện ngoại thành. Tháng 4 năm 1961, Quốc hội quyết định mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm một số xã của Hà Đông, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc và Hưng Yên. Toàn thành phố có diện tích 584 km², dân số 91.000 người. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, bốn khu phố nội thành Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Ba Đình, Đống Đa và 4 huyện ngoại thành Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Từ Liêm được thành lập. Khi cuộc Chiến tranh Việt Nam leo thang, Hà Nội phải hứng chịu những cuộc tấn công trực tiếp từ Hoa Kỳ. Riêng trong chiến dịch Linebacker II năm 1972, trong khoảng 2.200 người dân bị thiệt mạng ở miền Bắc, số nạn nhân ở Hà Nội được thống kê là 1.318 người. Nhiều cơ quan, trường học phải sơ tán tới các tỉnh lân cận. Hà Nội ngày nay. Sau chiến tranh, Hà Nội tiếp tục giữ vai trò thủ đô của quốc gia Việt Nam thống nhất. Hà Nội đã được UNESCO trao danh hiệu "Thành phố vì hòa bình" vào ngày 16 tháng 7 năm 1999. Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tặng thưởng thành phố Hà Nội danh hiệu "Thủ đô anh hùng" vào ngày 4 tháng 10. Với tuổi đời hơn 1000 năm, Hà Nội chính là thủ đô lâu đời nhất trong 11 thủ đô của các quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á. Ngày 21 tháng 12 năm 1978, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn mở rộng địa giới Hà Nội, sáp nhập thêm 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức và thị xã Sơn Tây của tỉnh Hà Sơn Bình cùng hai huyện của tỉnh Vĩnh Phú là Mê Linh, Sóc Sơn. Dân số Hà Nội lên tới con số 2,5 triệu người. Bên cạnh lượng dân cư các tỉnh tới định cư ở thành phố, trong khoảng thời gian từ 1977 tới 1984, Hà Nội cũng đưa 12.861 hộ, 21.587 nhân khẩu tới Lâm Đồng theo chính sách xây dựng kinh tế mới. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, ranh giới Hà Nội lại được điều chỉnh, chuyển lại 5 huyện và 1 thị xã đã lấy của Hà Sơn Bình năm 1978 cho Hà Tây và Mê Linh được nhập vào tỉnh Vĩnh Phúc. Hà Nội còn lại 4 quận nội thành và 5 huyện ngoại thành, với diện tích đất tự nhiên 924 km². Ngày 28 tháng 10 năm 1995, quận Tây Hồ được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 3 phường Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình và 5 xã Tứ Liên, Nhật Tân, Quảng An, Xuân La, Phú Thượng thuộc huyện Từ Liêm. Ngày 26 tháng 11 năm 1996, quận Thanh Xuân được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân, Thượng Đình, Kim Giang, Phương Liệt cùng một phần phường Nguyễn Trãi và Khương Thượng thuộc quận Đống Đa, với toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Nhân Chính thuộc huyện Từ Liêm và xã Khương Đình thuộc huyện Thanh Trì. Cùng lúc đó, quận Cầu Giấy cũng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 4 thị trấn Cầu Giấy, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân, Mai Dịch và 3 xã Dịch Vọng, Yên Hòa, Trung Hòa thuộc huyện Từ Liêm. Ngày 6 tháng 11 năm 2003, thành lập quận Long Biên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 10 xã Thượng Thanh, Giang Biên, Ngọc Thụy, Việt Hưng, Hội Xá, Gia Thụy, Bồ Đề, Long Biên, Thạch Bàn, Cự Khối và 3 thị trấn Gia Lâm, Đức Giang, Sài Đồng thuộc huyện Gia Lâm. Cùng lúc đó, quận Hoàng Mai cũng được thành lập trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 9 xã Định Công, Đại Kim, Hoàng Liệt, Thịnh Liệt, Thanh Trì, Vĩnh Tuy, Lĩnh Nam, Trần Phú, Yên Sở cùng một phần diện tích xã Tứ Hiệp thuộc huyện Thanh Trì, và toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của 5 phường Mai Động, Tương Mai, Tân Mai, Giáp Bát, Hoàng Văn Thụ thuộc quận Hai Bà Trưng. Sau thời kỳ bao cấp, từ cuối thập niên 1990, sự phát triển về kinh tế dẫn đến các khu vực ngoại ô Hà Nội nhanh chóng được đô thị hóa. Những cao ốc mọc lên ở khu vực nội đô và các trung tâm công nghiệp cũng được xây dựng ở những huyện ngoại thành. Sự phát triển cũng kéo theo những hệ lụy. Do không được quy hoạch tốt, giao thông thành phố thường xuyên ùn tắc khi số lượng xe máy tăng cao. Nhiều khu phố phải chịu tình trạng ngập úng mỗi khi mưa lớn. Mật độ dân số quá cao khiến những dân cư nội ô phải sống trong tình trạng chật chội và thiếu tiện nghi. Vào năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người. Mật độ cây xanh của thành phố chỉ khoảng 1–2 m²/người, thuộc hàng rất thấp so với các thành phố trên thế giới. Song việc tăng dân số quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa thiếu quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở nên chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc đang dần biến mất, thay vào đó là những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với giữa các khu vực như giữa các quận nội thành và huyện ngoại thành, nhiều nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu. Năm 2012, Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố ô nhiễm nhất khu vực Đông Nam Á, với hàm lượng bụi cao gấp nhiều lần mức cho phép. Ngày 29 tháng 5 năm 2008, Quốc hội Việt Nam thông qua nghị quyết điều chỉnh địa giới hành chính thủ đô Hà Nội và các tỉnh, có hiệu lực từ 1 tháng 8 cùng năm. Theo nghị quyết, toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình được sáp nhập về Hà Nội. Từ diện tích gần 1.000 km² và dân số khoảng 3,4 triệu người, Hà Nội sau khi mở rộng có diện tích 3.324,92 km² và dân số 6.232.940 người, nằm trong 17 thủ đô lớn nhất thế giới. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, địa giới các huyện Thạch Thất và Quốc Oai được điều chỉnh lại. Cũng trong cùng thời điểm này, quận Hà Đông được thành lập từ thành phố Hà Đông trước đây và thành phố Sơn Tây được chuyển thành thị xã Sơn Tây như cũ. Năm 2010, Hà Nội đã tổ chức thành công Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội để lại dấu ấn trong lòng người dân và bạn bè quốc tế. Hoàng thành Thăng Long, văn bia tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám và Lễ hội Thánh Gióng đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Nhiều công trình quan trọng như cầu Vĩnh Tuy, Bảo tàng Hà Nội, công viên Hòa Bình đã được khánh thành. Ngày 27 tháng 12 năm 2013, huyện Từ Liêm được chia thành hai quận là Bắc Từ Liêm và Nam Từ Liêm. Ngày 4 tháng 7 năm 2023, quận Đông Anh được thành lập trên cơ sở nguyên trạng diện tích tự nhiên và dân số của huyện Đông Anh cũ. Từ đó, Hà Nội có 13 quận, 12 huyện và 1 thị xã. Địa lý. Vị trí và lãnh thổ. Thủ đô Hà Nội nằm về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, trong phạm vi từ 20°34' đến 21°18' vĩ độ Bắc và từ 105°17' đến 106°02' kinh độ Đông, tiếp giáp với 8 tỉnh là Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Hà Nội cách thành phố cảng Hải Phòng 120 km, cách thành phố Nam Định 87 km tạo thành 3 cực chính của Đồng bằng sông Hồng. Hiện nay, thành phố có diện tích 3358,6 km², chiếm khoảng 1% diện tích tự nhiên của cả nước, đứng hàng thứ 41 về diện tích trong 63 tỉnh, thành phố ở nước ta , và là 1 trong 17 thủ đô có diện tích trên 3000 km². Các điểm cực của thủ đô Hà Nội là: Địa hình. Đại bộ phận diện tích Hà Nội nằm trong vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so với mực nước biển. Địa hình của Hà Nội thấp dần theo hướng từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông phản ánh rõ nét qua hướng dòng chảy tự nhiên của các con sông chính chảy qua Hà Nội, và có thể chia ra làm hai vùng. Vùng đồng bằng thấp và khá bằng phẳng, chiếm đại bộ phận diện tích của các huyện thị xã và các quận nội thành, được bồi đắp bởi các dòng sông với các bãi bồi hiện đại, bãi bồi cao và các bậc thềm. Xen giữa các bãi bồi hiện đại và các bãi bồi cao còn có các vùng trũng với các hồ, đầm (dấu vết của các dòng sông cổ). Đó là các ô trũng tự nhiên rất dễ bị úng ngập trong mùa mưa lũ và khi có mưa lớn ở các huyện Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Thanh Oai, Quốc Oai, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức. Do được khai phá và canh tác từ lâu đời nên hiện nay ở Hà Nội có hệ thống đê điều ngăn lũ chạy dọc những triền sông. Hệ thống đê điều này khiến cho các cánh đồng trong đê không được bồi đắp phù sa hằng năm và phải xây dựng nhiều công trình thủy lợi để tưới và tiêu nước. Vùng đồi núi tập trung ở ngoại thành phía bắc và phía tây thành phố, thuộc các huyện Sóc Sơn, Thạch Thất, Ba Vì, Quốc Oai và Mỹ Đức, với các đỉnh núi cao như Ba Vì (1296 m) , Viên Nam (1031 m), Hàm Lợn (462 m); trong đó đỉnh Ba Vì là điểm cao nhất của thành phố Hà Nội. Khu vực nội thành có một số gò đồi thấp như gò Đống Đa, núi Nùng, núi Sưa. Phần lớn các gò đồi trong nội thành tập trung ở quận Ba Đình. Thủy văn. Sông Hồng là con sông chính của thành phố, bắt đầu chảy vào Hà Nội ở huyện Ba Vì và ra khỏi thành phố ở khu vực huyện Phú Xuyên tiếp giáp Hưng Yên rồi xuôi về Nam Định, đã có nhiều gắn kết với Thăng Long từ thời nhà Trần. Sông Hồng đoạn chảy qua Hà Nội dài 163 km, chiếm khoảng một phần ba chiều dài của con sông này trên đất Việt Nam. Hà Nội còn có sông Đà là ranh giới giữa Hà Nội với Phú Thọ, hợp lưu với sông Hồng ở phía Bắc thành phố tại huyện Ba Vì. Ngoài ra, trên địa phận Hà Nội còn nhiều sông khác như sông Đáy, sông Đuống, sông Cầu, sông Cà Lồ... Các sông nhỏ chảy trong khu vực nội thành như sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu... là những đường tiêu thoát nước của Hà Nội. Hà Nội cũng là một thành phố đặc biệt nhiều đầm hồ, là dấu vết còn lại của các dòng sông cổ. Trong khu vực nội thành, hồ Tây có diện tích lớn nhất, khoảng 500 ha, đóng vai trò quan trọng trong khung cảnh đô thị, ngày nay được bao quanh bởi nhiều khách sạn, biệt thự. Hồ Gươm nằm ở trung tâm lịch sử của thành phố, khu vực sầm uất nhất, luôn giữ một vị trí đặc biệt đối với Hà Nội. Trong khu vực nội ô có thể kể tới những hồ khác như Trúc Bạch, Thiền Quang, Thủ Lệ... Ngoài ra, còn nhiều đầm hồ lớn nằm trên địa phận Hà Nội như Đồng Mô, Suối Hai, Đồng Quan, Mèo Gù, Xuân Khanh, Đồng Đò, Tuy Lai - Quan Sơn. Do quá trình đô thị hóa mạnh mẽ từ năm 1990 đến nay, phần lớn các sông hồ Hà Nội đều rơi vào tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo PGS–TS Trần Đức Hạ – Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu Cấp thoát nước và Môi trường thuộc Hội Cấp thoát nước Việt Nam, lượng nước thải chưa qua xử lý xả thẳng ra môi trường quá lớn. Chỉ tính riêng trong khu vực nội đô, mỗi ngày lượng nước thải xả thẳng ra hệ thống sông hồ vào khoảng 650.000 m³/ngày (2015). Sông Tô Lịch, trục tiêu thoát nước thải chính của thành phố, hàng ngày phải tiếp nhận khoảng 250.000 m³ nước thải xả thẳng xuống dòng sông mà không hề qua xử lý. Nó bị ô nhiễm nặng nề: nước sông càng lúc càng cạn, màu nước càng ngày càng đen và bốc mùi hôi thối nặng. Với chiều dài gần 20 km chảy qua địa bàn thủ đô, nhiều khúc của sông Nhuệ nước đen kịt, đặc quánh, mùi hôi thối bốc lên nồng nặc và gần như không còn xuất hiện sự sống dưới lòng sông. Tương tự, sông Kim Ngưu nhận khoảng 125.000 m³ nước thải sinh hoạt mỗi ngày. Sông Lừ và sông Sét trung bình mỗi ngày cũng đổ vào sông Kim Ngưu khoảng 110.000 m³. Lượng nước thải sinh hoạt và công nghiệp này đều có hàm lượng hóa chất độc hại cao. Các sông mương nội và ngoại thành, ngoài vai trò tiêu thoát nước còn phải nhận thêm một phần rác thải của người dân và chất thải công nghiệp. Những làng nghề thủ công cũng góp phần vào gây nên tình trạng ô nhiễm này. Khí hậu. Khí hậu Hà Nội mang đặc điểm của khí hậu nhiệt đới gió mùa, được nêu trên trang web chính thức của Hà Nội. Tuy nhiên, dựa theo Phân loại khí hậu Köppen, trang web "ClimaTemps.com" lại xếp Hà Nội mang khí hậu cận nhiệt đới ẩm với mã Cwa. Thời tiết có sự khác biệt rõ ràng giữa mùa nóng và mùa lạnh, do nằm khá sâu trong nội địa và gần như không có một vùng nước lớn nào giúp điều hoà khí hậu. Mặc dù thời tiết được chia làm hai mùa chính là mùa mưa – từ tháng 4 tới tháng 10 – và mùa khô – từ tháng 11 tới tháng 3, nhưng Hà Nội vẫn được tận hưởng thời tiết bốn mùa nhờ các tháng giao mùa. Mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 đến hết tháng 8, khí hậu nóng ẩm vào đầu mùa và cuối mùa mưa nhiều rồi mát mẻ, khô ráo vào tháng 9 và tháng 10. Mùa lạnh bắt đầu từ cuối tháng 11 đến hết tháng 3 năm sau. Từ cuối tháng 11 đến nửa đầu tháng 2 rét và hanh khô, từ nửa cuối tháng 2 đến hết tháng 3 lạnh ẩm và mưa phùn kéo dài từng đợt. Đôi khi mưa phùn còn có thể kéo dài đến tận cuối tháng 4. Trong khoảng tháng 9 đến giữa tháng 11, Hà Nội có những ngày thu với tiết trời mát mẻ (rõ rệt hơn Hải Phòng, Nam Định và nhiều tỉnh phía Bắc khác) do đón vài đợt không khí lạnh yếu tràn về. Tuy nhiên, do chịu sự tác động mạnh mẽ của gió mùa nên thời gian bắt đầu và kết thúc của mỗi mùa thường không đồng đều nhau giữa các năm, nên sự phân chia các tháng chỉ mang tính tương đối. Nhiệt độ trung bình mùa đông của thành phố từ tháng 11 đến tháng 3 không vượt quá 22 °C, với tháng lạnh nhất là tháng 1 với nhiệt độ trung bình 16,4 °C, lúc thấp xuống tới 2,7 °C. Nhiệt độ trung bình mùa hạ của Hà Nội từ tháng 5 đến tháng 9 đều vượt 27 °C, với tháng nóng nhất là tháng 7 với nhiệt độ trung bình đạt 29,2 °C, lúc cao nhất lên tới 42,8 °C. Nhiệt độ trung bình cả năm là 23,6 °C, lượng mưa trung bình hàng năm vào mức 1.500mm đến 1.900mm. Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục 42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C do chịu ảnh hưởng của La Niña. Vào đầu tháng 6 năm 2017 với việc bị ảnh hưởng bởi El Niño trên toàn thế giới, Hà Nội phải hứng chịu đợt nóng dữ dội trong 1 tuần với nhiệt độ lên tới 42,5 °C, là nhiệt độ kỷ lục ghi nhận trong lịch sử. Hơn nữa, do chịu ảnh hưởng của hiệu ứng đô thị và là vùng khí hậu có độ ẩm cao nên những đợt nắng nóng, nhiệt độ cảm nhận thực tế luôn cao hơn mức đo đạc, có thể lên tới 50 °C. Nơi có tuyết vào mùa đông ở Hà Nội là đỉnh núi Ba Vì ngày 24 tháng 1 năm 2016 với mức nhiệt đo được là 0 °C. Môi trường. Hà Nội thường xuyên nằm ở top đầu các thành phố ô nhiễm, thậm chí nhiều ngày trong năm là thành phố ô nhiễm không khí nhất thế giới, với chỉ số bụi mịn ở mức nguy hiểm cho sức khỏe con người. Theo Báo cáo chất lượng không khí toàn cầu 2018, Hà Nội có hàm lượng bụi mịn cao gấp 4 lần mức khuyến cáo của WHO (40,8 mg/m³, mức khuyến cáo: 10 mg/m³). Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường Việt Nam thì Hà Nội là thành phố ô nhiễm không khí nhất với số ngày chất lượng không khí lên mức kém, xấu, nguy hại chiếm tỷ lệ cao. Ngoài ra, các con sông chảy qua Hà Nội (sông Nhuệ, sông Tô Lịch, sông Kim Ngưu, sông Lừ, sông Sét) và các hồ cũng bị ô nhiễm rất nặng do 78% nước thải của Hà Nội xả thẳng trực tiếp ra sông, hồ mà không qua xử lý, trong đó mỗi con sông của Hà Nội tiếp nhận hàng vạn m³ nước thải đổ vào mỗi ngày. Tổ chức hành chính và chính quyền. Tổ chức hành chính. Hà Nội là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam, cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ. Riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được xếp vào đơn vị hành chính cấp tỉnh loại đặc biệt và cũng đồng thời là đô thị loại đặc biệt, thỏa mãn các tiêu chuẩn như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động trên 90%, quy mô dân số trên 5 triệu, mật độ dân số bình quân từ 15.000 người/km² trở lên, cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Sau những thay đổi về địa giới hành chính, tính đến năm 2023, Hà Nội có 30 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 13 quận, 16 huyện, 1 thị xã với 579 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 360 xã, 199 phường và 20 thị trấn. Đây là thành phố trực thuộc trung ương duy nhất của Việt Nam có thị xã. Chính quyền. Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội do người dân thành phố trực tiếp bầu lên, là cơ quan quyền lực Nhà nước ở thành phố. Hội đồng Nhân dân Hà Nội hiện nay, nhiệm kỳ 2021–2026, gồm 95 đại biểu. Chủ tịch HĐND Hà Nội hiện nay là ông Nguyễn Ngọc Tuấn. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan chấp hành của hội đồng nhân dân và là cơ quan hành chính nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành hiến pháp, pháp luật, các văn bản của Chính phủ và các nghị quyết của hội đồng nhân dân thành phố. Chủ tịch UBND Hà Nội hiện nay là ông Trần Sỹ Thanh. Ngoài các sở, ban như những tỉnh khác, thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội còn có thêm báo "Hà Nội mới", báo "Kinh tế và Đô thị", Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội, Ban Chỉ đạo 1000 năm Thăng Long, Ban quản lý khu phố cổ... và một số tổng công ty trên địa bàn thành phố. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân Hà Nội có trụ sở nằm ở số 12 phố Lê Lai, bên cạnh hồ Hoàn Kiếm. Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội là cơ quan xét xử ở thành phố. Chánh án TAND Hà Nội hiện nay là ông Nguyễn Hữu Chính. Về phía Đảng ủy, Ban chấp hành Đảng bộ Thành phố Hà Nội – thường gọi tắt là Thành ủy Hà Nội – là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Thành phố Hà Nội giữa hai kỳ đại hội đại biểu của Đảng bộ Thành phố. Ban chấp hành Đảng bộ Hà Nội khóa XVII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm có 71 người, bầu ra Ban Thường vụ Thành ủy Hà Nội 2020–2025 gồm 16 ủy viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy và phải là ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam. Bí thư Thành ủy hiện tại là ông Đinh Tiến Dũng, Ủy viên Bộ Chính trị khóa XIII. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thành phố Hà Nội nhiệm kỳ XVII (2019–2024) được Đại hội đại biểu MTTQ Việt Nam TP Hà Nội lần thứ XVII (2019–2024) bầu ngày 25 tháng 7 năm 2019 gồm 132 ủy viên, bầu ra Ban thường trực UBMTTQ Thành phố gồm 12 thành viên. Chủ tịch UBMTTQ TP Hà Nội đương nhiệm là bà Nguyễn Lan Hương (được bầu ngày 14 tháng 3 năm 2019 thay thế ông Vũ Hồng Khanh đã nhận quyết định nghỉ hưu từ ngày 1-2-2019.). Kiến trúc và quy hoạch đô thị. Lịch sử lâu đời cùng nền văn hóa phong phú đã giúp Hà Nội có được kiến trúc đa dạng và mang dấu ấn riêng. Nhưng sau một thời gian phát triển thiếu quy hoạch, thành phố hiện nay tràn ngập những ngôi nhà ống trên các con phố lắt léo, những công trình tôn giáo nằm sâu trong các khu dân cư, những cao ốc bên các khu phố cũ, những cột điện chăng kín dây... Nhưng thiếu vắng không gian công cộng. Năm 2010, Hà Nội lập "Đồ án Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050" cho một thành phố 9,1 triệu dân vào năm 2030 và trên 10 triệu người vào năm 2050. Về mặt kiến trúc, có thể chia Hà Nội ngày nay thành bốn khu vực: khu phố cổ, khu thành cổ, khu phố Pháp và các khu mới quy hoạch. Khu phố cổ. Khu phố cổ Hà Nội, trung tâm lịch sử của thành phố, hiện nay vẫn là khu vực đông đúc nhất. Địa giới không gian khu phố cổ có thể coi là một hình tam giác cân với đỉnh là phố Hàng Than, cạnh phía Đông là đê sông Hồng, cạnh phía Tây là Hàng Cót, Hàng Điếu, Hàng Da, còn đáy là trục Hàng Bông–Hàng Gai–Cầu Gỗ. Qua nhiều năm, những cư dân sinh sống nhờ các nghề thủ công, buôn bán tiểu thương đã hình thành những con phố nghề đặc trưng mang những cái tên như Hàng Bạc, Hàng Bồ, Hàng Đường, Hàng Thùng... Tất cả các ngôi nhà hai bên đường khu phố cổ đều theo kiểu nhà ống, mang nét đặc trưng: bề ngang hẹp, chiều dài sâu, đôi khi thông sang phố khác. Bên trong các ngôi nhà này cũng có cách bố trí gần như nhau: gian ngoài là nơi bán hoặc làm hàng, tiếp đó là khoảng sân lộ thiên để lấy ánh sáng, trên sân có bể cạn trang trí, quanh sân là cây cảnh, giàn hoa, gian nhà trong mới là nơi ăn ở và nối tiếp là khu phụ. Những năm gần đây, mật độ dân số cao khiến phố cổ Hà Nội xuống cấp khá nghiêm trọng. Một phần cư dân ở đây phải sống trong điều kiện thiếu tiện nghi, thậm chí bất tiện, nguy hiểm. Một vài trường hợp đặc biệt được ghi nhận như ba người sống trong một diện tích 1,5 m² hay bốn người sống trong một căn phòng 10 m² nhưng trên nóc một nhà vệ sinh chung. Trong khu 36 phố phường thuộc dự án bảo tồn, hiện chỉ còn một vài nhà cổ có giá trị, còn lại hầu hết đã được xây mới hoặc cải tạo tùy tiện. Khu thành cổ. Khu thành cổ, tức hoàng thành Thăng Long, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm, xuất hiện cùng với kinh đô Thăng Long. Trải qua nhiều lần phá hủy, xây dựng lại rồi tiếp tục bị tàn phá, hoàng thành Thăng Long hiện chỉ lưu lại ở một vài dấu vết. Trên phố Phan Đình Phùng hiện nay còn cửa Bắc của thành được xây bằng đá và gạch rất kiên cố. Cột cờ Hà Nội xây năm 1812 hiện nằm trên đường Điện Biên Phủ. Công trình cao 40 mét này gồm ba nền thềm rộng và tháp cổ hình lăng trụ, bên trong có cầu thang xoắn ốc dẫn lên kỳ đài. Phía Nam thành cổ còn lưu lại được một quần thể di tích đa dạng là Văn Miếu-Quốc Tử Giám, được xây từ đầu thế kỷ XI. Gồm hai di tích chính, Văn Miếu – nơi thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết của Nho giáo và Chu Văn An – và Quốc Tử Giám – trường quốc học cao cấp đầu tiên của Việt Nam – công trình không chỉ là điểm du lịch hấp dẫn mà còn là nơi tổ chức nhiều hoạt động văn hóa. Ngày 31 tháng 7 năm 2010, tại kỳ họp lần thứ 34 tại Brasilia, thủ đô của Brasil, Ủy ban di sản thế giới của UNESCO đã công nhận khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long là di sản văn hóa thế giới dựa trên 3 tiêu chí: Chiều dài lịch sử văn hóa, Tính liên tục của tài sản với tư cách là một trung tâm quyền lực, và Các tầng di tích di vật đa dạng, phong phú. Sáng ngày 1 tháng 10 năm 2010, trong buổi khai mạc Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Tổng Giám đốc UNESCO Irina Bokova đã trao bằng Di sản văn hóa thế giới khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long cho lãnh đạo Thành phố Hà Nội. Khu phố Pháp. Năm 1883, người Pháp bắt đầu lên kế hoạch xây dựng lại thành phố. Dựa trên các khu phố Hà Nội vốn có, những kiến trúc sư người Pháp vạch thêm các con đường mới, xây dựng các công trình theo hướng thích nghi với môi trường sở tại, tạo nên một phong cách ngày nay được gọi là kiến trúc thuộc địa. Khu vực đô thị do người Pháp quy hoạch và xây dựng gồm ba khu: nhượng địa, thành cũ và nam hồ Hoàn Kiếm, ngày nay mang tên chung là khu phố cũ, hay khu phố Pháp. Khu nhượng địa mang hình chữ nhật được giới hạn bởi các con phố Bạch Đằng, Tràng Tiền, Lê Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Nguyễn Huy Tự hiện nay. Vốn là đồn thủy quân của Hà Nội cổ, đến năm 1875, khu vực này được nhượng lại cho quân đội Pháp xây doanh trại, dinh thự và bệnh viện. Những công trình kiến trúc ở đây có mái lợp ngói đá đen, hành lang xung quanh, nhà cuốn hình cung. Dinh thự Tổng tham mưu trưởng quân Pháp, ngày nay là Nhà khách Bộ Quốc phòng xây dựng trong khoảng thời gian 1874 đến 1877. Bệnh viện Lanessan, hiện là Quân y viện 108 và Bệnh viện Hữu Nghị, khánh thành năm 1893. Khu thành cũ gồm các phố Phan Đình Phùng, Hùng Vương, Hoàng Diệu, Điện Biên Phủ, Lê Hồng Phong, Chu Văn An, Trần Phú. Những con đường ở đây rộng, dài và được trồng nhiều cây xanh. Các biệt thự mang kiến trúc miền Bắc nước Pháp với trang trí cầu kỳ, tỷ mỉ. Một công trình kiến trúc tiêu biểu và quan trọng của khu thành cũ là Phủ Toàn quyền, ngày nay là Phủ Chủ tịch, được xây dựng trong khoảng 1900 đến 1902. Khu nam hồ Hoàn Kiếm cũng là một hình chữ nhật với hai cạnh dài là phố Tràng Thi – Tràng Tiền và phố Trần Hưng Đạo, hai cạnh ngang là phố Phan Bội Châu và phố Phan Chu Trinh. Khu vực này được xây dựng đồng thời với khu thành cũ song quy trình quy hoạch có chậm hơn do phải giải tỏa nhiều làng xóm. Một công trình quan trọng của thành phố là Nhà hát Lớn nằm ở đầu phố Tràng Tiền, được xây từ 1902 tới 1911, theo mẫu Opéra Garnier của Paris. Kiến trúc Pháp thường được xem như một di sản của Hà Nội, nhưng ngày nay đã phải chịu nhiều biến đổi. Những công trình cao tầng và các ngôi nhà giả phong cách Pháp làm khu phố cũ trở nên khó nhận diện. Bên cạnh đó, nhiều thửa đất được sáp nhập để xây dựng các cao ốc khiến cảnh quan bị phá vỡ. Những hàng rào thấp dọc các con phố, những màu sắc tiêu biểu – tường vàng và cửa gỗ màu xanh – cũng bị thay đổi và che lấp bởi các biểu hiệu quảng cáo. Hiện Sở Quy hoạch Kiến trúc Hà Nội với sự giúp đỡ của vùng Île-de-France đang triển khai dự án bảo tồn và phát triển khu phố này. Kiến trúc hiện đại. Vào những năm 1960 và 1970, hàng loạt các khu nhà tập thể theo kiểu lắp ghép xuất hiện ở những khu phố Khương Thượng, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc... Do sử dụng các cấu kiện bê tông cốt thép sản xuất theo quy trình thủ công, với những dãy nhà 4 tầng đầu tiên ở khu Khương Thượng và sau đó là 5 tầng. Riêng khu Kim Liên xây dựng nhà hộp kiểu Trung Quốc. những công trình này hiện rơi vào tình trạng xuống cấp nghiệm trọng. Không chỉ vậy, do thiếu diện tích sinh hoạt, các cư dân những khu nhà tập thế lắp ghép còn xây dựng thêm những lồng sắt gắn ngoài trời xung quanh các căn hộ – thường được gọi là chuồng cọp – gây mất mỹ quan đô thị. Hiện những nhà tập thể này đang dần được thay thể bởi các chung cư mới. Cuối thập niên 1990 và thập niên 2000, nhiều con đường giao thông chính của Hà Nội, như Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Láng Hạ, Ngọc Khánh, Thái Hà... được mở rộng. Các khách sạn, cao ốc văn phòng mọc lên, những khu đô thị mới như Khu đô thị mới Nam Thăng Long, Bắc Thăng Long, Du lịch Hồ Tây, Định Công, Bắc Linh Đàm... Cũng dần xuất hiện. Khoảng thời gian gần đây, khu vực Mỹ Đình được đô thị hóa nhanh chóng với hàng loạt những ngôi nhà cao tầng mọc lên. Tuy vậy, các khu đô thị mới này cũng gặp nhiều vấn đề, như công năng không hợp lý, thiếu quy hoạch đồng bộ, không đủ không gian công cộng. Trong trận mưa kỷ lục cuối năm 2008, Mỹ Đình là một trong những khu vực chịu thiệt hại nặng nề vì nước ngập. Cùng với dự phát triển, đô thị hóa các khu vực Hà Nội mở rộng, nhiều đường phố mới đã được đặt tên: Năm 2010 là 43 và năm 2012 là 34 đường, phố mới. Khoảng thời gian 2010–2012 chứng kiến sự bùng nổ các dự án đầu tư xây dựng các khu đô thị, tòa cao ốc, chung cư bình dân và cao cấp, trung tâm thương mại với giá bán cao hơn giá thành tương đối nhiều. Tính đến giữa năm 2017, cảnh sát phòng cháy và chữa cháy thành phố Hà Nội thống kê được 994 tòa nhà cao tầng. Các công trình nổi bật. Trước khi trở thành một trung tâm chính trị – vào thế kỷ V với triều đại nhà Tiền Lý – Hà Nội đã là một trung tâm của Phật giáo với các thiền phái danh tiếng. Theo văn bia, từ giữa thế kỷ VI, chùa Trấn Quốc được xây dựng trên bãi Yên Hoa ngoài sông Hồng, tới 1615 do bãi sông bị lở, chùa mới dời về địa điểm hiện nay. Đến thế kỷ XI, với sự xuất hiện của kinh đô Thăng Long, khi Phật giáo trở thành quốc giáo, các chùa chiền, thiền viện, sư tăng mới phát triển thực sự mạnh mẽ. Trong nhiều thế kỷ, Hà Nội tiếp tục xây dựng các ngôi chùa, trong đó một số vẫn tồn tại tới ngày nay. Có thể kể tới các ngôi chùa như chùa Một Cột xây lần đầu năm 1049, chùa Láng từ thế kỷ XII, chùa Quán Sứ, chùa Kim Liên xuất hiện vào thế kỷ XVII. Tuy vậy, hầu hết các ngôi chùa trong nội ô ngày nay đều được xây dựng lại vào thế kỷ XIX. Những triều đại Lý, Trần, Lê để lại rất ít dấu tích. Vùng ngoại thành Hà Nội cũng có nhiều ngôi chùa nổi tiếng. Ở xã Hương Sơn, Mỹ Đức, huyện Mỹ Đức, một quần thể văn hóa–tôn giáo gồm hàng chục ngôi chùa thờ Phật, các ngôi đền thờ thần, các ngôi đình thờ tín ngưỡng nông nghiệp... thường được gọi chung là Chùa Hương. Từ lâu, di tích này đã trở thành một địa điểm du lịch quan trọng, đặc biệt với lễ hội Chùa Hương được tổ chức vào mỗi mùa xuân. Cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây, Chùa Thầy nằm trên địa phận của xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai. Ngôi chùa, thường gắn liền với tên tuổi vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, là một di sản kiến trúc, văn hóa, lịch sử giá trị. Giống như Chùa Hương, lễ hội Chùa Thầy cũng được tổ chức vào mùa xuân, đầu tháng 3 hàng năm. Cùng với các ngôi chùa, Hà Nội còn có không ít đền thờ Đạo Lão, Đạo Khổng hay các thần bảo hộ như Thăng Long tứ trấn, Văn Miếu-Quốc Tử Giám, Đền Ngọc Sơn... Trong khu phố cổ còn nhiều ngôi đình vẫn được những người dân thường xuyên tới lui tới bày tỏ lòng thành kính. Kitô giáo theo chân những người châu Âu vào Việt Nam, giúp Hà Nội có được Nhà thờ Lớn, Nhà thờ Cửa Bắc, Nhà thờ Hàm Long... Ngoài ra có thánh đường Hồi Giáo Jamia Al Noor tại Hàng Lược, Thánh thất Cao Đài thủ đô. Các công trình tôn giáo ngày nay là một phần quan trọng của kiến trúc thành phố, nhưng không ít hiện phải nằm trong những khu dân cư đông đúc, thiếu không gian. Thời kỳ thuộc địa đã để lại Hà Nội rất nhiều các công trình kiến trúc lớn, hiện vẫn đóng vai trò quan trọng về công năng, như Nhà hát Lớn, Phủ Chủ tịch, Bắc Bộ phủ, trụ sở Bộ Ngoại giao, Bảo tàng Lịch sử, Khách sạn Sofitel Metropole... Một số công trình bị phá bỏ để xây mới – như Tòa thị chính được thay thế bằng trụ sở Ủy ban nhân dân thành phố – hoặc tu sửa nhưng không giữ được kiến trúc cũ – như ga Hàng Cỏ. Thời kỳ tiếp theo, Hà Nội cũng có thêm các công trình mới. Lăng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hội trường Ba Đình, ghi đậm dấu ấn của giai đoạn này. Từ những năm 2000, cùng với sự phát triển về kinh tế, rất nhiều cao ốc và khách sạn như Daewoo, Sofitel Plaza, Melia, tòa nhà Tháp Hà Nội... Mọc lên mang lại cho thành phố dáng vẻ hiện đại. Hà Nội cũng chứng kiến sự ra đời của những công trình quan trọng như Trung tâm Hội nghị Quốc gia, Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình... Để kỷ niệm lễ 1.000 năm Thăng Long – Hà Nội, hiện nay rất nhiều công trình được xây dựng, có thể kể đến Keangnam Hanoi Landmark Tower, Lotte Center Hà Nội, Bảo tàng Hà Nội và Tòa nhà Quốc hội. Kinh tế. Tổng quan. Năm 2010 Hà Nội đạt được những kết quả khả quan trọng trong phát triển kinh tế. GDP tăng 11%, thu nhập bình quân đầu người xấp xỉ đạt 2.000 Đô la Mỹ. Tổng thu ngân sách trên địa bàn vượt 100.000 tỷ đồng. Năm 2019, Hà Nội là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 2 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 8 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 41 về tốc độ tăng trưởng GRDP. GRDP của thành phố đạt 971.700 tỷ đồng (41,85 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 120,6 triệu đồng (5.200 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,62%. Quy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 1.016 nghìn tỷ đồng, xếp thứ hai các tỉnh thành cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt 122,7 triệu đồng (5.285 USD, xếp hạng 7), GRDP theo giá so sánh năm 2010 ước tăng 3,94%, cao gấp khoảng 1,5 lần mức tăng của cả nước (xếp hạng 26) (báo cáo của địa phương, Tổng cục Thống kê sẽ công bố số liệu đánh giá lại). Thu nhập bình quân đầu người sơ bộ năm 2019 là 6,403 triệu đồng/tháng (xếp hạng 3). Năm 2020, GRDP của Thành phố tăng 3,98% so với năm 2019 (quý 1 tăng 4,13%; quý II tăng 1,76%; quý III tăng 3,95%; quỷ IV tăng 3,77%), đạt mức thấp so với kế hoạch và mức tăng trưởng của năm 2019, chủ yếu do ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2020 ước tính tăng 4.2% so với năm 2019, đóng góp 0,09% vào mức tăng GRDP. Đây là khu vực ghi nhận tốc độ tăng cao hơn mức tăng chung và cao hơn mức tăng của nhiều năm qua. Nguyên nhân chủ yếu do dịch tả lợn châu Phi cơ bản được kiểm soát, công tác tái đàn được quan tâm, quy mô đàn lợn hiện có 1,36 triệu con, tăng 26,2% so với cùng kỳ; chăn nuôi gia cầm và hoạt động thủy sản phát triển tốt (quy mô đàn gia cầm hiện có 39,9 triệu con, tăng 9,3%; sản lượng thịt gia cầm xuất chuồng năm 2020 tăng 25,3%; sản lượng thủy sản tăng 3,5%). Bên cạnh đó, thời tiết giai đoạn lúa trỗ bông khá thuận lợi, cùng với công tác bảo vệ thực vật được chú trọng đã góp phần tăng năng suất lúa; sản lượng lúa vụ mùa 2020 toàn Thành phố ước đạt 447,2 nghìn tắn, tăng 2,4% so với vụ mùa 2019. Khu vực công nghiệp và xây dựng ước tính năm 2020 tăng 6,39% so với năm 2019, đóng góp 1,43% vào mức tăng GRDP. Trong đó: Ngành công nghiệp cả năm tăng 4,91%, đóng góp 0,69% vào mức tăng chung. Năm 2020, ngành công nghiệp Hà Nội đang dần chuyển dịch theo hướng phát triển các khu vực công nghiệp hiện đại có giá trị xuất khẩu lớn như: Điều khiển kỹ thuật số, tự động hóa, rô-bốt, nano, plasma, laser, công nghệ sinh học. Tuy nhiên, ngành này cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại dịch Covid-19, nhất là các ngành sản xuất, xuất khẩu sản phẩm và sử dụng nhiều nguyên, vật liệu, phụ kiện nhập khẩu; Nghị định 100/2019/NĐ-CP của Chính phủ cũng ảnh hưởng đến ngành sản xuất đồ uống của Thành phố. Ngành xây dựng tiếp tục tăng cao 8,9% so với năm 2019, đóng góp 0,74% vào mức tăng chung, trong đó công tác giải ngân vốn đầu tư công có chuyền biến tích cực; đã khởi công một số công trình lớn và hoàn thành đưa vào sử dụng một số công trình trọng điểm, góp phần phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô. Khu vực dịch vụ năm 2020 tăng 3,29% so với năm trước (đóng góp 2,1% vào mức tăng GRDP), thấp hơn nhiều so với mức tăng 7,27% năm 2018 và 7,59% năm 2019 do chịu ảnh hưởng nặng nề từ đại địch Covid-19, nhất là các ngành, lĩnh vực: Du lịch, khách sạn, nhà hàng, vận tải, xuất nhập khẩu, vui chơi, giải trí... Ngành bán buôn, bán lẻ là điểm sáng trong khu vực dịch vụ năm 2020 với mức tăng 8,84%, là một trong những ngành đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của Thành phố (đóng góp 0,81% vào mức tăng GRDP). Một số ngành duy trì tăng trưởng khá: Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm tăng 7,21%; thông tin và truyền thông tăng 6,89%. Năm 2020, hoạt động y tế, giáo dục được quan tâm, chú trọng; giá trị tăng thêm ngành y tế và trợ giúp xã hội ước tăng 14,23% so với năm 2019; ngành giáo dục và đào tạo tăng 7,01%. Một số ngành dịch vụ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch Covid-19 có mức tăng trưởng âm trong năm nay, trong đó: Dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 18,93% so với 2019; hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (trong đó du lịch, lữ hành chiếm 30%) giảm 16,88%; hoạt động nghệ thuật, vui chơi và giải trí giảm 6,15%; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,25%; kinh doanh bất động sản giảm 0,16%. Quy mô GRDP năm 2020 theo giá hiện hành ước đạt 1.016 nghìn tỷ đồng; GRDP bình quân đầu người đạt 122,7 triệu đồng (tương đương 5.285 USD), tăng 2,34% so với năm 2019. Cơ cấu khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 2,24% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 23,67%; khu vực dịch vụ chiếm 62,79%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 11,3% (Cơ cầu tương ứng năm 2019 là: 2,02%; 22,9%; 63,73% và 1 1,35%). Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2020 ước thực hiện 280,5 nghìn tỷ đồng, đạt 100,6% dự toán HĐND Thành phố giao, tăng 3,9% so với thực hiện năm 2019, trong đó: Thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu ước thực hiện 18,9 nghìn tỷ đồng, đạt 102,7% dự toán và bằng 99,8% so với thực hiện năm 2019; thu từ dầu thô 2,1 nghìn tỷ đồng, đạt 99,5% và bằng 63,2%; thu nội địa (không kể đầu thô) 259,5 nghìn tỷ, đạt 100,5% và tăng 4,7%. Du lịch. So với các tỉnh, thành phố khác của Việt Nam, Hà Nội là một thành phố có tiềm năng để phát triển du lịch. Trong nội ô, cùng với các công trình kiến trúc, Hà Nội còn sở hữu một hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Thành phố cũng có nhiều lợi thế trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam với du khách nước ngoài thông qua các nhà hát sân khấu dân gian, các làng nghề truyền thống. Du lịch Hà Nội đang ngày càng trở nên hấp dẫn hơn với các du khách. Năm 2007, Hà Nội đón 1,1 triệu lượt khách du lịch ngoại quốc. Năm 2008, trong 9 triệu lượt khách của thành phố, có 1,3 triệu lượt khách nước ngoài. Tỷ lệ du khách tới thăm các bảo tàng Hà Nội cũng không cao. Một trong các bảo tàng thu hút nhiều khách tham quan nhất là Bảo tàng dân tộc học. Hàng năm, Bảo tàng Dân tộc học, điểm đến được yêu thích trong các sách hướng dẫn du lịch, có 180.000 khách tới thăm, trong đó một nửa là người nước ngoài. Theo thống kê năm 2019, Hà Nội có 3.499 cơ sở lưu trú với tổng số 60.812 buồng phòng. Trong số này 561 cơ sở lưu trú du lịch đã xếp hạng với 22.749 buồng phòng bao gồm 67 khách sạn được xếp hạng từ 3–5 sao và 7 khu căn hộ du lịch cao cấp từ 4–5 sao. Với mức giá được coi là khá đắt ở Việt Nam, khoảng 126,26 USD một đêm cho phòng khách sạn 5 sao, hiệu suất thuê phòng các khách sạn 3–5 sao ở Hà Nội hiện dao động từ 80% đến 90%. Ngoài 11 khách sạn 5 sao là Daewoo, Horison, Hilton Hanoi Opera, Melia, Nikko, Sofitel Metropole, Sheraton, Sofitel Plaza, và InterContinental, Crown Plaza, Marriot, thành phố còn 6 khách sạn 4 sao và 19 khách sạn 3 sao. Du lịch ở Hà Nội cũng còn không ít những tệ nạn, tiêu cực. Trang Lonely Planet cảnh báo tình trạng du khách nước ngoài bị taxi và xe buýt lừa đến một số khách sạn giả danh và bị đòi giá cao; ở quanh khu vực hồ Hoàn Kiếm du khách đồng tính nam có thể bị mời mọc vào những quán karaoke, nơi hóa đơn thanh toán cho một vài đồ uống có thể tới 100 USD hoặc hơn. Xã hội. Dân cư. Từ rất lâu, Thăng Long đã trở thành điểm đến của những người dân tứ xứ. Vào thế kỷ XV, dân các trấn về Thăng Long quá đông khiến vua Lê Thánh Tông có ý định buộc tất cả phải về nguyên quán. Nhưng khi nhận thấy họ chính là lực lượng lao động và nguồn thuế quan trọng, triều đình đã cho phép họ ở lại. Tìm đến kinh đô Thăng Long còn có cả những cư dân ngoại quốc, phần lớn là người Hoa. Trong hơn một ngàn năm Bắc thuộc, rất nhiều những người Hoa đã ở lại sinh sống thành phố này. Trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, vẫn có những người Hoa tới xin phép cư ngụ lại Thăng Long. Theo "Dư địa chí" của Nguyễn Trãi, trong số 36 phường họp thành kinh đô Thăng Long có một phường người Hoa là phường Đường Nhân, nay có thể là khu vực phố Hàng Ngang. Những thay đổi về dân cư vẫn diễn ra liên tục và kéo dài cho tới ngày nay. Cùng với đó, quá trình đổi thay liên tục của địa giới hành chính (đặc biệt là sau khi sát nhập Gia Lâm trong thời gian 1954 – 1961, phần lớn tỉnh Phúc Yên khoảng năm 1980 và toàn bộ tỉnh Hà Tây năm 2008), đã phần nào thay đổi định nghĩa "người Hà Nội" trong từng thời kỳ lịch sử. Trong thời kỳ Pháp thuộc, với vai trò là thủ phủ của Liên bang Đông Dương, Hà Nội đã thu hút một lượng đáng kể người Pháp, người Hoa và người Việt từ những vùng lân cận. Vào thập niên 1940, dân số thành phố được thống kê là 132.145 người, nhưng đến năm 1954 thì giảm xuống chỉ còn 53.000 dân trên một diện tích 152 km², điều này là do phần lớn người dân đã di tản lên những vùng Việt Minh kiểm soát sau khi thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Hà Nội năm 1946. Sau khi chính quyền Việt Minh tiếp quản Hà Nội, hầu hết người Pháp và người Hoa đã rời bỏ thành phố để vào miền Nam hoặc trở về quê hương. Ở những làng ngoại thành, ven đô cũ, nơi người dân sống chủ yếu nhờ nông nghiệp, thường không có sự thay đổi lớn. Nhiều gia đình nơi đây vẫn giữ được gia phả từ những thế kỷ XV, XVI. Trong nội thành, chỉ còn lại vài dòng họ đã định cư liên tục tại Thăng Long từ thế kỉ XV như dòng họ Nguyễn ở phường Đông Tác. Do tính chất của công việc, nhiều thương nhân và thợ thủ công ít khi trụ nhiều đời tại một điểm. Gặp khó khăn trong kinh doanh, những thời điểm sa sút, họ tìm tới vùng đất khác. Cũng có những trường hợp, một gia đình có người đỗ đạt được bổ nhiệm làm quan tỉnh khác và đem theo gia quyến, đôi khi cả họ hàng. Các thống kê trong lịch sử cho thấy dân số Hà Nội tăng nhanh trong nửa cuối thế kỷ XX. Vào thời điểm năm 1954, thành phố có 53.000 dân, trên một diện tích 152 km². Đến năm 1961, thành phố mở rộng diện tích lên 584 km² với dân số 91.000 người. Năm 1978, Quốc hội quyết định mở rộng thủ đô lần thứ hai với diện tích đất tự nhiên 2.136 km², dân số 2,5 triệu người. Tới năm 1991, địa giới Hà Nội tiếp tục thay đổi, chỉ còn 924 km², nhưng dân số vẫn ở mức hơn 2 triệu người. Trong suốt thập niên 1990, với việc các khu vực ngoại ô dần được đô thị hóa, dân số Hà Nội tăng đều đặn, đạt con số 2.675.166 người vào năm 1999. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, thành phố Hà Nội có hơn 6,23 triệu dân và nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Theo kết quả cuộc điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số toàn Hà Nội là 6.451.909 người. Dân số trung bình của thành phố năm 2010 là 6.561.900 người. Tính đến hết năm 2015, dân số Hà Nội là 7.558.956 người. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số Hà Nội là 8.053.663 người, trong đó 49,2% dân số (tức 3,96 triệu người) sống ở thành thị, và 50,8% dân số sống ở nông thôn (tức 4,09 triệu người). Về cơ cấu dân số, cư dân Hà Nội chủ yếu là người Kinh, chiếm tỷ lệ khoảng 99%, theo sau là người Mường, người Tày và các dân tộc thiểu số khác. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống xen kẽ với người Kinh ở tất cả 30 đơn vị hành chính cấp huyện của thành phố, trong đó cư trú tập trung ở 14 xã của 5 huyện Ba Vì, Thạch Thất, Quốc Oai, Chương Mỹ và Mỹ Đức. Tính đến năm 2019, toàn thành phố có 278.450 người theo 9 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 192.958 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 80.679 người, đạo Tin lành có 4.226 người, còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài, Hồi giáo, Baha'i giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Minh Lý đạo, Minh Sư đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam. Hà Nội là đơn vị hành chính cấp tỉnh đông dân thứ hai Việt Nam với 8,05 triệu dân cư (2019), trong đó 49,2% dân cư là người thành thị. Cũng theo số liệu năm 2019, mật độ dân số của Hà Nội là 2.398 người/km², cao thứ hai trong tất cả các tỉnh, nhưng phân bố dân số không đồng đều; khoảng cách về dân số giữa quận và huyện, giữa thành thị và nông thôn còn lớn với xu hướng tiếp tục gia tăng. Mật độ dân số cao nhất là ở quận Đống Đa lên tới hơn 42.000 người/km² (2018), trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Ba Vì, Mỹ Đức mật độ dưới 1.000 người/km². Nhà ở. Mặc dù là thủ đô của một quốc gia thu nhập bình quân đầu người trung bình thấp, nhưng Hà Nội lại là một trong những thành phố đắt đỏ nhất thế giới và giá bất động sản không thua kém các quốc gia giàu có. Điều này đã khiến người dân Hà Nội, đặc biệt tầng lớp có thu nhập thấp, phải sống trong điều kiện chật chội, thiếu tiện nghi. Theo số liệu năm 2003, 30% dân số Hà Nội sống dưới mức 3 m² một người. Ở những khu phố trung tâm, tình trạng còn bi đát hơn rất nhiều. Nhà nước cũng không đủ khả năng để hỗ trợ cho người dân. Chỉ khoảng 30% cán bộ, công nhân, viên chức được phân phối nhà ở. Do truyền thống văn hóa và những khó khăn về chỗ ở, hiện tượng ba, bốn thế hệ cùng sống chung trong một ngôi nhà rất phổ biến ở Hà Nội. Hầu hết các hộ dân cư của thành phố đều có nhà ở và chủ yếu sống trong các loại nhà kiên cố và bán kiên cố. Mỗi năm, thành phố xây dựng mới hàng triệu mét vuông nhà, nhưng giá vẫn ở mức quá cao so với phần lớn người dân. Gần như 100% các gia đình trẻ ở Hà Nội chưa có nhà ở, phải sống ghép chung hoặc thuê nhà ở tạm. Với giá từ 500 triệu tới 1,5 tỷ đồng một căn hộ chung cư, một người dân có thu nhập trung bình chỉ có thể mua được sau nhiều năm tích lũy tài chính. Bên cạnh những khu chung cư mới mọc thêm ngày càng nhiều, vẫn còn những bộ phận dân cư phải sống trong những điều kiện hết sức lạc hậu. Tại các khu vực ven sông Hồng và các bãi bồi thuộc trung tâm thành phố, hàng trăm gia đình sống trong những ngôi nhà lợp mái tre, không có điện, không có trường học và không được chăm sóc về y tế. Y tế. Năm 2010, thành phố Hà Nội có 650 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế thành phố, trong đó có 40 bệnh viện, 29 phòng khám khu vực và 575 trạm y tế. Số giường bệnh trực thuộc sở Y tế Hà Nội là 11.536 giường, chiếm khoảng một phần hai mươi số giường bệnh toàn quốc; tính trung bình ở Hà Nội 569 người/giường bệnh so với 310 người/giường bệnh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Điều này dẫn đến tình trạng nhiều bệnh viện 1 giường bệnh có đến 2-3 bệnh nhân nằm điều trị là thường xuyên gặp. Cũng theo thống kê năm 2010, thành phố Hà Nội có 2.974 bác sĩ, 2.584 y sĩ và 3.970 y tá. Do sự phát triển không đồng đều, những bệnh viện lớn của Hà Nội, cũng là của cả miền Bắc, chỉ tập trung trong khu vực nội ô thành phố. Các bệnh viện Việt Đức, Bạch Mai, Bệnh viện Nhi Trung ương và Bệnh viện Phụ sản Hà Nội đều trong tình trạng quá tải. Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, Hà Nội cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Năm 2007, toàn thành phố có 8 bệnh viện tư nhân với khoảng 300 giường bệnh. Theo đề án đang được triển khai, đến năm 2010, Hà Nội sẽ có thêm 8 đến 10 bệnh viện tư nhân. Khi đó, tổng số giường bệnh tư nhân sẽ lên tới khoảng 2.500 giường. Điều kiện chăm sóc y tế giữa nội ô và các huyện ngoại thành Hà Nội có sự chênh lệch lớn. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính năm 2008, mức chênh lệch này càng tăng, thể hiện qua các chỉ số y tế cơ bản. Nếu như tại địa phận Hà Nội cũ, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng là 9,7%, thì ở Hà Tây, con số lên tới 17%. Tương tự, tuổi thọ trung bình tại khu vực Hà Nội cũ khá cao, 79 tuổi, nhưng sau khi mở rộng, con số này bị giảm xuống còn 75,6 tuổi. Tại không ít khu vực thuộc các huyện ngoại thành, cư dân vẫn phải sống trong điều kiện vệ sinh yếu kém, thiếu nước sạch để sinh hoạt, phải sử dụng nước ao, nước giếng. Giáo dục. Từ nhiều thế kỷ, vị thế kinh đô đã giúp Thăng Long – Hà Nội trở thành trung tâm giáo dục của Việt Nam. Từ giữa thế kỷ XV cho tới cuối thế kỷ XIX, Hà Nội luôn là một trong những địa điểm chính để tổ chức các cuộc thi thuộc hệ thống khoa bảng, nhằm chọn những nhân vật tài năng bổ sung vào bộ máy quan lại. Tuy vậy, về số lượng trạng nguyên, Hà Nội lại thấp hơn những vùng đất truyền thống khác như Bắc Ninh, Hải Dương, Nam Định. Tới thời Pháp thuộc, với vị trí là thủ đô của Liên bang Đông Dương. Một thời kì trường thi Hà Nội bị nhập vào với trường Nam Định gọi là trường Hà Nam thi tại Nam Định (1884 đến 1915). Hà Nội là một trung tâm giáo dục của khu vực, nơi người Pháp đặt các trường dạy nghề và giáo dục bậc đại học, trong đó có Viện Đại học Đông Dương, Trường Y khoa Đông Dương, Trường Bách nghệ Hà Nội là các trường mà sau này trở thành nền móng của giáo dục đại học ở Việt Nam. Năm 2009, Hà Nội có 677 trường tiểu học, 581 trường trung học cơ sở và 186 trường trung học phổ thông (THPT) với 27.552 lớp học, 982.579 học sinh. Hệ thống trường trung học phổ thông, Hà Nội có 40 trường công lập, một vài trong số đó có chất lượng giảng dạy và truyền thống lâu đời, như trường THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam, trường THPT chuyên Nguyễn Huệ, trường THPT Chu Văn An, trường THPT Trần Phú. Bên cạnh các trường công lập, thành phố còn có 65 trường dân lập và 5 trường bán công. Hà Nội cũng là địa điểm của ba trường trung học đặc biệt, trực thuộc các trường đại học, là trường THPT chuyên ngoại ngữ thuộc trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, trường THPT chuyên Khoa học Tự nhiên thuộc trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội và trường THPT chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội thuộc trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Cùng với các trung học danh tiếng, hệ thống giáo dục của thành phố vẫn duy trì những trường bổ túc và cả các lớp học xóa mù chữ. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào thành phố, Hà Nội hiện đứng đầu Việt Nam về số lượng người không biết chữ. Năm 2008, toàn thành phố có gần 235.000 người mù chữ trên tổng số 1,7 triệu người của cả quốc gia, tuy nhiên đến năm 2017, thành phố xác nhận đã hoàn thành chương trình xoá mù chữ mức độ 2. Là một trong hai trung tâm giáo dục đại học lớn nhất quốc gia, trên địa bàn Hà Nội có trên 50 trường đại học cùng nhiều cao đẳng, đạo tạo hầu hết các ngành nghề quan trọng. Năm 2007, tại thành phố có 606.207 sinh viên, Hà Tây cũng tập trung 29.435 sinh viên. Nhiều trường đại học ở đây như Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Y Hà Nội, Đại học Bách khoa Hà Nội, Học viện An ninh nhân dân, Học viện Kỹ thuật Quân sự, Đại học Kinh tế Quốc dân, Đại học Ngoại thương, Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Nông nghiệp Việt Nam là những trường đào tạo đa ngành và chuyên ngành hàng đầu của Việt Nam. Dù vậy, giáo dục đại học phải đối mặt với nhiều bất cập. Khuôn viên có tính truyền thống, phong cách sư phạm và có hồn văn hóa của những trường lập ra từ xưa nay bị xẻ thịt thành nhà ở, nhà hàng, nhà băng... Đại học Bách khoa bị cắt bởi đường phố, và còn lập ra cả phường như phường Bách Khoa quận Hai Bà Trưng. Khuôn viên cổ kính của Viện Đại học Đông Dương thì chen vào nhà hàng 23 Lê Thánh Tông phục vụ dân nhậu. Các ký túc xá cũ lẫn mới thường được tạo điều kiện để sinh viên "không" ở được, như cho hộ gia đình thuê trọ, mở nhà hàng.. để sinh viên tự tìm chỗ ở yên tĩnh mà học tập, từ đó chuyển đổi sử dụng ký túc. Phái thực dụng còn lên tiếng đòi các trường phải di dời đi đâu đó quang đãng mà học, nhường lại "đất vàng" cho các hoạt động hái ra tiền trước mắt. Văn hóa. Thể thao. Với vai trò thủ đô, Hà Nội là nơi tập trung nhiều câu lạc bộ thể thao lớn cùng các công trình thể thao quan trọng của Việt Nam. Hiện nay thành phố có một câu lạc bộ bóng đá nam: Hà Nội FC thi đấu tại V.League 1 và hai câu lạc bộ bóng đá nữ: Câu lạc bộ bóng đá nữ Hà Nội I và Câu lạc bộ bóng đá nữ Hà Nội II. Ngoài ra, trong quá khứ, Hà Nội từng có nhiều đội bóng mạnh như Thể Công, Công an Hà Nội, Tổng cục Đường sắt, Tổng cục Bưu điện (thành lập năm 1957), Phòng không Không quân, Thanh niên Hà Nội, Quân khu Thủ đô, Công nhân Xây dựng Hà Nội. Những vận động viên của Hà Nội luôn đóng vai trò quan trọng trong đoàn thể thao Việt Nam tham dự các kỳ thi đấu quốc tế. Từ năm 2001 đến 2003, các vận động viên của thành phố đã đạt được tổng cộng 3.414 huy chương, gồm: 54 huy chương thế giới, 95 huy chương châu Á, 647 huy chương Đông Nam Á và quốc tế, cùng 2.591 huy chương tại các giải đấu quốc gia. Hà Nội dẫn đầu Việt Nam về tỷ lệ người thường xuyên tập luyện thể thao với 28,5%. Nhưng dân số quá đông, không gian đô thị ngày càng chật chội khiến những địa điểm thể thao trở nên khan hiếm và không đáp ứng đủ nhu cầu của người dân. Hầu hết các trường đại học và cao đẳng tại Hà Nội đều trong tình trạng thiếu sân chơi. Một vài trường có diện tích rộng, nhưng lại sử dụng một phần để xây dựng sân quần vợt với hiệu suất sử dụng không cao. Các sinh viên của thành phố thường phải chơi bóng trong những khoảng sân có diện tích nhỏ hẹp. Sau nhiều năm sử dụng Sân vận động Hàng Đẫy, được xây dựng năm 1958, nằm trong trung tâm thành phố làm nơi thi đấu chính, từ năm 2003, Hà Nội có thêm Sân vận động Mỹ Đình nằm tại phía Nam thành phố, sức chứa 40.192 chỗ ngồi. Sân vận động Quốc gia Mỹ Đình, nằm trong Liên hợp thể thao quốc gia, từng là địa điểm chính của Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2003, nơi tổ chức lễ khai mạc, lễ bế mạc, các trận thi đấu bóng đá nam & các cuộc tranh tài trong môn điền kinh. Tại Giải vô địch bóng đá Đông Nam Á 2008, trước bốn vạn khán giả, Mỹ Đình là nơi chứng kiến Đội tuyển quốc gia Việt Nam bước lên ngôi cao nhất của bóng đá Đông Nam Á. Một số trung tâm thể thao lớn khác của thành phố có thể kể tới như Nhà thi đấu Quần Ngựa, Trung tâm Huấn luyện thể thao Quốc gia I... Cùng hơn 20 điểm sân bãi, nhà tập khác. Ngày 8 tháng 11 năm 2012, Hà Nội được Hội đồng Thể thao châu Á trao quyền đăng cai ASIAD 18, nhưng đến ngày 17 tháng 4 năm 2014, Việt Nam đã xin rút quyền đăng cai giải do vấn đề về kinh phí tổ chức. Địa điểm văn hóa, giải trí. Theo con số giữa năm 2008, toàn thành phố Hà Nội có 17 rạp hát, trong đó 12 rạp thuộc hai quận Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng. Nhà hát Lớn của thành phố, nằm tại số 1 phố Tràng Tiền, quận Hoàn kiếm do người Pháp xây dựng và hoàn thành vào năm 1911. Ngày nay, đây là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cổ điển như opera, nhạc thính phòng, kịch nói, cũng là trung tâm của các hội nghị, gặp gỡ. Nằm tại số 91 phố Trần Hưng Đạo, Cung Văn hóa Hữu nghị Hà Nội cũng là một địa điểm biểu diễn quan trọng, nơi diễn ra các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thời trang, các cuộc thi hoa hậu... Cùng các hoạt động khoa học, hội thảo, hội nghị, triển lãm.Dành cho sân khấu kịch, thành phố có Nhà hát Tuổi trẻ tại số quận Hai Bà Trưng với 650 chỗ ngồi, Nhà hát Chuông Vàng tại quận Hoàn kiếm với 250 ghế ngồi, Nhà hát Kịch Việt Nam nằm trên con đường nhỏ sau lưng Nhà hát Lớn với 170 ghế. Các môn nghệ thuật truyền thống của Việt Nam cũng có sân khấu riêng. Nhà hát Hồng Hà tại Đường Thành dành cho sân khấu tuồng. Nhà hát Cải lương Trung ương nằm tại quận Hai Bà Trưng. Môn nghệ thuật chèo cũng có riêng Nhà hát Chèo Việt Nam ở khu Văn công Mai Dịch, huyện Từ Liêm, và từ năm 2007 thêm một điểm biểu diễn ở Kim Mã, Giang Văn Minh. Rạp múa rối nước Thăng Long ở phố Đinh Tiên Hoàng, bờ hồ Hoàn Kiếm, thường được nhiều khách du lịch tìm đến.[125] Hà Nội là thành phố có hệ thống bảo tàng đa dạng bậc nhất Việt Nam. Một phần lớn trong số đó là các bảo tàng lịch sử, như Bảo tàng Lịch sử Quân sự, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Bảo tàng Chiến thắng B52, Bảo tàng Cách mạng... Các lĩnh vực khác có thể kể tới Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam. Tổng cộng, Hà Nội có hơn 10 bảo tàng, so với hệ thống gần 120 bảo tàng của Việt Nam. Năm 2009, tại Hà Nội có 32 thư viện do địa phương quản lý với lượng sách 565 nghìn bản. Như vậy, số thư viện địa phương của Hà Nội hiện nay lớn hơn Thành phố Hồ Chí Minh – 26 thư viện với 2.420 ngàn cuốn – nhưng lượng sách chỉ bằng khoảng một phần tư. Ngoài hệ thống thư viện địa phương, tại Hà Nội còn phải kể tới các thư viện trong trường đại học. Thư viện Quốc gia tọa lạc tại 31 phố Tràng Thi, với 800.752 đầu sách, 8.677 tựa báo, tạp chí, có thể xem như thư viện quan trọng nhất của Việt Nam. Trong hơn 10 rạp chiếu phim của Hà Nội, chỉ một vài rạp được trang bị hiện đại và thu hút khán giả, như hệ thống rạp CGV, Lotte Cinema, Platinum Cineplex, Galaxy Cinema, BHD Star Cineplex hay Trung tâm Chiếu phim Quốc gia. Những rạp khác như Đặng Dung, Tháng 8 thì vắng người xem hơn. "Fansland", rạp chiếu phim một thời với các tác phẩm điện ảnh kinh điển, đã phải đóng cửa vào giữa năm 2008 bởi không có khán giả. Các quán bar, vũ trường cũng là điểm đến của một bộ phận thanh niên Hà Nội, trong đó nổi bật là vũ trường 1900 Le Theatre nằm trong top 100 vũ trường nổi tiếng nhất thế giới năm 2019 của tạp chí DJ Mag. Nhiều vũ trường từng nổi tiếng nhưng chỉ tồn tại một thời gian rồi đóng cửa vì nhiều lý do. Vũ trường New Century trên phố Tràng Thi mở cửa từ năm 1999, từng là tụ điểm ăn chơi bậc nhất của Hà Nội, đã phải đóng cửa vào năm 2007 bởi dính líu tới mại dâm và ma túy. Trước đó, vũ trường Đêm Màu Hồng ở phố Hàng Chiếu cũng kết thúc trong một vụ cháy lớn vào năm 1999. Nằm ở quận Tây Hồ, Công viên nước Hồ Tây là một địa điểm giải trí hấp dẫn của Hà Nội. Công viên có diện tích 35.560 m², chia thành 5 khu vui chơi được trang bị hiện đại với các đường trượt cao tốc, bể tạo sóng, bể massage. Trong nội ô thành phố cũng có một vài công viên lớn như Công viên Thống Nhất, Công viên Thủ Lệ, Công viên Tuổi Trẻ, Công viên Yên Sở. Hàng loạt các trung tâm thương mại lớn được xây dựng như: Vinhomes Royal City, Vinhomes Times City, AEON Mall Long Biên, Aeon Mall Hà Đông, Big C Thăng Long, Metro Hoàng Mai, Metro Từ Liêm, Melinh Plaza... Là nơi tập trung mua sắm của đông đảo người dân. Khu vực phố đi bộ Hồ Gươm được đưa vào hoạt động ngày 1 tháng 9 năm 2016 gồm 16 tuyến phố. Làng nghề truyền thống. Thành phố Hà Nội trước kia đã có những làng nghề phong phú, thể hiện qua câu thành ngữ quen thuộc "Hà Nội 36 phố phường". Theo thời gian, bộ mặt đô thị của khu phố cổ đã có nhiều thay đổi, nhưng những con phố nơi đây vẫn giữ nguyên những cái tên thuở trước và không ít trong số đó vẫn là nơi buôn bán, kinh doanh những mặt hàng truyền thống cũ. Sau khi Hà Tây được sáp nhập vào Hà Nội, Hà Nội còn có thêm nhiều làng nghề danh tiếng khác. Theo số liệu cuối năm 2008, toàn Hà Nội có 1.264 làng nghề, là nơi tập trung làng nghề đông đúc bậc nhất Việt Nam. Nằm trong trung tâm khu phố cổ, Hàng Bạc trước đây là nơi tập trung những người sinh sống bằng các nghề đúc bạc nén, kim hoàn và đổi tiền. Những thợ kim hoàn của Hàng Bạc có kỹ thuật tinh xảo, xuất thân từ ba làng nghề làm đồ vàng bạc của miền Bắc Việt Nam: làng Châu Khê ở tỉnh Hải Dương, làng Định Công ở quận Hoàng Mai và làng Đồng Xâm thuộc tỉnh Thái Bình. Thế kỷ XV, Lưu Xuân Tín, vị quan thượng thư bộ Lại vốn người làng Châu Khê, được triều đình nhà Lê giao cho việc lập xưởng đúc bạc nén tại kinh thành Thǎng Long. Nhờ vậy, những người thợ Châu Khê tới Hà Nội và không chỉ làm bạc nén, họ làm cả nghề trang trí vàng bạc. Khi nhà Nguyễn lấy Huế làm kinh đô, xưởng đúc bạc nén cũng chuyển tới kinh thành mới, nhưng những người thợ Châu Khê vẫn ở lại Thăng Long và lập nên con phố Hàng Bạc ngày nay. Vào thời kỳ thuộc địa, con phố Hàng Bạc còn được mang tên "Rue changeurs", có nghĩa "phố Đổi Bạc". Dân cư ở đây không chỉ sản xuất đồ kim hoàn mà còn buôn bán, đổi bạc nén lấy bạc vụn. Ngày nay, nghề buôn bán vàng bạc xuất hiện ở nhiều con phố khác, nhưng Hàng Bạc vẫn là nơi đông đúc bậc nhất. Làng gốm Bát Tràng nằm ở huyện Gia Lâm, phía Nam thành phố từ lâu đã có các sản phẩm gốm mang tên chính ngôi làng này. Làng xuất hiện vào thế kỷ XIV khi những người dân làm gốm từ làng Bồ Bát, Ninh Bình và làng Ninh Tràng, Thanh Hóa tụ họp về đây lập nên ngôi làng mới mang tên Bát Tràng. Những người dân Bát Tràng trước kia ít sống với nghề gốm và nông nghiệp, chủ yếu buôn bán cau khô, nước mắm. Nghề gốm ở đây chỉ thực sự phát triển sau năm 1954, khi miền Bắc Việt Nam bước vào thời kỳ hòa bình. Nhiều mẫu mã, các loại men truyền thống được những nghệ nhân của làng phục hồi, sản phẩm gốm Bát Tràng nhanh chóng đạt được danh tiếng. Bát Tràng hiện nay không chỉ là một làng nghề sản xuất thuần túy. Với nhiều công trình tín ngưỡng, văn hóa cùng sản phẩm gốm, ngôi làng trở thành một địa điểm du lịch thu hút của thành phố Hà Nội. Một làng nghề khác của Hà Nội ngày nay là làng lụa Vạn Phúc, vốn thuộc thành phố Hà Đông tỉnh Hà Tây trước đây, nay là quận Hà Đông. Sản phẩm lụa của làng từ rất lâu đã có tiếng với tên gọi "lụa Hà Đông", từng được ca ngợi trong âm nhạc, thi ca và điện ảnh. Tương truyền, bà tổ làng lụa Vạn Phúc vốn người Hàng Châu, Trung Quốc, theo chồng chinh chiến rồi tới ở lại và truyền nghề dệt cho làng. Theo một truyền thuyết khác, cách đây hơn 1200 năm, một cô gái người Cao Bằng tên là A Lã Thị Nương đã đến làm dâu và mang nghề dệt lụa tới làng. Trải qua thời gian, nghề lụa trở thành nghề truyền thống của Vạn Phúc. Ngày nay, phần lớn các gia đình ở đây vẫn sống bằng nghệ dệt. Bên cạnh các khung dệt cổ, nhiều gia đình sử dụng những khung dệt cơ khí hiện đại. Các con phố Hàng Gai, Hàng Đào của Hà Nội là nơi tập trung nhiều cửa hàng bán sản phẩm lụa Vạn Phúc. Lễ hội truyền thống. Thăng Long – Hà Nội là một trong ba vùng tập trung nhiều hội lễ của miền Bắc Việt Nam, cùng với vùng đất tổ Phú Thọ và xứ Kinh Bắc. Cũng như các vùng đất khác, những lễ hội truyền thống ở khu vực Hà Nội được tổ chức nhiều nhất vào mùa xuân. Phần nhiều các lễ hội tưởng nhớ những nhân vật lịch sử, truyền thuyết như Thánh Gióng, Hai Bà Trưng, Quang Trung, An Dương Vương... Một vài lễ hội có tổ chức những trò chơi dân gian độc đáo như hội thổi cơm thi làng Thị Cấm, hội bơi cạn và bắt chạch làng Hồ, hội chạy cờ làng Đơ Thao, lễ hội thả diều truyền thống Bá Giang. Lễ hội Bình Đà, di sản văn hóa phi vật thể quốc gia đầu tiên của thành phố Hà Nội, được tổ chức hàng năm tại làng Bình Đà, xã Bình Minh, huyện Thanh Oai. Đây là lễ hội cổ truyền từ xa xưa, một trong những lễ hội lớn nhất trong vùng và cả nước. Lễ hội kéo dài từ ngày 24 tháng 2 đến ngày mồng 6 tháng 3 âm lịch hằng năm nhằm kết hợp lễ tưởng nhớ Quốc tổ Lạc Long Quân, và Thành Hoàng Làng Linh Lang Đại Vương đã có nhiều công đức trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Với lòng thành kính, từ hàng nghìn năm nay, người dân Bình Đà đã duy trì lễ hội truyền thống với những hình thức thực hành tín ngưỡng độc đáo. Nghi thức thả bánh thánh đặc biệt và thần bí, chứa đựng nhiều giá trị lịch sử – văn hóa đặc sắc, thu hút đông đảo các thế hệ dân cư trong vùng và địa phương khác về dự hội. Đây là lễ hội mang đậm bản sắc văn hóa của người Việt Nam nhằm ôn lại ký ức của buổi đầu khai sinh lập địa. Từ ngày 9 đến 12 tháng Giêng âm lịch, lễ hội Triều Khúc được tổ chức tại ngôi làng cùng tên, thuộc xã Tân Triều, huyện Thanh Trì, nơi có nghề làm nón quai thao và may các đồ thờ như lọng, tàn, trướng, y môn, tán tía. Lễ hội được mở đầu bằng lễ rước long bào từ đình Sắc về đình Lớn. Khi cuộc tế lễ trong đình bắt đầu thì ngoài sân đình các trò vui cũng được tổ chức. Một trong những trò vui được nhiều người ưa thích nhất là trò "con đĩ đánh bồng". Đĩ đánh bồng do hai nam thanh niên mặc trang phục nữ giới biểu diễn, nhún nhảy và đánh chiếc trống Bồng đeo trước bụng. Nhiều trò vui khác như múa lân hí cầu, đấu vật, hát Chèo Tàu sẽ được tổ chức cho tới ngày 12, hội kết thúc bằng lễ rã đám. Một trong những hội lễ lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ là lễ hội Thánh Gióng hay còn gọi là hội làng Phù Đổng, xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, xuất phát từ một câu chuyện truyền thuyết về Thánh Gióng, một trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Vào 9 tháng 4 âm lịch hàng năm, những người dân ở khắp nơi tụ hội về đây tham dự, xem lễ hội làng. Lễ hội làng Gióng được cử hành trên một diễn trường rộng lớn dài khoảng 3 km gồm đền Thượng, đền Mẫu và chùa Kiến Sơ. Bắt đầu từ ngày 6, người dân làng tổ chức rước lễ rước cờ tới đền Mẫu, rước cơm chay lên đền Thượng và ngày chính hội tổ chức hội trận, tái hiện cảnh Thánh Gióng phá giặc Ân. Các ngày từ 10 đến 12 được tiếp nối bằng các lễ rửa khí giới, rước cờ báo tin thắng trận với trời đất và cuối cùng là lễ khao quân, đến đêm có hát chèo. Ngoài lễ hội chính tại làng Phù Đổng, một vài nơi khác cũng tổ chức hội Gióng như hội đền Sóc ở huyện Sóc Sơn, hội Gióng Xuân Tảo ở phường Xuân Đỉnh, quận Bắc Từ Liêm, hội Phù Thánh Gióng ở làng Chi Nam, xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm. Trong nội ô thành phố, vào ngày 5 Tết Nguyên Đán, lễ hội Đống Đa được tổ chức ở gò Đống Đa, thuộc quận Đống Đa. Địa điểm này từng là nơi diễn ra trận đánh giữa nhà Tây Sơn và quân Thanh vào đêm 4 rạng ngày 5 tháng 1 năm Kỷ Dậu, tức 1789. Lễ hội Đống Đa được tổ chức với nhiều trò vui, trong đó tiết mục rước rồng lửa do thanh niên mặc quần áo võ sinh thời cổ rước đi quanh sân lớn, cùng một đám võ sinh múa côn quyền tái hiện hình ảnh của quá khứ. Ở xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, lễ hội chùa Hương tấp nập du khách từ giữa tháng 1 tới tận tháng 3 âm lịch, nhưng đông nhất vào khoảng từ ngày rằm tháng giêng đến 18 tháng 2. Với cảnh núi non, sông nước cùng quần thể di tích chùa Hương, lễ hội là điểm đến của các tăng ni, phật tử, những người hành hương và khách du lịch. Theo hành trình phổ biến, khách trẩy hội thường bắt đầu từ bến Đục, ngồi đò theo dòng suối Yến ghé lễ đền Trình. Từ đó, du khách tiếp tục đi qua cầu Hội, hang Sơn thủy hữu tình, núi Đồi Chèo, núi Con Voi, núi Mâm Xôi, núi Con Gà... Rồi cập bến vào chùa Thiên Trù. Từ đây, du khách bắt đầu hành trình đi bộ thăm chùa Tiên, chùa Giải Oan, đền Cửa Võng và đến đệ nhất động Hương Tích. Đây là một trong những lễ hội lớn và kéo dài nhất Việt Nam. Ẩm thực. Là trung tâm văn hóa của cả miền Bắc từ nhiều thế kỷ, tại Hà Nội có thể tìm thấy và thưởng thức những món ăn của nhiều vùng đất khác, nhưng ẩm thực Hà Nội cũng có những nét riêng biệt. Cốm làng Vòng được những người dân của ngôi làng cùng tên thuộc quận Cầu Giấy làm đặc trưng bởi mùi thơm và màu sắc. Cốm làm từ giống nếp vàng gặt khi còn non, gói trong những tàu lá sen màu ngọc thạch và được những người bán hàng rao bán ngay từ sáng sớm. Tuy phổ biến nhất là cốm tươi, nhưng món ăn này còn được chế biến thành món chả cốm. Đây cũng là một món quà được dùng trong các dịp vui. Thanh Trì, làng vùng ngoại ô khác thuộc phường Thanh Trì, quận Hoàng Mai, với món bánh cuốn Thanh Trì. Bánh được làm từ gạo gié cánh, tám thơm, tráng mỏng như tờ giấy. Những phụ nữ vùng Thanh Trì cho bánh vào thúng, đội trên đầu và đi rao khắp các ngõ phố của Hà Nội. Bánh xếp trong thúng, từng lớp gối nhau trên những tàu lá chuối. Khi ăn, bánh được bóc từng lớp rồi cuộn lại, bày trên những chiếc đĩa. Món bánh cuốn Thanh Trì được ăn cùng với loại nước mắm pha theo công thức đặc biệt của người Thanh Trì xưa kia được thêm tinh dầu từ con Cà cuống với mùi thơm đặc trưng, đậu phụ rán nóng, chả quế. Ngày nay, bánh còn được ăn với thịt ba chỉ quay giòn. Một món ăn khác có tiếng của Hà Nội là chả cá Lã Vọng. Vào thời Pháp thuộc, gia đình họ Đoàn phố Hàng Sơn, ngày nay là 14 phố Chả Cá, đã tạo nên một món ăn mà danh tiếng của nó làm thay đổi cả tên con phố. Chả được làm từ thịt cá lăng – hoặc cá quả, cá nheo nhưng sẽ kém ngon hơn – thái mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ, hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp tre nướng trên lò than ngay trên bàn ăn của thực khách. Chả cá Lã Vọng phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ, chấm với mắm tôm. Phở là món ăn rất phổ biến ở Việt Nam, nhưng phở Hà Nội có những cách chế biến đặc trưng riêng. Phở Hà Nội mang vị ngọt của xương bò, thịt vừa chín đến độ để vẫn dẻo mà không dai, màu nước phở trong, bánh phở mỏng và mềm. Sau khi được trần qua nước nóng, bánh phở được dàn đều trong bát, bên trên là những lát thịt mỏng cùng hành hoa, rau thơm. Cùng với thời gian, nhiều món phở mới xuất hiện với những cách chế biến khác nhau, như phở xào, phở rán, phở cuốn. Làng Lệ Mật nổi tiếng với những món ăn chế biến từ rắn. Rượu ngâm xương rắn được phục vụ miễn phí. Ở Hà Nội còn có nhiều món ăn đặc trưng khác như phở cuốn, bún thang, bún chả, bún nem, bún bung, bún mọc, đậu phụ Mơ, bánh tôm Hồ Tây, bún ốc, xôi Phú Thượng, bánh tẻ Phú Nhi, tào phớ An Phú, nem chua Đông Ngạc, nem Phùng, giò chả Ước Lễ. Văn hóa ứng xử. Hà Nội thường được xem như nơi tập trung những tinh hoa văn hóa của miền Bắc và cả Việt Nam. Trong hàng ngàn năm, vị trí kinh đô khiến thành phố này trở thành nơi quy tụ của những nhân vật ưu tú, những thương nhân, những nghệ nhân, những thợ thủ công lành nghề. Họ tới đây lập nghiệp, mang theo những phong tục, tập quán địa phương và "tỉnh" Hà Nội trở thành mảnh đất tiêu biểu cho nền văn hóa của cả Việt Nam. Những danh nhân, nhân vật của Việt Nam phần đông xuất thân từ những vùng đất khác, nhưng kinh đô Thăng Long thường là nơi họ xây dựng nên sự nghiệp. Môi trường cạnh tranh của đất kinh thành khiến những thương nhân, thợ thủ công trụ vững lại Hà Nội phải là những người xuất sắc, tài năng. Khi những người dân tứ xứ về định cư tại Thăng Long, các phong tục tập quán mà họ mang theo cũng dần thay đổi, tạo nên nét văn hóa của Hà Nội. Thăng Long – Hà Nội, kinh đô của Việt Nam, còn là nơi giao thoa của những nền văn hóa lớn. Hơn một nghìn năm Bắc thuộc đã để lại trên vùng đất Hà Nội ít nhiều những dấu ấn của nền văn minh Trung Hoa. Khi những người Pháp vào Việt Nam, nhiều người trong số họ chỉ coi Hà Nội như một tỉnh của Trung Quốc, hoặc đơn thuần là một vùng chuyển tiếp giữa Ấn Độ và Trung Hoa. Qua những người Pháp, Hà Nội – trung tâm văn hóa của quốc gia – biết tới nền văn minh phương Tây để rồi xây dựng nên những cơ sở đầu tiên của nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại với tân nhạc, thơ mới, hội họa, văn học hiện đại, điện ảnh, nhiếp ảnh. Nhưng Hà Nội đầu thế kỷ XX cũng là nơi những giá trị Pháp thống trị, cửa sổ mở ra thế giới mới của giới thượng lưu Việt Nam. Như lời của sử gia về Đông Nam Á Pierre-Richard Féray: "Ngay khi một người Việt Nam đạt được giàu sang và sống tại thành phố, anh ta bắt đầu trở nên đặc trưng Pháp. Anh ta cố gắng nói đúng giọng Pháp. Anh ta ăn, sống và thở theo cách Pháp". Những thập niên gần đây, Hà Nội cùng Việt Nam lại tiếp nhận những làn sóng văn hóa từ châu Âu và Mỹ. Tuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện văn hóa tổ chức ở Hà Nội gần đây đã xảy ra nhiều sự việc đáng chú ý, điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm 2008, hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm, dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về "văn hóa người Tràng An" trong thời đại ngày nay. Có nhiều ý kiến nhận xét lối cư xử nhã nhặn, thanh lịch của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là cách cư xử thiếu văn hóa nhất là ở giới trẻ Hà Nội. Hà Nội còn có ""bún mắng, cháo chửi" ngày càng trở nên phổ biến đã bị nhiều báo phản ánh và phê phán tuy nhiên các quán ăn có phong cách phục vụ vô văn hóa, thô lỗ, xem thường, xúc phạm khách hàng này vẫn thu hút được nhiều người đến ăn. Sau sự kiện "bún chửi" Hà Nội lên sóng CNN trong mục "món ăn đặc sắc" tháng 9 năm 2016 thì giới chức Hà Nội "tuyên chiến với nói tục, chửi bậy". Âm nhạc. Hà Nội là một niềm cảm hứng sáng tác của nhiều nhạc sĩ. Đã có hàng nghìn bài hát viết về Hà Nội trong nhiều đề tài. Trước hết đó là hình ảnh của một Hà Nội với khí thế hào hùng và mạnh mẽ trong vị thế thủ đô trong cuộc đấu tranh vệ quốc. Trong những năm tháng này, Văn Cao đã viết cho Hà Nội một số hành khúc như Thăng Long hành khúc ca, Gò Đống Đa, Tiến về Hà Nội. Khi những người lính thuộc Trung đoàn Thủ Đô phải rời xa Hà Nội, một trong số đó, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi đã viết ca khúc "Người Hà Nội", ngày nay đã trở nên quen thuộc. Hình ảnh Hà Nội trong cuộc chiến với thực dân Pháp cũng là đề tài của các tác phẩm như: "Sẽ về Thủ đô" của Huy Du, "Cảm xúc tháng Mười" của Nguyễn Thành, "Ba Đình nắng" của Bùi Công Kỳ. Trong những tháng năm chống Mỹ, Thủ đô anh hùng trong chiến đấu và kiến thiết được khắc họa đâm nét trong các tác phẩm như "Bài ca Hà Nội" của Vũ Thanh, "Hà Nội – Điện Biên Phủ" của Phạm Tuyên, "Khi thành phố lên đèn" của Thái Cơ, "Tiếng nói Hà Nội" của Văn An v.v... Bên cạnh đó, Hà Nội hiện lên với dáng vẻ cổ xưa, kiêu kỳ và lãng mạn, với "ánh đèn giăng mắc", "có bóng trăng thơ in trên mặt hồ", với hình ảnh người con gái "khăn san bay lả lơi trên vai ai", "áo trắng Trưng Vương, Tây Sơn em tan trường về" trong những nhạc phẩm mang nhiều tính chất hoài niệm như Hướng về Hà Nội của Hoàng Dương, Nỗi lòng người đi của Anh Bằng, Hà Nội ngày tháng cũ của Song Ngọc hay Gửi người em gái miền Nam của Đoàn Chuẩn. Vẻ đẹp của thiên nhiên, cảnh vật, con người, truyền thống lịch sử và nét thanh lịch độc đáo của Hà Nội được khắc họa đậm nét qua giai điệu của nhiều nhạc sĩ Việt Nam thuộc nhiều thế hệ khác nhau, như Hoàng Hiệp với "Nhớ về Hà Nội", Phan Nhân với "Hà Nội niềm tin và hy vọng", Hoàng Vân với "Tình yêu Hà Nội", Văn Ký với "Trời Hà Nội xanh" và "Hà Nội mùa xuân", Nguyễn Đức Toàn với "Hà Nội trái tim hồng", Trần Hoàn với "Khúc hát người Hà Nội", Trịnh Công Sơn với "Nhớ mùa thu Hà Nội", Nguyễn Cường với "Mãi vẫn là tuổi thơ tôi Hà Nội", Dương Thụ với "Mong về Hà Nội", Phú Quang với "Em ơi, Hà Nội phố", "Hà Nội ngày trở về", "Im lặng đêm Hà Nội", Phạm Minh Tuấn với "Hà Nội ơi thầm hát trong tôi", Nguyễn Tiến với "Chiều mưa Hà Nội", Trần Quang Lộc với "Có phải em mùa thu Hà Nội", Trương Quý Hải với "Hà Nội mùa vắng những con mưa", Lê Vinh với "Hà Nội và tôi", Vũ Quang Trung với "Chiều Hà Nội" v.v... Một số địa danh của Hà Nội cũng đi trở thành chủ đề sáng tác trong âm nhạc như "Một thoáng Tây Hồ" của Phó Đức Phương, "Ngẫu hứng sông Hồng" của Trần Tiến, "Chiều Hồ Gươm" của Đặng An Nguyên, "Truyền thuyết Hồ Gươm" của Hoàng Phúc Thắng, "Bên lăng Bác Hồ" của Dân Huyền v.v... Có một số tác phẩm tuy không nhắc đến địa danh Hà Nội trong tựa đề hoặc trong ca từ nhưng được lấy cảm hứng hoặc viết về chính mảnh đất này như: "Những ánh sao đêm" của Phan Huỳnh Điểu, "Từ một ngã tư đường phố" của Phạm Tuyên, "Mùa xuân làng lúa làng hoa" của Ngọc Khuê, "Hoa sữa" của Hồng Đăng, "Thu quyến rũ" của Đoàn Chuẩn, "Phố nghèo", "Ngẫu hứng phố" của Trần Tiến.. Một Hà Nội với ngập tràn các loài hoa đã được nhạc sĩ Giáng Son khắc họa trong "Hà Nội 12 mùa hoa" – Đây cũng là một vẻ đẹp rất riêng của thủ đô Hà Nội. Văn học. Trong văn học Việt Nam, Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu truyền thống và bản sắc văn hóa. Thời phong kiến, thành Thăng Long từng là đề tài của nhiều bài thơ như "Long thành cầm giả ca" của Nguyễn Du hay "Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan. Ba nhà văn thường được nhắc đến khi nói về đề tài Hà Nội trong văn học là Nguyễn Tuân, Vũ Bằng và Thạch Lam. Nguyễn Tuân, người sinh ra và lớn lên trong môi trường nho giáo, thất vọng bởi cuộc sống trong xã hội "kim khí" xô bồ, thường tìm về những giá trị cũ. Bóng dáng Hà Nội trong tác phẩm của Nguyễn Tuân là những thú chơi của các bậc tao nhân mặc khách trong "Vang bóng một thời" như thưởng trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù... Vũ Bằng lại qua những trang viết, như "Miếng ngon Hà Nội" và "Thương nhớ mười hai", thể hiện nỗi nhớ và tình yêu Hà Nội, ca ngợi sự tinh tế của các món ăn, khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn hóa của thành phố. Thạch Lam được biết đến qua tập bút ký "Hà Nội 36 phố phường". Tác phẩm của Thạch Lam thể hiện sự thương xót trước những người nghèo khó, miêu tả hương vị của những món quà quê, những tiếng rao... tất cả những thứ tạo nên văn hóa Hà Nội. Nhiều nhà văn khác cũng có các tác phẩm về thành phố này như "Phố" của Chu Lai, "Sống mãi với thủ đô" của Nguyễn Huy Tưởng. Bảo Ninh trong "Nỗi buồn chiến tranh" cũng dành nhiều trang viết về Hà Nội. Điện ảnh và truyền hình. Hình ảnh Hà Nội xuất hiện rất nhiều trên cả màn ảnh lớn và màn ảnh nhỏ. Sau khi được giải phóng vào năm 1954, không ít những bộ phim của điện ảnh cách mạng đã nói về Hà Nội, trong đó có thể đến đến "Giông tố", "Sao tháng Tám", "Hà Nội mùa đông năm 1946", "Em bé Hà Nội", "Phía bắc Thủ đô", "Tiền tuyến gọi". "Em bé Hà Nội", tác phẩm của đạo diễn Hải Ninh, khắc họa cuộc sống của Hà Nội trong thời gian quân đội Hoa Kỳ ném bom miền Bắc đã giành Bông sen vàng tại Liên hoan phim Việt Nam năm 1975 và giải đặc biệt của ban giám khảo LHP Liên hoan phim Moskva cùng năm đó. Sau khi Việt Nam thống nhất, một số bộ phim điện ảnh khai thác đề tài về lớp thanh niên sống ở Hà Nội thời kỳ sau chiến tranh, như "Tuổi mười bảy", "Những người đã gặp", "Hãy tha thứ cho em", "Cách sống của tôi", "Hà Nội mùa chim làm tổ". Dưới thời bao cấp, bộ phim tài liệu của đạo diễn Trần Văn Thủy "Hà Nội trong mắt ai" đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho không khí của giai đoạn nhưng cũng từng vấp phải không ít tranh cãi ở khâu kiểm duyệt. Kể từ năm 1990, trong suốt một thập niên, phim về Hà Nội dường như vắng bóng trên màn ảnh của điện ảnh Việt Nam. Năm 2000, đạo diễn Việt kiều Trần Anh Hùng về Việt Nam sản xuất "Mùa hè chiều thẳng đứng", một bộ phim chính kịch, xoay quanh cuộc sống của ba chị em gái với bối cảnh Hà Nội. Để chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, nhiều nhà làm phim Việt Nam đã sản xuất một vài bộ phim về đề tài này. Hội họa. Trong hội họa, họa sĩ Bùi Xuân Phái là một trong những người thành công và gắn bó nhất với Hà Nội. Trong tranh của Bùi Xuân Phái, Hà Nội mang đầy vẻ xưa cũ với những ngôi nhà mái nâu, những con phố nhỏ. Những bức vẽ về phố cổ Hà Nội của Bùi Xuân Phái ngày nay thường được biết đến với tên gọi "Phố Phái". Ngoài ra, còn có một số họa phẩm của các họa sĩ khác vẽ về người Hà Nội đã đi vào lịch sử như "Thiếu nữ bên hoa huệ" của Tô Ngọc Vân, "Em Thúy" của Trần Văn Cẩn, "Tan ca mời chị em ra họp thi thợ giỏi" của Nguyễn Đỗ Cung. Giao thông. Là thành phố thủ đô và có vị trí ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc quận Thanh Xuân được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như một sân bay quân sự. Ngoài ra, Hà Nội còn có sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Thạch Thất, sân bay quân sự Miếu Môn tại huyện Chương Mỹ. Hà Nội là đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu, một tuyến quốc tế sang Côn Minh, Trung Quốc. Các bến xe Phía Nam, Gia Lâm, Nước Ngầm, Giáp Bát, Yên Nghĩa, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi khắp đất nước theo các Quốc lộ 1 xuyên Bắc – Nam và rẽ Quốc lộ 21 đi Nam Định, Quốc lộ 2 đến Hà Giang, Quốc lộ 3 đến Bắc Kạn, Cao Bằng, Thái Nguyên; Quốc lộ 5 đi Hải Phòng, Quốc lộ 17 đi Quảng Ninh, Quốc lộ 6 và Quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc. Hà Nội có nhiều tuyến đường cao tốc trên địa bàn như Đại lộ Thăng Long, Pháp Vân – Cầu Giẽ, Hà Nội – Bắc Giang, Hà Nội – Hải Phòng, Nội Bài – Lào Cai, Hà Nội – Thái Nguyên, Hà Nội – Hòa Bình, được xây dựng và hoàn thành nhằm kết nối nhanh chóng, thuận tiện thủ đô với các tỉnh. Về giao thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả Lại. Trong nội ô, các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ tầng đô thị còn thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt là xe máy –, và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố. Lại thêm khâu xử lý vi phạm giao thông của cảnh sát giao thông hiện nay chưa nghiêm, việc quản lý nhà nước và tổ chức giao thông còn nhiều bất cập, luôn thay đổi tùy tiện. Giáo sư Seymour Papert – nhà khoa học máy tính từ Viện Công nghệ Massachusetts bị tai nạn ở Hà Nội vào cuối năm 2006 – đã miêu tả giao thông của thành phố như một ví dụ minh họa cho giả thuyết về "hành vi hợp trội", phương thức mà các đám đông, tuân theo các nguyên tắc đơn giản và không cần sự lãnh đạo, tạo ra các vận động và hệ thống phức tạp. Trên những đường phố Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Thêm nữa, hiện tượng ngập úng mỗi khi mưa lớn cũng gây khó khăn cho người tham gia giao thông. Trong thập niên 2000, hệ thống xe buýt – loại hình phương tiện giao thông công cộng duy nhất – của thành phố có phát triển mạnh, nhưng phần đông người dân vẫn sử dụng các phương tiện cá nhân, chủ yếu là xe máy. Theo quy hoạch giao thông Hà Nội được Thủ tướng chính phủ Nguyễn Tấn Dũng phê duyệt năm 2008, chi phí cho phần phát triển đường bộ lên tới 100.000 tỷ đồng. Ba tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục chính cùng nhiều tuyến phố sẽ được xây dựng mới hoặc cải tạo lại. Cho đến cuối năm 2011, Hà Nội có 7.365 km đường giao thông, trong đó 20% là trục đường chính, 7 trục hướng tâm và 3 tuyến vành đai, cũng như đang quản lý hơn 4,3 triệu phương tiện giao thông các loại, trong đó riêng xe máy chiếm gần 4 triệu. Vinh danh. Tên gọi của thành phố cũng được sử dụng cho nhiều loài sinh vật : Tên Hà Nội còn được đặt cho tiểu hành tinh 7816 Hanoi phát hiện năm 1987 có đường kính gần 3 km.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Los Angeles (viết tắt LA; phát âm tiếng Anh: ; phiên âm Lót An-giơ-lét (Lạc Sam cơ); Tiếng Tây Ban Nha: "Los Ángeles") là thành phố lớn nhất tiểu bang California và lớn thứ nhì tại Hoa Kỳ, thuộc về Quận Los Angeles. Thành phố còn được gọi tắt là Los ("Lốt") bởi người Việt ở vùng lân cận. Theo Thống kê dân số năm 2000, thành phố này có 3.694.820 người.vùng lân cận thành phố này, còn được gọi là Miền Nam California, gồm có Quận Los Angeles, Quận San Bernardino, Quận Cam, Quận Riverside và Quận Ventura, là một trong những nơi đông dân nhất Hoa Kỳ với 16 triệu người. Thành phố được thành lập vào năm 1781 do người Tây Ban Nha tại México với tên là "El Pueblo de Nuestra Señora Reina de los Ángeles de la Porciúncula" ("Thị trấn của Đức Mẹ Nữ Vương của các Thiên thần của sông Porciúncula" trong tiếng Tây Ban Nha, "porciúncula" nghĩa là "phần nhỏ" và "los Ángeles" nghĩa là "những thiên thần"). Vào năm 1821 khi Mexico giành độc lập từ Tây Ban Nha, thành phố này thành một phần của nước đó. Sau Chiến tranh Hoa Kỳ–Mexico, Los Angeles lại rơi vào tay Hoa Kỳ. Thành phố này nổi danh là một trung tâm điện ảnh. Rất nhiều minh tinh sống ở thành phố Beverly Hills lân cận, nhiều phim và chương trình truyền hình được thâu tại Hollywood, một phần của thành phố này. Theo Điều tra Dân số Hoa Kỳ năm 2000, số người Mỹ gốc Việt ở Los Angeles là 19.747 người, chiếm 0.5% dân số toàn thành phố. Lịch sử. Khu vực bờ biển Los Angeles đã được cư dân Tongva (hay Gabrieleños), Chumash, và các bộ tộc của những người Thổ dân châu Mỹ sinh sống từ hàng ngàn năm. Những người châu Âu đầu tiên đến đây năm 1592, dẫn đầu là Juan Cabrillo - một người thám hiểm Bồ Đào Nha đã tuyên bố vùng đất này cho Đế quốc Tây Ban Nha nhưng không ở lại đó. Lần có người châu Âu tiếp xúc khu vực này là 227 năm sau khi Gaspar de Portolà cùng với Franciscan padre Juan Crespi, đã đến khu vực ngày nay là Los Angeles ngày 2 tháng 8 năm 1769. Năm 1771, Cha Junípero Serra đã cho xây Mission San Gabriel Arcágel gần Whittier Narrows ở gần Thung lũng San Gabriel ngày nay. Ngày 4 tháng 9 năm 1781, một nhóm 52 người định cư từ Tân Tây Ban Nha là hậu duệ người châu Phi đã thiết lập phái đoàn San Gabriel để lập nên khu định cư dọc theo bờ của sông Porciúncula (ngày nay là sông Los Angeles). Những người định cư này có tổ tiên là người Philippines, Ấn Độ và Tây Ban Nha, 2/3 là người lai. Năm 1777, thống đốc mới của tiểu bang California, Felipe de Neve, giới thiệu đến phó vương Tân Tây Ban Nha rằng nơi được phát triển thành tỉnh (thị trấn). Khu vực này được đặt tên là "El Pueblo de Nuestra Señora la Reina de los Ángeles del Río de Porciúncula" ("Thị trấn của Đức bà Nữ hoàng của các thiên thần của sông Porciúncula"). Nó vẫn là một thị trấn nhỏ trong nhiều thập kỷ, nhưng năm 1829 dân số đã tăng lên khoảng 650, khiến nó là cộng đồng dân sự lớn nhất ở California thuộc Tây Ban Nha. Ngày nay, outline của Pueblo vẫn được gìn giữ ở một tượng đài lịch sử quen được gọi là đường Olvera, trước đây là đường Rượu, được đặt tên theo Augustin Olvera. Tân Tây Ban Nha đã giành được độc lập khỏi Đế quốc Tây Ban Nha năm 1821 và tỉnh vẫn tiếp tục là một phần của Mexico. Sự cai trị của Mexico đã chấm dứt trong Chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ, khi người Mỹ giành được quyền kiểm soát từ người Californio sau một loạt các cuộc chiến. Trận chiến San Pascual, Trận chiến Dominguez và sau cùng là Trận chiến Rio San Gabriel năm 1847. Hiệp ước Cahuenga được ký ngày 13 tháng 1 năm 1847, chấm dứt thu địch ở California và sau đó Hiệp ước Guadalupe Hidalgo (1848), chính phủ Mexico đã chính thức nhượng Alta California và các lãnh thổ khác cho Hoa Kỳ. Những người châu Âu và Mỹ đã củng cố sự kiểm soát thành phố sau khi họ di cư đến California trong Cơn sốt vàng California và đảm bảo sự gia nhập sau đó của California vào Hoa Kỳ năm 1850. Đường sắt đã đến khi Công ty đường sắt Nam Thái Bình Dương (Southern Pacific Railroad) đã hoàn thành tuyến đường sắt đến Los Angeles năm 1876. Dầu mỏ được phát hiện năm 1892 và đến năm 1923, Los Angeles đã cấp ¼ lượng dầu mỏ thế giới. Một nhân tố góp phần phát triển thành phố là nước. Năm 1913, William Mulholland hoàn thành đường ống dẫn nước đảm bảo cho sự tăng trưởng của thành phố. Năm 1915, Thành phố Los Angeles bắt đầu sáp nhập thêm hàng chục cộng đồng dân cư xung quanh không tự cấp nước cho chính mình được. Một tài khoản được tiểu thuyết hóa rộng của Chiến tranh nước thung lũng Owens có thể được tìm thấy trong phim điện ảnh phố Tàu năm 1974. Trong thập niên 1920, phim hoạt hình và ngành hàng không đã đổ xô đến Los Angeles đã giúp thành phố phát triển. Thành phố này là nơi đăng cai Thế vận hội Mùa hè 1932 chứng kiến sự phát triển của Đồi Baldwin là Làng Olympic ban đầu. Thời kỳ này cũng chứng kiến sự di dân đến của những người lưu vong từ các căng thẳng hậu chiến ở châu Âu, bao gồm những nhà quý tộc như Thomas Mann, Fritz Lang, Bertolt Brecht, Arnold Schoenberg và Lion Feuchtwanger. Chiến tranh thế giới thứ hai mang đến phát triển và thịnh vượng mới cho thành phố này, dù nhiều người Mỹ gốc Nhật bị chở đến các trại tập trung trong thời kỳ diễn ra cuộc chiến. Thời kỳ hậu chiến chứng kiến một sự bùng nổ lớn hơn khi sự lan ra của đô thị đã mở rộng đến Thung lũng San Fernando. Những cuộc bạo loạn Watts năm 1965 và "cơn giận" của Trường trung học Chicano cùng với sự tạm đình chỉ Chicano đã cho thấy sự chia rẽ chủng tộc sâu sắc hiện hữu trong thành phố này. Năm 1969, Los Angeles đã là một trong hai "nơi sinh" ra Internet khi sự truyền ARPANET được gửi từ UCLA đến SRI ở Menlo Park, California. Thế vận hội Mùa hè 1984 đã được Los Angeles đăng cai năm 1984. Thành phố lại được thử thách qua Bạo loạn Los Angeles 1992 và Trận động đất Northridge 1994 và năm 2002 sự cố gắng ly khai của Thung lũng Fernando và Hollywood đã bị thất bại trong cuộc bỏ phiếu. Sự tái phát triển và sự sang trọng hóa đô thị đã diễn ra ở nhiều nơi trong thành phố, đặc biệt là trung tâm. Địa lý. Theo Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ, thành phố có tổng diện tích 498,3 dặm vuông (1.290,6 km²), 469,1 dặm vuông (1.214.9 km²) là diện tích đất và 29,2 dặm vuông (75,7 km²) là diện tích mặt nước, diện tích mặt nước chiếm 5,86%. Khoảng các cực bắc và cực nam là 44 dặm (71 km), khoảng các giữa cực đông-tây là 29 dặm (47 km), và chiều dài của biên giới thành phố là 342 dặm (550 km). Diện tích đất lớn thứ 9 trong các thành phố của Hoa Kỳ lục địa. Điểm cao nhất của Los Angeles là Đỉnh Sister Elsie (5.080 feet) thuộc phía xa về phía Tây Bắc của Thung Lũng San Fernando thuộc một phần của rặng núi Lukens. Sông Los Angeles là một con sông phần lớn là theo mùa chảy xuyên qua thành phố có thượng nguồn ở Thung lũng San Fernando. Suốt chiều dài của sông hoàn toàn bị kè bằng bê tông. Vùng Los Angeles khá phong phú về các loài thực vật bản địa. Với những bãi biển, đụn cát, vùng đất ngập nước, đồi, núi và sông, khu vực này chứa đựng một số quần cư sinh vật quan trọng. Khu vực rộng nhất là thảm thực vật bụi cây xô thơm ven biển bao bọc các sườn đồi ở chaparral dễ bắt lửa. Các loại cây bản địa bao gồm: cây thuốc phiện California, cây thuốc phiện matilija, toyon, cây sồi bờ biển, cỏ lúa mạch đen hoang dã khổng lồ, và hàng trăm loại khác. Thật không may, nhiều loài cây bản địa quá hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng như hoa hướng dương Los Angeles... Có nhiều loài hoa lạ và những cây có hoa nở hoa quanh năm với màu sắc huyền ảo và đa dạng... Địa chất. Los Angeles chịu động đất do gần đường đứt gãy San Andreas, cũng như các rãnh đứt nhỏ hơn San Jacinto và Banning. Trận động đất lớn gần đây nhất là Trận động đất Northridge 1994, có tâm chấn ở phía Bắc Thung lũng San Fernando. Chưa đến hai năm sau sau khi các bạo loạn 1992, Trận động đất Northridge đã là một cú sốc lớn cho dân Nam California và gây thiệt hại vật chất lên đến hàng tỷ dollar Mỹ. Các trận động đất khác ở khu vực Los Angeles bao gồm Trận động đất Whittier Narrows 1987, Trận động đất Sylmar 1971, và Trận động đất Long Beach 1993. Tuy nhiên, phần lớn các trận động đất là khá nhỏ. Nhiều khu vực ở Los Angeles trải qua từ một đến hai trận động đất nhỏ mỗi năm nhưng không có thiệt hại. Các dư chấn rất khó cảm nhận mà chỉ thông qua máy đo địa chấn được ghi nhận hàng ngày. Nhiều phần của thành phố cũng dễ bị ảnh hưởng bởi sóng thần Thái Bình Dương; các khu vực bến cảng đã từng bị hư hại bởi các đợt sóng từ Trận động đất Đại Chile năm 1960. Cảnh quan thành phố. Thành phố được chia ra nhiều khu dân cư, nhiều trong số đó đã bị sáp nhập vì thành phố ngày càng được mở rộng. Cũng có nhiều thành phố độc lập bên trong và xung quanh Los Angeles, nhưng các thành phố này thường được xếp nhóm vào thành phố Los Angeles, do Los Angeles nuốt chửng hoặc nằm bên trong vùng lân cận của nó. Nói chung, thành phố được chia ra các khu vực sau: Trung tâm L.A., Đông L.A., Nam Los Angeles, Khu vực Cảng, Hollywood, Wilshire, Westside, và San Fernando và các thung lũng Crescenta. Một vài cộng đồng của Los Angeles bao gồm Bãi biển Venice... Các vấn đề môi trường. Do vị trí địa lý, Los Angeles nhạy cảm với đảo ngược khí quyển, ô tô là phương tiện chính và cộng với phức hợp cảng L.A./Long Beach, thành phố chịu ô nhiễm không khí dưới dạng khói mù. Lòng chảo Los Angeles và Thung lũng San Fernando giữ lại khói của xe ô tô, xe tải chạy diesel, tàu thủy, và các động cơ đầu máy xe lửa cũng như công nghiệp chế tạo và các nguồn khác. Ngoài ra, nước ngầm đang bị đe dọa gia tăng bởi MTBE từ các trạm xăng và perchlorat từ nhiên liệu rocket. Không như các thành phố khác nhờ mưa để rửa sạch khói mù, Los Angeles chỉ nhận được 15 inches (380 mm) mưa mỗi năm, do đó khói mù có thể tích tụ tăng lên liên tục mỗi ngày. Điều này đã khiến cho bang California tìm kiếm các loại xe cộ có chất thải ít. Nhờ đó, mức ô nhiễm đã giảm trong những thập kỷ gần đây.. Dân cư. Theo thống kê của 2006–2008 American Community Survey, top 10 nhóm dân có nguồn gốc châu Âu là: Nguồn: Số liệu thống kê từ U.S. Census Bureau cho biết số dân của thành phố là 3,833,995. California Department of Finance thống kê dân số là 4,094,764 vào ngày 1, tháng 1 năm 2009. Kinh tế. Nền kinh tế của Los Angeles được thúc đẩy bởi thương mại quốc tế, truyền hình giải trí, điện ảnh, công nghệ âm nhạc, không gian, công nghệ, dầu khí, thời trang, trang sức, du lịch. Los Angeles cũng là trung tâm chế tạo lớn nhất Hoa Kỳ. Các Cảng Los Angeles và cảng Long Beach cùng nhau tạo thành cảng quan trọng ở Bắc Mỹ và là một trong những cảng quan trọng của thế giới và có vai trò quan trọng đối với thương mại trong Vành đai Thái Bình Dương. Các ngành quan trọng khác bao gồm truyền thông, tài chính, viễn thông, luật, y tế, vận tải. Trong nhiều năm, cho đến giữa thập niên 1990, Los Angeles là nơi đóng trụ sở của nhiều định chế tài chính ở miền Tây nước Mỹ, bao gồm First Interstate Bank, đã được sáp nhập với Wells-Fargo năm 1996, Great Western Bank, đã sáp nhập với Washington Mutual năm 1998, và Security Pacific National Bank, đã sáp nhập với Bank of America năm 1992. Los Angeles cũng là nơi đóng trụ sở của Sở giao dịch chứng khoán Pacific cho đến khi ngưng hoạt động năm 2001. Vùng đô thị Los Angeles có tổng sản phẩm vùng đô thị 1000 tỷ USD năm 2017, là vùng đô thị kinh tế lớn thứ 3 thế giới, sau các vùng đô thị Tokyo và New York. Los Angeles được xếp hạng là "thành phố toàn cầu alpha" theo một nghiên cứu năm 2012 bởi một nhóm tại Đại học Loughborough. Thành phố này là nơi đóng trụ sở của 3 công ty nằm trong Fortune 500 bao gồm nhà thầu không gian Northrop Grumman, công ty năng lượng Occidental Petroleum Corporation, và công ty xây nhà ở KB Home. Đại học Nam California (USC) là đơn vị tư nhân thuê nhân công lớn nhất thành phố. Các công ty đóng trụ sở ở Los Angeles bao gồm Twentieth Century Fox, Latham & Watkins, Univision, Metro Interactive, LLC, Premier America, CB Richard Ellis, Gibson, Dunn & Crutcher LLP, Guess?, O'Melveny & Myers LLP, Paul, Hastings, Janofsky & Walker LLP, Tokyopop, The Jim Henson Company, Paramount Pictures, Robinsons-May, Sunkist, Fox Sports Net, Health Net, Inc., 21st Century Insurance, L.E.K. Consulting, và The Coffee Bean & Tea Leaf. Vùng đô thị có trụ sở của nhiều công ty khác, nhiều trong số đó muốn rời khỏi thành phố để tránh thuế má cao. Ví dụ, Los Angeles đánh thuế tổng cộng trên phần trăm doanh thu kinh doanh, trong khi các thành phố xung quanh chỉ đánh một mức tỷ lệ cố định nhỏ. Do đó các công ty gần thành phố này tránh được thuế cao. Một vào công ty đóng ở Hạt Los Angeles là Shakey's Pizza (Alhambra), Academy of Motion Picture Arts and Sciences (Beverly Hills), City National Bank (Beverly Hills), Hilton Hotels (Beverly Hills), DiC Entertainment (Burbank), The Walt Disney Company (Fortune 500 – Burbank), Warner Bros. (Burbank), Countrywide Financial Corporation (Fortune 500 – Calabasas), THQ (Calabasas), Belkin (Compton), Sony Pictures Entertainment (parent of Columbia Pictures, located in Culver City), Computer Sciences Corporation (Fortune 500 – El Segundo), DirecTV (El Segundo), Mattel (Fortune 500 – El Segundo), Unocal (Fortune 500 – El Segundo), DreamWorks SKG (Glendale), Sea Launch (Long Beach), ICANN (Marina Del Rey), Cunard Line (Santa Clarita), Princess Cruises (Santa Clarita), Activision (Santa Monica), và RAND (Santa Monica). Du lịch. Thành phố này có biệt danh là Thành phố của các Thiên thần. Los Angeles là trung tâm kinh doanh, thương mại quốc tế, giải trí, văn hóa, truyền thông, thời trang, khoa học, thể thao, công nghệ và giáo dục. Los Angeles là cơ sở của Hollywood nên thành phố được mệnh danh là "Thủ đô giải trí thế giới", thành phố này có nhiều nhân vật nổi tiếng trên thế giới. Các trường đại học và cao đẳng. Có nhiều trường đại học và cao đẳng công ở thành phố này, bao gồm Đại học California tại Los Angeles, Đại học Tiểu bang California, Los Angeles, và Đại học Tiểu bang California, Northridge. Các trường đại học công gần Los Angeles bao gồm: Đại học Tiểu bang California, Long Beach, Đại học Tiểu bang California, Dominguez Hills và Bách khoa Cali Pomona. Các thành phố kết nghĩa. Los Angeles có 25 thành phố kết nghĩa, được liệt kê theo thứ tự thời gian theo năm đã tham gia:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.987158
Địa lý & Hành chính
null
null
Bắc Kạn là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Bắc Kạn có tỉnh lỵ là thành phố Bắc Kạn, cách thủ đô Hà Nội 162 km. Theo Nghị quyết của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam Khoá IX, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 6 tháng 11 năm 1996, đã ghi rõ: “Chia tỉnh Bắc Thái thành hai tỉnh là tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên...” Tuy nhiên nhiều người vẫn viết tên tỉnh là "Bắc Cạn", do đó TTXVN đã chính thức thông báo đến các cơ quan, ban ngành Trung ương và địa phương trong cả nước dùng thống nhất tên tỉnh Bắc Kạn, không dùng chữ “C” khi viết chữ “Kạn”. Tên gọi Bắc Kạn được coi là chính thức và có con dấu khắc chữ "Bắc Kạn" để chỉ đơn vị tỉnh. Tên có nguồn gốc từ từ Hán - Việt "Bắc Cản" (Hán tự: 北扞,theo tấm bia tại hòn Bà Góa, hồ Ba Bể, khắc thời Khải Định), đã được Tày - Nùng hóa thành "Bắc Cạn". Tuy nhiên, nguồn gốc của từ Bắc Kạn hay Bắc Cản được cho là từ "Pác Kản" trong tiếng Tày - Nùng, hiện không còn rõ nghĩa. Ngoài ra theo một số tài liệu, tên gọi Bắc Kạn được bắt nguồn từ "pác cạm" trong tiếng Tày có nghĩa là "cửa ngõ" thông đi các tỉnh phía Bắc hoặc "pác cáp" - nơi giao nhau giữa các dòng chảy. Năm 2018, Bắc Kạn là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 63 về số dân, xếp thứ 63 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 60 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 61 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 327.900 người dân, GRDP đạt 9.765 tỉ đồng (tương ứng với 0,4272 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 30 triệu đồng (tương ứng với 1.303 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,20%. Địa lý. Bắc Kạn là một tỉnh miền núi cao, địa hình bị chi phối bởi những dãy núi vòng cung quay lưng về phía đông xen lẫn với những thung lũng, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Bắc Kạn:. Bắc Kạn có thể phân thành 3 vùng nh­ư sau: Diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 4.859 km², dân số năm 2019 là 313.905 người, gồm 7 dân tộc (Tày, Nùng, Kinh, Dao, H'Mông, Hoa và Sán Chay) sinh sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm hơn 80%, khu vực thành thị chiếm 24,31%, khu vực nông thôn là 75,69%. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất Việt Nam với 318.000 dân. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 4 tôn giáo khác nhau đạt 25,156 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 23.110 người, tiếp theo là Công giáo đạt 550 người, Phật giáo có 520 người và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có ba người. Lịch sử. Thời Văn Lang, thuộc bộ Vũ Định. Thời Tiền Lê - Lý, Bắc Kạn thuộc phủ Phú Lương, các châu nhỏ được nhắc tới: Thượng Nguyên ("Việt sử lược"), Vũ Lặc ("Dư địa chí"). "Đại Nam nhất thống chí" còn đề cập đến Vĩnh Thông và Cảm Hoá. Thời Trần - Hồ, trấn Thái Nguyên, huyện Vĩnh Thông và Cảm Hoá. Từ thời Lê, Bắc Kạn tương đương với phủ Thông Hoá, thừa tuyên Thái Nguyên. Trong phủ có châu Bạch Thông và châu Cảm Hoá. Thời Nguyễn, thuộc tỉnh Thái Nguyên. Ngày 11/4/1900, thực dân Pháp tách phủ Thông Hoá từ tỉnh Thái Nguyên, thành lập tỉnh Bắc Kạn. Đến năm 1913, tỉnh có 5 châu là Bạch Thông, Chợ Rã, Chợ Đồn, Na Rì, Ngân Sơn. Năm 1890, chính quyền bảo hộ của thực dân Pháp chia tỉnh Thái Nguyên (cũ) thành 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Năm 1965, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ban hành quyết định sáp nhập 2 tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, gồm thành phố Thái Nguyên, thị xã Bắc Kạn và 12 huyện: Bạch Thông, Chợ Đồn, Chợ Rã, Đại Từ, Định Hóa, Đồng Hỷ, Na Rì, Ngân Sơn, Phổ Yên, Phú Bình, Phú Lương, Võ Nhai. Ngày 14 tháng 4 năm 1967, chuyển thị xã Bắc Kạn thành thị trấn Bắc Kạn thuộc huyện Bạch Thông. Ngày 28 tháng 12 năm 1978, chuyển 2 huyện Ngân Sơn, Chợ Rã về tỉnh Cao Bằng vừa được tái lập quản lý. Ngày 6 tháng 11 năm 1984, huyện Chợ Rã (khi đó thuộc tỉnh Cao Bằng) đổi tên thành huyện Ba Bể. Ngày 16 tháng 7 năm 1990, tái lập thị xã Bắc Kạn từ huyện Bạch Thông. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX ra nghị quyết chia tỉnh Bắc Thái để tái lập tỉnh Bắc Kạn và tỉnh Thái Nguyên . Đồng thời, chuyển 2 huyện Ngân Sơn, Ba Bể của tỉnh Cao Bằng trở về tỉnh Bắc Kạn. Tỉnh Bắc Kạn có thị xã Bắc Kạn và 5 huyện: Ba Bể, Bạch Thông, Chợ Đồn, Na Rì, Ngân Sơn. Ngày 6 tháng 7 năm 1998, chia huyện Bạch Thông thành 2 huyện: Bạch Thông và Chợ Mới. Ngày 28 tháng 5 năm 2003, chia huyện Ba Bể thành 2 huyện: Ba Bể và Pác Nặm. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, chuyển thị xã Bắc Kạn thành thành phố Bắc Kạn. Từ đó, tỉnh Bắc Kạn có 1 thành phố và 7 huyện.<ref name="892/NQ-UBTVQH13"></ref> Hành chính. Tỉnh Bắc Kạn có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện, được phân chia thành 108 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 6 phường, 7 thị trấn và 95 xã. Kinh tế. Bắc Kạn, một tỉnh vùng núi cao với địa hình phức tạp và kinh tế chưa phát triển, đã có những bước tiến đáng kể trong những năm gần đây. Năm 2011, tỉnh đạt các chỉ tiêu kinh tế sau: Tổng giá trị gia tăng ước đạt 1.477.155 triệu đồng, tăng 13% so với năm trước, trong đó khu vực nông lâm ngư nghiệp đạt 551.839 triệu đồng, khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 298.426 triệu đồng, và khu vực dịch vụ đạt 626.890 triệu đồng. Thu nhập bình quân đầu người đạt 14,6 triệu đồng, tăng 2,7 triệu đồng so với năm trước. Cơ cấu kinh tế của tỉnh Bắc Kạn gồm: khu vực nông lâm nghiệp chiếm 42%, khu vực công nghiệp - xây dựng cơ bản chiếm 14,2%, và khu vực dịch vụ chiếm 43,8%. So với năm trước, khu vực nông lâm nghiệp tăng 3,5%, khu vực công nghiệp - xây dựng giảm 3%, và khu vực dịch vụ tăng 0,4%. Tỉnh đã hoàn thành chương trình hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo theo quyết định của Chính phủ. Trong hơn 2 năm triển khai, đã xây dựng 2.601/2.629 nhà cho hộ nghèo. Bắc Kạn có tiềm năng phát triển ngành công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, vật liệu xây dựng, nông lâm nghiệp và du lịch. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2020, tỉnh Bắc Kạn xếp ở vị trí thứ 59/63 tỉnh thành. Du lịch. Bắc Kạn là tỉnh giàu tiềm năng du lịch bởi sự phong phú của tài nguyên, khoáng sản và nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc miền núi Đông Bắc Việt Nam. Giao thông. Trên địa bàn tỉnh có tuyến Quốc lộ 3, Quốc lộ 3B, Quốc lộ 279, quy hoạch đường tỉnh 258 thành QL 3C. Ngoài ra còn các tỉnh lộ 245, 254, 255, 256, 257, 258, 258B, 259. Hiện đã dưa vào sử dụng đường Quốc lộ 3 mới (tiền cao tốc - tốc độ cao Thái Nguyên - Chợ Mới, trong giai đoạn 2023 - 2025 hoàn thành đường tốc độ cao Chợ Mới - thành phố Bắc Kạn, giai đoạn 2025 - 2030 nối với Đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên thành cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên - Chợ Mới - thành phố Bắc Kạn), giúp giảm lưu lượng xe và thời gian di chuyển so với quốc lộ 3 cũ. Đường thủy có sông Cầu chảy qua.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới nằm ở vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Năm 2018, Lạng Sơn là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 52 về số dân, xếp thứ 51 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 47 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 20 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 790.500 người dân , GRDP đạt 30.355 tỉ Đồng (tương ứng với 1,3184 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38,4 triệu đồng (tương ứng với 1.668 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,36%. Địa lý. Vị trí. Có vị trí 21°19'-22°27'B, 106°06'-107°21'Đ. Các điểm cực của tỉnh Lạng Sơn:. Lạng Sơn có 2 cửa khẩu quốc tế: cửa khẩu Ga đường sắt Đồng Đăng huyện Cao Lộc và cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị; có một cửa khẩu quốc gia: Chi Ma (Huyện Lộc Bình) và nhiều lối mở biên giới với Trung Quốc Địa hình. Đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh. Dạng địa hình phổ biến ở Lạng Sơn là núi thấp và đồi, độ cao trung bình 252 m so với mặt nước biển. Nơi thấp nhất là 20 m ở phía nam huyện Hữu Lũng và nơi cao nhất là núi Mẫu Sơn 1541m. Mẫu Sơn cách thành phố Lạng Sơn 31 km về phía đông, được bao bọc bởi nhiều ngọn núi lớn nhỏ, thỉnh thoảng có tuyết rơi vào mùa đông. Khí hậu, thời tiết. Khí hậu của Lạng Sơn thể hiện rõ nét khí hậu cận nhiệt đới ẩm của miền Bắc Việt Nam. Khí hậu phân mùa rõ rệt, ở các mùa khác nhau nhiệt độ phân bố không đồng đều do sự phức tạp của địa hình miền núi và sự biến tính nhanh chóng của không khí lạnh trong quá trình di chuyển ở vùng nội chí tuyến đã gây nên những chênh lệch đáng kể trong chế độ nhiệt giữa các vùng. Hướng gió và tốc độ gió của Lạng Sơn vừa chịu sự chi phối của yếu tố hoàn lưu và địa hình. Mùa lạnh thịnh hành gió Bắc, mùa nóng thịnh hành gió Nam và Đông Nam. Tốc độ gió nói chung không lớn, trung bình 0,8–2 m/s song phân hoá không đều giữa các vùng trong tỉnh. Hành chính. Tỉnh Lạng Sơn có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 10 huyện với 200 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 phường, 14 thị trấn và 181 xã. Lịch sử. Sau khi Thăng Long thất thủ năm 1592, nhà Mạc chạy về Cao Bằng. Trong thời gian từ 1593-1677 đã xây dựng thành nhà Mạc tại Lạng Sơn để chống lại tiến công của Nhà Lê - Trịnh. Lạng Sơn là một trong 13 tỉnh được vua Minh Mạng thành lập đầu tiên ở Bắc Kỳ (năm 1831). Khi mới thành lập, tỉnh Lạng Sơn bao gồm 1 phủ là phủ Trường Khánh (Tràng Khánh) và 7 châu: Ôn Châu, Thất Tuyền, Lộc Bình, Thoát Lãng, Yên Bác, Văn Quan và Văn Uyên. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), đổi các châu Yên Bác, Văn Quan, Thất Tuyền thành các huyện. Đến năm Minh Mạng thứ 17 (1836), đặt thêm phủ Tràng Định. Từ đó, tỉnh Lạng Sơn có 2 phủ là phủ Tràng Khánh và phủ Tràng Định. Từ ngày 9 tháng 9 năm 1891 đến ngày 20 tháng 6 năm 1905, Lạng Sơn là Đạo quan binh (chỉ huy trưởng đầu tiên là Servière) sau đó lại tái lập tỉnh. Công sứ đầu tiên ở Lạng Sơn là Hocquart. Trong kháng chiến chống Pháp, Lạng Sơn thuộc Liên khu Việt Bắc. Sau năm 1945, tỉnh Lạng Sơn có thị xã Lạng Sơn và 10 huyện: Bằng Mạc, Bắc Sơn, Bình Gia, Cao Lộc, Điềm He, Lộc Bình, Ôn Châu, Thoát Lãng, Tràng Định, Văn Uyên. Tháng 7 năm 1947, Khu ủy 12 quyết định tạm thời chuyển huyện Lộc Bình về tỉnh Hải Ninh quản lý. Tuy nhiên, đến ngày 7 tháng 6 năm 1949, huyện Lộc Bình được sáp nhập trở lại tỉnh Lạng Sơn. Ngày 1 tháng 7 năm 1956, huyện Hữu Lũng của tỉnh Bắc Giang được sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc (được thành lập cùng ngày). Khu tự trị Việt Bắc tồn tại đến ngày 27 tháng 12 năm 1975. Ngày 16 tháng 12 năm 1964, huyện Điềm He cùng 6 xã của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành huyện mới Văn Quan; huyện Ôn Châu cùng 8 xã còn lại của huyện Bằng Mạc hợp nhất thành huyện mới Chi Lăng; hai huyện Văn Uyên và Thoát Lãng hợp nhất thành huyện Văn Lãng. Từ ngày 27 tháng 12 năm 1975 đến ngày 29 tháng 12 năm 1978 nhập với tỉnh Cao Bằng thành tỉnh Cao Lạng. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, tái lập tỉnh Lạng Sơn, đồng thời sáp nhập huyện Đình Lập của tỉnh Quảng Ninh về tỉnh Lạng Sơn vừa tái lập. Ngày 17 tháng 10 năm 2002, chuyển thị xã Lạng Sơn thành thành phố Lạng Sơn. Tỉnh Lạng Sơn có 1 thành phố và 10 huyện như hiện nay. Ngày 25 tháng 3 năm 2019, thành phố Lạng Sơn được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Lạng Sơn. Giao thông. Có Quốc lộ 1, quốc lộ 1B, quốc lộ 3B, quốc lộ 31, quốc lộ 4A, quốc lộ 4B, quốc lộ 279, đường cao tốc Bắc Giang – Lạng Sơn, đường cao tốc Đồng Đăng – Trà Lĩnh, đường sắt Hà Nội - Đồng Đăng, sông Kỳ Cùng đi qua. Dân cư. Dân số 781.655 người (điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2019); có 7 dân tộc chính, trong đó dân tộc Nùng 42,97%, Tày 35,92%, Kinh 16,5%, còn lại là các dân tộc Dao, Hoa, Sán Chay, H'Mông, khác: 4,61%. Dân số sống ở đô thị 23,6%; dân số sống ở nông thôn 76,4%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau với 14.663 tín đồ, nhiều nhất là đạo Tin Lành đạt 9.226 người, tiếp theo là Công giáo có 4.960 người, Phật giáo có 460 người. Còn lại các tôn giáo khác như Minh Lý đạo có sáu người, Hồi giáo có năm người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có ba người, Phật giáo Hòa Hảo có hai người và 1 người theo đạo Cao Đài. Kinh tế. Du lịch: kinh tế hang động đẹp của khẩu thương mại quốc tế Việt Nam với Trung Quốc Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Lạng Sơn xếp ở vị trí thứ 53/63 tỉnh thành. Văn hóa. Văn học. Lạng Sơn có nhiều thắng cảnh nổi tiếng, được nhắc đến nhiều trong thi ca Việt Nam, ví dụ như bài ca dao truyền khẩu dưới đây: Du lịch. Lạng Sơn là tỉnh biên giới có nhiều danh lam thắng cảnh, non nước hữu tình, nhiều di tích lịch sử cùng với những phong tục mang đậm bản sắc dân tộc. Tỉnh có di tích văn hóa khảo cổ Bắc Sơn, văn hóa Mai Pha. Nhiều danh thắng đã đi vào thơ ca rất tự nhiên trong lòng người dân Việt Nam: "Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa," "Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh." Hay câu thơ: "Ai lên xứ Lạng cùng anh," "Bõ công bác mẹ sinh thành ra ta." Một số địa điểm du lịch văn hóa, tâm linh, lịch sử, danh thắng ở Lạng Sơn: Ẩm thực. Đặc sản, ẩm thực như: Nem nướng Hữu Lũng, bánh chưng đen Bắc Sơn, mắc mật, rượu Mẫu Sơn, khâu nhục, hồng Bảo Lâm, vịt quay lá mắc mật, bánh ngải Mai Pha, quýt vàng Bắc Sơn, phở chua Lạng Sơn, bánh giò gấc Trấn Yên, thạch đen Tràng Định, ốc núi Hữu Liên, bánh coóng phù, bánh bí đỏ, lợn quay nguyên con lá mắc mật, trám đen Văn Quan, cao khô Vạn Linh, rượu mía Nà Rọ, củ gió, gà sáu cựa bản Khao, bánh khảo Tràng Định, chanh rừng Mẫu Sơn, bánh khẩu xi Cao Lộc, rau sau sau, tôm rừng, trà hoa vàng, cao khô chợ Bái, hạt dẻ Văn Lãng, gà vàng Vạn Linh, gừng đá, đào Mẫu Sơn, hoa hồi Văn Quan, cải làn Cao Lộc, bánh cuốn trứng Lạng Sơn, chè xanh Đình Lập, củ dong Tràng Phái, xôi lá cẩm, phở vịt quay, bánh áp chao, na dai Đồng Bành, bánh pẻng khua Tràng Định, lạp xưởng nhồi, rau bò khai, bánh mì nướng Lạng Sơn, ếch hương Mẫu Sơn, măng ớt ngâm quả mắc mật, bánh cao sằng, ba kích Đình Lập, mắc cọp. Lễ hội. Theo số liệu khảo sát của Sở Văn hóa - Thông tin Lạng Sơn, đến năm 2003, Lạng Sơn có trên 365 lễ hội dân gian với tính chất, quy mô lớn, nhỏ khác nhau. Các lễ hội tiêu biểu như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tuyên Quang là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam . Năm 2018, Tuyên Quang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 53 về số dân, xếp thứ 54 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 55 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 30 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 780.100 người dân, GRDP đạt 28.084 tỉ Đồng (tương ứng với 1,2197 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 36 triệu đồng (tương ứng với 1.564 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,04%. Vị trí địa lý. Trung tâm hành chính của tỉnh là Thành phố Tuyên Quang, cách trung tâm Hà Nội 131 km. Các điểm cực của tỉnh Tuyên Quang:. Tuyên Quang nằm ở trung tâm của lưu vực sông Lô. Sông Gâm chảy qua tỉnh theo hướng Bắc-Nam và nhập vào sông Lô ở phía Tây Bắc huyện Yên Sơn chỗ giáp ranh giữa thị trấn Yên Sơn, xã Phúc Ninh, và xã Tân Long. Lịch sử. Tuyên Quang nguyên cũng là một vùng đất thuộc xứ Thái, nhưng từ thế kỷ 13 đã chịu sự kiểm soát của triều đình Việt Nam dưới đời nhà Trần. Triều Trần gọi là lộ Quốc Oai, sau đổi là châu Tuyên Quang. Dưới đời vua Trần Hiến Tông (niên hiệu Khai Hữu, 1329-1341), châu Tuyên Quang đổi thành trấn, rồi thành phủ Tuyên Hóa dưới thời Minh thuộc. Sau khi vua Lê Thái Tổ đuổi xong giặc Minh, ngài đặt phủ Tuyên Hóa thuộc Tây Đạo. Đời vua Lê Thánh Tông, Tuyên Quang gồm một phủ và năm huyện và trở thành tỉnh Minh Quang dưới triều vua Lê Uy Mục. Đời Lê Trang Tông, đổi Minh Quang thành doanh An Tại, cho dòng họ Vũ người Thái làm doanh trưởng. Thời gian các chúa Bầu cát cứ. Họ Vũ trấn trị Tuyên Quang gần 200 năm, từ 1527 đến 1699. Vũ Văn Uyên vốn là một thanh niên khỏe mạnh, gan dạ. Thời vua Lê Chiêu Tông, vì phạm tội giết người, trốn lên ngụ ở trấn Đại Đồng (phủ Tuyên Quang). Bấy giờ người tù trưởng Đại Đồng bị nhân dân oán ghét, tình hình Đại Đồng rất lộn xộn. Vũ Văn Uyên thấy vậy bèn tập hợp lực lượng riêng, thừa cơ giết chết người tù trưởng, ổn định tình hình địa phương rồi chiếm luôn đất đó, trở thành người trấn trị Đại Đồng (thuộc các tỉnh Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái của Việt Nam hiện nay). Vua Lê Chiêu Tông phong cho ông làm Đô thống sứ trấn Tuyên Quang, tước Khánh Bá Hầu. Vũ Văn Uyên đóng căn cứ tại thành Nghị Lang, giữ vững cả miền Tuyên Quang, Hưng Hóa, cát cứ một phương, không chịu theo nhà Mạc khi Mạc Đăng Dung lên nắm quyền. Họ Vũ nhân thời loạn tự lập ở Tuyên Quang, chống chính quyền cai trị ở Thăng Long. Thời Nam Bắc triều, họ Vũ không theo nhà Mạc mà theo nhà Lê trung Hưng ở Thanh Hoá, nhưng khi nhà Lê Trung Hưng về Thăng Long, họ Vũ cũng không thần phục hoàn toàn. Các đời họ Vũ trấn giữ trên thành ở núi Bầu nên được gọi chung là Chúa Bầu, xây dựng nên một hệ thống thành nhà Bầu rộng khắp rất nhiều trong một vùng rộng lớn suốt từ ngã ba Đoan Hùng ngược lên hết địa phận huyện Lục Yên. Năm 1699, Vũ Công Tuấn bị triều đình vua Lê chúa Trịnh bắt và giết. Triều đình đặt chức Lưu thủ ở Tuyên Quang để điều khiển các tộc trưởng Thái. Tuyên Quang thời nhà Nguyễn. Vào đầu thế kỷ 19, Tuyên Quang gồm 1 phủ là phủ Yên Bình. Phủ này quản lý 1 huyện và 5 châu: Vua Gia Long lại đổi thành trấn Tuyên Quang, rồi trở thành tỉnh dưới triều Minh Mạng. Khi Pháp mới xâm chiếm Việt Nam, phủ Yên Bình là căn cứ kháng chiến chống giặc Pháp. Người Thái, Mường, Mèo, Thổ, Nùng cùng với dân quân các tỉnh lân cận đánh quân Pháp nhiều trận khốn đốn vào những năm 1884, 1885; thêm vào đó, quân Cờ Đen quấy nhiễu vùng Tuyên Quang khá lâu. Mãi tới năm 1894, Pháp mới hoàn toàn chiếm được tỉnh này. Tuyên Quang sau năm 1954. Sau năm 1954, Tuyên Quang có tỉnh lị là thị xã Tuyên Quang và 6 huyện: Yên Bình, Yên Sơn, Na Hang, Hàm Yên, Sơn Dương và Chiêm Hóa. Ngày 1 tháng 7 năm 1956, chuyển huyện Yên Bình về tỉnh Yên Bái quản lý. Sau khi hoà bình lập lại, do việc thành lập khu tự trị Việt Bắc, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Sắc lệnh số 268 - SL chuyển Yên Bình sáp nhập vào tỉnh Yên Bái khi đó nằm ở khu Lao - Hà - Yên. Sau năm 1975, Tuyên Quang được hợp nhất với tỉnh Hà Giang thành tỉnh Hà Tuyên. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Tuyên Quang được tái lập, có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Tuyên Quang và 5 huyện: Chiêm Hóa, Hàm Yên, Na Hang, Sơn Dương, Yên Sơn. Ngày 2 tháng 7 năm 2010, chuyển thị xã Tuyên Quang thành thành phố Tuyên Quang. Ngày 28 tháng 1 năm 2011, thành lập huyện Lâm Bình trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của các huyện Na Hang, Chiêm Hóa. Tỉnh Tuyên Quang có 1 thành phố và 6 huyện như hiện nay. Tuyên Quang có diện tích 5.868 km² (đứng thứ 25 trên cả nước) và dân số 784.811 người (Đứng thứ 53 trên cả nước), mật độ trung bình khoảng 124 người/km². Dân cư Tuyên quang phát triển rất nhanh... 21,45% dân số sống ở đô thị và 78,55% dân số sống ở nông thôn (tính đến năm 2020). Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 6 tôn giáo khác nhau đạt 42.761 người, nhiều nhất là Công giáo có 25.626 người, tiếp theo là đạo Tin Lành đạt 10.996 người, Phật giáo có 6.116 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 13 người, Phật giáo Hòa Hảo có sáu người và đạo Cao Đài có bốn người. Hành chính. Tỉnh Tuyên Quang có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 6 huyện với 138 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 6 thị trấn và 122 xã. Kinh tế. Tuyên Quang là tỉnh miền núi, nền kinh tế nông-lâm nghiệp chiếm ưu thế, mô hình kinh tế trang trại kết hợp nông lâm. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Tuyên Quang xếp ở vị trí thứ 56/63 tỉnh thành. Nông nghiệp: lúa là cây lương thực chính, sau đó là các cây ngô, sắn, khoai lang. Cây công nghiệp gồm có: chè (nhà máy chè Tuyên Quang, Tháng Mười, Tân Trào), cây sả làm tinh dầu sả, lạc, đậu, tương. Cây ăn quả có: cam, quýt, nhãn, vải, chanh. Chăn nuôi có trâu, bò, lợn, dê, gia cầm... Công nghiệp: có quặng kẽm, quặng mangan, quặng thiếc, bột kẽm, khai thác ăntimoan... Sản xuất giấy, bột giấy, xi măng, vôi. Có nhà máy thủy điện Tuyên Quang được đưa vào sử dụng chính thức ngày 30 tháng 1 năm 2008, công suất thiết kế đạt 342 MW. Nhà máy thủy điện Chiêm Hóa có công suất lắp máy 48 MW, hoàn thành tháng 3/2013 Giao thông. Giao thông vận tải gồm có: Vận tải đường bộ và vận tải đường thủy. Đường bộ. 1. Các tuyến Quốc lộ: Gồm có 6 tuyến quốc lộ trên địa bàn tỉnh: Quốc lộ 2: Điểm đầu tại km 115 00 (thuộc xã Đội Bình huyện Yên Sơn), điểm cuối km 205 00 (thuộc xã Yên Lâm huyện Hàm Yên), chiều dài 90 km. Quốc lộ 2C: Điểm đầu từ xã Sơn Nam huyện Sơn Dương, điểm cuối đến thị trấn Na Hang huyện Na Hang, chiều dài 201,24 km (không kể 6,3 km đi chung QL.37). Quốc lộ 3B: Điểm đầu từ xã Thái Sơn huyện Hàm Yên, điểm cuối xã Yên Lập huyện Chiêm Hóa. Quốc lộ 37: Điểm đầu từ đỉnh Đèo Khế xã Hợp Thành huyện Sơn Dương, điểm cuối cầu Bỗng thuộc xã Mỹ Bằng huyện Yên Sơn, chiều dài 64,5 km (không kể 4,0 km đi chung QL.2). Quốc lộ 279: Từ xã Hồng Quang huyện Chiêm Hóa, đến xã Đà Vị huyện Na Hang, chiều dài 96 km. Quốc lộ 280: Từ xã Đà Vị huyện Na Hang, đến xã Thượng Giáp huyện Na Hang. 2. Các tuyến đường tỉnh: Gồm có 6 tuyến, tổng chiều dài 392,6 km trong đó: Tuyến ĐT.185: Điểm đầu km 211 470 (thuộc xã Nông Tiến, thành phố Tuyên Quang), điểm cuối thị trấn Vĩnh Lộc, huyện Chiêm Hóa dài 74,1 km. Tuyến ĐT.186: Điểm đầu km 55 Quốc lộ 2C (Ngã ba Sơn Nam, huyện Sơn Dương), điểm cuối km 234 400 Quốc lộ 37 (thuộc xã Mỹ Bằng huyện Yên Sơn), chiều dài 84 km. Tuyến ĐT.187: Điểm đầu đường ĐT.176 cũ (Đài Thị), điểm cuối đỉnh đèo Keo Mác huyện Chiêm Hóa, chiều dài: 17 km. Tuyến ĐT.188: Điểm đầu từ Thị trấn huyện Chiêm Hóa, điểm cuối xã Bình An huyện Chiêm Hóa, chiều dài: 40 km (không kể 5 km đi chung QL.279). Tuyến ĐT.189: Điểm đầu km 5 700 (thuộc xã Bình Xa, huyện Hàm Yên), điểm cuối thôn Lục Khang xã Yên Thuận huyện Hàm Yên, chiều dài: 61,5Km. 3. Các tuyến đường huyện: Là đường nối từ trung tâm hành chính của huyện với trung tâm hành chính của xã, cụm xã hoặc trung tâm hành chính của huyện lân cận; đường nối đường tỉnh với trung tâm hành chính của xã hoặc trung tâm cụm xã. Tổng chiều dài các tuyến đường huyện trong tỉnh là 579,8 km. Bao gồm: Huyện Na Hang: gồm 11 tuyến =122,5 km. Huyện Chiêm Hóa: gồm 11 tuyến=146,0 km. Huyện Hàm Yên: gồm 6 tuyến= 57,2 km. Huyện Yên Sơn: gồm 14 tuyến=129,5 km. Huyện Sơn Dương: gồm 12 tuyến=124,6 km 4. Các tuyến đường đô thị: Chiều dài 141,71 km, là các đường giao thông nằm trong phạm vi địa giới hành chính thành phố Tuyên Quang, các thị trấn huyện lỵ và khu Di tích lịch sử Tân Trào. Đường thủy. Sông khai thác vận tải được: Sông Lô: dài 156 km, TW quản lý: 85 km (Phan lương – N3 Lô Gâm) - Sà lan < 200 T hoạt động mùa nước, Tuyên Quang quản lý: 71 km (N3 Lô Gâm – Bạch xa)- Đò ngang Sông Gâm: dài 109 +70 km, TW quản lý: 33 km (N3 Lô Gâm – Chiêm Hóa) 33 km (tàu, thuyền < 40T), Tuyên Quang quản lý: 76 km (Chiêm Hóa - Thuý Loa) 37 km (Chiêm Hóa - Na Hang) Thuyền < 5 T "2- Bến đò: " Tổng số bến 44, Trong đó có giấy phép mở bến: 28 Du lịch. Di tích lịch sử. Tân Trào là tên mới, được hợp nhất từ hai xã Tân Lập và Hồng Thái vào năm 1945 (trước đây còn gọi là Kim Long và Kim Châu). Gắn liền với chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, ngày nay Tân Trào có nhiều di tích lịch sử quan trọng như đình Tân Trào, đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào, lán Nà Lừa, hang Bòng… Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực Tuyên Quang như: bánh nếp nhân trứng kiến, hồng ngâm Xuân Vân, rượu ngô men lá Na Hang, chè Kia Tăng, gà đỏ Đồng Dầy, cam Hàm Yên, rau dớn, mắm cá ruộng Chiêm Hóa, bánh dày vừng đen Lâm Bình, lê nâu Khâu Tràng, cơm lam, phở chua Tuyên Quang, bánh gai Chiêm Hóa, thịt trâu Hùng Mỹ, ngô nếp Soi Lâm, chả ốc ống nứa, lạp xưởng Na Hang, gỏi cá bỗng, hoa chuối nấu chân giò, na dai Lực Hành, thịt muối chua, bánh củ chuối Yên Lập, nhộng cọ Chiêm Hóa, bánh đúc Đà Vị, xôi màu Lâm Bình, mía, bánh chuối Na Hang, rau hôi, cà gai leo Hợp Hòa, gà Tân Tạo, bưởi Soi Hà, cốm Côn Lôn, măng vầu, thịt gác bếp Lâm Bình, hoa kè nhồi thịt, chè Khau Mút, rau bò khai, cháo ỉm Sơn Dương, gạo nếp Khẩu Láng, bánh lẳng Chiêm Hóa, rêu đá, vịt bầu Minh Hương, rượu chuối Kim Bình, măng nứa, măng khô, nhãn Bình Ca, lợn đen Lăng Can, chè xanh, cọ ỏm Chiêm Hóa, lạc Thổ Bình, giảo cổ lam Lâm Bình. Kết nghĩa. Hưởng ứng phong trào kết nghĩa Bắc - Nam, tỉnh Tuyên Quang kết nghĩa với tỉnh Bình Thuận. Tại thành phố Phan Thiết có một con đường và một trường tiểu học mang tên "Tuyên Quang" và tại thành phố Tuyên Quang có một đường mang tên đường "Bình Thuận", một trường tiểu học và một trường trung học mang tên "Bình Thuận", một trường tiểu hoc và một trường trung học cơ sở mang tên "Phan Thiết".
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thăng Long (chữ Hán: 昇龍) là tên gọi cũ của thành phố Hà Nội. Đây là kinh đô của nước Đại Việt thời Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng (1010 - 1788). Trong dân dã thì địa danh tên Nôm Kẻ Chợ được dùng phổ biến nên thư tịch Tây phương về Hà Nội trước thế kỷ 19 hay dùng Cachao hay Kecho. Lịch sử. Năm 1010, tương truyền khi vua Lý Công Uẩn rời kinh đô Hoa Lư đến đất Đại La thì thấy rồng bay lên nên gọi tên kinh đô mới là Thăng Long, hay "rồng bay lên" theo nghĩa Hán Việt. Ngày nay tên Thăng Long còn dùng trong văn chương, trong những cụm từ như "Thăng Long ngàn năm văn vật"... Năm 2010 là kỷ niệm Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội. Năm 1243, nhà Trần tôn tạo sửa đổi và gọi Thăng Long là Long Phượng. Cuối thời Trần, Hồ Quý Ly cho đặt tên là Đông Đô. Năm 1428, Lê Lợi đặt kinh đô tại Thăng Long và đổi tên là Đông Kinh, vì có kinh đô thứ 2 là Tây Kinh tại Thanh Hóa. Vào khoảng thế kỷ 16, khi Đông Kinh trở thành một đô thị sầm uất, có cả người Châu Âu đến buôn bán, thì trong dân gian bắt đầu gọi Đông Kinh là Kẻ Chợ. Theo 1 người đã đến kinh đô Thăng Long là ông William Dampier người Anh thì tại đây có tới 20.000 nóc nhà, thường thấp, tường trát bùn và mái lợp rơm. Dù vậy cũng có một số nhà xây bằng gạch và lợp ngói. Hoàng cung được xây dựng nguy nga hơn dù cũng làm bằng gỗ. Năm 1805, sau khi thống nhất đất nước, nhà Nguyễn đặt kinh đô tại Phú Xuân (Huế) và cho phá thành Thăng Long để xây thành theo phương pháp của phương Tây do kỹ sư Pháp giúp đỡ. Đồng thời vua Gia Long đổi tên chữ Hán của Thăng Long 昇龍, với nghĩa là ""rồng bay lên" thành ra từ đồng âm Thăng Long 昇隆, nhưng mang nghĩa là "thịnh vượng"" khác nghĩa với thời các triều đại trước, vì cho rằng Thăng Long lúc đó không còn là kinh đô nơi vua ở cho nên không dùng biểu tượng rồng, linh vật tượng trưng cho vương quyền. Gia Long đổi phủ Phụng Thiên thành phủ Hoài Đức, còn tại kinh đô Huế cho lập phủ Thừa Thiên, trực lệ kinh kỳ. Thăng Long tồn tại cho đến thời vua Minh Mạng khi bãi bỏ Bắc Thành tổng trấn và thành lập tỉnh Hà Nội, năm 1831 niên hiệu Minh Mạng thứ 12. Từ tháng 12 năm 2002 đến nay, trên khu vực thuộc Hoàng thành Thăng Long xưa (khu vực giữa các phố Hoàng Diệu, Hoàng Văn Thụ, Độc Lập, Bắc Sơn ở Hà Nội), các nhà khảo cổ học đã tiến hành khai quật trên một diện tích khoảng hơn 19 nghìn m², phát lộ một phức hệ di tích - di vật rất phong phú, đa dạng từ La Thành - Đại La (thế kỉ 7-9) đến thành Thăng Long (thế kỉ 11-18) và thành Hà Nội (thế kỉ 19). Cương vực Thăng Long xưa. Thăng Long bao gồm Hoàng thành Thăng Long và một phủ kiêm lý, là phủ Phụng Thiên, phần thị thành kề cận kinh thành (phủ Phụng Thiên mới là phần gốc lõi của Kẻ Chợ). Đứng đầu phủ Phụng Thiên là viên quan Phủ doãn, gọi là Phủ doãn phủ Phụng Thiên. Phủ Phụng Thiên (đến thời nhà Nguyễn thì đổi thành phủ Hoài Đức) vào cuối thời nhà Hậu Lê tới đầu thời nhà Nguyễn gồm 2 huyện (tổng cộng 13 tổng, 239 phường, thôn, trại (đơn vị cấp làng xã)):
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.445065
Địa lý & Hành chính
null
null
New Orleans (viết tắt NOLA; người Mỹ gốc Việt phiên âm là Ngọc Lân hay Tân Linh) là thành phố lớn nhất thuộc tiểu bang Louisiana, Hoa Kỳ. Thành phố ở vị trí 30,07° vĩ độ bắc, 89,93° kinh độ tây, nằm ở phía đông nam tiểu bang, giữa sông Mississippi và hồ Pontchartrain, cách nơi cửa sông đổ ra vịnh Mexico khoảng 100 dặm. Về mặt luật pháp và hành chính thì thành phố New Orleans với Quận Orleans là một. Thành phố này được đặt tên theo Philippe II, Công tước Orléans, công tước nhiếp chính Pháp, và là một trong những thành phố cổ nhất ở nước Mỹ. Đây là trung tâm công nghiệp và phân phối và là cảng biển lớn của Mỹ. Thành phố này nổi tiếng với những di sản văn hoá đa sắc tộc, không khí lễ hội với nhạc và nghệ thuật ẩm thực địa phương. Nó được coi là nơi sinh của nhạc jazz. Nó là nơi du lịch nổi tiếng khắp thế giới do kiến trúc, nhạc, và thực phẩm đặc biệt, cũng như là Mardi Gras và những tổ chức khác. Theo Thống kê Dân số năm 2000, dân số thành phố là 484.674 người. Cộng thêm những ngoại ô trong Quận Jefferson, Quận St. Bernard bên cạnh, và những khu gần khác, con số đó tới khoản 1,4 triệu người. Tuy nhiên, New Orleans bị cơn bão Katrina tàn phá vào ngày 29 tháng 8 năm 2005, làm khắp thành phố bị lụt lội thê thảm, bắt mọi người dân phải sơ tán và làm nhiều người thiệt mạng. Vào những năm sau, dân số lên lại khoảng 1,2 triệu người. New Orleans có một khu Việt Nam lớn trong phía Đông New Orleans gọi là Versailles ("Vẹc Sai") nhưng có nhiều người gốc Việt ở khắp New Orleans, ví dụ ở Harvey và Westwego.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.400933
Địa lý & Hành chính
null
null
Huế là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Huế từng là kinh đô (cố đô Huế) của Việt Nam dưới triều Tây Sơn (1788–1801) và triều Nguyễn (1802–1945). Hiện nay, thành phố là một trong những trung tâm về văn hóa – du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ của Miền Trung - Tây Nguyên và cả nước. Những địa danh nổi bật là sông Hương và những di sản để lại của triều đại phong kiến, Thành phố có năm danh hiệu UNESCO ở Việt Nam: Quần thể di tích Cố đô Huế (1993), Nhã nhạc cung đình Huế (2003), Mộc bản triều Nguyễn (2009), Châu bản triều Nguyễn (2014) và Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế (2016). Ngoài ra, Huế còn là một trong những địa phương có di sản hát bài chòi đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Lịch sử và tên gọi. Thuận Hóa. Năm 1306, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông và Hoàng đế Trần Anh Tông của Đại Việt gả Công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân theo lời hứa của Trần Nhân Tông khi đi thăm Chiêm Thành thời gian trước đó. Chế Mân dâng sính lễ gồm có hai Châu Ô và Châu Lý (từ Nam Quảng Trị đến Thừa Thiên - Huế ngày nay). Năm 1307, vua Trần Anh Tông tiếp quản vùng đất mới và đổi tên là châu Thuận và châu Hóa. Việc kết hợp hai châu này làm một và đặt tên phủ là Thuận Hóa (chữ Hán: 順化) được thực hiện dưới thời thuộc Nhà Minh. Đến đời Nhà Hậu Lê, châu Thuận và châu Hóa hợp thành Thuận Hóa và trở thành một đơn vị hành chính cấp tỉnh. Năm 1604, Nguyễn Hoàng đã bỏ cấp huyện Điện Bàn thuộc trấn Thuận Hóa, nâng lên thành cấp phủ, sáp nhập vào trấn Quảng Nam. Thuận Hóa dưới thời các chúa Nguyễn, (thế kỷ 17 – 18) là vùng đất trải dài từ phía nam sông Gianh cho tới đèo Hải Vân. Phú Xuân. Năm 1626, để chuẩn bị cho việc chống lại nhà họ Trịnh, Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên dời dinh đến làng Phước Yên (Phúc An) thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên và đổi dinh thành phủ. Năm 1636, Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan chọn làng Kim Long, thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, làm nơi đặt Phủ. Năm 1687, Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái, dời Phủ chúa về làng Phú Xuân (chữ Hán: 富春), thuộc huyện Hương Trà vào năm 1712, chúa Minh Nguyễn Phúc Chu dời phủ về làng Bác Vọng, huyện Quảng Điền, Thừa Thiên làm nơi đặt phủ mới. Đến khi Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát lên cầm quyền năm 1738 thì phủ chúa mới trở về lại vị trí Phú Xuân và yên vị từ đó cho đến ngày thất thủ về tay quân họ Trịnh. Năm 1802, sau khi thống nhất Việt Nam, vua Gia Long đã "đóng đô ở Phú Xuân, mới gọi là Kinh sư" . Sự xuất hiện của tên địa danh Huế. Hiện chưa có nguồn thông tin nào khẳng định địa danh "Huế" chính thức xuất hiện lúc nào, theo một số thông tin thì: Triều Nguyễn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh (sau này là Hoàng đế Gia Long) đã thành công trong việc thiết lập việc kiểm soát của mình trên toàn bộ lãnh thổ của Việt Nam. Ông đặt Phú Xuân làm Kinh thành, đồng thời đặt dinh Quảng Đức làm vùng phụ cận bao bọc Kinh thành. Sau khi Minh Mạng lên ngôi, đã đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên. Trong đợt cải cách hành chính 1831-1832, các đơn vị hành chính lớn như dinh, trấn được đổi thành tỉnh, trực thuộc thẳng triều đình. Riêng phủ Thừa Thiên do có vị trí kinh sư nên vẫn giữ cấp phủ, nhưng có địa vị ngang cấp tỉnh. Nhận xét về địa thế và lý do chọn Huế làm kinh đô, Minh Mạng cho rằng:Mậu tý, năm Minh Mệnh thứ 9 [1828], Vua lại bảo thị thần rằng: "Người có nước [vua] có hai việc là sửa đức và thiết hiểm đều không thể thiếu được. Nay trẫm chế tạo tàu đồng là muốn giữ những chỗ yếu hại ven biển, làm xưởng chứa sẵn đấy, để lúc có việc dùng đến. Vả lại chỗ yếu lại không đâu bằng vụng Trà Sơn. Tàu ngoại quốc đến chỉ có thể đỗ ở đấy, mà chướng khí rất dữ, giếng độc hơn 10 cái. Trước có tàu Tây dương tránh gió đến đấy, cuối cùng bị nước độc làm hại, do đấy mà nói rằng người ngoại quốc dù có muốn dòm ngó cũng không sao làm được. Hơn nữa do đó ta lại giữ được chỗ hiểm để có thể vận dụng tàu thuyền kia mà. Vả lại lấy hình thế nước ta mà nói, Gia Định thì dòng sông quanh co, Bắc Thành thì đồng nội bằng phẳng, đều không có chỗ hiểm yếu đáng cậy được. Bình Định địa thế hơi mạnh nhưng lại chật hẹp; Quảng Nam non nước cũng tốt, nhưng lại lệch xiêu; cả đến Quảng Bình, Thanh Hoa đều không phải là chỗ đóng kinh đô được. Tóm lại không đâu bằng Phú Xuân, đất cát cao sáng, núi sông yên lặng; đường thủy thì có Thuận An, Tư Dung là nơi hiểm yếu, đường bộ thì có Quảng Bình, Hải Vân, ngăn che sông lớn quanh quất ở đằng trước, đèo cao giữ ở bên hữu, rồng lượn hổ ngồi, thế khoẻ hình mạnh. Đó là trời đất đặt ra để làm chỗ cho Liệt thánh ta đóng đô mà để lại cho con cháu đến ức muôn năm mãi mãi. Hoặc có kẻ nói Kinh sư đất nhiều đá sỏi người ta thường xem là nơi củi quế gạo châu. Nhưng giáp biển dựa núi, các thứ cá các thứ gỗ, dùng không thể hết, vốn các trấn không so sánh được; huống chi đô thành ở đấy, thấm nhuần đức trạch đã lâu. Trẫm lại tha thuế giảm thuế cho kinh kỳ trước nhất, đời sống của dân há chẳng thừa thãi hay sao? Đó thực là nơi kinh đô tốt nhất của đế vương, muôn đời không thể đổi được vậy".Cho đến thời kỳ đầu Pháp thuộc, Huế là một tên gọi dân gian để chỉ Kinh thành. Mãi đến ngày 12 tháng 7 năm 1899, dưới tác động của chính quyền thực dân muốn đẩy nhanh quá trình đô thị hóa, vua Thành Thái đã ban Dụ thành lập thị xã Huế ("Centre urbain de Hué"), với ranh giới được xác lập xen giữa Kinh thành bao gồm các vùng phụ cận quanh kinh thành và dải đất dọc theo bờ nam sông Hương, tức là trục đường Lê Lợi nối từ cầu Ga đến Đập Đá ngày nay. Dụ này được Toàn quyền Đông Dương chuẩn y vào ngày 30 tháng 8 năm 1899. Từ đó, địa danh Huế trở thành địa danh chính thức cho đến tận ngày nay. Cho đến năm 1902, bộ máy quản lý thị xã Huế gồm Công sứ Thừa Thiên Le Marchant de Trigon, kế toán Dejoux, thư ký kế toán Vanez Những năm sau đó, thị xã Huế có ba lần mở rộng ranh giới về phía Nam sông Hương theo các Dụ ngày 22 tháng 6 năm 1903 của vua Thành Thái, ngày 9 tháng 5 năm 1908 của vua Duy Tân và ngày 21 tháng 11 năm 1921 của vua Khải Định. Bấy giờ, thị xã Huế được phân làm 9 phường gồm: Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ, Đệ Ngũ, Đệ Lục, Đệ Thất, Đệ Bát và Đệ Cửu. Mặc dù vậy, việc phân chia này chỉ trên danh nghĩa, vì các phần đất đai và dân cư ngoài kinh thành Huế vốn thuộc địa phận làng nào của huyện Hương Trà, Hương Thủy thì đều do các huyện ấy cai quản. Mãi đến ngày 12 tháng 12 năm 1929, cựu Khâm sứ Trung Kỳ, Toàn quyền Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier là quyết định công nhận thị xã Huế là thành phố đô thị loại 3 (Commune de Hué), đồng thời xác lập bộ máy hành chính của thành phố đứng đầu là một viên Đốc lý do Công sứ Pháp ở phủ Thừa Thiên kiêm nhiệm, điều hành mọi công việc quản trị hành chính. Giúp việc cho Đốc lý có Phó đốc lý đồng thời là Phó công sứ. Ngoài ra còn có một Hội đồng thành phố được thành lập, cũng do viên Đốc lý người Pháp làm Chủ tịch. Đốc lý đầu tiên là Maurice-Arsène Devé (1929 - 1930), thư ký thành phố là Labbey Năm 1933, Bảo Đại ra Sắc lệnh số 41, chuẩn y việc chỉnh đốn công tác quản lý và điều hành thành phố Huế. Chức danh đứng đầu thành phố gọi là Bang tá, ngang hàng Tri huyện trong phẩm hàm quan lại người Việt, nhưng trên thực tế, mọi việc vẫn phụ thuộc vào viên đốc lý là Công sứ Pháp ở Thừa Thiên. Kể từ năm 1935, thành phố Huế mới chính thức trở thành đơn vị hành chính độc lập, không còn tình trạng nhập nhằng địa giới xen với các huyện Hương Trà, Hương Thủy; phần đất nào thuộc các phường thì sáp nhập hẳn vào thành phố quản lý. Vào thời điểm đó, trong Thành nội tức khu vực kinh thành (trừ Đại nội) gồm có 10 phường: Tây Lộc, Tây Linh, Trung Hậu, Phú Nhơn, Vĩnh An, Thái Trạch, Trung Tích, Huệ An, Thuận Cát, Tri Vụ. Ngoài kinh thành và nam sông Hương có 11 phường gồm: phường Phú Bình, Phú Thịnh, Phú Hòa, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Vĩnh, Phú Ninh, Phú Cát, Phú Mỹ, Phú Thọ và Phú Hậu. Tổng cộng thành phố Huế có 21 phường. Như vậy, kể từ năm 1929 đến 1945, vùng đất Thừa Thiên Huế cùng một lúc có ba tổ chức hành chính gồm Kinh sư do Đề đốc Kinh thành của triều đình trông coi, phủ Thừa Thiên có Phủ doãn cai quản và thành phố Huế đứng đầu là Đốc lý thành phố do Công sứ Pháp ở Thừa Thiên kiêm nhiệm. Trên thực tế, trừ khu vực Kinh thành, Công sứ Pháp ở Thừa Thiên mới thực sự là người nắm quyền cai trị hành chính trong toàn phủ Thừa Thiên. Chiến tranh Việt Nam. Năm 1945, lực lượng Việt Minh giành được chính quyền trên cả nước, lập chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt thủ đô tại Hà Nội. Hoàng đế cuối cùng của nhà Nguyễn là Bảo Đại tuyên bố thoái vị và trở thành Cố vấn cho chính phủ mới. Từ đó, Huế mất đi địa vị kinh đô. Ngay cả khi Cựu hoàng Bảo Đại sau thời gian lưu vong trở lại Việt Nam với sự giúp đỡ của thực dân Pháp vào năm 1949, đã tuyên bố mình là "Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam", với đô thành là Sài Gòn. Mặc dù vậy, Quốc gia Việt Nam chỉ tồn tại trên danh nghĩa và Quốc trưởng Bảo Đại lại dành hầu hết thời gian của mình ở Đà Lạt. Ông hầu như rất ít khi về lại cố đô Huế, nơi thường diễn ra tranh chấp ác liệt giữa quân đội Pháp và lực lượng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, vị trí của trung tâm thành phố Huế rất gần khu vực giới tuyến giữa 2 miền Nam Bắc, đặt nó ở một vị trí rất dễ bị tấn công trong chiến tranh Việt Nam. Trong Sự kiện Tết Mậu Thân năm 1968, trong trận Huế, thành phố đã bị thiệt hại nặng nề nhưng các danh lam thắng cảnh của thành phố vẫn đang trong tình trạng tốt. Thị xã Huế. Vào cuối thế kỷ 19, xứ Huế và cả Trung Kỳ là nơi chậm phát triển kinh tế công-thương nghiệp so với Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Một trong những giải pháp có thể đáp ứng tích cực những yêu cầu ấy là xúc tiến việc thiết lập các khu hành chính đô thị. Ngày 6 tháng 9 năm Thành Thái thứ 10 (ngày 20 tháng 10 năm 1898), dưới sự chỉ đạo và phê duyệt của Khâm sứ Trung Kỳ Boulloché, Cơ Mật Viện triều đình Huế đã làm tờ trình dâng lên Thành Thái yêu cầu nhà vua cho phép "những nơi nào Khâm sứ Trung Kỳ và Cơ Mật Viện xét thấy cần thiết, sẽ thiết lập ở nơi đó một đô thị". Ngày 5 tháng 6 năm Thành Thái thứ 11 (ngày 12 tháng 7 năm 1899), vua Thành Thái xuống Dụ công bố thành lập thị xã Huế với nội dung: "Chiểu theo kết quả tốt đẹp của những biện pháp mà Cơ Mật Viện đã đề xuất vào ngày 6 tháng 9 năm Thành Thái thứ 10 về vấn đề thành lập các đô thị ở An Nam, nay trẫm quyết định bổ khuyết các biện pháp đó bằng một tổ chức hẳn hoi. Tổ chức này được áp dụng ở các thị xã là Thanh Hóa, Vinh, Huế, Hội An, Quy Nhơn và Phan Thiết" Ngày 13 tháng 7 năm 1899, Khâm sứ Trung Kỳ Boulloché phê duyệt tờ Dụ của vua Thành Thái, và đến ngày 30 tháng 8 năm 1899 Toàn quyền Đông Dương ra quyết định chuẩn y thành lập "thị xã Huế" (cùng 5 thị xã trên) . Thành phố Huế. Sau ngày tuyên bố độc lập (ngày 2 tháng 9 năm 1945), Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tiến hành kiện toàn lại bộ máy quản lý nhà nước, sắp xếp lại lại các đơn vị hành chính trong cả nước. Sắc lệnh số 77 ngày 21 tháng 12 năm 1945 của Chủ tịch Chính phủ lâm thời Việt Nam quy định Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Đà Lạt, Sài Gòn đều đặt làm thành phố. Thành phố Hà Nội được đặt trực tiếp dưới quyền của Chính phủ Trung ương, còn các thành phố khác đều thuộc quyền của các Kỳ. Ở mỗi thành phố đặt cơ quan Hội đồng nhân dân thành phố, Uỷ ban hành chính thành phố, Uỷ ban hành chính khu phố... Đầu năm 1946, Chính phủ Việt Nam giải tán các cấp hành chính châu, quận, phủ, tổng; thành lập chính quyền bốn cấp từ bộ đến tỉnh- thành phố, huyện, xã (bãi bỏ cấp kỳ, thay vào đó là cấp bộ). Lịch sử hành chính thành phố Huế từ năm 1954. Giai đoạn từ năm 1954-1975: sau khi thành lập chính phủ Việt Nam Cộng Hòa và ban hành hiến pháp, tổng thống Ngô Đình Diệm đã tiến hành xây dựng bộ máy hành chính từ trung ương đến cơ sở, đồng thời tiến hành cải tổ nền hành chính ở các địa phương. Theo tinh thần tờ Dụ số 57A ngày 24 tháng 10 năm 1956 với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, thị xã Huế là đơn vị hành chính ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên, tuy tỉnh lị Thừa Thiên đặt ở Huế. Mô hình này chỉ tồn tại đến năm 1975. Sau năm 1975, thành phố Huế được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Bình Trị Thiên. Lúc này, cấp quận bị bãi bỏ, toàn thành phố được chia thành 11 phường: Phú An, Phú Cát, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Thuận, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Vĩnh Lợi và Vĩnh Ninh. Năm 1976, bốn xã: Thủy Phú, Thủy Phước, Thủy Trường, Thủy Xuân thuộc huyện Hương Thủy; xã Hương Lưu thuộc huyện Phú Vang và xã Xuân Long thuộc huyện Hương Trà được sáp nhập vào thành phố Huế. Ngày 13 tháng 3 năm 1979, giải thể phường Phú An, dân và đất của của phường này giao cho phường Phú Cát quản lý. Phường Phú An (trước năm 1976 là khu phố Phú An) vốn là đơn vị hành chính quản lý cư dân vạn đò trên sông Hương và các sông đào. Ngày 11 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 64-HĐBT. Theo đó: Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Huế có 10 phường và 23 xã. Ngày 17 tháng 9 năm 1981, chia xã Hương Hồ thành 2 xã: Hương Hồ và Hương An. Ngày 6 tháng 1 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 03-HĐBT. Theo đó: Cuối năm 1988, thành phố Huế có 18 phường: An Cựu, Kim Long, Phú Bình, Phú Cát, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Thuận, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Trường An, Vỹ Dạ, Vĩnh Lợi, Vĩnh Ninh, Xuân Phú và 22 xã: Bình Điền, Bình Thành, Hải Dương, Hương An, Hương Bình, Hương Hồ, Hương Long, Hương Phong, Hương Sơ, Hương Thọ, Hương Vinh, Phú Dương, Phú Mậu, Phú Tân, Phú Thanh, Phú Thượng, Thuận An, Thủy An, Thủy Bằng, Thủy Biều, Thủy Dương, Thủy Xuân. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, sau khi chia tách tỉnh Bình Trị Thiên, thành phố Huế trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày 29 tháng 9 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 345-HĐBT. Theo đó: Thành phố Huế còn lại 18 phường và 5 xã trực thuộc. Ngày 24 tháng 9 năm 1992, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 355-CT về việc công nhận thành phố Huế là đô thị loại II. Ngày 22 tháng 11 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định 80/CP. Theo đó: Ngày 24 tháng 8 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 209/2005/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Huế là đô thị loại I. Ngày 27 tháng 3 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 44/2007/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 25 tháng 3 năm 2010, chuyển 3 xã: Hương Long, Thủy Xuân và Thủy Biều thành 3 phường có tên tương ứng. Cuối năm 2020, thành phố Huế có 27 phường: An Cựu, An Đông, An Hòa, An Tây, Hương Long, Hương Sơ, Kim Long, Phú Bình, Phú Cát, Phú Hậu, Phú Hiệp, Phú Hòa, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Thuận, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thuận Thành, Thủy Biều, Thủy Xuân, Trường An, Vĩnh Ninh, Vỹ Dạ và Xuân Phú. Ngày 27 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1264/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021). Theo đó: Thành phố Huế có 29 phường và 7 xã như hiện nay. Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Huế nằm ở trung tâm tỉnh Thừa Thiên Huế, địa bàn nằm trải dài theo dòng sông Hương và có vị trí địa lý: Thành phố có diện tích 265,99 km², dân số năm 2020 là 652.572 người, mật độ dân số đạt 2.453 người/km². Thành phố nằm cách thủ đô Hà Nội 668 km về phía nam, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1039 km về phía bắc và cách Đà Nẵng 95 km về phía bắc. Nằm gần dãy núi Trường Sơn, khu vực thành phố Huế là đồng bằng thuộc vùng hạ lưu sông Hương và sông Bồ, có độ cao trung bình khoảng 3 – 4 m so với mực nước biển và thường bị ngập lụt khi đầu nguồn của sông Hương (trên Dãy Trường Sơn) xảy ra mưa vừa và lớn. Khu vực đồng bằng này tương đối bằng phẳng, tuy trong đó có xen kẽ một số đồi, núi thấp như núi Ngự Bình, Đồi Vọng Cảnh... Khí hậu. Thành phố Huế có sự ngoại lệ về khí hậu so với Bắc Bộ và Nam Bộ, vì nơi đây khí hậu khắc nghiệt và có sự khác nhau giữa các vùng và khu vực trong toàn tỉnh. Huế có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thuộc Phân loại khí hậu Köppen. Mùa khô từ tháng Ba đến tháng Tám, với nhiệt độ khá cao từ 35 đến 40 °C (95 đến 104 °F). Mùa mưa từ tháng Tám đến tháng Giêng, với một mùa lũ từ tháng Mười, trở đi. Nhiệt độ trung bình mùa mưa là 20 °C (68 °F), đôi khi thấp nhất là 9 °C (48 °F). Mùa xuân kéo dài từ tháng giêng đến cuối tháng Hai. Hành chính. Thành phố Huế có 36 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm 29 phường: An Cựu, An Đông, An Hòa, An Tây, Đông Ba, Gia Hội, Hương An, Hương Hồ, Hương Long, Hương Sơ, Hương Vinh, Kim Long, Phú Hậu, Phú Hội, Phú Nhuận, Phú Thượng, Phước Vĩnh, Phường Đúc, Tây Lộc, Thuận An, Thuận Hòa, Thuận Lộc, Thủy Biều, Thủy Vân, Thủy Xuân, Trường An, Vĩnh Ninh, Vỹ Dạ, Xuân Phú và 7 xã: Hải Dương, Hương Phong, Hương Thọ, Phú Dương, Phú Mậu, Phú Thanh, Thủy Bằng. Hiện nay, Huế là thành phố thuộc tỉnh có nhiều đơn vị hành cấp xã nhất Việt Nam với 36 đơn vị, đồng thời là thành phố thuộc tỉnh có số phường nhiều thứ hai ở Việt Nam (sau thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa với 30 phường và có cùng 29 phường như thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai). Kinh tế. Huế có nhiều trung tâm thương mại lớn và toạ lạc ở hai bên bờ sông Hương như: chợ Đông Ba, chợ Tây Lộc, chợ An Cựu. Cùng những trung tâm thương mại, siêu thị như CoopMart, Go!, Vincom, The Manor Crown, Nguyễn Kim. Và có 4 rạp chiếu phim lớn ở trung tâm Thành phố Huế như CineStar, BHD, Starlight và Lotte Cinema Kinh tế thành phố phát triển chủ yếu ở ngành du lịch. Hiện tại trên địa bàn thành phố đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như khu đô thị An Đông Villas, khu đô thị An Cựu Villas, khu đô thị Phú Mỹ An, The Manor Crown..., Tình hình sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp năm 2016 duy trì ở mức ổn định; GTSX CN-TTCN trên địa bàn thành phố ước đạt 6.502 tỷ đồng (giá hiện hành) tăng 13% so với cùng kỳ. Các mặt hàng trọng điểm như dệt may, da giày vẫn giữ được tốc độ tăng khá, xuất khẩu đạt tăng trưởng cao. Các mặt hàng tiêu dùng nội tỉnh tiếp tục duy trì mức tiêu thụ ổn định. Văn hóa. Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế có một quá trình lịch sử hình thành và phát triển khoảng gần 7 thế kỷ (tính từ năm 1306), trong tiến trình hình thành văn hóa Huế có sự tác động của văn hóa Đông Sơn do các lớp cư dân từ phía Bắc mang vào trước thế kỷ 2 và sau thế kỷ 13 hỗn dung với thành phần văn hóa Sa Huỳnhtạo nên nền văn hóa Việt - Chăm. Trong quá trình phát triển, chuyển biến có ảnh hưởng của các luồng văn hóa khác các nước trong khu vực Đông Nam Á, Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây... Văn hóa Huế được tạo nên bởi sự đặc sắc về tinh thần, đa dạng về loại hình, phong phú và độc đáo về nội dung, được thể hiện rất phong phú trên nhiều lĩnh vực như: văn học, âm nhạc, sân khấu, mỹ thuật, phong tục tập quán, lễ hội, lề lối ứng xử, ăn - mặc - ở, phong cách giao tiếp, phong cách sống.. Huế còn được gọi là "Đất Thần Kinh" hay "Xứ thơ", là một trong những thành phố được nhắc tới nhiều trong thơ văn và âm nhạc Việt Nam vì nét lãng mạn và thơ mộng.. Kiến trúc. Kiến trúc ở Huế phong phú và đa dạng: có kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian, kiến trúc tôn giáo và kiến trúc đền miếu, kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại... Những công trình kiến trúc công phu, đồ sộ nhất chính là Quần thể di tích Cố đô Huế hay Quần thể di tích Huế. Đó là những di tích lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian từ đầu thế kỷ 19 đến nửa đầu thế kỷ 20 trên địa bàn kinh đô Huế xưa; nay thuộc phạm vi thành phố Huế và một vài vùng phụ cận thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam. Một loại hình kiến trúc dân gian độc đáo ở Huế là nhà rường xứ Huế, với những cột, kèo chống hoàn toàn làm từ gỗ, với những nét chạm trổ, vào mộng cực kỳ tinh xảo và khéo léo. Hiện còn khoảng trên dưới 100 nhà rường như thế (chỉ tính riêng nhà ở gia đình, không bào gồm đình làng, nhà thờ họ...) ở thành phố Huế và các huyện, thị xã có tuổi đời trên dưới 100 năm, cá biệt có nhà gần 200 năm. Trang phục. Các thiết kế hiện đại của áo dài, một trang phục truyền thống của người Việt, phát triển từ một bộ trang phục của triều đình Chúa Nguyễn tại Huế ở thế kỷ 18. Một khoảng thời gian trong lịch sử, triều đình nhà Nguyễn đựa ra các quy tắc ăn mặc như sau: Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở. Chỉ duy nhất khi đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn có ống tay hẹp cho tiện khi làm việc thì được phép. Trang phục này phát triển thành "áo dài ngũ thân", một năm loại áo choàng phổ biến của các quý tộc mặc trong thế kỷ thứ 19 và đầu thế kỷ thứ 20. Lấy cảm hứng từ thời trang của Paris, Nguyễn Cát Tường và các nghệ sĩ khác đã kết hợp với Trường Đại học Hà Nội thiết kế lại "áo dài ngũ thân" như là trang phục hiện đại trong những năm 1920 và 1930. Áo dài và nón lá thường được xem như là một biểu tượng của Việt Nam, sự kết hợp giữa áo dài và nón lá được công nhận bởi người Việt là xuất phát từ Huế. Màu tím đặc trưng của áo dài phổ biến ở Huế, màu sắc đặc biệt đó đã làm áo dài trở thành di sản của thành phố, một cố đô. Âm nhạc và nghệ thuật. Âm nhạc và nghệ thuật Huế mang đậm nét lịch sử, cổ kính. Nhã nhạc cung đình. Bắt nguồn từ tám loại lễ nhạc cung đình thời Lê là giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, cửu nhật nguyệt giao trùng nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, đại yến cửu tấu nhạc, cung trung nhạc, đến triều Nguyễn lễ nhạc cung đình Việt Nam đã phát triển thành hai loại hình Đại nhạc và Nhã nhạc (tiểu nhạc) với một hệ thống các bài bản lớn. Vũ khúc cung đình. Với trên 15 vở múa lớn, từ múa tế lễ, múa chúc tụng, múa tiếp sứ, múa yến tiệc, múa trình diễn tích tuồng. Nhiều vở múa có tính hoành tráng, quy mô diễn viên đông, phô diễn được vẻ đẹp rộn ràng, lấp lánh và kỹ thuật, kỹ xảo của múa hát cung đình Việt Nam thể hiện được sự phát triển nâng cao múa hát cổ truyền của người Việt. Ca Huế. Ca Huế là một hệ thống bài bản phong phú gồm khoảng 60 tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc theo hai điệu thức lớn là điệu Bắc, điệu Nam và một hệ thống "hơi" diễn tả nhiều sắc thái tình cảm đặc trưng. Điệu Bắc gồm những bài ca mang âm điệu tươi tắn, trang trọng. Điệu Nam là những bài âm điệu buồn, nỉ non, ai oán. Bài bản Ca Huế có cấu trúc chặt chẽ, nghiêm ngặt, trải qua quá trình phát triển lâu dài đã trở thành nhạc cổ điển hoàn chỉnh, mang nhiều yếu tố "chuyên nghiệp" bác học về cấu trúc, ca từ và phong cách biểu diễn. Đi liền với ca Huế là dàn nhạc Huế với bộ ngũ tuyệt Tranh, Tỳ, Nhị, Nguyệt, Tam, xen với Bầu, Sáo và bộ gõ trống Huế, sanh loan, sanh tiền. Kỹ thuật đàn và hát Ca Huế đặc biệt tinh tế nhưng Ca Huế lại mang đậm sắc thái địa phương, phát sinh từ tiếng nói, giọng nói của người Huế nên gần gũi với Hò Huế, Lý Huế; là chiếc cầu nối giữa nhạc cung đình và âm nhạc dân gian. Nghệ thuật tuồng. Phát triển sớm từ thế kỷ 17 dưới thời các chúa Nguyễn. Đến triều Nguyễn, tuồng được xem là quốc kịch và triều đình Huế đã tạo điều kiện thuận lợi cho tuồng phát triển. Trong Đại Nội Huế có nhà hát Duyệt Thị Đường, Tĩnh Quang Viện, Thông Minh Đường. Tại Khiêm Lăng, có Minh Khiêm Đường. Thời Minh Mạng đã thành lập Thanh Bình Thự làm nơi dạy diễn viên tuồng. Thời Minh Tự Đức đã thành lập Ban Hiệu Thư chuyên nhuận sắc, chỉnh lý, hiệu đính và sáng tác tuồng. Mỹ thuật và mỹ nghệ. Với những kiểu thức trang trí bắt nguồn từ những mẫu mực của Trung Hoa, các nghệ nhân Việt Nam đã tạo nên một bản sắc nghệ thuật trang trí với những nét độc đáo mang cá tính Huế. Nghệ thuật trang trí mỹ thuật Huế còn tiếp thu những tinh hoa của nghệ thuật Chăm, đặc biệt là tiếp thu nghệ thuật trang trí Tây Phương. Trang trí cung đình Huế còn tiếp nhận và nâng cao nghệ thuật dân gian Việt Nam. Nhiều loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam như chạm khắc gỗ, cẩn xà cừ, cẩn tam khí ngũ khí, sơn son thếp vàng, chạm khắc xương và ngọc ngà, khảm sành sứ, làm vàng bạc, dệt, thêu, đan...đã được các tượng cục triều Nguyễn nâng lên thành những nghệ thuật tinh xảo, sang trọng. Về hội họa nhiều họa sĩ nổi tiếng về tranh thủy mặc sơn thủy, trúc lan, tranh gương, các ấn phẩm nhất thi nhất họa đặc sắc. Đặc biệt, từ Huế xuất hiện người họa sĩ vẽ tranh sơn dầu đầu tiên ở Việt Nam là họa sĩ Lê Văn Miên (1870-1912)...Về điêu khắc, cố đô Huế đã đánh dấu một thời kỳ phát triển mới, thể hiện bằng các tác phẩm điêu khắc trên đá, trên đồng, trên gỗ. Trong điêu khắc gỗ, phần khắc chạm gỗ trang trí với những bức chạm nổi, chạm lộng trên các chi tiết công trình kiến trúc đạt đến sự tinh xảo và có tính thẩm mỹ cao. Về mỹ thuật ứng dụng, ngoài việc nâng cao các loại hình thủ công mỹ nghệ truyền thống của Việt Nam, Huế còn một thời sản xuất đồ mỹ nghệ pháp lam cao cấp. Nghệ thuật khác. Huế tạo nhiều cảm hứng trong các bài hát như: Ai ra xứ huế (Duy Khánh), Gửi em chiếc nón bài thơ (Lê Việt Hòa), Tặng đời chiếc nón bài thơ (Tràn Phán), Nón bài thơ (Trần Trịnh), Huế xưa (Anh Bằng), Huế đã xa rồi (Anh Bằng), Huế khóc (Anh Bằng), Huế nhớ o (Anh Bằng), Huế bây giờ (phổ nhạc bài thơ "Huế bây giờ" của Tôn Nữ Thụy Khương)..., các bài thơ như: Chiếc nón bài thơ (Lưu Vĩnh Hạ), Chiếc nón bài thơ (Hoàng Thanh), Ai ra xứ Huế (Chử Văn Hòa), Huế thương (Hồng Hoa), Huế bây giờ (Tôn Nữ Thụy Khương)...và nhiều nghệ thuật hiện đại khác Lễ hội. Có hai loại lễ hội: lễ hội cung đình và lễ hội dân gian. Lễ hội cung đình phản ánh sinh hoạt lễ nghi của triều Nguyễn, phần lớn chỉ chú trọng về "lễ" hơn "hội". Lễ hội dân gian gồm nhiều loại rất phong phú, tiêu biểu như: lễ hội Huệ Nam ở điện Hòn Chén hay còn gọi là lễ rước sắc nữ thần Thiên y A na theo tín ngưỡng của người Chăm pa, lễ hội tưởng niệm các vị khai sinh các ngành nghề truyền thống, lễ hội tưởng nhớ các vị khai canh thành lập làng. Trong những dịp tế lễ, nhiều sinh hoạt văn hóa bổ ích như đua thuyền, kéo co, đấu vật... còn được tổ chức và thu hút đông người xem. Festival Huế. Tổ chức lần đầu tiên vào năm 2000, đến nay Festival Huế tổ chức được 10 lần (2000, 2002, 2004, 2006, 2008, 2010, 2012, 2014, 2016 và 2018). Đây là sự kiện văn hóa lớn có quy mô quốc gia và tầm cỡ quốc tế, có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của người dân Huế. Là điều kiện quan trọng để xây dựng Huế thành thành phố Festival của Việt Nam. Ẩm thực. Huế còn lưu giữ trên 1000 món ăn nấu theo lối Huế, có cả những món ăn ngự thiện của các vua triều Nguyễn. Bản thực đơn ngự thiện có trên vài chục món thuộc loại cao lương mỹ vị, được chuẩn bị và tổ chức rất công phu, tỉ mỉ, cầu kỳ. Các món ăn dân dã rất phổ biến trong quần chúng với bản thực đơn phong phú hàng trăm món được chế biến khéo léo, hương vị quyến rũ, màu sắc hấp dẫn, coi trọng phần chất hơn lượng; nghệ thuật bày biện các món ăn đẹp mắt, nghệ thuật thưởng thức tinh tế. Võ thuật. Huế hiện có rất nhiều hệ phái võ, có những phái võ nỗi danh truyền tụng cũng có những phái âm thầm như chính vùng đất cố đô. Tuy vậy, tất cả đều mang những đặc trưng đặc biệt riêng có của xứ Huế. Võ thuật Huế có nhiều nguồn gốc, từ Ấn Độ, Trung quốc, Thái Lan, Lào, miến điện, Hàn Quốc, Nhật Bản... tất cả quyền thuật năm châu đến Huế rồi hội ngộ với những môn phái dân dã tạo nên đặc trưng riêng của mảnh đất kinh kỳ. Bên cạnh đó cũng có nhiều môn phái sản sinh ra tại trên chính mảnh đất này cùng với lịch sử của nó và mang những tên gọi dân gian như Áo Vải, Bạch hổ, Thiếu lâm... Du lịch. Huế có nhiều di tích lịch sử đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. Ngày nay, một khu vực nhỏ của thành phố vẫn còn bị cấm, mặc dù các nỗ lực tái thiết đang được tiến hành để duy trì nó như là một địa điểm lịch sử thu hút khách du lịch. Dọc theo sông Hương từ Huế còn vô số các di tích khác, bao gồm cả những lăng mộ của một số hoàng đế, trong đó có Minh Mạng, Khải Định và Tự Đức. Một ngôi chùa của Huế là chùa Thiên Mụ, ngôi chùa lớn nhất ở Huế và là biểu tượng chính thức của thành phố. Một số tòa nhà kiểu Pháp nằm dọc theo bờ phía nam của sông Hương. Trong số đó là Trường Quốc học và Trường Hai Bà Trưng, là các trường trung học phổ thông lâu đời nhất ở Việt Nam, khách sạn Saigon Morin, một trong những khách sạn lâu đời nhất Việt Nam. Viện bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế nằm ở số 3 đường Lê Trực cũng trưng bày một bộ sưu tập các hiện vật khác nhau từ thành phố. Làng Dương Nỗ, xã Phú Dương là nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh từng sinh sống và học tập thời niên thiếu trong những năm ở Huế từ 1898 - 1900. Nơi đây vẫn còn lưu lại di tích. Ngoài những điểm thu hút du lịch khác nhau tại Huế, thành phố cũng cung cấp một vùng đất rộng lớn cho khu phi quân sự, nằm cách khoảng 70 km (43 dặm) về phía bắc, cho thiết lập các thiết bị chiến đấu khác nhau như The Rockpile, Căn cứ Khe Sanh hay Địa đạo Vịnh Mốc. Trong 11 tháng đầu năm 2012, thành phố Huế đã nhận được 2,4 triệu lượt khách du lịch, tăng 24,6% so với cùng kỳ năm 2011. Tất cả 803.000 khách trong 2,4 triệu khách là khách nước ngoài, tăng 25,7%. Mặc dù du lịch đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của thành phố, nó cũng có tác động tiêu cực đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên.  Ví dụ như các dịch vụ gắn với du lịch, sự phát triển của cơ sở hạ tầng và sự hoạt động của nó, việc sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, là tất cả nguyên nhân có thể gây ô nhiễm môi trường. Giáo dục. Trường Đại học và Cao đẳng. Đại học Huế, tiền thân là Viện Đại học Huế (1957-1975), có lịch sử hơn 60 năm phát triển và tồn tại. Đây là nơi đào tạo nhân lực cho miền Trung - Tây Nguyên. Là đại học cấp vùng cùng với bốn đại học: Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Tp.HCM, Đại học Đà Nẵng và Đại học Thái Nguyên. Đại học Huế bao gồm các trường, khoa, viện: Trường Đại học Nghệ thuật Huế, Trường Đại học Sư phạm Huế, Trường Đại học Khoa học Huế,Trường Đại học Y Dược Huế, Trường Đại học Nông lâm Huế, Trường Đại học Ngoại ngữ Huế, Trường Đại học Kinh tế Huế, Trường Đại học Luật, Khoa Giáo dục thể chất, Khoa Quốc tế, Khoa Kĩ thuật và Công nghệ, Trường Du lịch... Một số cơ sở giáo dục khác (bậc đại học và cao đẳng): Phân viện Hành chính Quốc gia tại Huế, Học viện Âm nhạc Huế, Học viện Phật giáo Việt Nam tại Huế, Trường Đại học Phú Xuân, Trường Cao đẳng Y tế Huế, Trường Cao đẳng Sư phạm Huế, Trường Cao đẳng Công nghiệp Huế, Trường Cao đẳng Du lịch Huế, Trường Cao đẳng Giao thông Huế, Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Phân hiệu Trường nghiệp vụ Thuế (thuộc Tổng cục Thuế), Phân hiệu Đại học Tài chính - Kế toán (Bộ Tài chính)... Trường THPT. 1. Trường THPT chuyên Quốc Học 2. Trường THPT Hai Bà Trưng (trường Nữ sinh Đồng Khánh cũ). 3. Trường THPT Nguyễn Huệ (trường Nữ sinh Thành Nội cũ). 4. Trường THPT Phan Đăng Lưu (trường cấp 3 Phú Vang cũ). 5. Trường THPT Nguyễn Trường Tộ. 6. Trường THPT Cao Thắng. 7. Trường THPT Gia Hội. 8. Trường THPT Bùi Thị Xuân. 9. Trường THPT Đặng Trần Côn. 10. Trường THPT Hương Vinh. 11. Trường THPT Thuận An. 12. Trường PT Dân tộc Nội trú tỉnh. Trường THCS. Tính đến tháng 7/2021, thành phố có 38 trường THCS công lập: Chi tiết: Trường Tiểu học và Mầm non. Được xây dựng và phát triển đồng bộ ở tất cả 36 phường, xã của thành phố. Cơ sở hạ tầng. Y tế. Bệnh viện Trung ương Huế được thành lập vào năm 1894, là bệnh viện phương Tây đầu tiên tại Việt Nam. Bệnh viện cung cấp 2078 giường và rộng 120.000 mét vuông, một trong những bệnh viện lớn tại khu vực miền Trung - Tây Nguyên. Giao thông vận tải. Huế có ga Huế là ga đường sắt với đường tàu kết nối đến tất cả các thành phố lớn của Việt Nam. Sân bay quốc tế Phú Bài nằm ở phía nam thành phố
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.480995
Địa lý & Hành chính
null
null
Yên Bái là một tỉnh thuộc vùng trung du và miền núi phía Bắc, Việt Nam. Địa lý. Tỉnh Yên Bái nằm ở vùng Tây Bắc tiếp giáp với Đông Bắc, có vị trí địa lý: Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Yên Bái, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 180 km. Hành chính. Tỉnh Yên Bái ngày nay bao gồm thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và 7 huyện: Yên Bình, Lục Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Trạm Tấu, Mù Cang Chải, với 173 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 13 phường, 10 thị trấn và 150 xã. Địa hình. Yên Bái có diện tích tự nhiên 6.882,9 km², nằm trải dọc đôi bờ sông Hồng. Địa hình Yên Bái có độ dốc lớn, cao dần từ đông sang tây, từ nam lên bắc, độ cao trung bình 600 mét so với mực nước biển và có thể chia làm hai vùng: vùng thấp ở tả ngạn sông Hồng và lưu vực sông Chảy mang nhiều đặc điểm của vùng trung du; vùng cao thuộc hữu ngạn sông Hồng và cao nguyên nằm giữa sông Hồng và sông Đà có nhiều dãy núi. Đèo Khau Phạ là đèo hiểm trở và dài nhất trên tuyến quốc lộ 32 với độ dài trên 30 km. Điều kiện tự nhiên. Sông ngòi. Ngoài hai con sông lớn là sông Hồng và sông Chảy, còn có khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ và hồ, đầm. Đầu thập niên 1960, Liên Xô giúp thiết kế hồ Thác Bà là hồ nước nhân tạo có diện tích mặt nước trên 20.000 ha, với khoảng 1.300 đảo lớn nhỏ. Hồ có sức chứa 3–3,9 tỷ m³ nước với mục đích ban đầu là chạy nhà máy thủy điện Thác Bà - công trình thủy điện lớn đầu tiên ở Việt Nam. Khí hậu. Yên Bái có khí hậu đặc trưng của khí hậu cận nhiệt đới ẩm của miền bắc Việt Nam, mùa hè nóng ẩm mưa nhiều, mùa đông phi nhiệt đới lạnh và khô. Rừng. Yên Bái có rừng nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi cao. Ở đây có gỗ quý pơ-mu sẽ tốt cho sức khỏe và đuổi muỗi nếu làm giường. Diện tích rừng chiếm 54%. Khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản trữ lượng khá lớn - đá cocain, đá đỏ, sắt, thạch anh, đá fenspat, đá trắng Đông Nam Á. Kinh tế. Năm 2018, Yên Bái là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 50 về số dân, xếp thứ 56 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 57 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 60 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 815.600 người dân, GRDP đạt 27.404 tỉ Đồng (tương ứng với 1,18 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 33,6 triệu đồng (tương ứng với 1.459 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,31%. Yên Bái có cơ cấu kinh tế đa dạng, với các ngành nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Nông nghiệp chiếm gần 10% diện tích tự nhiên và sản xuất chủ yếu bao gồm lúa, cam, quế, ngô, khoai và các sản phẩm nông nghiệp khác. Dân số của tỉnh chủ yếu là nông dân. Công nghiệp ở Yên Bái phát triển không mạnh mẽ do địa hình núi non. Các sản phẩm công nghiệp chính bao gồm chè khô, xi măng và gỗ. Dịch vụ ở Yên Bái có sự phát triển trung bình. Các ngành ngân hàng, buôn bán lớn và bất động sản tập trung ở các khu vực đông dân cư như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn đông đúc. Các vùng miền núi thường có các phiên chợ vùng cao để trao đổi hàng hoá. Tuy nhiên, tổng thể, nền kinh tế Yên Bái vẫn còn khá nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo của tỉnh là 20,2%, với hai huyện Mù Căng Chải và Trạm Tấu có tỷ lệ hộ nghèo cao lần lượt là 58% và 53%. Những khu vực miền núi, đặc biệt là các xã vùng cao, có tỷ lệ nghèo vượt ngưỡng 80%. Trong khi đó, các khu vực miền xuôi như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các huyện Lục Yên, Văn Yên có kinh tế tương đối hơn với tỷ lệ nghèo khoảng 9-16%. Dân tộc. Tính đến năm 2019, tỉnh Yên Bái có tổng dân số là 821.030 người. Tại đây, có sự hiện diện của 30 dân tộc khác nhau sống chung hòa thuận. Các dân tộc này sinh sống xen kẽ và tập trung ở khắp các địa phương trên toàn tỉnh, mang theo những nét đặc trưng văn hoá riêng của mình. Một số dân tộc nổi bật là dân tộc Kinh, Tày, Dao, Mông... Tỷ lệ dân số sống ở đô thị là 20,3%, trong khi dân số sống ở nông thôn chiếm 79,7%. Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh Yên Bái tính đến năm 2022 đạt 22,38%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 61.973 người, nhiều nhất là Công giáo có 58.145 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 2.996 người, đạo Tin Lành có 826 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài có ba người, Phật giáo Hòa Hảo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi tôn giáo chỉ có một người. Lịch sử. Yên Bái là một điểm sinh tụ của người Việt cổ, có nền văn hoá nhân bản, thể hiện ở những di vật, di chỉ phát hiện ở hang Hùm (Lục Yên), công cụ bằng đá ở Thẩm Thoóng (Văn Chấn), thạp đồng Đào Thịnh, Hợp Minh (Trấn Yên), trống đồng Minh Xuân (Lục Yên). Nhiều di chỉ khảo cổ được phát hiện, như đền, tháp, khu di tích lịch sử. Được thành lập ngày 11 tháng 4 năm 1900, tỉnh Yên Bái được biết đến qua cuộc Khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc Dân Đảng vào thượng tuần tháng 2 năm 1930. Lãnh tụ là Nguyễn Thái Học đã bị thực dân Pháp bắt và đem hành quyết bằng máy chém ở Yên Bái cùng 12 đồng đội vào ngày 17 tháng 6 năm 1930. Sau năm 1945, tỉnh Yên Bái có 5 huyện: Lục Yên, Than Uyên, Trấn Yên, Văn Bàn, Văn Chấn. Ngày 29 tháng 4 năm 1955, thành lập Khu tự trị Thái - Mèo, địa bàn hai huyện Than Uyên và Văn Chấn thuộc khu tự trị và sau là tỉnh Nghĩa Lộ. Ngày 13 tháng 5 năm 1955, hai huyện Than Uyên và Văn Chấn chính thức tách khỏi tỉnh Yên Bái để sáp nhập vào khu tự trị Thái - Mèo. Ngày 7 tháng 4 năm 1956, thành lập lại thị xã Yên Bái. Ngày 1 tháng 7 năm 1956, chuyển huyện Yên Bình của tỉnh Tuyên Quang về tỉnh Yên Bái quản lý. Ngày 16 tháng 12 năm 1964, thành lập 2 huyện Bảo Yên (tách ra từ 2 huyện Lục Yên và Văn Bàn) và Văn Yên (tách ra từ 2 huyện Trấn Yên và Văn Bàn). Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Yên Bái được hợp nhất với 2 tỉnh Lào Cai và Nghĩa Lộ thành tỉnh Hoàng Liên Sơn. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hoàng Liên Sơn chia lại thành 2 tỉnh Lào Cai và Yên Bái. Tỉnh Yên Bái được tái lập, gồm thị xã Yên Bái và 7 huyện: Lục Yên, Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Trấn Yên, Văn Chấn, Văn Yên, Yên Bình (riêng hai huyện Bảo Yên và Văn Bàn lúc này thuộc tỉnh Lào Cai). Ngày 15 tháng 5 năm 1995, tái lập thị xã Nghĩa Lộ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Văn Chấn. Ngày 11 tháng 1 năm 2002, chuyển thị xã Yên Bái thành thành phố Yên Bái. Tỉnh Yên Bái có 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện như hiện nay. Giao thông. Giao thông ở Yên Bái có hệ thống đường sắt, đường bộ, đường thủy, quốc lộ 32, 37 và 70 chạy qua tỉnh. Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đi qua 3 huyện thị: thành phố Yên Bái, Trấn Yên và Văn Yên. Thông thương từ Yên Bái đến các tỉnh lân cận của miền Tây Bắc và Việt Bắc ngày càng phát triển nhất là khi hệ thống đường bộ đang tiếp tục được hoàn thiện, tuyến đường sắt Hà Nội - Yên Bái - Lào Cai nối liền tới Côn Minh, Trung Quốc được nâng cấp. Từ Yên Bái đi đến các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ có hệ thống giao thông đường bộ phát triển, tuyến cao tốc Nội Bài - Lào Cai hoàn thành làm cầu nối giao thông của Tây Bắc Bộ với các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Ẩm thực. Đặc điểm. Ở Yên Bái, dân tộc chiếm gần 50% dân số. Có người Mông ở Mù Căng Chải và Trạm Tấu, người Thái ở Văn Chấn và Nghĩa Lộ, người Tày và người Kinh ở các huyện thấp. Còn lại, có Nùng, Sán Chay, Mường, Khơ Mú, Phù Lá... Mỗi dân tộc có ẩm thực đặc trưng riêng. Khí hậu và địa hình đa dạng tạo sự khác biệt trong nguyên liệu và món ăn giữa các vùng. Ở các huyện Yên Bình, Văn Yên, Trấn Yên và thành phố Yên Bái, ẩm thực không có nhiều khác biệt so với khu vực dưới. Giáo dục. Hiện nay, toàn ngành giáo dục và đào tạo đang tích cực triển khai và thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, nhằm đẩy mạnh phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong giai đoạn từ 2009 đến 2015. Một số trường học có uy tín tại Yên Bái:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cần Thơ là một trong năm thành phố trực thuộc trung ương của Việt Nam. Đây là thành phố sầm uất và phát triển nhất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, có vai trò là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục và thương mại của cả vùng. Cần Thơ hiện là đô thị loại I, là thành phố trung tâm cấp vùng và cấp quốc gia. Năm 2019, Cần Thơ là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 24 về số dân, Danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP xếp thứ 12 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 11 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 40 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.252.348 người dân năm 2022, GRDP đạt 117.500 tỉ Đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 94,5 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,50%. Năm 2020 GRDP tăng 1,02%, GRDP bình quân đầu người ước đạt 94,45 triệu đồng/năm, theo kế hoạch là 97,2 triệu đồng/năm. Thành phố nằm bên hữu ngạn sông Hậu, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai phá và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, vùng đất Trấn Giang đã trải qua nhiều lần thay đổi tên gọi và địa giới hành chính. Cần Thơ là thủ phủ và là đô thị hạt nhân của miền Tây Nam Bộ từ thời Pháp thuộc, nay tiếp tục là trung tâm kinh tế của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài đặc trưng về địa lý là đầu mối giao thông quan trọng giữa các tỉnh trong khu vực, thành phố Cần Thơ còn được biết đến như một đô thị miền sông nước. Thành phố có hệ thống sông ngòi chằng chịt, diện tích vườn cây ăn trái và đồng ruộng rộng lớn, nổi tiếng với Bến Ninh Kiều, Chợ nổi Cái Răng một nét sinh hoạt đặc trưng văn hóa Nam Bộ. Theo quy hoạch đến năm 2025, thành phố Cần Thơ sẽ trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại – dịch vụ, giáo dục – đào tạo và khoa học – công nghệ, y tế và văn hóa của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đồng thời là đô thị cửa ngõ của vùng hạ lưu sông Mekong, là đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế. Và sẽ trở thành một thành phố phát triển khá ở khu vực Đông Nam Á. Tên gọi. Khi đối chiếu địa danh Cần Thơ với tên Khmer nguyên thủy của vùng này là Prek Rusey (sông tre), không thấy có liên quan gì về ngữ âm. Trong "Gia Định thành thông chí" có chép địa danh Cần Thơ bằng chữ Hán Nôm là 芹苴 . Người nghiên cứu không nên vội vàng kết luận "Cần Thơ" là một địa danh gốc Việt và vội vàng tìm hiểu của hai chữ Hán Nôm "Cần - 芹" và "Thơ - 苴". Nếu dò tìm trong hướng các địa danh Việt hoá, người nghiên cứu có thể thấy ngữ âm của Cần Thơ rất gần với ngữ âm của từ Khmer ត្រី កន្ធរ /trei kantho/, nghĩa là "cá sặc rằn" hay "cá sặc bổi", người Bến Tre gọi là cá "lò tho". Nếu vào thời Nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Cần Thơ có tên là Phong Phú thì đến thời Việt Nam Cộng hòa, vùng đất này lại mang tên một địa danh mới lạ hoàn toàn và chưa bao giờ xuất hiện trước đó - Phong Dinh. Cần Thơ còn được biết đến với tên gọi không chính thức là Tây Đô, nghĩa là "thành phố lớn của miền Tây". Về mặt Hán tự, Tây 西 nghĩa là "phía Tây" và Đô 都 nghĩa là "thành phố lớn". Lịch sử. Thời phong kiến. Vào năm Mậu Tý 1708, ông Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Vùng Cần Thơ lúc ấy vẫn chưa được tổ chức thành một đơn vị hành chính của Hà Tiên. Sau khi Mạc Cửu mất vào năm Ất Mão (1735), Mạc Thiên Tứ nối nghiệp cha, khai phá thêm vùng hữu ngạn sông Hậu. Năm Kỷ Mùi 1739, Mạc Thiên Tứ thành lập thêm 4 vùng đất mới ở phía hữu ngạn sông Hậu để sáp nhập vào đất Hà Tiên: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (Bắc Bạc Liêu). Năm 1739, vùng đất Cần Thơ được khai mở và chính thức có mặt trên dư đồ Việt Nam với tên gọi là Trấn Giang, do Mạc Thiên Tích có công khai phá cùng thời với đất Cà Mau, Rạch Giá và Bắc Bạc Liêu. Sau đó cùng sáp nhập vào đất Hà Tiên. Mạc Thiên Tích đã sớm nhận thấy vị trí chiến lược của Trấn Giang - là hậu cứ vững chắc cho Hà Tiên trong việc chống lại quân Xiêm và quân Chân Lạp - nên đã tập trung xây dựng nơi đây thành Thủ sở với các thế mạnh cả về quân sự lẫn kinh tế và văn hoá. Năm 1771, quân Xiêm tấn công Hà Tiên nhưng không chiếm được Trấn Giang. Năm 1774, nghĩa quân Tây Sơn kéo quân vào Nam đánh chiếm thành Gia Định, sau đó kéo xuống miền Tây và Trấn Giang. Sau trận Rạch Gầm – Xoài Mút (tháng 1 năm 1785), vào năm 1787, quân Tây Sơn rút khỏi các dinh trấn miền Tây, Trấn Giang trở lại dưới quyền bảo hộ của Nhà Nguyễn. Suốt thập niên 70 của thế kỷ XVIII, Trấn Giang trở thành một cứ điểm quan trọng và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử đầy xáo động. Năm 1808, dưới triều vua Gia Long, đất Trấn Giang thuộc trấn Vĩnh Thanh (trước đó từng có tên là dinh Long Hồ, dinh Hoằng Trấn, Vĩnh Trấn), một trong 5 trấn của Gia Định bấy giờ là: Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Năm Quý Dậu 1814 (năm Gia Long thứ 12), huyện Vĩnh Định được thành lập. Vùng Cần Thơ thuộc huyện Vĩnh Định (Nam sông Hậu), trấn Vĩnh Thanh (có 2 huyện: Vĩnh An và Vĩnh Định), phủ Định Viễn. Huyện Vĩnh Định có vị trí địa lý: Đông giáp biển, Tây giáp Cao Miên, Nam giáp Hà Tiên, Bắc giáp huyện Vĩnh An và huyện Bình Minh. Vào thời Gia Long, huyện Vĩnh Định chưa chia tổng. Tổ chức hành chánh của huyện được chia thành 37 thôn. Năm 1832, dưới triều vua Minh Mạng, ngũ trấn được đổi thành lục tỉnh là Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Đất Cần Thơ ngày nay (tức Trấn Giang ngày xưa) được lập thành huyện Vĩnh Định và cắt về phủ Tân Thành, tỉnh An Giang. Do có nhiều cuộc nội loạn ở vùng Nam Bộ, đặc biệt là cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi (1833–1835) nên thủ sở Trấn Giang vào thời Minh Mạng được tái thiết. Với tiềm năng kinh tế và vị trí địa lý của mình, thương mại Trấn Giang - Cần Thơ đã phát triển khá mạnh với chợ Sưu ở gần bến sông Cần Thơ, chợ Tân An liền hướng bến sông Bình Thủy và chợ Thới An Đông trên vùng gần cửa sông Ô Môn. Vào năm Minh Mạng thứ 17 (Bính Thân 1836), địa bạ tỉnh An Giang (2 phủ, 4 huyện, 18 tổng, 161 thôn) được hoàn thành. Huyện Vĩnh Định có 4 tổng là Định An, Định Bảo, Định Khánh và Định Thới, phân cấp hành chánh cơ sở thành 30 thôn. Năm 1839 (năm Minh Mạng thứ 20), huyện Vĩnh Định lại được đổi tên thành huyện Phong Phú, và cho huyện Phong Phú thuộc về phủ Tuy Biên (Châu Đốc), tỉnh An Giang. Huyện Phong Phú có 3 tổng và 31 thôn với huyện trị đặt tại thôn Tân An, ven bờ sông Cần Thơ. Đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 là giai đoạn lịch sử có nhiều biến động dữ dội ở Nam Kỳ lục tỉnh. Thực dân Pháp chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường) theo hoà ước nhượng bộ của Nhà Nguyễn vào năm 1862. Vào các ngày 20, 22 và 24 tháng 6 năm 1867, Pháp vi phạm hòa ước 1862, chiếm 3 tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Thời Pháp thuộc. Ngày 1 tháng 1 năm 1868, Thống đốc Nam Kỳ là Bonard quyết định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bãi Sào (Sóc Trăng) lập thành quận đặt dưới sự cai trị của người Pháp, lập Toà Bố tại Sa Đéc. Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành) đặt lỵ sở tại Sa Đéc gồm có 3 huyện: Vĩnh An, An Xuyên và Phong Phú. Huyện Phong Phú có địa giới hành chính Bắc giáp phủ Tân Thạnh và phủ Lạc Hóa, Tây - Bắc giáp huyện Tây Xuyên, Đông - Nam giáp huyện Vĩnh Định, phía Nam có nhiều rừng tràm và hổ báo. Huyện Phong Phú được phân cấp hành chính cơ sở gồm 8 tổng (3 tổng cũ, 5 tổng mới phía Nam sông Hậu). Vào thời điểm này ở huyện Phong Phú có 5 chợ chính là: Cần Thơ, Ô Môn, Bình Thủy, Trà Niềng và Cái Răng. Ngày 30 tháng 4 năm 1872, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định sáp nhập huyện Phong Phú với vùng Bắc Tràng (thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long trước đây) để lập thành một hạt, đặt Toà Bố tại Trà Ôn. Một năm sau, Tòa Bố từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Hạt Cần Thơ chia làm 11 tổng, 119 làng, dân số 53.910 người. Năm 1899, Pháp đổi các đơn vị hành chính cấp hạt thành tỉnh và huyện đổi thành quận. Tỉnh Cần Thơ được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi "tiểu khu" hay "hạt tham biện" (arrondissement) thành "tỉnh" (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Như vậy, tỉnh Cần Thơ là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Năm 1917, tỉnh Cần Thơ có diện tích 2.191 km², gồm 4 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Cầu Kè. Năm 1921 có thêm quận Trà Ôn. Tỉnh lỵ tỉnh Cần Thơ đặt tại làng Tân An thuộc quận Châu Thành. Năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thành phố Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho có Ủy ban thành phố, thị trưởng do chủ tỉnh bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Tuy nhiên sau này vẫn thường gọi là "thị xã Cần Thơ". Nghị định ngày 30 tháng 11 năm 1934 sắp xếp đất đai thị xã Cần Thơ thành 5 vùng và 1 vùng ngoại ô để thu thuế thổ trạch. Từ năm 1876 đến năm 1954, địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ dưới quyền kiểm soát của chính quyền Pháp không có sự thay đổi. Tuy nhiên, trong thời gian chiến tranh Đông Dương, chính quyền kháng chiến của Việt Minh có điều chỉnh một phần địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ. Năm 1947, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập thị xã Cần Thơ thuộc tỉnh Cần Thơ. Trong 2 năm 1948 và 1949, tỉnh Cần Thơ nhận thêm huyện Thốt Nốt từ tỉnh Long Xuyên, nhận các huyện Long Mỹ, Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá từ tỉnh Rạch Giá vừa bị giải thể và nhận huyện Kế Sách từ tỉnh Sóc Trăng. Đồng thời, tỉnh Cần Thơ giao 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè về tỉnh Vĩnh Trà (gồm hai tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh ngày nay). Thiết lập ách thống trị trên vùng đất này, thực dân Pháp chính thức hóa tên gọi Cần Thơ bằng những văn bản hành chính. Để dễ bề kiểm soát hoạt động của nhân dân từng tỉnh trong 3 tỉnh vừa chiếm được, Pháp còn đánh số, tỉnh Cần Thơ mang con số 19. Từ đó trở đi, các phương tiện giao thông (chủ yếu giao thông thủy) như thuyền, ghe của Cần Thơ đều phải gắn con số 19 trước mui. Ngay cả lính mã tà mỗi lần có việc di chuyển từ Cần Thơ sang tỉnh khác hoặc giải phạm nhân chống đối lên Sài Gòn đều gắn con số 19 vào cổ áo để dễ nhận diện lính của mỗi tỉnh thuộc đất nhượng địa. Giai đoạn 1956–1976. Việt Nam Cộng hòa. Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, địa giới hành chính của tỉnh Cần Thơ ở miền Nam có nhiều thay đổi. Ban đầu chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa ban đầu vẫn duy trì tên gọi tỉnh Cần Thơ cùng với thị xã Cần Thơ như thời Pháp thuộc. Ngày 28 tháng 8 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Dụ số 50 về việc bãi bỏ quy chế thị xã. Theo quyết định này, bãi bỏ Dụ số 13 ban hành ngày 30 tháng 5 năm 1954 về quy chế thị xã. Những thị xã hiện đặt dưới quy chế trên, từ nay sẽ theo chế độ thôn xã, và được quản tri bởi một Ủy ban hành chính do tỉnh trường bồ nhiệm. Theo đó, tiến hành giải thể thị xã Cần Thơ vốn được lập nên trước đó, đồng thời địa bàn thị xã được chuyển thành xã Tân An trực thuộc tổng Định An, quận Châu Thành, tỉnh Cần Thơ. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Phong Dinh được thành lập do đổi tên từ tỉnh Cần Thơ. Tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh đặt tại Cần Thơ và vẫn giữ nguyên tên là "Cần Thơ", về mặt hành chánh thuộc xã Tân An, quận Châu Thành. Năm 1957, tỉnh Phong Dinh có 5 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Ô Môn, Long Mỹ và Kế Sách. Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh Phong Dinh nhận quận Kế Sách từ tỉnh Ba Xuyên (tức tỉnh Sóc Trăng trước đó) quản lý. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau vào ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh Phong Dinh giao lại quận Kế Sách cho tỉnh Ba Xuyên. Ngày 16 tháng 9 năm 1958, quận Ô Môn đổi tên là quận Phong Phú. Ngày 18 tháng 3 năm 1960, tỉnh Phong Dinh lập thêm quận Đức Long trên cơ sở tách đất từ quận Long Mỹ. Ngày 24 tháng 12 năm 1961, hai quận Đức Long và Long Mỹ được bàn giao cho tỉnh Chương Thiện mới thành lập. Ngày 2 tháng 7 năm 1962, tỉnh Phong Dinh lập thêm 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn. Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên 2 quận Khắc Trung và Khắc Nhơn thành Thuận Trung và Thuận Nhơn. Ngày 26 tháng 5 năm 1966 lập thêm quận Phong Điền. Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận. Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng chính quyền Việt Nam Cộng hòa Trần Thiện Khiêm ban hành Sắc lệnh số 115-SL/NV cải biến xã Tân An và các phần đất phụ cận (bao gồm xã Thuận Đức, ấp Lợi Nguyên thuộc xã An Bình và ấp Bình Nhựt thuộc xã Long Tuyền) thuộc quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh thành "thị xã Cần Thơ", là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Phong Dinh. Thị xã Cần Thơ là nơi đặt Bộ Tư lệnh Quân khu IV của quân đội Việt Nam Cộng hòa trong cuộc chiến. Ngày 7 tháng 6 năm 1971, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 585-NĐ/NV thành lập tại thị xã Cần Thơ 2 quận lấy tên là quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì). Địa phận của 2 quận này được phân chia thành 8 khu phố trực thuộc, trong đó quận 1 gồm năm khu phố: An Lạc, An Cư, An Nghiệp, An Hòa, An Thới; quận 2 gồm ba khu phố: Hưng Lợi, Hưng Phú, Hưng Thạnh. Ngày 22 tháng 8 năm 1972, Tổng trưởng Nội vụ chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại ban hành Nghị định số 553BNV/HCĐP/NĐ, đối các danh xưng "khu phố" của thị xã thành "phường". Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Cần Thơ và tỉnh Phong Dinh là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Phong Dinh gồm 7 quận: Châu Thành, Phụng Hiệp, Phong Phú, Thuận Nhơn, Thuận Trung, Phong Điền, Phong Thuận. Chính quyền Cách mạng. Tuy nhiên phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Phong Dinh mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì thị xã Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ trong giai đoạn 1956–1969. Địa giới hành chính tỉnh Cần Thơ có thay đổi một phần. Tháng 11 năm 1954, huyện Long Mỹ và các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, thị xã Rạch Giá giao trở lại cho tỉnh Rạch Giá. Huyện Kế Sách giao về tỉnh Sóc Trăng. Huyện Thốt Nốt giao về tỉnh Long Xuyên. Tỉnh Cần Thơ nhận lại 2 huyện Trà Ôn và Cầu Kè như cũ. Năm 1956, hai huyện Trà Ôn và Cầu Kè đưa về tỉnh Vĩnh Long. Năm 1957, huyện Long Mỹ chuyển trở lại tỉnh Cần Thơ. Năm 1958, huyện Kế Sách chuyển về tỉnh Cần Thơ. Năm 1963, huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh An Giang (trước năm 1956 là tỉnh Long Xuyên) lại được đưa về cho tỉnh Cần Thơ quản lý. Tháng 6 năm 1966, thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 10 năm 1966, huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ được chia ra thành hai huyện là Châu Thành A và Châu Thành B. Cuối 1967 nhập lại là Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A, Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành. Năm 1969, chính quyền Cách mạng tách thị xã Cần Thơ khỏi tỉnh Cần Thơ và đặt thị xã trực thuộc Khu 9 (còn gọi là Khu Tây Nam Bộ). Năm 1971, thị xã Cần Thơ trở lại thuộc tỉnh Cần Thơ. Tháng 8 năm 1972, Thường vụ Khu ủy Khu 9 của phía chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định tách thị xã Cần Thơ ra khỏi tỉnh Cần Thơ, hình thành Thành phố Cần Thơ trực thuộc Khu 9, bao gồm thị xã Cần Thơ và 6 xã vùng ven thuộc các huyện Ô Môn, Châu Thành trước đó. Đồng thời, chính quyền Cách mạng vẫn duy trì các đơn vị hành chính cấp quận, phường và khóm bên dưới giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho đến đầu năm 1976. Như vậy cho đến năm 1976, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ là hai đơn vị hành chính ngang bằng nhau. Tỉnh Cần Thơ khi đó bao gồm các đơn vị hành chính trực thuộc: thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Phụng Hiệp, huyện Ô Môn, huyện Long Mỹ, huyện Thốt Nốt và huyện Kế Sách. Sau năm 1975. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh. Tỉnh Hậu Giang cũ, giai đoạn 1976–1992. Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ để thành lập tỉnh mới với tên gọi là tỉnh Hậu Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hậu Giang. Khi mới thành lập, tỉnh Hậu Giang gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng, thị xã Vị Thanh và 11 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu. Đồng thời, quận 1 (quận Nhứt) và quận 2 (quận Nhì) cũng bị giải thể, các phường xã trực thuộc thành phố Cần Thơ và cũng có một vài sắp xếp, thay đổi nhỏ. Theo đó, nhập hai phường Hưng Phú và Hưng Thạnh (thuộc quận 2 cũ) thành phường Thạnh Phú; thành lập mới phường Bình Thủy gồm một phần nhỏ đất đai trước thuộc xã Long Tuyền và giải thể phường An Thới, nhập địa bàn vào phường mới này; tách đất hai phường An Hòa và An Cư (thuộc quận 1 cũ) để lập mới phường Cái Khế. Thành phố Cần Thơ ban đầu gồm 8 phường: An Cư, An Hòa, An Lạc, An Nghiệp, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Thạnh Phú và 2 xã: An Bình, Long Tuyền. Ngày 21 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 174-CP về việc chia một số phường xã thuộc thành phố Cần Thơ, tỉnh Hậu Giang như sau: Sau này, các ấp Thới Thuận, Thới Hòa và Thới Ngươn của xã Thới An Đông được tách ra để thành lập mới phường Trà Nóc trực thuộc thành phố Cần Thơ. Đồng thời, toàn bộ phần còn lại của xã Thới An Đông cũng được sáp nhập vào thành phố Cần Thơ. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, thành phố Cần Thơ được công nhận là đô thị loại 2 trực thuộc tỉnh. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ có 7 đơn vị hành chính gồm: thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh, có diện tích tự nhiên 3.022,30 km² với số dân 1.614.350 người. Tỉnh lỵ: thành phố Cần Thơ. Tỉnh Cần Thơ cũ, giai đoạn 1992–2003. Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ tháng 4 năm 1992. Tỉnh Cần Thơ lúc đó bao gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện là Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh. Tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, tỉnh Cần Thơ. Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để thành lập huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Cần Thơ. Theo đó, tái lập huyện Châu Thành A trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành. Từ đó cho đến cuối năm 2003, tỉnh Cần Thơ gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố Cần Thơ, thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Châu Thành A, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Long Mỹ, huyện Ô Môn, huyện Thốt Nốt. Thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ khi đó gồm 15 phường: An Cư, An Hòa, An Hội, An Lạc, An Nghiệp, An Phú, An Thới, Bình Thủy, Cái Khế, Hưng Lợi, Hưng Phú, Tân An, Thới Bình, Trà Nóc, Xuân Khánh và 7 xã: An Bình, Giai Xuân, Hưng Thạnh, Long Hòa, Long Tuyền, Mỹ Khánh, Thới An Đông. Trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang như sau: Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương chính thức được thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 2004. Đến ngày 2 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 05/2004/NĐ-CP về việc thành lập các quận Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, các huyện Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt và các xã, phường, thị trấn thuộc thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập các đơn vị hành chính trực thuộc có 138.959,99 ha diện tích tự nhiên và 1.112.121 nhân khẩu; gồm 8 đơn vị hành chính là 4 quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn và 4 huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Vĩnh Thạnh, Thốt Nốt; có 67 đơn vị hành chính phường xã, thị trấn: 30 phường, 33 xã và 4 thị trấn. Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 12/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc huyện Thốt Nốt, huyện Vĩnh Thạnh, huyện Cờ Đỏ, thành lập quận Thốt Nốt và các phường trực thuộc, điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cờ Đỏ để thành lập huyện Thới Lai thuộc thành phố Cần Thơ. Sau khi thành lập các quận, huyện mới, thành phố Cần Thơ có 140.161,60 ha diện tích tự nhiên và 1.147.067 nhân khẩu, có 9 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các quận: Ninh Kiều, Bình Thủy, Cái Răng, Ô Môn, Thốt Nốt và các huyện: Phong Điền, Cờ Đỏ, Thới Lai, Vĩnh Thạnh. Ngày 24 tháng 6 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 889/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Cần Thơ là đô thị loại I trực thuộc trung ương. Địa lý. Cần Thơ nằm ở vùng hạ lưu của sông Cửu Long và ở vị trí trung tâm đồng bằng sông Cửu Long, và là thành phố nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 1877 km, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh 169 km, cách thành phố Cà Mau hơn 150 km, cách Rạch Giá gần 120 km, cách trung tâm thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) khoảng 264 km và cách biển Đông 75 km theo đường nam sông Hậu (quốc lộ 91C), Cần Thơ có tọa độ địa lý 105°13’38" – 105°50’35" kinh độ Đông và 9°55’08" – 10°19’38" vĩ độ Bắc, trải dài trên 60 km dọc bờ Tây sông Hậu, có vị trí địa lý: Cần Thơ có các điểm cực sau: Diện tích nội thành là 53 km². Cần Thơ có tổng diện tích tự nhiên là 1.409,0 km², chiếm 3,49% diện tích toàn vùng và dân số vào khoảng 1.400.200 người, mật độ dân số tính đến 2015 là 995 người/km². Cần Thơ là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ 4 của cả nước về diện tích và dân số, lớn thứ 5 về kinh tế, cũng là thành phố hiện đại và lớn nhất của cả vùng hạ lưu sông Mekong. Theo thống kê năm 2019, Cần Thơ có diện tích 1.439,2 km², dân số là 1.235.171 người, mật độ dân số đạt 885 người/km². Thống kê dân số 10 năm, kể từ năm 2009 đến nay, quy mô dân số Cần Thơ tăng 46.736 người. Tỷ lệ tăng dân số bình quân giai đoạn năm 2009 – 2019 là 0,39% cao hơn ĐBSCL 0,34 điểm phần trăm và thấp hơn cả nước là 0,75 điểm phần trăm. Như vậy dân số Cần Thơ cũng như ĐBSCL có tăng so với năm 2009 nhưng dân số tăng không đáng kể. Thể hiện dân số có sự dịch chuyển từ nông thôn về thành thị và từ miền Tây Nam Bộ về miền Đông Nam Bộ và Cần Thơ cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong 10 năm qua, quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh và rộng khắp nhiều địa phương đã tác động làm gia tăng dân số ở khu vực thành thị. Từ năm 2009 đến năm 2019, dân số khu vực thành thị tăng 77.271 người chiếm 9,8% trong khi đó dân số ở khu vực nông thôn lại giảm 30.535 người chiếm 7,5% cho thấy sự đô thị hóa ở Cần Thơ diễn ra nhanh hơn ở cấp độ vùng và toàn quốc. Qua kết quả điều tra dân số tập trung ở khu vực thành thị là 860.393 người chiếm 69,66%; nông thôn là 374.778 người chiếm 30,34% trong khi đó cách đây 10 năm tỷ lệ này là 65,9% và 34,1% tăng tỷ lệ dân số thành thị 3,36 điểm phần trăm. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 71,5%. Kết quả tổng điều tra 2019, cũng cho thấy Cần Thơ là thành phố có mật độ dân số cao (858 người/km²) so với các tỉnh thành khác trong cả nước đứng 12/63 và cao gấp 3 lần mật độ dân số toàn quốc (290 người/km²) cao gấp 2 lần mật độ dân số ĐBSCL (423 người/km²). Nhưng so với năm 2009 thì mật độ dân số tăng 10 người/km² trong khi đó ĐBSCL có xu hướng giảm 1 người/km². Quận Ninh Kiều là đơn vị hành chính đông dân số nhất với 280.494 người và huyện Vĩnh Thạnh có dân số ít nhất là 98.399 người. Cần Thơ có mật độ dân số 858 người/km2, cao gấp 3 lần mật độ dân số toàn quốc và đứng thứ 12/63 tỉnh, thành cả nước. Ở khu vực thành thị, dân số vẫn tập trung chủ yếu tại quận Ninh Kiều với 9.596 người/km2, tăng 1.256 người/km2 so năm 2009. Tuy nhiên, quận Ô Môn giảm 8 người/km2 và Thốt Nốt giảm 24 người/km2. Ở khu vực nông thôn, dân số các huyện Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ, Phong Điền, Thới Lai đều giảm. Và trong những năm gần đây do sự phát triển với tốc độ đô thị hoá diễn ra khá nhanh mà thành phố này đang phải đối mặt nhiều vấn đề của 1 đô thị như: Ùn tắc giao thông, tình trạng hư hỏng xuống cấp ở một số tuyến đường có mật độ giao thông lớn, triều cường và ngập nghẹt mỗi khi trời mưa, ô nhiễm không khí, kênh rạch, thiếu mật độ cây xanh, gia tăng mật độ dân số khá cao gây nên sự quá tải ở khu vực trung tâm thành phố như quận Ninh Kiều và mật độ giảm dần ở các quận vùng ven thành phố như Quận Ô Môn và Quận Thốt Nốt. Điều kiện tự nhiên. Cần Thơ nằm toàn bộ trên đất có nguồn gốc phù sa sông Cửu Long bồi đắp và được bồi lắng thường xuyên qua nguồn nước có phù sa của dòng sông Hậu. Địa chất trong thành phố được hình thành chủ yếu qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long, trên bề mặt ở độ sâu 50 mét có hai loại trầm tích là Holocen (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ). Địa hình nhìn chung tương đối bằng phẳng, phù hợp cho sản xuất nông, ngư nghiệp, với độ cao trung bình khoảng 1 – 2 mét dốc từ đất giồng ven sông Hậu, và sông Cần Thơ thấp dần về phía nội đồng tức là từ phía đông bắc sang phía tây nam. Bên cạnh đó, thành phố còn có các cồn và cù lao trên sông Hậu như Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cù lao Tân Lập. Cần Thơ có 3 dạng địa hình chính là Địa hình ven sông Hậu hình thành dải đất cao là đê tự nhiên và các cù lao ven sông Hậu. Ngoài ra do nằm cạnh sông lớn, Cần Thơ có mạng lưới sông, kênh rạch khá chằng chịt. Vùng tứ giác Long Xuyên thấp trũng, chịu ảnh hưởng lũ trực tiếp hàng năm. Đồng bằng châu thổ chịu ảnh hưởng triều cùng lũ cuối vụ. Cần Thơ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ít bão, quanh năm nóng ẩm, không có mùa lạnh. Mùa mưa kéo dài dao động từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 tới tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 28 °C, số giờ nắng trung bình cả năm khoảng 2.249,2 h, lượng mưa trung bình năm đạt 2000 mm. Độ ẩm trung bình năm dao động từ 82% - 87%. Do chịu ảnh hưởng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lợi thế về nền nhiệt độ, chế độ bức xạ nhiệt, chế độ nắng cao và ổn định theo hai mùa trong năm. Các lợi thế này rất thuận lợi cho sinh trưởng và phát triển của sinh vật, có thể tạo ra 1 hệ thống nông nghiệp nhiệt đới có năng suất cao, với nhiều chủng loại cây con, tạo nên sự đa dạng trong sản xuất và trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Tuy nhiên, mùa mưa thường đi kèm với ngập lũ ảnh hưởng tới khoảng 50% diện tích toàn thành phố, mùa khô thường đi kèm với việc thiếu nước tưới, gây khó khăn cho sản xuất và sinh hoạt, nhất là khu vực bị ảnh hưởng của mặn, phèn làm tăng thêm tính thời vụ cũng như nhu cầu dùng nước không đều giữa các mùa của sản xuất nông nghiệp. Cần Thơ có sông Hậu chảy qua với tổng chiều dài là 65 km, trong đó đoạn qua Cần Thơ có chiều rộng khoảng 1,6 km. Tổng lượng phù sa của sông Hậu là 35 triệu m3/năm. Tại Cần Thơ, lưu lượng cực đại đạt mức 40.000 m³/s. Mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 6, thấp nhất là vào tháng 3 và tháng 4. Lưu lượng nước trên sông tại Cần Thơ chỉ còn 2.000 m3/s. Mực nước sông lúc này chỉ cao hơn 48 cm so với mực nước biển. Sông Cần Thơ bắt nguồn từ khu vực nội đồng tây sông Hậu, đi qua các quận Ô Môn, huyện Phong Điền, quận Cái Răng, quận Ninh Kiều và đổ ra sông Hậu tại bến Ninh Kiều. Sông Cần Thơ có nước ngọt quanh năm, vừa có tác dụng tưới nước trong mùa cạn, vừa có tác dụng tiêu úng trong mùa lũ và có ý nghĩa lớn về giao thông. Sông Cái Lớn dài 20 km, chiều rộng cửa sông 600 – 700 m, độ sâu 10 – 12 m nên có khả năng tiêu, thoát nước rất tốt. Bên cạnh đó, Cần Thơ còn có hệ thống kênh rạch dày đặc, với hơn 158 sông, rạch lớn nhỏ là phụ lưu của 2 sông lớn là sông Hậu và sông Cần Thơ đi qua thành phố nối thành mạng đường thủy. Các sông rạch lớn khác là sông Bình Thủy, sông Trà Nóc, sông Ô Môn, sông Thốt Nốt, kênh Thơm Rơm và nhiều kênh lớn khác tại các huyện ngoại thành là Thốt Nốt, Vĩnh Thạnh, Cờ Đỏ và Phong Điền, cho nước ngọt suốt 2 mùa mưa nắng, tạo điều kiện cho nhà nông làm thủy lợi và cải tạo đất. Tổ chức hành chính và chính quyền. Tổ chức hành chính. Thành phố Cần Thơ có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 5 quận và 4 huyện với 83 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 thị trấn, 42 phường và 36 xã (chia thành 630 khu vực, khóm, ấp). Chính quyền. Cần Thơ là một trong năm Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam) , được xếp vào Đô thị loại I, thỏa mãn các tiêu chí như tỷ lệ lao động phi nông nghiệp khu vực nội thành so với tổng số lao động, cơ sở hạ tầng được đầu tư xây dựng đồng bộ và cơ bản hoàn chỉnh, trong 5 Thành phố trực thuộc trung ương (Việt Nam). Cũng như các tỉnh và thành phố khác của Việt Nam, Hội đồng nhân dân thành phố Cần Thơ là cơ quan quyền lực Nhà nước ở Thành phố do người dân Thành phố trực tiếp bầu lên với nhiệm kỳ 5 năm. Hội đồng Nhân dân thành phố Cần Thơ khóa IX nhiệm kỳ 2016–2021 gồm 52 đại biểu. Kỳ họp thứ nhất của Hội đồng Nhân dân thành phố ngày 30 tháng 6 năm 2016 đã bầu ra Thường trực Hội đồng Nhân dân gồm 7 người và bầu ra Chủ tịch Hội đồng Nhân dân (thường đồng thời là Bí thư Thành ủy thành phố). Chủ tịch Hội đồng Nhân dân thành phố hiện tại là ông Phạm Văn Hiểu. Uỷ ban nhân dân thành phố Cần Thơ là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, do Hội đồng Nhân dân bầu ra và là Cơ quan hành chính Nhà nước ở thành phố, chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, Pháp luật, các văn bản của Chính phủ Việt Nam và các nghị quyết của Hội đồng Nhân dân thành phố. Ủy ban Nhân dân thành phố khóa IX (nhiệm kỳ 2016-2021) được Hội đồng Nhân dân thành phố bầu ra Chủ tịch và 4 Phó Chủ tịch. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân thành phố đương nhiệm là ông Trần Việt Trường. Về phía Đảng ủy, Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Cần Thơ (hay thường gọi là Thành ủy Cần Thơ) là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ thành phố giữa hai kỳ Đại hội Đảng bộ. Thành ủy Thành phố Cần Thơ khóa XXII nhiệm kỳ 2020-2025 gồm 52 ủy viên, bầu ra Thường vụ Thành ủy gồm 14 thành viên. Đứng đầu Đảng ủy Thành phố là Bí thư Thành ủy do chính Thành ủy thành phố bầu ra hoặc do Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phân công và chỉ định, là một Ủy viên Trung ương Đảng. Bí thư Thành ủy thành phố Cần Thơ hiện tại là ông Lê Quang Mạnh. Sáng ngày (17/7), tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng đã chủ trì cuộc họp Bộ Chính trị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết 45 Bộ Chính trị khóa IX về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 45, tăng trưởng bình quân của Cần Thơ đạt 7,27% quy mô kinh tế, tăng gấp 7 lần so với cách đây 15 năm, ngân sách cân đối và điều tiết và có điều tiết về Trung ương, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng khẳng định vai trò của Cần Thơ là trung tâm của vùng Đồng bằng sông Cửu Long về dịch vụ và công nghiệp, cũng như làm vai trò đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế và là 1 trong 6 đô thi trọng điểm thực hiện đề án phát triển các đô thị Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu. Cần Thơ đã hoàn thành trước thời hạn chương trình nông thôn mới, đồng thời từng bước khẳng định vai trò trung tâm vùng về giáo dục đào tạo, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, tỷ lệ hộ nghèo của Cần Thơ 0,66% giảm ở mức thấp nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Bộ Chính trị cũng ghi nhận những kết quả của Cần Thơ về công tác xây dựng đảng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị, hoạt động của bộ máy hành chính từng bước đổi mới theo hướng tin gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, quốc phòng an ninh được đảm bảo vững chắc. Phát biểu kết luận, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh việc Bộ Chính trị cho ý kiến tổng kết Nghị quyết 45 của Bộ Chính trị sau 15 năm thực hiện rất có ý nghĩa quan trọng đối với Cần Thơ tại thời điểm địa phương đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ vào cuối năm nay. Trên cơ sở phân tích những kết quả đã đạt được, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết Bộ Chính trị nhất trí cao về sự cần thiết phải ban hành Nghị quyết mới để phát triển Cần Thơ đến năm 2028 tầm nhìn 2045. Cụ thể, mục tiêu đến năm 2030 Cần Thơ trở thành thành phố sinh thái, văn minh hiện đại mang đậm bản sắc sông nước vùng Đồng bằng sông Cửu Long, là trung tâm của vùng về dịch vụ thương mại, du lịch, logistic, công nghiệp chế biến và nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, là đô thị hạt nhân vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Một số chỉ tiêu cụ thể trong 5 nắm tới gồm: tăng trưởng đạt mức 7,5-8%, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 10-12,5%, thu nhập đạt từ 6.200 - 6.800 USD. Kinh tế. Trong nhiệm kỳ 2010 - 2015, Đảng bộ Thành phố Cần Thơ đã thực hiện đạt và vượt 20/22 chỉ tiêu Nghị quyết Đảng bộ lần thứ 12 đề ra. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của Thành phố đạt 12,19%. Cơ cấu kinh tế tăng dần ở khu vực công nghiệp, xây dựng, thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng khu vực nông nghiệp, thủy sản. Tổng sản phẩm trên địa bàn đến 2015 đạt hơn 77.900 tỷ đồng, tăng 1,8 lần so với 2010; thu nhập bình quân đầu người đến năm 2015 đạt 78,46 triệu đồng/năm (tương đương 3.600 USD), tăng 2,15 lần so 2010. Hàng năm, thành phố Cần Thơ đóng góp cho vùng khoảng 12% tổng thu ngân sách... Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 1,375 ty USD. Tính đến nay, thành phố Cần Thơ đ ã có quan hệ xuất khẩu với trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ, tập trung nhiều nhất ở châu Á với 50,6%, châu Mỹ 19,2%, các nước khu vực châu Âu 13%, châu Phi 7,78% và châu Úc là 2,63%. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 2011 (theo giá so sánh 2010) đạt 70.187 tỷ đồng; năm 2014 đạt 93.362 tỷ đồng; năm 2015 đạt 101.868 tỷ đồng, tăng gấp 1,5 lần so với năm 2011; nhịp độ tăng trưởng bình quân ước đạt 9,8%/năm . Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố Cần Thơ đạt 14,64%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.346 USD. Trong 6 tháng đầu 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố ước đạt 8,36%, trong khi đó cùng kỳ năm 2011 mức tăng là 12,21%. Thu nhập bình quân đầu người của Cần Thơ 6 tháng đầu 2012 ước đạt 1.819 USD. Tỷ trọng nông nghiệp thủy sản chiếm 10,83%, công nghiệp xây dựng chiếm 44,45% và dịch vụ thương mại chiếm 44,72%. Giá trị sản xuất nông nghiệp thủy sản thực hiện được 1.617 tỷ đồng, đạt 39,5% kế hoạch cả năm, công nghiệp xây dựng thực hiện được 12.433 tỷ đồng, đạt 38,6% kế hoạch cả năm, dịch vụ thương mại ước thực hiện được 7.309 tỷ đồng, đạt 37% kế hoạch cả năm. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước thực hiện được 3.443 tỷ đồng, đạt 40,99% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội thực hiện được 16.770 tỷ đồng. Trong giai đoạn 9 Tháng đầu năm 2012, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thành phố Cần Thơ đạt 10,3%, mức cao nhất trong 5 thành phố trực thuộc Trung ương. Đây là mức tăng trưởng khá cao và hợp lý trong điều kiện sản xuất khó khăn và tập trung kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô. Giá trị sản xuất công nghiệp ước tăng 7,5%, tổng mức bán ra hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 18,5%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng 4,97% so với cùng kỳ, thu ngân sách được 5.092 tỷ đồng, đạt 59,5% dự toán Hội đồng nhân dân thành phố giao… Tuy nhiên, Bên cạnh những mặc tích cực vẫn còn hạn chế, các ngành, lĩnh vực có mức tăng trưởng thấp hơn mức tăng của những năm trước, ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và thu ngân sách nhà nước, giá cả hàng hóa, dịch vụ, xăng, dầu và một số vật liệu chủ yếu tăng cao, mặt bằng lãi suất còn cao và khó tiếp cận đã gây áp lực cho sản xuất và đời sống dân cư, tình trạng đùn đẩy trách nhiệm, nhũng nhiễu gây chậm trễ, phiền hà cho tổ chức và nhân dân chưa giảm… Cây nông nghiệp chính của Cần Thơ là lúa, với sản lượng 1.194,7 tấn. Ngoài ra có một số cây hoa màu khác nhưng sản lượng không đáng kể. Ngành chăn nuôi ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi heo và gia cầm. Số lượng heo là 2589,3 ngàn con, số lượng gia cầm là 13 ngàn con (vì bị cúm gia cầm). Các gia súc khác như trâu bò chiếm số lượng không nhiều. Ngành thủy sản ở Cần Thơ chủ yếu là nuôi trồng. Công nghiệp. Trong năm 2020 toàn thành phố có 250 dự án trong và ngoài nước, gồm: 222 dự án đầu tư trong nước, 27 dự án đầu tư nước ngoài và 1 dự án ODA, với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,76 tỉ USD.Tổng doanh thu của các doanh nghiệp đang hoạt động trong các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố đạt hơn 1.866 triệu USD, đạt 99,91% so với kế hoạch; thu hút 2 dự án mới vào các khu công nghiệp, với vốn đăng ký thực hiện 4,66 triệu USD. Công nghiệp Cần Thơ về cơ bản đã xây dựng được nhiều cơ sở hạ tầng để phục vụ cho các đối tác nước ngoài tác nhập, điển hình là 2 khu công nghiệp tại Trà Nóc trực thuộc quận Bình Thủy, khu công nghiệp Thốt Nốt, khu công nghiệp Hưng Phú 1 và 2, khu công nghiệp tại quận Ô Môn. Trung tâm Công nghệ Phần mềm Cần Thơ, Cantho Software Park CSP cũng là một trong những dự án được Thành phố quan tâm đầu tư phát triển. Với những lợi thế về phát triển công nhiệp, Cần Thơ cũng đã được định hướng để phát triển trở thành "thành phố công nghiệp" trước năm 2020 theo Nghị quyết 45- NQ/TW của Bộ chính trị về xây dựng và phát triển thành phố Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Dịch vụ & Thương mại. Có nhiều siêu thị và khu mua sắm, thương mại lớn như: Tổ hợp TTTM và khách sạn cao cấp 5 sao Vincom Xuân Khánh, Vincom Hùng Vương, Go, Metro, Sense City (Co.opmart), Lotte Mart, VinMart (WinMart), Best Caring, Siêu thị Điện máy Sài Gòn Chợ Lớn, Siêu thị điện máy Nguyễn Kim, Khu mua sắm Đệ Nhất Phan Khang, Khu Thương mại Tây Đô, Trung tâm thương mại Cái Khế. Cùng với đó là các cửa hàng thương hiệu nổi tiếng như Grab, Vinmart, Loteria, Jollibee, Highlands Coffee, The Coffee House, Phúc Long đã có mặt trên địa bàn thành phố. Các ngành dịch vụ tại Cần Thơ rất nhiều loại hình dịch vụ đã và đang dần phát triển mạnh như Ngân hàng, Y tế, Giáo dục, Văn hóa xã hội... Trong năm 2020 một số ngành tăng trưởng khá, lĩnh vực thiết yếu được xem là những điểm sáng của ngành Công Thương thành phố trước bối cảnh dịch COVID-19 bùng phát và kéo dài; nhu cầu tiêu thụ hàng hóa toàn cầu giảm mạnh, kéo theo thị trường xuất nhập khẩu bị thu hẹp. Theo Sở Công Thương thành phố, một số sản phẩm đạt mức tăng trưởng khá so với cùng kỳ như phi lê đông lạnh tăng 8,6%; xi măng tăng 33,83%; sản phẩm đinh tăng 43,57%; điện sản xuất tăng 3%; nước máy thương phẩm tăng 4,33%. Các sản phẩm tăng là do doanh nghiệp ký kết được đơn hàng mới và tập trung đẩy mạnh sản xuất những tháng cuối năm; đồng thời, các giải pháp tháo gỡ khó khăn phát huy tác dụng tích cực, kích cầu tiêu thụ nội địa, tăng sức mua của người tiêu dùng. Ở lĩnh vực thương mại, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ năm 2020 của thành phố đạt trên 139.077 tỉ đồng. Mức bán lẻ này chỉ đạt 92,69% kế hoạch năm song lại tăng 3,53% so với cùng kỳ. Hoạt động xuất khẩu của thành phố cũng trải qua một năm nhiều khó khăn khi giảm 13,16% so với cùng kỳ với kim ngạch xuất khẩu cả năm đạt hơn 1,93 tỉ USD. Song nhìn chung, các doanh nghiệp đã nỗ lực kết nối với các đối tác truyền thống để duy trì thị trường, tìm cơ hội trong khó khăn và duy trì việc làm cho người lao động. Theo Sở Công Thương thành phố Cần Thơ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong 5 năm, từ 2011 - 2015 của thành phố trên 316.300 tỷ đồng; riêng năm 2015 đạt 80.900 tỷ đồng, đứng thứ ba của cả nước chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội, góp phần đưa tỷ lệ của khu vực III (thương mại, dịch vụ) đạt 57,8% trong cơ cấu kinh tế của thành phố. Mức tăng trưởng trong lĩnh vực này bình quân trong 5 năm qua là 15,4%. Với vị trí thuận lợi là trung tâm của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, ngành Dịch vụ phát triển nhanh theo hướng đa dạng hoá loại hình, tạo nên điểm nhấn khá ấn tượng làm sôi động kinh tế thành phố. Trong 7 tháng đầu năm 2009, tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu và doanh thu dịch vụ thu ngoại tệ trên địa bàn thành phố ước thực hiện 447,4 triệu USD, đạt 48,2% so kế hoạch năm và tăng 4,3% so cùng kỳ. Trong đó, xuất khẩu hàng hoá hơn 431,9 triệu USD, đạt 48% so kế hoạch và tăng 1,5% so cùng kỳ, dịch vụ thu ngoại tệ 15,5 triệu USD, đạt 53,45% so kế hoạch và giảm 4% so cùng kỳ. Trong 9 tháng đầu năm 2009, các doanh nghiệp xuất khẩu gần 437.000 tấn gạo, đạt 82,4% so kế hoạch năm và tăng 20,2% so cùng kỳ, nhưng giá trị chỉ đạt gần 187 triệu USD, giảm 8% về giá trị. Trong đó, xuất trực tiếp 239.000 tấn (giá trị 102 triệu USD), xuất ủy thác 198.000 tấn (85 triệu USD) và cung ứng cho xuất khẩu trên 110.000 tấn quy gạo. Tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ thu ngoại tệ năm 2019 ước 2.162,9 triệu USD, đạt 98,31%, tăng 4,49%; trong đó: xuất khẩu hàng hóa 1.712,7 triệu USD, đạt 97,87%, tăng 3,8%; dịch vụ thu ngoại tệ 450,2 triệu USD, vượt 0,04%, tăng 7,19%. Kim ngạch nhập khẩu ước 480,3 triệu USD, vượt 0,06%, tăng 11,37%. Du lịch đón trên 8,86 triệu lượt khách, doanh thu 4.435,3 tỷ đồng, tăng 17,2%. Sản xuất công nghiệp ước tăng 7,85% so với năm 2018. Tổng mức bán lẻ hàng hóa, doanh thu dịch vụ thực hiện 134.303,34 tỷ đồng, vượt 1,08% Kế hoạch, tăng 11,43% so năm 2018. Tài chính - Ngân hàng. Thành phố Cần Thơ hiện nay là một trung tâm tài chính đứng đầu khu vực ĐBSCL. Thành phố hiện có 46 Tổ trức tín dụng và 7 Quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động, bao gồm đủ loại hình: ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần, ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh; công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, với tổng đầu mối quản lý là 60 đầu mối, 257 địa điểm có giao dịch ngân hàng hoạt động (không kể hoạt động ngân hàng chính sách). Với mạng lưới này thì hầu hết các huyện vùng xa của Cần Thơ, các huyện mới tái lập, thành lập, huyện ít nhất cũng có 7 TCTD hoạt động trên địa bàn. Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tiếp cận tín dụng, dịch vụ ngân hàng. Hiện tại, TP Cần Thơ là một trong những địa phương có dư nợ cho vay lớn nhất khu vực ĐBSCL. Ngay cả khi bị tác động của dịch COVID-19, tín dụng vẫn tăng trưởng, dư nợ cho vay của các TCTD đến hết tháng 4-2020 đạt trên 92.627 tỉ đồng; huy động trên 82.000 tỉ đồng Năng lực cạnh tranh. Năm 2020. TP Cần Thơ nằm trong nhóm điều hành tốt với tổng điểm 68,38, đứng vị trí thứ 11/63 tỉnh thành của cả nước (giữ vững thứ hạng và tăng 3,4 điểm so với năm 2018), đứng thứ 4 so với 5 TP trực thuộc Trung ương và xếp vị trí thứ 5 tại ĐBSCL. Năng lực cạnh tranh của thành phố không ngừng được cải thiện qua từng thời kì. Xã hội. Về mặt truyền thông và thông tin đại chúng, Cần Thơ có các đài phát thanh truyền hình như Đài Tiếng nói Việt Nam cơ quan thường trú KV ĐBSCL, Đài Phát thanh và Truyền hình thành phố Cần Thơ, Trung tâm Truyền hình Việt Nam khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, Đài VTV Cần Thơ và cơ quan thường trú VOV. Ngoài ra hệ thống truyền hình cáp cũng khá đông đảo như Truyền hình cáp Saigontourist, Truyền hình cáp Thành phố Hồ Chí Minh, Truyền hình vệ tinh DTH (direct-to-home), Truyền hình vệ tinh K+, Truyền hình vệ tinh VTC, và các đài truyền thanh ở các quận, huyện cùng với đó là các cơ quan báo chí như Báo Nhân Dân, Báo Cần Thơ, Canthogov cùng với các trang báo chí ở khắp các quận, huyện. Cần Thơ có Sân vận động Cần Thơ với sức chứa 50.000 người đồng thời cũng là sân vận động có sức chứa lớn nhất Việt Nam ở thời điểm hiện tại. Ngoài các trận đấu của Câu lạc bộ Bóng đá Cần Thơ ở giải đấu cao thứ hai trong hệ thống các giải đấu chuyên nghiệp ở Việt Nam thì SVĐ còn tổ chức đua xe môtô. Và đây là môn thể thao được người dân Cần Thơ và các tỉnh lân cận ưa thích. Một năm thường tổ chức 3 lần đua là vào ngày mùng 4 Tết, ngày 30-4 và ngày 2-9. Hiện nay, đội bóng đá Cần Thơ đang đá ở Giải Hạng nhất Quốc gia (V.league 2). Ngoài ra còn có Nhà thi đấu đa Năng (đầu tư bởi Quân đội), Khu thi đấu tennis bãi cát quy mô 8 sân, Nhà thi đấu bơi lội và Sân bóng Quân khu 9. Tính đến năm 2022, thành phố Cần Thơ có 1.252.348 dân, trong đó dân số thành thị chiếm 70,5%. Quận Ninh Kiều là đơn vị hành chính có lượng dân cư tập trung đông nhất, với 292.368 người, chiếm 23,3% lượng dân cư toàn thành phố. Giáo dục. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, thành phố Cần Thơ có 255 trường học ở các cấp phổ thông, đứng đầu ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Tại các bậc bậc đại học và cao đẳng, thành phố có nhiều trường đại học hàng đầu khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp trên địa bàn thành phố Cần Thơ. Riêng thành phố Cần Thơ hiện có 9 trường đại học, 16 trường cao đẳng, 1 học viện, 2 phân hiệu và 12 trường trung cấp chuyên nghiệp với tổng số hơn 76.677 sinh viên đại học, cao đẳng và trung cấp chính quy, chiếm gần 50% số sinh viên của cả vùng. Thành phố Cần Thơ có 4.260 người có trình độ sau đại học, trong đó có 234 người có trình độ tiến sĩ. Trường Đại học Cần Thơ và trường Đại học Y Dược Cần Thơ là 2 trường có chất lượng đào tạo cao, giữ được uy tín hàng đầu trong khu vực và cả nước. Năm học 2019 - 2020, tỷ lệ học sinh xét tuyển lớp 1 đạt 100%, lớp 6 đạt 99,16%; thí sinh trúng tuyển vào lớp 10 các trường công lập tỷ lệ 90,73%. Mạng lưới y tế cơ sở từng bước nâng cao chất lượng, hiện có 82/82 trạm y tế đạt Bộ Tiêu chí quốc gia về y tế xã; tỷ lệ bác sĩ/vạn dân 14,96 bác sĩ. Văn hóa - văn nghệ, thể dục - thể thao được quan tâm đầu tư. Y tế. Trong năm 2008, thành phố Cần Thơ có 83 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 12 bệnh viện, 8 phòng khám đa khoa khu vực và 60 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 1.600 giường, trong đó các bệnh viện có 1.300 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 85 giường, trạm y tế có 215 giường. Năm 2009, Cần Thơ đã có khoảng 58/76 trạm y tế đạt chuẩn quốc gia về y tế xã, 97% trạm y tế có bác sĩ, 96% trạm có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi, 97% ấp có cán bộ y tế, 91% có dược sĩ trung học…Năm 2020 toàn thành phố có 34 bệnh viện. Trong đó có 28 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa và 7 tuyến bệnh viện tại các quận, huyện. Tôn giáo. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn thành phố có 13 tôn giáo khác nhau đạt 601.330 người, nhiều nhất là Phật giáo Hòa Hảo có 245.390 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 193.636 người, Công giáo có 119.942 người, đạo Cao Đài có 33.821 người, đạo Tin lành có 6.055 người, đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 1.440. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 709 người, Hồi giáo có 138 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 123 người, Baha'i giáo có 59 người, 11 người theo Minh Sư Đạo, 5 người theo Minh Lý Đạo, 1 người theo Bà La Môn. Văn hóa. Thành phố Cần Thơ là địa bàn cư trú của nhiều dân tộc khác nhau. Người Khmer ở Cần Thơ không nhiều, chủ yếu tập trung chung quanh chùa hoặc sống rải rác xen kẽ với người Việt ở các quận Ninh Kiều, Ô Môn, Thốt Nốt. Người Hoa ở Cần Thơ chiếm 1,45% dân số thành phố với khoảng 15.000 người sống tập trung ở các quận Ninh Kiều, quận Cái Răng, quận Ô Môn và huyện Phong Điền, người Quảng Đông làm nghề mua bán, người Khách Gia làm nghề thuốc Bắc và người Hải Nam làm nghề may mặc... Mặc dù Cần Thơ được khám phá khá muộn. Tuy nhiên, Văn hoá Cần Thơ vừa mang những nét chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời cũng mang nét đẹp văn hóa của vùng đất Tây Đô. Đặc trưng văn hoá Tây Đô được thể hiện qua nhiều phương diện ẩm thực, lối sống, tín ngưỡng, văn nghệ... Hò Cần Thơ là một trong những làn điệu dân ca độc đáo với các loại là hò huê tình, hò cấy và hò mái dài, xuất phát từ những cầu hò của khách thương hồ lúc rảnh rỗi cắm sào để tìm bạn hò và đợi con nước để rời sang bến khác. Từ trước đến nay chưa hề có một văn bản chính thức nào gọi Cần Thơ là Tây Đô cả. Tuy nhiên, vì vị trí địa lí chiến lược của nó, cả quân sự lẫn kinh tế—rất thuận lợi về giao thông—nên mọi lãnh vực trong toàn khu vực châu thổ Sông Cửu Long như thương mại, công kỹ nghệ, và quân sự đều tập trung tại đây. Cần Thơ xứng đáng được gọi là thủ đô của Miền Tây hay Tây Đô. Có lẽ cái biệt danh Tây Đô này có từ năm 1919. Trong một loạt bài du ký đăng trong tạp chí Nam Phong. Tác giả Phạm Quỳnh, một ký giả Miền Bắc, kể lại cảm xúc của ông khi lần đầu tiên viếng thăm Nam Kỳ: "Cần Thơ có cái vẻ mỹ miều xinh xắn, sạch sẽ phòng quáng, thật xứng tên làm tỉnh đầu miền tây (La capitale de L'Ouest - Tây Đô). Đường phố thênh thang, nhà cửa san sát, các nhà buôn Tây cũng nhiều hơn, có chỗ coi xinh đẹp hơn ở Sài Gòn." Hơn thế nữa, từ hồi mới thành lập, qua biết bao nhiêu chế độ đổi thay, hoàn cảnh địa lý, lịch sử, kinh tế, văn hóa, chính trị, văn hóa, xã hội của Cần Thơ vẫn cứ tiếp tục tồn tại và phát triển không ngừng. Chính điều này là nền tảng khiến nhiều người, ở nhiều nơi, không ai bảo ai, cứ tiếp tục gọi Cần thơ là Tây Đô. Cần Thơ cũng là quê hương của nhiều người nổi tiếng như Châu Văn Liêm, Út Trà Ôn... Về mặt tín ngưỡng, văn hoá, việc thờ cúng, sinh hoạt lễ hội của các ngôi đình ở Cần Thơ không khác mấy so với các ngôi đình ở Nam Bộ, Một số ngôi đình nổi tiếng ở Cần Thơ như đình Bình Thủy, thờ các nhân vật nổi tiếng như Đinh Công Chánh, Trần Hưng Đạo, Bùi Hữu Nghĩa... Cần Thơ từ xưa từng được biết đến qua câu ca dao: Du lịch. Năm 2019, du lịch Cần Thơ đón 8,8 triệu lượt khách, tăng 4,6% so cùng kỳ năm 2018. Khách lưu trú đạt trên 3 triệu lượt, tăng 13,1%, trong đó lưu trú quốc tế đạt trên 409.000 lượt khách, tăng 12,4% so với cùng kỳ năm. Tổng doanh thu từ du lịch đạt trên 4.435 tỉ đồng, tăng 17,2% so với cùng kỳ năm. Năm qua, Hiệp hội Du lịch TP Cần Thơ đã kết nạp thêm 13 hội viên mới, nâng tổng số hội viên lên 82. Hiện hiệp hội có 8 câu lạc bộ, bao gồm: Khách sạn, Lữ hành, Vận chuyển, Hướng dẫn viên du lịch, Quần vợt, Điểm vườn du lịch quận Cái Răng, Điểm vườn du lịch huyện Phong Điền, Bếp ngon Phương Nam. Hiệp hội Du lịch đã phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch thành phố khảo sát và công nhận 2 điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố năm 2019: Điểm du lịch ẩm thực chay- Hakia Garden, Vườn sinh thái Xẻo Nhum; nâng tổng số số điểm du lịch tiêubiểu cấp thành phố năm 2019: Điểm du lịch ẩm thực chay- Hakia Garden, Vườn sinh thái Xẻo Nhum; nâng tổng số số điểm du lịch tiêu biểu cấp thành phố lên 15 điểm được công nhận. Hiệp hội Du lịch thành phố cũng đã mở rộng các mối quan hệ kết nối, ký kết hợp tác du lịch với Hiệp hội Du lịch tỉnh Thái Nguyên, Ninh Thuận, Bà Rịa- Vũng Tàu… Trên những kết quả đạt được, năm 2020, Hiệp hội Du lịch thành phố tiếp tục phát huy việc kết nối, mở rộng các hoạt động của các câu lạc bộ; tiếp tục khảo sát, nâng chất và xây dựng hệ thống các điểm du lịch tiêu biểu của thành phố, các điểm du lịch tiêu biểu cấp ĐBSCL; tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến và liên kết với các tỉnh, thành có kết nối với du lịch Cần Thơ. Dịp này, Hiệp hội Du lịch thành phố cũng trao giấy khen cho các tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong năm 2019, tích cực tham gia hoạt động vớt rác trên sông. Ngoài ra thành phố còn có nhiều đền chùa như chùa Nam Nhã, chùa Ông (Cần Thơ), chợ nổi Cái Răng và chùa Long Quang (Cần Thơ). Một số nơi du lịch dành cho khách du lịch như: đình Bình Thủy, bến Ninh Kiều, chợ nổi Phong Điền, khu di tích Giàn Gừa và nhiều nơi khác. Một số nhân vật nổi tiếng người Cần Thơ. Văn hoá. • Lê Quang Chiểu là 1 Nhà thơ cận đại Việt Nam Ông là nhà soạn giả Quốc âm thi hợp tuyển được các nhà nghiên cứu văn học xác định là tập thơ chữ Quốc ngữ in đầu tiên ở Việt Nam. • Bùi Hữu Nghĩa (1807 - 1872) tại Quận Bình Thủy, hay Thủ Khoa Nghĩa, trước có tên là là Bùi Quang Nghĩa, hiệu Nghi Chi; là quan nhà Nguyễn, là nhà thơ và là nhà soạn tuồng Việt Nam. • Nguyễn Trọng Quyền Nghệ danh Mộc Quán (1876-1953) tên thật là Nguyễn Trọng Quyền là một soạn giả lớn khai sinh dòng sân khấu cải lương tuồng Tàu, được suy tôn là Hậu tổ cải lương. • Huỳnh Anh (2 tháng 1 năm 1932 - 13 tháng 12 năm 2013) là nhạc sĩ, nhạc công nổi tiếng trước 1975 thời Việt Nam Cộng hòa. Ông là tác giả của một số ca khúc được nhiều người biết đến như "Mưa rừng", "Kiếp cầm ca" và "Rừng lá thay chưa." • Lana Condor Lana Therese Condor (tên thật là: Trần Đồng Lan; sinh ngày 11 tháng 5 năm 1997) tại Cần Thơ là một nữ Diễn viên và Vũ công người Việt Nam. Cô diễn xuất lần đầu với vai diễn Jubilation Lee / Jubilee trong bộ phim siêu anh hùng ' năm 2016 và có vai chính đầu tiên là Lara Jean Covey trong bộ phim năm 2018 của bộ phim "To All the Boys I've Loved Before". Cô trở thành sao với vai Koyomi K. trong bộ phim khoa học viễn tưởng ' (2019), và sẽ đóng vai Saya Kuroki trong bộ phim truyền hình sắp tới của Syfy, "Deadly Class". • Nhan Phúc Vinh sinh ngày 27 tháng 6 năm 1986 tại Cần Thơ) là nam diễn viên điện ảnh truyền hình Việt Nam, anh đã đạt nhiều giải thưởng lớn như Giải Mai Vàng, Cánh Diều Vàng, HTV Awards, Liên hoan phim Việt Nam • Phạm Lưu Tuấn Tài được biết với nghệ danh Isaac hay Isaac Phạm (sinh ngày 13 tháng 6 năm 1988) là một ca sĩ, người dẫn chương trình và diễn viên người Việt Nam. Anh thành danh trong sự nghiệp ca hát với tư cách trưởng nhóm nhạc 365 từ năm 2010 đến năm 2016 (khi nhóm ngừng hoạt động). Sau đó, Isaac chính thức solo riêng. • Quốc Trường tên đầy đủ Nguyễn Quốc Trường (sinh năm 1988) là một nam diễn viên người Việt Nam. Anh từng xuất thân là một người mẫu ở Cần Thơ, sau đó trở thành diễn viên. Từ năm 2008 anh bắt đầu tham gia phim truyền hình, anh luôn miệt mài với nhiều vai diễn lớn nhỏ. Đến năm 2018 anh tạo được ấn tượng mạnh với vai nhân tình đểu giả của Hân (Thúy Ngân) trong phim "Gạo nếp gạo tẻ". Đến năm 2019, anh tỏa sáng trên bầu trời nghệ thuật với vai Vũ trong phim "Về nhà đi con" (VTV1), với vai này anh đã tạo nên điểm sáng rực rỡ trong sự nghiệp diễn xuất của mình. • Trọng Hữu là một nghệ sĩ vọng cổ. Ông được Nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú năm 1997 và Nghệ sĩ Nhân dân năm 2016. Người ta hay gọi ông là "Người nông dân hát cải lương" vì những vai diễn của ông đa số đều đi chân trần, xuất thân ở vùng sông nước Nam Bộ và những vai diễn đó đều chân chất, mộc mạc, đậm chất miền quê. • Tám Danh tên thật Nguyễn Phương Danh (1901 - 9 tháng 3 năm 1976) là đạo diễn, diễn viên cải lương, một trong những cây đại thụ của sân khấu cải lương. Ông có nhiều đóng góp lớn trong cách tân cải lương, là người đầu tiên đưa môn võ nghệ thuật lên sân khấu này. Nghệ sĩ Tám Danh còn là võ sư nổi tiếng. Ông đã được truy tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân đợt 1 (1984) • Trần Kiết Tường sinh năm (1924-1999) tại làng Thới Thạnh,tổng Thới Bảo, quận Ô Môn, Tỉnh Cần Thơ (ngày nay thuộc thành phố Cần Thơ).là một Nhạc sĩ người Việt Nam. Ông là tác giả của ca khúc nổi tiếng "Hồ Chí Minh đẹp nhất tên Người". • Võ Minh Lâm (sinh năm 1989) tại Cần Thơ là một Nghệ sĩ Cải lương Việt Nam. Anh là thí sinh nhỏ tuổi nhất và cũng là người đầu tiên đoạt giải Chuông vàng vọng cổ truyền hình khi giải này được tổ chức năm 2006. • Cao Thái Hà sinh ngày 20-4-1990 tại thành phố Cần Thơ, cô sống và làm việc chủ yếu tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Cô là Diễn viên trẻ triển vọng của làng điện ảnh Việt Nam. Cô được khán giả biết đến nhiều nhất qua vai diễn Oanh t rong bộ phim truyền hình " Đồng tiền quỷ ám". Thể thao.. • Nguyễn Thị Ánh Viên (sinh ngày 9 tháng 11 năm 1996 tại ấp Ba Cau, xã Giai Xuân, huyện Phong Điền, thành phố Cần Thơ) là 1 nữ vận động viên thuộc đội tuyển bơi lội quốc gia Việt Nam. Khi 19 tuổi cô đã giành 8 huy chương vàng, 1 huy chương bạc, 1 huy chương đồng cho Việt Nam và phá 8 kỷ lục và được công nhận là vận động viên ngoài Singapore xuất sắc nhất tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2015 ở Singapore., với 8 huy chương vàng giành được, Ánh Viên là người giành nhiều huy chương vàng thứ 2 sau vận động viên bơi lội nam Joseph Schooling của Singapore tại SEA Games 28. Cô còn đứng thứ 25 thế giới cự ly 400m tự do của nữ và thứ 9 thế giới nội dung 400m hỗn hợp. Năm 2015, cô là đại úy quân đội trẻ nhất tại Việt Nam và được tặng Huân chương lao động hạng nhì. • Trần Chí Công sinh ngày 25/4/1983 tại Cần Thơ, là cầu thủ bóng đá của Câu lạc bộ bóng đá Long An. Vị trí sở trường của anh là hậu vệ.Là một trong những cầu thủ tiêu biểu của bóng đá Việt Nam được chọn vào đội tuyển năm 2008. Người mẫu. • Ngô Tiến Đoàn(sinh năm 1983), quê ở Cần Thơ, là người giành giải nhất cuộc thi Manhunt Việt Nam 2006 và Mister International 2008. Anh có hình thể được xem như hoàn hảo: cao 1,83 m, nặng 80 kg, với các số đo 99-80-99. • Bùi Thị Diễm (sinh năm 1984) là một nữ diễn viên, người mẫu, hoa hậu Việt Nam. Cô từng đăng quang hoa hậu trong cuộc thi Hoa hậu phụ nữ Việt Nam qua ảnh năm 2004. Chồng cô là Nguyễn Xuân Anh, nguyên Chủ tịch Hội đồng nhân dân thành phố Đà Nẵng. • Lilly Nguyễn sinh năm 1993, cao 1m73 có mẹ là người Việt và bố là người Canada nên cô sở hữu gương mặt lai rất quyến rũ. Cô sinh ra ở Cần Thơ nhưng lớn lên tại Canada. Tuy nhiên, cô lại không chọn Canada làm nơi lập nghiệp của mình mà quyết tâm tìm cơ hội phát triển ở thị trường châu Á, bắt đầu bằng nghề người mẫu ảnh ở Thái Lan năm 17 tuổi. Năm 2013, Lilly lấy danh nghĩa đại diện Việt Nam đăng kí tham gia chương trình truyền hình thực tế về người mẫu mang tên "Supermodel Me". Vượt qua nhiều đối thủ sừng sỏ, Lilly đã lọt vào top 4 thí sinh xuất sắc nhất của mùa giải năm đó. Cũng từ đây, sự nghiệp người mẫu của cô bước sang trang mới khi Lilly được nhiều người biết đến hơn. Năm 2014, cô về Việt Nam và từng đầu quân vào công ty người mẫu Venus dưới sự quản lý của ông bầu Vũ Khắc Tiệp. • Nguyễn Huỳnh Kim Duyên (sinh ngày 19 tháng 10, năm 1995 tại Cần Thơ) là một Á hậu và Người mẫu người Việt Nam. Cô là Á hậu 1 cuộc thi Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2019, Top 16 Hoa hậu Hoàn Vũ 2021 và là Á hậu 2 Hoa hậu Siêu Quốc Gia 2022 • Lê Nguyễn Bảo Ngọc (sinh năm 2001) là Á hậu 1 cuộc thi Hoa hậu Thế giới Việt Nam 2022. Hiện cô là Hoa hậu Liên lục địa 2022 Giao thông. Hạ tầng. Thành phố Cần Thơ được cấp điện chủ yếu từ lưới điện quốc gia qua đường dây 220KV, cung cấp điện cho thành phố qua đường dây 110KV và 6 trạm biến áp. Ngoài nguồn cung cấp trên, thành phố được Thủ tướng Chính phủ cho phép xây dựng dự án Trung tâm điện lực Ô Môn với tổng công suất cho 4 nhà máy với công xuất 2.700MW. Cần Thơ nằm bên bờ phía nam sông Hậu, một bộ phận của sông Mê Kông chảy qua 6 quốc gia, đặc biệt là phần trung và hạ lưu chảy qua Lào, Thái Lan và Campuchia. Các tàu có trọng tải lớn (trên 1.000 tấn) có thể đi các nước và đến Cần Thơ dễ dàng. Ngoài ra, tuyến Cần Thơ - Xà No - Cái Tư là cầu nối quan trọng giữa Thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hậu Giang và Cà Mau. Hệ thống bưu điện, viễn thông của thành phố Cần Thơ gồm 1 bưu điện trung tâm, 4 bưu điện huyện đủ điều kiện cung cấp thông tin liên lạc giữa Cần Thơ với các nước trên thế giới. Về Bưu chính có 01 doanh nghiệp nhà nước và hơn 24 doanh nghiệp tư nhân đóng trên địa bàn đảm nhận, có hệ thống ổn định với 35 bưu cục, 48 điểm bưu điện văn hóa xã và 216 đại lý bưu điện, điểm giao dịch chuyển phát. Cần Thơ có 2 nhà máy cấp nước sạch có công suất 70.000 m³/ngày, và dự kiến xây dựng thêm một số nhà máy để có thể cung cấp nước sạch 200.000 m³/ngày. Toàn thành phố có 2.762,84 km đường bộ, trong đó có 123,715 km đường quốc lộ, 183,85 km đường tỉnh, 332,87 km đường huyện, 153,33 km đường đô thị, 1.969,074 km đường ấp, xã, khu phố. Mạng lưới đường thủy trên địa bàn có tổng chiều dài 1.157 km, trong đó có khoảng 619 km có khả năng vận tải cho loại phương tiện trọng tải từ 30 tấn trở lên. Các tuyến đường sông do quận, huyện quản lý gồm 40 tuyến với tổng chiều dài 405,05 km, đảm bảo cho phương tiện trọng tải từ 15 - 60 tấn hoạt động. Đường hàng không. Ngoài ra Thành phố Cần Thơ còn có Sân bay quốc tế Cần Thơ là sân bay lớn nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đã chính thức đi vào hoạt động khai thác thương mại các tuyến quốc nội từ ngày 3 tháng 1 năm 2009 và mở các tuyến bay quốc tế vào cuối năm 2010. Với 4 hãng hàng không hiện nay đang khai thác như Vietnam Airlines, Vietjet Air, Vasco, Bamboo Airways. Các chuyến bay trong nước đi đến Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vinh (Nghệ An), Đà Lạt (Lâm Đồng), Quy Nhơn (Bình Định), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu), Phú Quốc, Thọ Xuân (Thanh Hóa). Các chuyến bay quốc tế đi đến các thành phố trong khu vực như Đài Bắc, Cao Hùng, Kuala Lumpur, Bangkok. Đường sắt. Toàn thành phố có 2 dự án đường sắt đang được quy hoạch gồm Dự án đường sắt cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ và Đường sắt đô thị Cần Thơ nhưng chưa có bất kỳ tuyến nào đang hoạt động hoặc đang được xây dựng trên thực tế. Đường sắt cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Cần Thơ có chiều dài 139 km, xây dựng đường đôi khổ đường ray tiêu chuẩn là 1.435 mm với 10 nhà ga, bắt đầu tại ga Tân Kiên (Huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh)và kết thúc tại ga Cái Răng (Quận Cái Răng, Thành phố Cần Thơ). Mạng lưới Đường sắt đô thị Cần Thơ được quy hoạch có tổng chiều dài 38,8 km, đi qua địa bàn Quận Ô Môn, Quận Bình Thủy, Quận Ninh Kiều, Quận Cái Răng và sẽ bao gồm 1 tuyến trên cao có lộ trình từ Bến xe Ô Môn, theo QL.91 đến khu công nghiệp Trà Nóc, qua Lê Hồng Phong, dọc theo Cách Mạng tháng Tám, qua bến xe Cần Thơ vào trung tâm Cần Thơ, theo Trần Hưng Đạo, Lý Tự Trọng, công viên Lưu Hữu Phước, sau đó rẽ hai nhánh sang cảng Cái Cui (gần ga Cái Răng của đường sắt cao tốc) và nút giao QL.1 với QL.61. Cảng biển, hàng không logistics. Ngoài ra, hệ thống cảng của Cần Thơ đang được nâng cấp, gồm Cảng Cần Thơ có thể tiếp nhận tàu tàu biển có tải trọng 10.000 - 20.000 DWT, cảng Trà Nóc có 3 kho chứa lớn với dung lượng 40.000 tấn, khối lượng hàng hóa thông qua cảng có thể đạt 200.000 tấn/ năm có thể tiếp nhận tàu 2.500 DWT. Cảng Cái Cui là cảng mới được xây dựng có thể phục vụ̣ cho tàu từ 10.000 - 20.000 DWT, khối lượng hàng hóa thông qua cảng là 4,2 triệu tấn/năm. Đường bộ. Quốc lộ 1, Quốc lộ 91, Quốc lộ 91B và Quốc lộ 91C(Nam Sông Hậu), Quốc lộ 61C và Quốc lộ 80 nối các trung tâm Thành phố thuộc Đồng bằng sông Cửu Long với Thành phố Cần Thơ. Tương lai đang nâng cấp và mở rộng quốc lộ 80, Quốc lộ (Quốc lộ 91C) Nam Sông Hậu (đoạn từ ngã năm cầu Cần Thơ đến cảng Cái Cui); tuyến tránh thành phố Long Xuyên (đoạn Thốt Nốt - Lộ Tẻ); nâng cấp, mở rộng QL91 (đoạn Km0 - Km7)… Bên cạnh đó, kiến nghị Bộ GTVT ủng hộ và đề xuất Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương giao Cần Thơ làm chủ đầu tư thực hiện dự án mở rộng tuyến QL61C (đường nối Vị Thanh - Cần Thơ) đối với đoạn qua địa phận Cần Thơ với chiều dài 10,2 km, quy mô 4 làn xe, tổng mức đầu tư dự kiến là 978 tỷ đồng bằng nguồn vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021-2025 và xây dựng Cầu Vàm Cống nối Cần Thơ và Đồng Tháp Các tuyến cao tốc đang được đầu tư và hình thành như Cao tốc Lộ Tẻ - Rạch Sỏi nối liền tỉnh Kiên Giang và huyện Vĩnh Thạnh, Cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Cao tốc Cần Thơ - Cà Mau, Cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ. Đường đô thị. Hiện nay hạ tầng giao thông của TP đã và đang có những dự án được đưa vào khai thác như: cầu Quang Trung (đơn nguyên 2) nối liền hai quận Ninh Kiều và quận Cái Răng, cầu Vàm Cống nối liền quận Thốt Nốt và huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Các dự án được đầu tư như tuyến đường vành đai phía Tây nối liền quận Ô Môn, Bình Thủy, Ninh Kiều, Cái Răng và huyện Phong Điền, Cần Thơ, dự án đường tỉnh 922 nối liền 4 quận huyện của TP như quận Bình Thủy, Ô Môn, Thới Lai, Cờ Đỏ, Đường Trần Hoàng Na và cầu Trần Hoàng Na nối 2 quận Ninh Kiều và quận Cái Răng. Đầu tư xây dựng 4 cầu vượt thép tại 4 nút giao thông đường 30 tháng 4 - Nguyễn Văn Linh, Đường 3 tháng 2 - đường Nguyễn Văn Linh, Đường Võ Văn Kiệt - Mậu Thân, Đường 3 tháng 2 - đường Trần Hưng Đạo, Cải tạo 167 tuyến đường khắp nội đô thành phố. Thành phố kết nghĩa. • Ngoài ra chính quyền thành phố đang nỗ lực tạo điều kiện thuận lợi nhất để kết nối thông tin với các đối tác Nhật Bản như thành lập Văn phòng Japan Desk tại Cần Thơ; 2 Văn phòng liên lạc tại Ōsaka và Tokyo. • Về ngoại giao nhân dân, Hội hữu nghị Việt Nam - Nhật Bản TP Cần Thơ đã ký kết hợp tác với 6 Chi hội hữu nghị Nhật - Việt của Nhật Bản và thường xuyên tổ chức các hoạt động trao đổi đoàn thông qua các sự kiện lớn của địa phương. Khởi nghiệp. Mạng lưới liên kết Hệ sinh thái KNĐMST TP Cần Thơ - CanTho Startup Ecosystem và Mạng lưới Vườn ươm Đồng bằng sông Cửu Long. TP Cần Thơ còn là thành viên Mạng lưới Khởi nghiệp ĐBSCL - Mekong Startup Network với 23 thành viên thuộc các tỉnh, thành Đồng bằng sông Cửu Long. Trên địa bàn thành phố hiện có 6 không gian làm việc chung nhằm giúp kết nối hoạt động khởi nghiệp sáng tạo cho sinh viên, doanh nghiệp, những dự án startups mới tại TP Cần Thơ cũng như các địa phương trong vùng:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đồng Nai là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ trên cơ sở hợp nhất 2 tỉnh cũ là Biên Hòa và Long Khánh, Việt Nam. Đây là tỉnh đông dân thứ 5 cả nước sau Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội, tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Nghệ An. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Đồng Nai nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ, có diện tích tự nhiên là 5.907,2 km². Đồng Nai có tọa độ từ 10o30’03B đến 11o34’57’’B và từ 106o45’30Đ đến 107o35’00"Đ, có vị trí địa lý: Tỉnh được xem là một cửa ngõ đi vào vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ - vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước. Đồng thời, Đồng Nai là một trong 4 góc nhọn của Tứ giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh - Bình Dương - Bà Rịa – Vũng Tàu - Đồng Nai. Dân cư tập trung phần lớn ở Biên Hòa với hơn 1 triệu dân và ở 2 huyện Trảng Bom, Long Thành. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Biên Hòa, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 30 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 1684 km theo đường Quốc lộ 1. Đây là thành phố trực thuộc tỉnh có dân số đông nhất cả nước, với quy mô dân số tương đương với 2 thành phố trực thuộc trung ương là Đà Nẵng và Cần Thơ. Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Đồng Nai có địa hình vùng đồng bằng và trung du với những núi sót rải rác, có xu hướng thấp dần theo hướng bắc nam, với địa hình tương đối bằng phẳng. Địa hình có thể chia làm các dạng là địa hình đồng bằng, địa hình trũng trên trầm tích đầm lầy biển, địa đồi lượn sóng, dạng địa hình núi thấp, đất phù sa, đất gley và đất cát có địa hình bằng phẳng, nhiều nơi trũng ngập nước quanh năm. Đất đen, nâu, xám hầu hết có độ dốc nhỏ hơn 8, đất đỏ hầu hết nhỏ hơn 15. Riêng đất tầng mỏng và đá bọt có độ dốc cao. Tỉnh Đồng Nai có quỹ đất phong phú và phì nhiêu. Có 10 nhóm đất chính, tuy nhiên theo nguồn gốc và chất lượng đất có thể chia thành 3 nhóm chung gồm: các loại đất hình thành trên đá bazan, các loại đất hình thành trên phù sa cổ và trên đá phiến sét, các loại đất hình thành trên phù sa mới. Trong tổng diện tích tự nhiên, diện tích đất nông nghiệp chiếm 49,1%, diện tích đất lâm nghiệp chiếm 30,4%, diện tích đất chuyên dùng chiếm 13%, diện tích đất khu dân cư chiếm 2,1%, diện tích đất chưa sử dụng chiếm 5,4%. Khí hậu Đồng Nai là khí hậu nhiệt đới gió mùa, có hai mùa tương phản nhau là mùa khô và mùa mưa. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11. Khoảng kết thúc mùa mưa dao động từ đầu tháng 10 đến tháng 12. Nhiệt độ trung bình năm 25 – 27 °C, nhiệt độ cao cực trị khoảng 40 °C và thấp cực trị 12,5 °C và số giờ nắng trong năm 2.500 – 2.700 giờ, độ ẩm trung bình luôn cao 80 – 82%. Rừng Đồng Nai có đặc trưng cơ bản của của rừng nhiệt đới, có tài nguyên động, thực vật phong phú đa dạng, tiêu biểu là vườn quốc gia Nam Cát Tiên. Tài nguyên khoáng sản khá phong phú về chủng loại như kim loại quý, kim loại màu, đá quý, nguyên liệu gốm sứ, vật liệu xây dựng, phụ gia xi măng, than bùn, nước khoáng và nước nóng,… Lịch sử. Lịch sử của Đồng Nai gắn liền với lịch sử của vùng đất Nam Bộ. Nước Đại Việt lúc bấy giờ chỉ từ ải Nam Quan đến vùng Bắc Đèo Ngang (Hà Tĩnh ngày nay). Việc mở rộng được bắt đầu khi có những giao tranh giữa Đại Việt và vương quốc Chăm Pa láng giềng lúc bấy giờ. Để mở rộng bờ cõi về phía Nam, nước Đại Việt lúc bấy giờ đã biết tổ chức một quân đội tốt, hùng hậu và có chiến lược nhu lẫn cương để thực hiện mưu đồ Nam tiến của mình. Nước Việt Nam lúc bấy giờ xảy ra giao tranh giữa vua Lê - Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, lịch sử vẫn gọi là thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, đây là cuộc phân tranh tạo ra tình trạng cát cứ trong lịch sử Việt Nam. Cuộc sống của người dân đói khổ và lâm vào lầm than. Điều này tạo ra một làn sóng di dân ồ ạt đầu tiên từ Bắc vào Nam, trong đó có làn sóng di dân của miền Thuận Quảng vào Đồng Nai tìm đất sinh sống và tái lập nghiệp. Năm 1621, Chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) sai sứ sang gặp vua Chân Lạp Chey Chetta II, yêu cầu cho người Việt vào sinh sống, buôn bán ở Đồng Nai. Người Việt di cư đến đâu thì khai khẩn và phá hoang lấy đất canh tác đến đó tạo nên vùng đất trù phú. Ruộng lúa, hoa màu xanh tốt. Năm 1679, nhà Minh ở Trung Quốc sụp đổ, Tổng binh Trần Thượng Xuyên trấn thủ các châu Cao, Lôi, Liêm không khuất phục nhà Thanh đã đem 50 chiến thuyền, 3.000 binh lính thân tín và gia quyến đến xin thuần phục chúa Nguyễn ở Thuận Hóa. Lúc bấy giờ, đứng đầu nhà Nguyễn là Chúa Nguyễn Phúc Tần đã thu nhận họ và cho vào khai khẩn, mở mang vùng đất Đông Phố (Cù lao Phố ngày nay). Họ biến Cù Lao Phố trên sông Đồng Nai trở thành một thương cảng sầm uất và phát triển. Năm Mậu Dần 1698, chúa Nguyễn sai Thống suất Chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược vùng đất Đồng Nai (lúc này, từ Đồng Nai hay vùng đất Đồng Nai là ám chỉ cả một vùng Nam Bộ rộng lớn của bây giờ), đặt vùng đất mới thành phủ Gia Định, chia làm 2 huyện: huyện Phước Long (Đồng Nai) dựng dinh Trấn Biên, huyện Tân Bình (Sài Gòn) dựng dinh Phiên Trấn. Ngoài ra, Nguyễn Hữu Cảnh còn cho lập bộ đinh, bộ điền, chiêu mộ những người có vật lực từ các vùng khác vào lập nghiệp và phát triển kinh tế. Năm 1802, dinh Trấn Biên được vua Gia Long đổi thành trấn Biên Hòa, nhưng vẫn thuộc phủ Gia Định. Năm 1808, trấn Biên Hòa thuộc thành Gia Định, đặt Phước Long thành phủ, đặt ra các tổng Phước Chính, Phước An, Bình An, Long Thành làm huyện. Năm 1836, trấn Biên Hòa được vua Minh Mạng đổi thành tỉnh Biên Hoà. Năm 1837, lập thêm hai phủ Phước Tuy và các huyện Nghĩa An, Long Khánh, Phước Bình. Vào năm 1840, đặt thêm bốn phủ là Tân Định, Tân Bình, Tân Lợi và Tân Thuận. Năm 1851, Vua Tự Đức nhập hai huyện Phước Bình và Long Khánh vào các phủ Phước Long và Phước Tuy. Năm 1882, sau khi Hòa ước Nhâm Tuất được ký, lúc này triều đình Nhà Nguyễn cắt đất giao 3 tỉnh Gia Định, Định Tường và Biên Hoà cho Pháp. Sau đó, Pháp chia Biên Hòa thành ba tỉnh là Biên Hòa, Thủ Dầu Một và Bà Rịa. Đến thời Việt Nam Cộng hòa, đất Đồng Nai được chia làm 3 tỉnh là Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy. Đầu năm 1975, hợp nhất 3 tỉnh này thành lập tỉnh Đồng Nai, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Biên Hòa. Năm 1976, thị xã Biên Hòa được nâng cấp thành thành phố Biên Hòa - đô thị loại 3, trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Ban đầu, tỉnh Đồng Nai có tỉnh lị là thành phố Biên Hòa, thị xã Vũng Tàu và 9 huyện: Châu Thành, Duyên Hải, Long Đất, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Vĩnh Cửu, Xuân Lộc, Xuyên Mộc. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sáp nhập xã Hố Nai 1 và xã Hố Nai 2 của huyện Thống Nhất vào thành phố Biên Hòa. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, chuyển huyện Duyên Hải (nay là huyện Cần Giờ) về Thành phố Hồ Chí Minh quản lý theo nghị quyết của kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa VI. Ngày 30 tháng 5 năm 1979, tách thị xã Vũng Tàu và xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành để thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Ngày 23 tháng 12 năm 1985, chuyển huyện Vĩnh Cửu thành thị xã Vĩnh An. Ngày 10 tháng 4 năm 1991, chia huyện Xuân Lộc thành 2 huyện: Xuân Lộc và Long Khánh; chia huyện Tân Phú thành 2 huyện: Tân Phú và Định Quán. Đến năm 1991, tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính gồm: thành phố Biên Hòa (tỉnh lị), thị xã Vĩnh An và 9 huyện: Châu Thành, Định Quán, Long Đất, Long Khánh, Long Thành, Tân Phú, Thống Nhất, Xuân Lộc, Xuyên Mộc. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Đồng Nai thành 2 tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu: Năm 1993, thành phố Biên Hòa được công nhận là đô thị loại II, trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 23 tháng 6 năm 1994, chia huyện Long Thành thành 2 huyện: Long Thành và Nhơn Trạch. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, giải thể thị xã Vĩnh An để tái lập huyện Vĩnh Cửu. Ngày 21 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2003/NĐ-CP, giải thể huyện Long Khánh để thành lập thị xã Long Khánh và huyện Cẩm Mỹ, chia huyện Thống Nhất thành hai huyện: Thống Nhất và Trảng Bom. Đến thời điểm này, tỉnh Đồng Nai có 1 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện. Ngày 30 tháng 12 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2488/QĐ-TTg công nhận thành phố Biên Hòa là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đồng Nai. Ngày 1 tháng 6 năm 2019, chuyển thị xã Long Khánh thành thành phố Long Khánh. Hành chính. Tỉnh Đồng Nai có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố và 9 huyện, với 170 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 40 phường, 9 thị trấn và 121 xã. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Năm 2020, Đồng Nai là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ năm về số dân, xếp thứ ba về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ sáu về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 19 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 3.097.107 người dân, GRDP đạt gần 400.000 tỉ Đồng (tương ứng 17.2 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 124 triệu đồng (tương ứng với 5.300 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP dự kiến đạt trên 9,0%. Đồng Nai là một tỉnh cửa ngõ đi vào vùng kinh tế Đông Nam Bộ – vùng kinh tế phát triển và năng động nhất cả nước. Trong đó, Đồng Nai là một trong ba góc nhọn của tam giác phát triển Thành phố Hồ Chí Minh – Bình Dương – Đồng Nai. Đồng Nai có nhiều cụm công nghiệp nghề truyền thống và hơn 32 khu công nghiệp đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đi vào hoạt động như Long Thành, An Phước, Nhơn Trạch II, Biên Hòa II, Amata... Năm 2011, mặc dù kinh tế xã hội gặp nhiều khó khăn thách thức, tuy nhiên tổng sản phẩm nội địa (GDP) trên địa bàn tỉnh Đồng Nai tăng vẫn 13,32% so với năm 2010, trong đó, dịch vụ tăng 14,9%, nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,9% công nghiệp - xây dựng tăng 14,2%. Quy mô GDP năm 2011 toàn tỉnh đạt 96.820 tỷ đồng, GDP thu nhập bình quân đầu người|bình quân đầu người đạt 36,6 triệu đồng, các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh hầu hết đều đạt và vượt các chỉ tiêu đề ra. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch theo hướng tích cực, công nghiệp - xây dựng chiếm 57,3%, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 7,5%, dịch vụ chiếm 35,2%. Kim ngạch xuất khẩu đạt 9,8 tỷ USD, tăng 30,3% so với cùng kỳ, thu ngân sách trên địa bàn đạt 22.641,2 tỷ đồng. đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 900 triệu USD, vốn đầu tư trong nước đạt 15.000 tỷ đồng... Cũng trong năm 2011, toàn tỉnh có 5.200 lượt hộ nghèo được vay vốn với số tiền 67 tỷ đồng. Số hộ nghèo năm 2011 giảm 7.800 hộ, hạ tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 5%. Trong 9 tháng đầu năm 2012, theo đánh giá, hầu hết các lĩnh vực đều tăng chậm hơn so với cùng kỳ các năm trước do ảnh hưởng từ những khó khăn chung của nền kinh tế trong và ngoài nước, ngoại trừ lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn tăng mạnh. Sản xuất công nghiệp trong 9 tháng tăng hơn 7% với 12 ngành công nghiệp tăng và 4 ngành giảm. Tăng trưởng GDP của tỉnh đạt 11,87% so với cùng kỳ năm 2012, đạt trên 70% kế hoạch, trong đó lĩnh vực dịch vụ tăng cao nhất với 14,51% so với cùng kỳ. Ngoài ra, tổng mức bán lẻ tăng 20% so với 9 tháng đầu năm 2011, chỉ số giá tiêu dùng tăng 6.14% so với cuối năm 2011. Xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2012 đạt trên 7,9 tỷ USD, nhập khẩu đạt hơn 7,5 tỷ USD. Đến 2019, GDP Đồng Nai là 3.720 USD/người tương đương khoảng 60,4 triệu đồng, tỷ lệ hộ nghèo năm 2019 còn 9.200, chiếm khoảng 1,8% trong tổng số hộ. Về nông nghiệp, Đồng Nai là thủ phủ sản xuất chè, cà phê, ca cao, cam, bưởi, quýt, sầu riêng, chôm chôm, măng cụt... Đồng Nai là tỉnh có đàn lợn lớn nhất cả nước với gần 1 triệu con, và có đàn trâu bò lớn thứ 2 với 185.000 con. Đồng Nai là tỉnh đầu tiên của cả nước mà 100% xã, huyện, thành phố đều đạt chuẩn nông thôn mới. Vì vậy nông nghiệp Đồng Nai phát triển mạnh mẽ, là nguồn cung hàng hoá cho các khu vực lân cận và xuất khẩu. Đây là tỉnh có sản lượng nông nghiệp lớn nhất Đông Nam Bộ và là một trong những tỉnh sản xuất ra khối lượng nông sản lớn nhất Việt Nam. Năm 2018, Giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản  là 8,8%. Năm 2019, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,7%, giá trị sản xuất nông lâm thủy sản tăng 2,7%. Thu ngân sách đạt 54.431 tỉ đồng, đạt 100% so với dự toán được giao, chi ngân sách đạt 22.509 tỉ đồng, đạt 109% so với dự toán. Tổng mức bán lẻ, doanh thu dịch vụ đạt 173,6 ngàn tỉ đồng, tăng 11,7% so với cùng kì và đạt kế hoạch năm. Kim ngạch xuất khẩu đạt 19,7 tỉ USD, tăng 7,1% so với cùng kì; kim ngạch nhập khẩu đạt 16,5 tỉ USD, tăng 2,1% so với cùng kì. Năm 2019, Đồng Nai xuất siêu khoảng 3,2 tỉ USD. Huy động vốn đầu tư phát triển đạt 91.335 tỉ đồng. Thu hút đầu tư trong nước đạt 34 nghìn tỉ đồng, đạt 340% kế hoạch năm, tăng 23,6% so với cùng kì. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 917 dự án với tổng vốn khoảng 325.000 tỉ đồng. Tổng vốn đầu tư nước ngoài dự ước đạt 1.450 triệu USD, đạt 145% so với kế hoạch, bằng 75,7% so với cùng kì. Lũy kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.457 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng kí khoảng 30 tỉ USD. Công tác đăng kí doanh nghiệp: Năm 2019 ước đạt 3.850 doanh nghiệp đăng kí thành lập mới, tăng 9,4% so với cùng kì, tổng vốn đăng kí ước đạt 34.000 tỉ đồng. Đến nay, trên địa bàn tỉnh có khoảng 38000 doanh nghiệp với tổng vốn đăng kí trên 264.000 tỉ đồng. Giáo dục. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2018 trên địa bàn toàn tỉnh Đồng Nai có 745 trường học, trong đó có Trung học phổ thông có 84 trường, Trung học cơ sở có 273 trường, Tiểu học có 362 trường, trung học có 23 trường, có 4 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 327 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Đồng Nai cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Trên địa bàn còn có cơ sở 2 của Trường Đại học Mở Tp Hồ Chí Minh ở phường Long Bình Tân, Tp Biên Hòa. Y tế. Đồng Nai là một trong những tỉnh có vị trí gần Thành phố Hồ Chí Minh nên có nhiều thuận lợi trong các lĩnh vực công nghệ khoa học, trong đó, mạng lưới y tế cũng rất phát triển. Cho đến nay, Đồng Nai đã thành lập được 11 bệnh viện tuyến huyện trên 11 huyện, thị xã và thành phố Biên Hòa. Danh sách bệnh viện tại Đồng Nai. Bên cạnh đó còn có Hệ thống phòng khám và chăm sóc sức khỏe Quốc tế Sỹ Mỹ đã phần nào đáp ứng được nhu cầu của người dân trong tỉnh và các tỉnh lân cận khám chữa bệnh mà các bệnh viện, phòng khám khác không đáp ứng được nhu cầu. Dân cư. Lịch sử phát triển dân số. Tính đến năm 2019, dân số toàn tỉnh Đồng Nai đạt 3.097.107 người, mật độ dân số đạt 516,3 người/km², dân số thành thị chiếm 48.4%, dân số nông thôn chiếm 51.6%. Đây cũng là tỉnh đông dân nhất vùng Đông Nam Bộ với hơn 3 triệu dân (nếu không tính Thành phố Hồ Chí Minh). Đây là tỉnh có dân số đông thứ nhì ở miền Nam (sau Thành phố Hồ Chí Minh), đông thứ 5 cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An) và có dân số đô thị đứng thứ 4 cả nước (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bình Dương). Tỉnh có diện tích lớn thứ nhì ở Đông Nam Bộ (sau Bình Phước) và thứ ba ở miền Nam (sau Bình Phước và Kiên Giang). Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đồng Nai có 51 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó người Kinh có 2.311.315 người, người Hoa có 95.162 người, người Nùng có 19.076 người, người Tày có 15.906 người, người Khmer có 7.059 người, còn lại là những dân tộc khác như Mường, Dao, Chăm, Thái... Ít nhất là người Si La và Ơ Đu chỉ có một người...Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là hơn 45%. Tôn giáo. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Đồng Nai có 13 Tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 1.015.315 người, Phật giáo có 440.556 người, Đạo Cao Đài có 34.670 người, các tôn giáo khác như Tin Lành có 43.690 người, Hồi giáo 6.220 người, Phật giáo hòa hảo có 5.220 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 530 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 36 người, Minh Sư Đạo có 39 người, Bahá'í có 63 người, Bà-la-môn có 15 người, Minh Lý Đạo có 12 người, còn lại là đạo Bửu Sơn Kỳ Hương có hai người. Tỉnh Đồng Nai là tỉnh có sự đa dạng về các đặc trưng tôn giáo, tín ngưỡng. Phần lớn dân cư theo sau Công cuộc Mở mang bờ cõi của Chúa Nguyễn và đánh dấu là sự khai hoang lập ấp của Nguyễn Hữu Cảnh. Cư dân ban đầu mang theo tín ngưỡng thờ cúng ông bà mà phần lớn người dân Việt Nam hiện nay đều có. Song song đó là sự có mặt của Phật giáo, Đạo giáo, Khổng giáo... dần dần đến các cuộc chiến tranh Việt Nam chống ngoại ban xâm lược thì sự du nhập các tôn giáo, tín ngưỡng theo sự di dân do chiến tranh và hoàn cảnh bắt đầu xuất hiện. Công giáo ra đời và phát triển mạnh mẽ đến ngày nay trên đất Đồng Nai là sau cuộc di dân năm 1954. Rồi dần, Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài, v.v.. dần xuất hiện theo sự di cư của người dân. Các nơi có đông giáo dân ở Đồng Nai là tp. Biên Hoà, huyện Trảng Bom, trải dài tới Xuân Lộc, Thống Nhất, Định Quán, Tân Phú, với hơn 900.000 giáo dân, Đồng Nai là nơi có số lượng người theo Công giáo rất lớn. Hiện nay Đồng Nai là một địa bàn đa tôn giáo: Công giáo, Phật giáo, Tin Lành, Cao đài, Hòa Hảo, Hồi giáo... Trong đó, Công giáo và Phật giáo là hai tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất. Công giáo tập trung đông đúc ở TP. Biên Hòa và huyện Trảng Bom. Hiện tại (2019), Đồng Nai là địa phương có số người theo đạo Công giáo đông nhất cả nước với 1.015.315 giáo dân, chiếm 1/3 dân số trong toàn tỉnh (32,8%). Phật giáo phát triển mạnh sau sự kiện Thích Quảng Đức vị quốc thiêu thân năm 1963, làm phát khởi tinh thần Từ Bi - Trí tuệ của người Phật tử, hiện nay hàng loạt các ngôi chùa, tự viện, thiền viện được ra đời đáp ứng nhu cầu tu học của người dân, đăc biệt là Hệ thống Thiền viện thuộc Thiền Phái Trúc Lâm Việt Nam. Văn hóa - Du lịch. Văn hóa. Đồng Nai và Bình Dương là hai tỉnh miền Đông Nam Bộ có nghề nghiệp truyền thống nổi tiếng là gốm sứ. Sản phẩm gốm sứ của Đồng Nai có nhiều loại và không giống như các sản phẩm gốm sứ truyền thống khác ở miền Bắc và miền Trung. Phương pháp nghệ thuật tạo hoa văn cho sản phẩm của gốm sứ Đồng Nai là kết hợp giữa khắc nét chìm và trổ thủng sản phẩm gốm rồi quét men nhưng không có sự phân biết nước men và màu ve. Ngoài ra, Đồng Nai còn có nhiều nghề nghiệp thủ công nghiệp truyền thống như đan lát, mây tre lá nhờ nguồn tài nguyên là các rừng lá buông của địa phương, các làng nghề khác như bánh đa, hủ tíu, gò thùng thiếc làng Kim Bích. Gia công đồ mỹ nghệ, làm các sản phẩm từ gỗ công nghệ, chế biến nông sản, sản xuất gạch ngói, đúc đồng, đúc gang... là những ngành nghề truyền thống nổi tiếng của Đồng Nai. Nắm bắt được thế mạnh này, Đồng Nai ra sức bảo vệ nghề truyền thống và thành lập các cụm công nghiệp nghề truyền thống, mở các lớp đào tạo nghề truyền thống là giải pháp then chốt và mới mẻ nhưng có tính cách lâu dài và là bước đi đúng đắn bảo vệ ngành nghề truyền thống trước sức ép phát triển của quá trình đô thị hóa, hội nhập kinh tế và đầu tư nước ngoài cho các ngành công nghiệp và dịch vụ hiện đại Du lịch. Đồng Nai có nhiều di tích lịch sử, văn hoá và các điểm du lịch có tiềm năng: Văn miếu Trấn Biên (Biên Hòa), đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, khu du lịch Bửu Long, khu du lịch ven sông Đồng Nai, Vườn quốc gia Nam Cát Tiên, làng bưởi Tân Triều, khu du lịch sinh thái Thác Mai - hồ nước nóng, Đảo Ó, chiến khu Đ, mộ cổ Hàng Gòn, đàn đá Bình Đa, khu du lịch thác Giang Điền, khu du lịch Long Châu Viên (Xuân Tân, Long Khánh), khu du lịch Vườn Xoài, khu di tích cấp quốc gia núi Chứa Chan (núi Gia Lào), Hồ Núi Le (Xuân Lộc), trung tâm hành hương Đức Mẹ núi Cúi (Gia Kiệm), khu du lịch Suối Mơ, làng du lịch Tre Việt, khu du lịch Bò Cạp Vàng, khu du lịch sinh thái Thủy Châu. Giao thông. Cơ sở hạ tầng giao thông. Đồng Nai là một tỉnh có hệ thống giao thông thuận tiện với nhiều tuyến đường huyết mạch quốc gia đi qua như Quốc lộ 1, quốc lộ 20, quốc lộ 51; tuyến đường sắt Bắc - Nam; gần cảng Sài Gòn, sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh tế trong vùng cũng như giao thương với cả nước đồng thời có vai trò gắn kết vùng Đông Nam Bộ với Tây Nguyên. Các dự án đường sắt cao tốc Bắc Nam, đường cao tốc Bắc Nam đều đi qua Đồng Nai . Tuyến đường sắt Bắc Nam đi qua dài 87,5 km với 8 ga: Biên Hoà, Hố Nai, Trảng Bom, Dầu Giây, Long Khánh, Bảo Chánh, Gia Ray và Trảng Táo. Tuyến đường sắt này là mạch máu giao thông quan trọng nối liền các tỉnh phía Bắc và Thành phố Hồ Chí Minh. Cảng hàng không quốc tế Long Thành là cửa ngõ đường hàng không vào Việt Nam cho khu vực Đông Nam Á và thế giới. Về giao thông đường thủy thì trên địa bàn tỉnh Đồng Nai có 3 khu cảng gồm có Khu cảng trên sông Đồng Nai,Khu cảng trên sông Nhà Bè – Lòng Tàu, và Khu cảng trên sông Thị Vải. Trong đó Khu cảng trên sông Đồng Nai gồm có các cảng là Cảng Đồng Nai, cảng SCTGAS-VN và cảng VTGAS (sử dụng bốc xếp hàng lỏng quy mô cho tàu 1000 DWT), Cảng tổng hợp Phú Hữu II, Cảng tại khu vực Tam Phước, Tam An. Các cảng tại Khu cảng trên sông Nhà Bè – Lòng Tàu gồm có cảng gỗ mảnh Phú Đông, cảng xăng dầu Phước Khánh, cảng nhà máy đóng tàu 76, cảng tổng hợp Phú Hữu 1, cảng cụm Công nghiệp Vật liệu xây dựng Nhơn Trạch, cảng nhà máy dầu nhờn Trâm Anh, cảng VIKOWOCHIMEX, cảng Sun Steel – China Himent, và các cảng chuyên dùng khác. Các cảng Khu cảng trên sông Thị Vải gồm có cảng Phước An, cảng Phước Thái, cảng Gò Dầu A, cảng Gò Dầu B, cảng Super Phosphat Long Thành, cảng nhà máy Unique Gas. Các tuyến đường quốc lộ. Tỉnh Đồng Nai có 4 tuyến quốc lộ chính là Quốc lộ 1, Quốc lộ 51, Quốc lộ 20, Quốc lộ 56. Như vậy, các tuyến quốc lộ đều đi qua tất cả các địa phương của tỉnh trừ 2 huyện Vĩnh Cửu và Nhơn Trạch. Huyện Nhơn Trạch đang phát triển đô thị thành nên giao thông đang được hoàn thiện. Riêng huyện Vĩnh Cửu có khu bảo tồn thiên nhiên với các cánh rừng bạt ngàn được xem là lá phổi xanh của tỉnh, chính vì vậy mà hạn chế mở quốc lộ qua đây giúp góp phần bảo vệ sự trong lành của môi trường. Biển số xe. Bênh cạnh Biên Hòa, Trảng Bom và Long Thành cũng là hai địa phương có lượng xe cơ giới lớn do sự phát triển của các địa phương và nhu cầu của người sử dụng. Huyện Trảng Bom và huyện Long Thành là 2 địa phương cấp huyện đầu tiên vượt qua mã biển số lần thứ 2 cụ thể là 60-H1 và 60-G1 của Đồng Nai nói riêng và khu vực phía Nam nói chung. Xuân Lộc cũng đã bước sang biển số mã 60-H5. Như vậy, Đồng Nai được xem là đơn vị cấp tỉnh có lượng xe cơ giới đông nhất cả nước và thứ 4 trên 63 tỉnh thành.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Nam là một tỉnh ven biển nằm ở cực bắc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Quảng Nam nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Năm 1997, tỉnh được tái lập trên cơ sở tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Đà) thành 2 đơn vị hành chính là tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng. Hiện nay tỉnh có 2 thành phố là Tam Kỳ (tỉnh lỵ) và Hội An. Năm 2019, Quảng Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 17 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 17 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 27 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,495,812 người, GRDP đạt 91.677 tỉ Đồng (tương ứng với 3,9816 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 61,07 triệu đồng (tương ứng với 2.632 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,11%. Trong 6 tháng đầu năm 2021, Quảng Nam nằm trong nhóm 9 tỉnh của cả nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) trên 2 con số (tăng 11,7%), đứng thứ 5 so với cả nước và cao nhất Vùng Kinh tế trọng điểm miền Trung. Quy mô nền kinh tế gần 51.973 tỷ đồng, đứng vị trí thứ 2 sau Đà Nẵng. Quảng Nam có Khu kinh tế mở Chu Lai nổi tiếng với nhà máy của THACO, là một đòn bẩy quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm Trung bộ. Năm 2018, khánh thành nhà máy sản xuất ô tô Thaco Mazda lớn nhất và hiện đại nhất Đông Nam Á tại Quảng Nam. Địa lý. Vị trí. Tỉnh Quảng Nam thuộc khu vực Nam Trung Bộ của miền Trung, nước Việt Nam, cách thủ đô Hà Nội 820 km về phía Bắc, cách thành phố Huế 235 km về phía Bắc, giáp với thành phố Đà Nẵng ở phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 900 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1A, có vị trí địa lý: Tỉnh lỵ của Quảng Nam đặt tại thành phố Tam Kỳ, có đô thị phố cổ Hội An. Quảng Nam nằm ở khoảng giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh tính theo đường Quốc lộ 1A. Tỉnh Quảng Nam diện tích 10.574,86 km², lớn thứ 6 của Việt Nam, dân số năm 2019 là 1.495.812 người, mật độ dân số đạt 170 người/km². Địa hình. Địa hình thấp dần từ tây sang đông và chia làm 3 vùng: vùng núi phía tây, trung du ở giữa và đồng bằng ven biển phía đông. Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình năm trên 25 °C, lượng mưa trung bình hàng năm đạt 2.000-2.500mm với hơn 70% tập trung vào 3 tháng mùa mưa (tháng 10, 11 và 12). Vu Gia - Thu Bồn và là hai lưu vực sông chính. Nhìn chung, điều kiện tự nhiên của Quảng Nam (thời tiết-khí hậu, địa hình, tài nguyên nước, biển) có nhiều thuận lợi, tiềm năng cho phát triển sự nghiệp văn hóa đa dạng, độc đáo (phát triển những tiểu vùng văn hóa), phát triển ngành du lịch (du lịch văn hóa, du lịch sinh thái). Quảng Nam có hướng địa hình nghiêng dần từ Tây sang Đông hình thành 3 kiểu cảnh quan sinh thái rõ rệt là kiểu núi cao phía Tây, kiểu trung du ở giữa và dải đồng bằng ven biển. Vùng đồi núi chiếm 72% diện tích tự nhiên với nhiều ngọn cao trên 2.000m như núi Lum Heo cao 2.045m, núi Tion cao 2.032m, núi Gole - Lang cao 1.855m (huyện Phước Sơn). Núi Ngọc Linh cao 2.598m nằm giữa ranh giới Quảng Nam, Kon Tum là đỉnh núi cao nhất của dãy Trường Sơn. Ngoài ra, vùng ven biển phía đông sông Trường Giang là dài cồn cát chạy dài từ Điện Ngọc, Điện Bàn đến Tam Quang, Núi Thành. Bề mặt địa hình bị chia cắt bởi hệ thống sông ngòi khá phát triển gồm sông Thu Bồn, sông Tam Kỳ và sông Trường Giang. Quảng Nam có đường bờ biển dài 125 km, ven biển có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng, như: Hà My (Điện Bàn), Cửa Đại (Hội An), Bình Minh (Thăng Bình), Tam Thanh (Tam Kỳ), Bãi Rạng (Núi Thành)... Cù Lao Chàm là cụm đảo ven bờ với hệ sinh thái phong phú được công nhận là khu dự trữ sinh quyển của thế giới. Khí hậu. Quảng Nam nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, chỉ có 2 mùa là mùa mưa và mùa khô, chịu ảnh hưởng của mùa đông lạnh miền Bắc. Nhiệt độ trung bình năm 25,6 °C, Mùa đông nhiệt độ vùng đồng bằng có thể xuống dưới 12 °C và nhiệt độ vùng núi thậm chí còn thấp hơn. Độ ẩm trung bình trong không khí đạt 84%. Lượng mưa trung bình 2000-2500mm. Mùa mưa thường kéo dài từ tháng 10 đến tháng 12, mùa khô kéo dài từ tháng 2 đến tháng 8, tháng 1 và tháng 9 là các tháng chuyển tiếp với đặc trưng là thời tiết hay nhiễu loạn và khá nhiều mưa. Mưa phân bố không đều theo không gian, mưa ở miền núi nhiều hơn đồng bằng. Vùng Tây Bắc thuộc lưu vực sông Bung (các huyện Đông Giang, Tây Giang và Nam Giang) có lượng mưa thấp nhất trong khi vùng đồi núi Tây Nam thuộc lưu vực sông Thu Bồn (các huyện Nam Trà My, Bắc Trà My, Tiên Phước và Hiệp Đức) có lượng mưa lớn nhất. Trà My là một trong những trung tâm mưa lớn nhất của Việt Nam với lượng mưa trung bình năm vượt quá 4,000 mm. Mưa lớn lại tập trung trong một thời gian ngắn trong 3 tháng mùa mưa trên một địa hình hẹp, dốc tạo điều kiện thuận lợi cho lũ các sông lên nhanh. Hiện có hai trạm khí tượng trên địa bàn tỉnh quan trắc đầy đủ các yếu tố khí tượng trong một thời gian dài (bắt đầu từ 1976) là trạm Tam Kỳ và trạm Trà My. Trạm Tam Kỳ đặt tại phường Hòa Thuận, thành phố Tam Kỳ được sử dụng để tính toán các yếu tố khí tượng liên quan cho vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh. Trạm Trà My đặt tại thị trấn Trà My, huyện Bắc Trà My được sử dụng để tính toán các yếu tố khí tượng liên quan cho vùng núi phía Tây của tỉnh. Giá trị trung bình của các yếu thời tiết cơ bản tại Tam Kỳ, đại diện cho vùng đồng bằng phía Đông của tỉnh được trình bày trong bảng dưới đây: Giá trị trung bình của các yếu thời tiết cơ bản tại Trà My, đại diện cho vùng núi phía Tây của tỉnh được trình bày trong bảng dưới đây: Thủy văn. Quảng Nam có hai hệ thống sông lớn là Vu Gia - Thu Bồn (VG-TB) và Tam Kỳ. Diện tích lưu vực VG-TB (bao gồm một phần lưu vực thuộc tỉnh Kon Tum, Quảng Ngãi, thành phố Đà Nẵng là 10,350 km², là 1 trong 10 hệ thống sông có diện tích lưu vực lớn nhất Việt Nam và lưu vực sông Tam Kỳ là 735 km². Các sông bắt nguồn từ sườn đông của dãy Trường Sơn, chảy chủ yếu theo hướng Tây-Đông và đổ ra biển Đông tại cửa Hàn (Đà Nẵng), cửa Đại (Hội An) và An Hòa (Núi Thành). Ngoài hai hệ thống sông trên, sông Trường Giang có chiều dài 47 km chảy dọc ven biển theo hướng Bắc - Nam kết nối hệ thống sông VG-TB và Tam Kỳ. Do địa hình đồi dốc và lượng mưa lớn nên mạng lưới sông ngòi của tỉnh Quảng Nam khá dày đặc. Mật độ sông ngòi trung bình là 0.47 km/km² cho hệ thống VG - TB và 0.6 km/km² cho các hệ thống sông khác. Các sông có lưu lượng dòng chảy lớn, đầy nước quanh năm. Lưu lượng dòng chảy trung bình năm của sông Vu Gia (tính đến thị trấn Thạnh Mỹ với diện tích lưu vực 1,850 km²) là 127 m³/s, của sông Thu Bồn (tính đến Nông Sơn với diện tích lưu vực 3,130 km²) là 281 m³/s. Chế độ dòng chảy của sông ngòi có sự phân mùa rõ rệt. Dòng chảy 3 tháng mùa lũ (tháng 10, 11, 12) chiếm 65 - 70% tổng dòng chảy cả năm trong khi dòng chảy vào mùa kiệt (từ tháng 2 đến tháng 8) rất thấp. Hai tháng 1 và 9 là các tháng chuyển tiếp với dòng chảy thất thường. Lưu lượng cực đại của Thu Bồn tại Nông Sơn là 10,600 m³/s và lưu lượng tối thiểu đo được là 15.7 m³/s trong khi đó lưu lượng cực đại của Vu Gia tại Thạnh Mỹ là 4,540 m³/s và cực tiểu là 10.5 m³/s. Lưu lượng lớn vào mùa mưa và thấp vào mùa khô là nguyên nhân chính gây nên lũ lụt và hạn hán trong vùng. Tài nguyên nước phong phú là tiền đề để phát triển thủy điện trên địa bàn. Tính đến 2015, trên địa bàn Quảng Nam có 8 dự án thủy điện có công suất lớn (trên 100 MW) và 35 thủy điện có công suất nhỏ. Nhiều nhà máy thủy điện công suất lớn như Sông Tranh 2, Đăk Mi 4, A Vương, Sông Bung 2, Sông Bung 4, Sông Kôn 2... đã và đang được xây dựng góp phần cung cấp điện cho nhu cầu ngày càng tăng của cả nước. Tài nguyên đất. Sử dụng đất: Theo số liệu thống kê, kiểm kê đất đai vào ngày 01.01.2010, trong tổng diện tích tự nhiên 1.043.836 ha, diện tích đất nông nghiệp chiếm 798.790 ha, diện tích đất phi nông nghiệp là 87.765 ha và diện tích đất chưa sử dụng là 157.281 ha. Tổng diện tích tự nhiên của Quảng Nam là 1.043.803ha được hình thành từ chín loại đất khác nhau gồm cồn cát và đất cát ven biển, đất phù sa sông, đất phù sa biển, đất xám bạc màu, đất đỏ vàng, đất thung lũng, đất bạc màu xói mòn trơ sỏi đá... Nhóm đất phù sa ven sông là nhóm đất quan trọng nhất trong phát triển cây lương thực, thực phẩm và cây công nghiệp ngắn ngày. Nhóm đất đỏ vàng vùng đồi núi thuận lợi cho trồng rừng, cây công nghiệp và cây ăn quả dài ngày. Nhóm đất cát ven biển đang được khai thác cho mục đích nuôi trồng thủy sản. Tài nguyên rừng. Tỉnh Quảng Nam có 425.921 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 40,9%; trữ lượng gỗ của tỉnh khoảng 30 triệu m3. Diện tích rừng tự nhiên là 388.803 ha, rừng trồng là 37.118 ha. Rừng giàu ở Quảng Nam hiện có khoảng 10 nghìn ha, phân bố ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung bình và rừng tái sinh, có trữ lượng gỗ khoảng 69 m3/ha. Các khu bảo tồn thiên nhiên trên địa bàn tỉnh nằm ở sông Thanh thuộc huyện Nam Giang. Tháng Tư năm 2011 nhà chức trách tỉnh Quảng Nam cho thành lập Khu Bảo tồn Thiên nhiên Sao La (tiếng Anh: Saola Nature Reserve), mở hành lang cho các sinh vật vùng núi giữa Lào và Việt Nam, nhất là loài sao la đang bị đe dọa. Rừng nhiệt đới lá rộng thường xanh là kiểu sinh thái chủ đạo của Quảng Nam. Quảng Nam là tỉnh giàu tiềm năng rừng nhưng do bị khai thác quá mức trong một thời gian dài nên diện tích rừng nguyên sinh còn ít. Việc đẩy mạnh trồng rừng trong những năm gần đây đã tăng diện tích đất có rừng của Quảng Nam lên hơn 55% vào năm 2014. Đây là một trong những địa phương có diện tích đất có rừng cao nhất cả nước. Rừng đặc dụng sông Thanh là khu bảo tồn lớn nhất tỉnh, nơi mà các động vật hoang dã khu vực Trung Trường Sơn đang được bảo tồn. Nhân sâm Ngọc Linh là cây dược liệu quý phân bố chủ yếu ở độ cao trên 1.000 m của núi Ngọc Linh. Lịch sử. Tên gọi Quảng Nam có nghĩa là "mở rộng về phương Nam". Quảng Nam là vùng đất giàu truyền thống văn hóa với hai di sản văn hóa thế giới là phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn. Quảng Nam còn là vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi sản sinh ra nhiều người con ưu tú cho đất nước. Năm 2008, Quảng Nam là tỉnh đầu tiên của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có 2 thành phố trực thuộc tỉnh (Tam Kỳ, Hội An). Đây cũng là tỉnh duy nhất của duyên hải Nam Trung Bộ vừa giáp biển vừa giáp biên giới, có đường biên giới quốc tế. Thời nhà Trần. Trước kia Quảng Nam là đất Chiêm Thành. Năm 1306 theo thỏa ước giữa vua Chiêm Thành là Chế Mân và vua Đại Việt là Trần Nhân Tông thì vua Chế Mân dâng hai châu, đó là: châu Ô tức Thuận Châu (nam Quảng Trị, Huế) và châu Lý tức Hóa Châu (một phần Huế, bắc sông Thu Bồn) làm sính lễ cưới con gái vua Trần Nhân Tông là công chúa Huyền Trân. Người Việt dần định cư tại hai vùng đất mới; người Chiêm Thành lùi dần về vùng đất còn lại phía Nam của vương quốc. Năm 1400, nhà Hồ thay thế nhà Trần. Nhà Hồ chia Hóa Châu thành 4 châu nhỏ hơn là Thăng Châu, Hóa Châu, Tư Châu và Nghĩa Châu và đặt An Phủ Sứ cai trị. Năm 1407, Trần Ngỗi khởi nghĩa ở Nghệ An xưng là Giản Định đế nhà Hậu Trần, có hai viên quan cũ nhà Hồ là Đặng Tất ở Hóa Châu (nay là Thừa Thiên - Huế) và Nguyễn Cảnh Chân ở Thăng Hoa (nay là Quảng Nam) theo giúp. Tháng Giêng âm lịch năm 1408, Trần Ngỗi cùng Đặng Tất chỉ huy quân nhà Hậu Trần đại phá 4 vạn quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy ở trận Bô Cô. Thời Lê. Năm 1471, sau khi chiếm vùng đất phía Nam Thuận Hóa cho đến đèo Cù Mông, vua Lê Thánh Tông lập thêm đơn vị hành chính thứ 13 - Thừa Tuyên Quảng Nam gồm 3 phủ: Thăng Hoa, Tư Nghĩa và Hoài Nhơn (nay là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định). Danh xưng Quảng Nam xuất hiện từ đây. Thời chúa Nguyễn. Sang thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh, Quảng Nam thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn (từ năm 1570). Hội An được nhà chúa chọn là điểm giao thương duy nhất với thế giới khi đó nên nhiều thương gia nước ngoài hay gọi vùng đất này là "Quảng Nam Quốc". Biên niên sử thời Nguyễn đã chép về giai đoạn này như sau: "Chúa ở trấn hơn 10 năm, (chúa Tiên Nguyễn Hoàng) chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều an cư lạc nghiệp, chợ không hai giá, không có trộm cướp. Thuyền buôn các nước đến nhiều. Trấn trở nên một đô hội lớn". Đến giữa thế kỷ 17, việc triều chính xứ Đàng Trong suy đồi. Thuế thì nặng; quan lại thì lợi dụng địa vị, sinh sự làm khổ dân. Trước hoàn cảnh đó, khi phong trào Tây Sơn bùng nổ, dân Quảng Nam cũng nổi dậy. Mùa thu năm 1773 khi quân Tây Sơn kéo ra Quảng Nam, dân Quảng Nam đã phối hợp cùng nghĩa quân phục kích ở Bến Đá (Thạch Tân, Thăng Hoa, Quảng Nam) đánh bại quân của chúa Nguyễn do các tướng Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Hữu Sách chỉ huy. Nhà Tây Sơn tuy vậy chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ngủi. Thời nhà Nguyễn. Năm 1806 vua Gia Long thống nhất đất nước. Về hành chính, vua chia đất nước thành 23 trấn và 4 doanh thuộc đất kinh kỳ gồm Trực Lệ-Quảng Đức, Quảng Bình, Quảng Trị và Quảng Nam doanh. Năm 1831, vua Minh Mạng đổi trấn và doanh thành tỉnh. Quảng Nam chính thức trở thành tỉnh từ năm này. Tỉnh Quảng Nam được chia thành 2 phủ: Thăng Bình (升平) (trước là Thăng Hoa) (gồm các huyện Lễ Dương (醴陽) Tam Kỳ (三岐), Hà Đông (河東), Quế Sơn (桂山)) và Điện Bàn (奠磐) (gồm các huyện Hòa Vang (和榮), Duy Xuyên (濰川), Diên Phúc (延福) (sau đổi là Diên Phước), Đại Lộc (大祿)). Thời Pháp thuộc. Năm 1888, dưới triều vua Thành Thái, Đà Nẵng bị tách khỏi Quảng Nam để trở thành đất nhượng địa của thực dân Pháp. Thời Việt Nam Cộng Hòa. Sau Hiệp định Genève, tỉnh Quảng Nam thời Việt Nam Cộng Hòa vào năm 1956 lại chia thành hai tỉnh mới lấy sông Rù Rì (tên gọi khác của sông Ly Ly) làm ranh giới là Quảng Nam ở phía Bắc gồm chín quận và Quảng Tín ở phía Nam gồm sáu quận. Chín (9) quận của Quảng Nam là: Tỉnh lỵ đóng tại Hội An thuộc quận Hiếu Nhơn (Hội An). Tỉnh Quảng Tín, từ sông Ly Ly vào đến Dốc Sỏi (ranh giới giữa Quảng Nam và Quảng Ngãi), gồm 6 quận: Dân số Quảng Tín lúc đó là 353.752 người; tỉnh lỵ đóng tại Tam Kỳ.  Sau năm 1975. Sau khi thống nhất đất nước, chính phủ Nhà Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết định sáp nhập 3 tỉnh: Quảng Nam, Quảng Tín và thành phố Đà Nẵng thành lập tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (Quảng Đà) với Đà Nẵng là tỉnh lị. Sau khi thành lập tỉnh, có những thay đổi hành chính như sau: chuyển thị xã Đà Nẵng thành thành phố Đà Nẵng, hợp nhất thị xã Tam Kỳ và 2 huyện Bắc Tam Kỳ, Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ. Đến năm 1980, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng có thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), thị xã Hội An, 12 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hòa Vang, Phước Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My. Ngày 4 tháng 2 năm 1982, thành lập huyện đảo Hoàng Sa. Ngày 3 tháng 12 năm 1983, chia huyện Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Núi Thành. Ngày 31 tháng 12 năm 1985, thành lập huyện Hiệp Đức trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Thăng Bình, 4 xã thuộc huyện Quế Sơn và 2 xã thuộc huyện Phước Sơn. Đến năm 1991, tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm: thành phố Đà Nẵng (tỉnh lị), 2 thị xã: Tam Kỳ, Hội An và 14 huyện: Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Hòa Vang, Hoàng Sa, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My. Năm 1997, theo Nghị quyết được ban hành tại kỳ họp thứ X của Quốc hội, tỉnh Quảng Đà được chia thành hai đơn vị hành chính độc lập gồm thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh Quảng Nam mới có 14 huyện gồm Đại Lộc, Điện Bàn, Duy Xuyên, Giằng, Hiên, Hiệp Đức, Núi Thành, Phước Sơn, Quế Sơn, Thăng Bình, Tiên Phước, Trà My và 2 thị xã: Tam Kỳ (tỉnh lị), Hội An. Ngày 16 tháng 8 năm 1999, huyện Giằng được đổi tên thành huyện Nam Giang. Ngày 20 tháng 6 năm 2003, chia huyện Trà My thành 2 huyện: Bắc Trà My và Nam Trà My; chia huyện Hiên thành 2 huyện: Đông Giang và Tây Giang. Ngày 5 tháng 1 năm 2005, chia thị xã Tam Kỳ thành thị xã Tam Kỳ và huyện Phú Ninh. Ngày 29 tháng 9 năm 2006, chuyển thị xã Tam Kỳ thành thành phố Tam Kỳ. Ngày 29 tháng 1 năm 2008, chuyển thị xã Hội An thành thành phố Hội An. Ngày 8 tháng 4 năm 2008, chia huyện Quế Sơn thành 2 huyện: Quế Sơn và Nông Sơn. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, chuyển huyện Điện Bàn thành thị xã Điện Bàn. Tỉnh Quảng Nam có 2 thành phố, 1 thị xã và 15 huyện như ngày nay. Ngày 5 tháng 2 năm 2016, thành phố Tam Kỳ là thành phố tỉnh lị trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Hành chính. Tỉnh Quảng Nam hiện có 18 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 15 huyện, được chia thành 241 đơn vị hành chính cấp xã gồm: 30 phường, 14 thị trấn, 197 xã. Dân số. Tính đến ngày 1/4/2019, dân số Quảng Nam là 1.495.812 người, với mật độ dân số trung bình là 170 người/km², đây cũng là tỉnh đông dân thứ 3 vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, 34,3% dân số sống ở đô thị và 65,7% dân số sống ở nông thôn. Dân cư phân bố trù mật ở dải đồng bằng ven biển, dọc quốc lộ 1A, đồng bằng Vu Gia Thu Bồn và Tam Kỳ. Mật độ dân số của Tam Kỳ, Hội An và Điện Bàn vượt quá 1.000 người/km². Trong khi rất thưa thớt ở các huyện miền núi phía Tây. Mật độ dân số trung bình của 6 huyện miền núi gồm Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang, Phước Sơn, Bắc Trà My và Nam Trà My là dưới 30 người/km². Với 65,7% dân số sinh sống ở nông thôn, Quảng Nam có tỷ lệ dân số sinh sống ở nông thôn cao hơn tỷ lệ trung bình của cả nước. Tuy nhiên quá trình đô thị hóa của tỉnh đang diễn ra mạnh mẽ sẽ tác động lớn đến sự phân bố dân cư nông thôn-thành thị trong thời gian tới. Theo cuộc tổng điều tra dân số ngày 1/4/2019, có 37 tộc người cùng sinh sống trên địa bàn Quảng Nam trong đó đông nhất là người Kinh (91,1%), người Cơ Tu (3,2%), người Xơ Đăng (2,7%), và người Gié Triêng (1,3%). 29 tộc người còn lại chỉ chiếm 0,9% dân số. Quảng Nam có lực lượng lao động dồi dào, với trên 887,000 người (chiếm 62% dân số toàn tỉnh), trong đó lao động ngành nông nghiệp chiếm 61,57%, ngành công nghiệp và xây dựng là 16,48% và ngành dịch vụ là 21,95%. Chất lượng nguồn lao động đang được cải thiện đáng kể. Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chiếm 30% tổng số lao động, trong đó nguồn nhân lực chất lượng cao là gần 18.000 người. Là một tỉnh với quy mô dân số trung bình, nhưng cơ cấu dân số trẻ và đa phần trong độ tuổi lao động sẽ đặt ra nhu cầu lớn về tiêu dùng và hưởng thụ văn hoá, nhất là các hoạt động văn hoá công cộng, các loại hình văn hoá, nghệ thuật mới, các hoạt động thể thao. Giai đoạn 2000-2010, dân số đô thị của tỉnh tăng chậm, từ 207.000 người (2000) lên hơn 260,000 người (2010). Việc hình thành các khu, cụm công nghiệp, khu kinh tế mở Chu Lai cùng với quá trình phát triển kinh tế nhằm đưa tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020 sẽ đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa cùng với lực lượng lao động dồi dào sẽ làm tăng mức độ di động dân số trong nội tỉnh cũng như ngoại tỉnh. Quá trình di động dân số (nội tỉnh và ngoại tỉnh) sẽ làm tăng mức độ giao thoa văn hóa. Quá trình đô thị hóa và di động dân số trong những năm tới đặt ra những vấn đề cho phát triển sự nghiệp Văn hóa của tỉnh, như: xây dựng môi trường văn hóa ở các khu công nghiệp, khu dân cư; nhu cầu văn hóa ở các khu đô thị, cụm dân cư (các sản phẩm văn hóa, dịch vụ văn hóa...). Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 11 tôn giáo khác nhau đạt 78,977 người, nhiều nhất là Công giáo có 37,526 người, tiếp theo là Phật giáo có 22,670 người, đạo Tin Lành có 11,730 người, đạo Cao Đài có 6,970 người. Còn lại các tôn giáo khác như Baha'i giáo có 36 người, Phật giáo Hòa Hảo có 17 người, Minh Sư đạo có 13 người, Bà La Môn có bảy người, Hồi giáo có năm người, Minh Lý đạo có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương. Kinh tế - xã hội. Tỉnh Quảng Nam phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp trước năm 2020. Năm 2018, Tỉnh có cơ cấu kinh tế: Công nghiệp và dịch vụ chiếm 88%, Nông-Lâm-Ngư Nghiệp 12%. Tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bình quân giai đoạn 2010-2015 là 16,3% (Năm 2015 là 11,53%). Quảng nam có 13 khu công nghiệp, kinh tế mở (Khu kinh tế mở Chu Lai). Do đó Quảng Nam hiện nay đang thiếu rất nhiều lao động-một nghịch lý khi tỷ lệ sinh viên không có việc làm trên cả nước rất lớn, Tổng sản phẩm nội địa 2010 khoảng hơn 23.000 tỷ đồng tăng lên hơn 89.900 tỷ đồng năm 2018.Thu ngân sách nhà nước tăng cao, năm 2018 thu ngân sách ướt đạt xấp xỉ 20.000 tỷ đồng (đứng 10/63 tỉnh thành, đứng thứ 2 các tỉnh miền trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận chỉ sau Thanh Hoá và Đà Nẵng. Năm 2018 chứng kiến nền kinh tế phát triển mạnh mẽ chỉ trong 9 tháng đầu năm thu ngân sách ướt đạt 16.300 tỷ đồng bằng 103,5% dự toán năm 2018 Dự kiến 2018 thu ngân sách khoảng xấp xỉ 26.000 tỷ đồng. Tuy nhiên thu ngân sách chủ yếu dựa vào khu phức hợp sản xuất và lắp ráp ô tô Trường Hải. Xuất khẩu 2018 ướt đạt trên 700 triệu USD. Tỉnh có cảng Kỳ Hà, Sân bay quốc tế Chu Lai. Phấn đấu đến năm 2020 GDP bình quân đầu người từ 3.400-3.600 USD (75-80 triệu đồng). Năm 2018 tỉnh này đón gần 5,4 triệu lượt khách du lịch (xếp thứ 2 miền trung sau Tp. Đà Nẵng với gần 6,1 triệu lượt). Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 3,81%. Cơ cấu kinh tế bao gồm: Năm 2019, Quảng Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 17 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 17 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 27 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,495,812 người, GRDP đạt 91.677 tỉ Đồng (tương ứng với 3,9816 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 61,07 triệu đồng (tương ứng với 2.632 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,11%. Tiềm năng phát triển thủy điện. Quảng Nam có hệ thống sông suối dày đặc với tiềm năng thủy điện lớn. Hệ thống sông Vu Gia - Thu Bồn với phần lớn lưu vực nằm trong địa giới tỉnh được đánh giá là có tiềm năng thủy điện lớn thứ tư cả nước đang được đầu tư khai thác. Hiện nay tỉnh có các nhà máy thủy điện đã và đang xây dựng như NMTĐ A Vương (210 MW - Tây Giang), Sông Bung 2 (100 MW), Sông Bung 4 (220 MW), Sông Giằng (60 MW), Đak Mi 1(255 MW), Đak Mi 4(210 MW), Sông Kôn 2 (60 MW), Sông Tranh 2 (135 MW)... Đa phần các nhà máy thủy điện nằm trên lưu vực sông Vu Gia nơi có địa hình dốc và tiềm năng thủy điện lớn. Việc xây dựng các công trình thủy điện thượng lưu Vu Gia - Thu Bồn ảnh hưởng lớn đến dòng chảy hạ lưu. Việc thủy điện Đăk Mi 4 chuyển nước từ Vu Gia sang Thu Bồn làm suy giảm đáng kể dòng chảy hạ lưu Vu Gia. Vào mùa kiệt từ tháng 2 đến tháng 8, vùng ven sông Vu Gia thường đối mặt với thiếu nước cho sinh hoạt và trồng trọt. dòng chảy bị suy giảm là nguyên nhân chính làm cho mặn xâm nhập sâu vào hạ lưu Vu Gia, Thu Bồn và Vĩnh Điện. Nạn lũ. Năm 2016. Hai đợt mưa lũ (kéo dài từ ngày 28-11 đến 17-12) đưa tới cái chết của 7 người, làm 33 người bị thương. Về nông nghiệp có 3.696 ha hoa màu, 823 ha lúa bị thiệt hại. Có gần 7.000 con gia súc, gia cầm bị chết trong lũ. Về giao thông các tuyến quốc lộ bị sạt lở với tổng khối lượng sạt lở, bồi lấp khoảng 180.000m3. Ước thiệt hại khoảng 473 tỉ đồng. Giao thông. Quảng Nam có hệ thống giao thông khá phát triển với nhiều loại hình như đường bộ, đường sắt, đường sông, sân bay và cảng biển. Quảng Nam có tuyến Quốc lộ 1A đi qua. Đường bộ. Hệ thống đường quốc lộ và tỉnh lộ trên địa bàn tỉnh được xây dựng theo hướng Bắc - Nam và Đông - Tây. Quốc lộ 1A đi qua địa phận các huyện, thị xã và thành phố: Núi Thành, Tam Kỳ, Phú Ninh, Thăng Bình, Quế Sơn, Duy Xuyên và Điện Bàn. Quốc lộ 14 đi qua địa phận các huyện: Phước Sơn, Nam Giang, Đông Giang và Tây Giang. Quốc lộ 14B đi qua địa phận các huyện Đại Lộc và Nam Giang. Quốc lộ 14E đi qua địa phận các huyện: Thăng Bình, Hiệp Đức và Phước Sơn. Ngoài ra tỉnh còn có 1 hệ thống đường bộ gồm các tỉnh lộ như 604, 607, 609, 610, 611, 614, 615, 616, 617, 618 (mới và cũ), 620 và nhiều hương lộ, xã lộ... Tổng chiều dài 85 km, tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng với bề rộng nền đường 12 m, mặt đường 11 m kết cấu mặt bê tông nhựa. Tổng chiều dài toàn tuyến 190 km tiêu chuẩn đường cấp IV miền núi với bề rộng nền đường 7,5 m, mặt đường 5,5 m kết cấu bê tông nhựa. Đoạn qua thị trấn, thị tứ có mặt cắt 22,5 m. Tổng chiều dài toàn tuyến 42 km tiêu chuẩn cấp IV với bề rộng nền đường 9 m, mặt đường 8 m kết cấu mặt bê tông nhựa. Tổng chiều dài toàn tuyến 74,4 km tiêu chuẩn đường cấp V với bề rộng nền đường 6,5 m, mặt đường 3,5 m kết cấu mặt đá dăm láng nhựa. Tổng chiều dài toàn tuyến 78,4 km, đoạn km 0 - km 23 tiêu chuẩn đường cấp V nền đường 6,5 m, mặt 3,5 m kết cấu bê tông nhựa; đoạn km 23 - km 78,4 tiêu chuẩn đường cấp IV đồng bằng nền 9 m, mặt 6 m kết cấu bê tông nhựa. Đường sắt. Trục đường sắt Việt Nam đi qua tỉnh này: Đường hàng không. Năm 1965, người Mỹ xây dựng sân bay Chu Lai, nhằm mục đích phục vụ các hoạt động quân sự ở miền Trung và Tây Nguyên. 40 năm sau, ngày 02 tháng 3 năm 2005, sân bay Chu Lai đón chuyến bay thương mại đầu tiên từ Thành phố Hồ Chí Minh, đánh dấu một sự kiện lịch sử của tỉnh. Năm 2010, Vietnam Airlines có tuyến bay Chu Lai - Hà Nội. Việc sân bay Chu Lai vào hoạt động thương mại sẽ thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển không chỉ của Quảng Nam (với khu công nghiệp Chu Lai) mà còn của tỉnh Quảng Ngãi (với khu công nghiệp Dung Quất). Xa hơn nữa, sân bay Chu Lai sẽ được phát triển thành sân bay quốc tế phục vụ cho việc trung chuyển hành khách và hàng hóa trong khu vực. Ngoài ra, việc đưa sân bay Chu Lai vào hoạt động sẽ giúp cho du khách đến với hai di sản văn hóa thế giới Hội An và Mỹ Sơn dễ dàng hơn. Đường sông. Quảng Nam có 941 km sông ngòi tự nhiên, đang quản lý và khai thác 307 km sông (chiếm 32,62%), gồm 11 sông chính. Hệ thống sông hoạt động chính gồm 2 hệ thống: sông Thu Bồn và sông Trường Giang, hai hệ thống sông này đều đổ ra biển Đông theo 3 cửa sông: sông Hàn, Cửa Đại và Kỳ Hà - Sông Trung ương quản lý: dài 132 km, gồm: Đoạn 1 sông Thu Bồn, sông Trường Giang. - Toàn bộ đường sông đang khai thác vận tải thủy của tỉnh Quảng Nam dài 207 km, gồm 11 tuyến: Sông Thu Bồn, sông Trường Giang, sông Vu Gia, sông Yên, sông Vĩnh Điện, sông Hội An, sông Cổ Cò, sông Duy Vinh, sông Bà Rén, sông Tam Kỳ và sông An Tân. Sông Thu Bồn: dài 95 km gồm Đoạn:Đoạn 1 dài 65 km, điểm đầu là Nông Sơn, điểm cuối là Cửa Đại, do Trung ương quản lý. Đoạn 2: dài 30 km, điểm đầu là ngã ba sông Tranh, điểm cuối là Nông Sơn, do địa phương quản lý. Sông Trường Giang: Dài 67 km, điểm đầu là ngã ba An Lạc và điểm cuối là Kỳ Hà, do Trung ương quản lý. Trong đó có 16 km thuộc sông cấp V, 51 km là sông cấp VI. Tuyến sông chạy dọc theo bờ biển phía Đông tỉnh Quảng Nam, nối liền với thị xã Hội An, Tam Kỳ và các huyện Duy Xuyên, Thăng Bình, Núi Thành. Là tuyến sông có luồng lạch không ổn định do lòng sông bị bồi cạn, nguyên nhân do việc hình thành đập Cổ Linh làm ảnh hưởng đến chế độ thủy triều từ Cửa Đại tới cửa Kỳ Hà. Hiện tại trên tuyến có nhiều chướng ngại vật và nhiều bãi cạn do các công trình vượt sông như cầu, đập thủy lợi, đường điện... không đảm bảo các thông số kỹ thuật. Sông Vu Gia: Dài 52 km, điểm đầu là ngã ba Quảng Huế, điểm cuối là bến Giằng, do địa phương quản lý. Là hợp lưu của sông Thu Bồn đạt tiêu chuẩn sông cấp VI, tuyến sông này chạy trên địa bàn huyện Nam Giang và huyện Đại Lộc. Đây là tuyến sông có vai trò quan trọng trong vận tải hàng hoá và hành khách đường sông của tỉnh Quảng Nam. Trên tuyến sông, vào mùa nước trung thì tàu thuyền có thể khai thác thuận lợi, sang mùa cạn chỉ khai thác được đến ngã ba Thượng Đức với chiều dài 23 km. Tuyến sông Vu Gia được chia thành 4 đoạn: Sông Yên: Dài 12 km, có điểm đầu là ngã ba Quảng Huế và điểm cuối là ranh giới thành phố Đà Nẵng, do địa phương quản lý. Tuyến sông trên địa bàn tỉnh Quảng Nam có dòng sông hẹp, nhiều đoạn cạn và có đập Pa Ra An Trạch chắn ngang. Đoạn từ ngã ba sông Yên đến Đại Hiệp đạt tiêu chuẩn VI. Sông Vĩnh Điện: Dài 12 km, điểm đầu tại km 43 + 500 sông Thu Bồn và điểm cuối là cầu Tứ Câu, do địa phương quản lý. Là sông cấp V, chảy qua 5 xã và 1 thị trấn thuộc huyện Điện Bàn. Đoạn sông này hẹp, có dòng chảy ổn định, thuận lợi cho việc khai thác vận tải thủy. Sông Vĩnh Điện nối giữa sông Thu Bồn và sông Hàn tạo thành tuyến vận tải thủy giữa thị xã Hội An, Vĩnh Điện và Đà Nẵng. Sông Hội An (sông Hoài): Dài 11 km, điểm đầu là ngã ba sông Thu Bồn tại km 54 + 400 và điểm cuối là km 63 + 00 sông Thu Bồn, do địa phương quản lý. Nằm trên địa phận thị xã Hội An, lòng sông có độ sâu ổn định thuận tiện cho các loại phương tiện hoạt động. Đạt tiêu chuẩn kỹ thuật sông cấp III. Sông Cổ Cò (sông Đế Võng): Dài 27,5 km có điểm đầu tại cửa Đại và điểm cuối nối vào sông Hàn thành phố Đà Nẵng do địa phương quản lý, tuyến chạy dọc bờ biển phía Bắc của tỉnh Quảng Nam bắt đầu từ ngã ba sông Hàn đến cửa Đại, được phân làm hai nhánh. Sông Duy Vinh: Dài 12 km, điểm đầu tại km 50 + 800 sông Thu Bồn và điểm cuối là km 5 + 700 sông Trường Giang, do địa phương quản lý. Là sông cấp V chiều rộng bình quân 100 m, độ sâu 1 - 1,5 m. Về mùa kiệt độ sâu chạy tàu chỉ đạt 1 m. Trên tuyến có 2 bãi cạn và 2 cầu, đặc biệt cầu máng Duy Vinh có tĩnh không thông thuyền thấp hơn 2 m. Sông Bà Rén: Dài 32 km, điểm đầu tại km 5 + 700 sông Trường Giang và điểm cuối là ngã ba Vạn Lý (phân lưu của sông Thu Bồn).. Sông Tam Kỳ: Dài 16 km, điểm đầu tại km 58 + 200 sông Trường Giang và điểm cuối là đập phía trên cầu đường sắt Tam Kỳ, do địa phương quản lý, tuyến sông đạt cấp VI, bắt đầu từ hồ Phú Ninh đổ về sông Trường Giang (xã Tam Tiến - huyện Núi Thành). Sông An Tân: Dài 7,5 km, điểm đầu tại ngã ba sông Trường Giang và điểm cuối là cầu Tam Mỹ, đây là tuyến sông đang khai thác ở dạng tự nhiên với chiều dài 7,0 km (từ ngã ba Trường Giang đến cầu đường sắt An Tân), dòng sông chảy uốn khúc, có nhiều chi lưu tạo thành những bãi cạn, độ sâu trung bình của sông -0,8 đến -1,0m. Đặc sản ẩm thực. Quảng Nam là tỉnh có rất nhiều đặc sản, ẩm thực địa phương như: hải sản, mì Quảng, cao lầu Hội An, bê thui Cầu Mống, quế Trà My, bánh tổ Hội An, cá chuồn Núi Thành, sâm ngọc linh Nam Trà My, bánh nậm, đường bát Quảng Nam, gỏi bòn bon Tiên Phước, rượu Hồng Đào, bánh tráng Đại Lộc, măng rừng, cơm lam Tây Bắc, củ nén, bánh bèo, ớt a riêu Đông Giang, rượu cần Tây Nguyên, cơm gà Tam Kỳ, xí mà Hội An, bánh thuẫn, bưởi trụ lông Đại Bình, rau rừng, ba kích tím, bánh khô mè, tam hữu Trà Quế, khoai lang xứ Quảng, gà tre Đèo Le, chè dây ra den Đông Giang, mía Điện Bàn, côn trùng Tây Bắc, nộm dưa chuối chát, rau sen nấu hến Nông Sơn, bánh tráng cuốn thịt heo, hạt tiêu Tiên Phước, bánh bao - bánh vạc, mít hông Tam Kỳ, bánh đậu xanh mặn, rau xương rồng, chè Hội An, bánh sừng trâu Cơ Tu, món hến, bánh tráng nhúng đường, dưa kiệu Thăng Bình, ốc đá sông Tiên, kẹo đậu phộng (bánh cu đơ), cam Tây Giang, bánh mì Hội An, zơ rá Cơ Tu, bánh xèo, nước mắm Tam Thanh, mật ong rừng, bánh tráng Phú Triêm, xôi đường, chuối mốc Tiên Phước, bánh đập Hội An, măng núi trộn, mực cơm bãi Ngang, dứa Đại Lộc, rượu tr'đin Tây Giang, cháo lươn xanh, bánh bột lọc, nhộng ong miền Tây, cá niên, táo mèo Nam Trà My, hoành thánh Hội An, phở sắn Đông Phú, rượu tà vạt, ram tôm, nếp đắng Lộc Đại, nước mắm Cửa Khe, nấm lim xanh, yến sào Cù Lao Chàm.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.534686
Địa lý & Hành chính
null
null
Red Deer là một thành phố nhỏ nằm ở trung tâm của tỉnh bang Alberta, Canada, và gần như nằm ngay giữa Calgary và Edmonton. Dân số (2004) vào khoảng 76.000 người và tính theo dân số là thành phố lớn thứ ba của Alberta. Nghị sĩ hiện tại của Red Deer là Bob Mills.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.505373
Địa lý & Hành chính
null
null
Quận Cam hay Quận Orange () là một quận (hạt) ở miền nam tiểu bang California, Hoa Kỳ. Với dân số 3.010.232 theo Thống kê Dân số 2010 của Mỹ, Quận Cam là quận đông dân đứng thứ nhì tại tiểu bang này và thứ ba toàn quốc. Địa lý. Theo Điều tra Dân số 2010 của Cục Thống kê Dân số Hoa Kỳ, Quận Cam có tổng diện tích 2.460 km² trong đó đất liền là 2.050 km² mặt nước chiếm 410 km² (16,6% tổng diện tích). Quận giáp Thái Bình Dương về phía tây, Quận Los Angeles về phía bắc, Quận San Bernardino về phía đông bắc, Quận Riverside về phía đông và Quận San Diego về phía nam. Điểm cao nhất của Quận là (1.734 m) cách phía đông Santa Ana khoảng 32 km. Gần Santiago Peak là chỉ thấp hơn 60 m, đỉnh của nó được biết với cái tên Saddleback có thể thấy được từ hầu hết mọi nơi trong Quận. Danh lam thắng cảnh. Thời tiết ấm áp và các bãi biển quanh năm tại khu vực này thu hút hàng triệu du khách hàng năm. Huntington Beach là một điểm nóng để tắm nắng và lướt sóng. Nhiều cuộc thi lướt sóng ("surfing") được tổ chức tại thành phố này hàng năm. Một số công viên giải trí nổi tiếng trên thế giới có tại quận này, như Disneyland và Disney's California Adventure tại Anaheim và Knott's Berry Farm tại Buena Park. Trường Đại học California tại Irvine và nơi sinh trưởng của cố Tổng thống Richard Nixon cũng ở trong quận này. Khu vực Little Saigon (Tiểu Sài Gòn) trong quận này cũng đáng được chú ý, vì đây là nơi cư ngụ của số người Việt đông đảo nhất ngoài lãnh thổ Việt Nam. Dân số. Theo thống kê, quận này có 3.010.232 người, 935.287 hộ và 667.794 gia đình. Mật độ dân số là 1.392 người/km². Có 969.484 đơn vị nhà cửa. Các dân tộc trong quận này gồm có 64,81% người da trắng, 1,67% người Mỹ gốc Phi, 0,70% người da đỏ, 13,59% người Mỹ gốc Á, 0,31% người gốc các đảo Thái Bình Dương, 14,80% các dân tộc khác, và 4,12% lai nhiều hơn một chủng tộc. 30,76% dân số là người Hispanic. Vào năm 2007, có khoảng 135.000 người gốc Việt trong số 3 triệu dân trong quận, và có 10 người Việt được bầu vào các cơ quan chính quyền địa phương như Hội đồng thành phố, Ban lãnh đạo nhà trường và Hội đồng quận. Cuối năm 2014, lần đầu tiên cả ba thành phố nằm cận kề nhau ở Quận Cam, nơi có đông người Việt sinh sống, đều có thị trưởng là người gốc Việt Nam: Tạ Đức Trí thị trưởng của thành phố Westminster, Michael Võ thị trưởng ở thành phố Fountain Valley và Bảo Nguyễn, thị trưởng thành phố Garden Grove.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam . Năm 2021, Hải Dương là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 8 về số dân với 1.936.774 người, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,5%. GRDP đạt 149.700 tỉ đồng (tương ứng với 6,480 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 77 triệu đồng (tương ứng với 3.347 USD). Hải Dương thuộc Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương (hiện là đô thị loại I), cách thủ đô Hà Nội 57 km về phía Đông, cách trung tâm thành phố Hải Phòng 45 km về phía Tây. Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng. Địa lý. Vị trí địa lý. Hải Dương là một tỉnh thuộc Đồng bằng sông Hồng, trải dài từ 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc, 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hải Dương, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 57 km về phía tây, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 45 km về phía đông, có vị trí địa lý: Địa hình. Hải Dương có diện tích 1.662 km², là tỉnh có diện tích trung bình trong số các tỉnh thành ở Việt Nam, được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc của tỉnh thuộc thành phố Chí Linh và thị xã Kinh Môn, chiếm khoảng 11% diện tích tự nhiên. Đây là vùng đồi núi thấp, phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất màu mỡ, thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Khí hậu. Hải Dương nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (mùa xuân, mùa hạ, mùa thu, mùa đông). Vào giai đoạn từ tiết lập xuân đến tiết thanh minh (khoảng đầu tháng 2 - đầu tháng 4 dương lịch) có hiện tượng mưa phùn và nồm là giai đoạn chuyển tiếp từ mùa khô sang mùa mưa. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả, đặc biệt là sản xuất cây rau màu vụ đông. Tài nguyên. Các khoáng sản chính: Lịch sử. Xuất xứ tên gọi Hải Dương. Tên gọi Hải Dương (海 陽) chính thức có từ năm 1469. Hải (海) là biển. Dương (陽) là mặt trời. Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy Hải Dương có nghĩa là "mặt trời biển Đông" hay "ánh sáng từ miền duyên hải (phía đông) chiếu về". Thời phong kiến (trước năm 1887), Hải Dương là một miền đất rộng lớn, phía tây đến Bần Yên Nhân, Đạo Khê - bên cầu Lực Điền (thuộc Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên), phía đông đến vùng biển An Dương (nay thuộc thành phố Hải Phòng), phía bắc từ Trạm Điền xuống núi Tam Ban, Yên Tử (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh), phía nam đến Tứ Kỳ, Vĩnh Bảo. Miền đất Hải Dương luôn ở vị trí chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong "Dư địa chí", Nguyễn Trãi đã đánh giá Hải Dương là trấn thứ nhất trong bốn kinh trấn và là phên giậu phía đông của kinh thành Thăng Long. Lỵ sở của Hải Dương. 1.Từ thời Hùng Vương đến cuối thời Trần, lỵ sở của Hải Dương đặt thành Dền (Ngọc Lặc, Tứ Kỳ). 2.Từ cuối đời Trần đến năm 1740, lỵ sở chuyển sang đặt tại Dinh Vạn (Thành Vạn) thuộc thôn Kiều Quan, xã Mặc Động, huyện Chí Linh. 3.Từ năm 1740-41 (sau cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở đất Ninh Xá) đến năm 1804, lỵ sở đặt ở ở Dinh Dậu (Mao Điền - Cẩm Giàng) 4.Từ năm 1804 đến nay đặt ở Thành Đông (trấn Hàm), huyện Cẩm Giàng (nay là thành phố Hải Dương). Như vậy, khu vực Thành Dền có lịch sử lâu đời; trong khi Chí Linh cũng có thời gian là lỵ sở Hải Dương khá dài trên dưới 400 năm. Lịch sử hành chính. Đời Hùng Vương, địa bàn tỉnh Hải Dương ngày nay thuộc bộ Dương Tuyền, thời nhà Tần thuộc Tượng quận, thời nhà Hán thuộc quận Giao Chỉ, thời Đông Ngô thuộc Giao Châu, nhà Đường đặt ra Hải Môn trấn, sau đổi thành Hồng Châu. Nhà Đinh chia làm đạo, vùng Hải Dương vẫn mang tên là Hồng Châu, nhà Tiền Lê cũng theo như nhà Đinh. Thời Nhà Lý đổi thành lộ Hồng, sau đổi thành lộ Hải Đông. Đến thời Nhà Trần đổi lại thành lộ Hồng, rồi lại đổi thành lộ Hải Đông. Sau đó đổi làm 4 lộ: Hồng Châu thượng, Hồng Châu hạ và Nam Sách thượng, Nam Sách hạ, (còn gọi chung là Nam Sách Giang). Năm Quang Thái thứ 10 (1397), vua Trần Thuận Tông đổi lộ Hải Đông thành trấn Hải Đông. Thời kỳ thuộc Minh (1407-1427), vùng đất Hải Dương thuộc hai phủ Lạng Giang và Tân An. Thời Nhà Hậu Lê, niên hiệu Thuận Thiên (1428-1433), vua Lê Thái Tổ cho thuộc Đông Đạo. Khoảng niên hiệu Diên Ninh (1454-1459), vua Lê Nhân Tông chia lại thành 2 lộ là Nam Sách thượng và Nam Sách hạ. Năm Quang Thuận thứ 7 (1466), vua Lê Thánh Tông đặt thừa tuyên Nam Sách. Năm 1469 đổi làm thừa tuyên Hải Dương. Danh xưng Hải Dương chính thức ra đời, lúc này Lỵ sở đặt tại Trấn Doanh Vạn, Ải Vạn (hay còn gọi là Dinh Vạn) Xã Mạc Động huyện Chí Linh đây là trung tâm hành chính của thừa tuyên Hải Dương đến năm 1739. Năm Hồng Đức thứ 21 (1490) đổi làm xứ Hải Dương. Năm Hồng Thuận thứ nhất (1509), vua Lê Tương Dực đổi làm trấn Hải Dương. Từ năm 1527 đến năm 1592, Nhà Mạc gọi là đạo Hải Dương. Năm 1529, Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) trao ngôi vua cho con là Mạc Đăng Doanh còn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng về Cổ Trai, lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh. Đời nhà Lê trung hưng, khoảng niên hiệu Quang Hưng (1578-1599), vua Lê Thế Tông đổi làm trấn theo nguyên như cũ. Năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741), vua Lê Hiển Tông chia làm 4 đạo: Thượng Hồng, Hạ Hồng, Đông Triều và An Lão. Nhà Tây Sơn đem phủ Kinh Môn thuộc Hải Dương đổi thuộc vào Yên Quảng. Năm 1802, vua Gia Long đem Kinh Môn thuộc về trấn cũ và cho lệ thuộc vào Bắc Thành. Năm 1804, đời vua Gia Long, lỵ sở Hải Dương được chuyển từ Mao Điền (Cẩm Giàng) về phía đông 15 km thuộc tổng Hàn Giang, huyện Cẩm Giàng, đặt trên vùng đất cao thuộc ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt với mục tiêu trấn thành án ngữ vùng biên hải phía đông Kinh đô Thăng Long, vì vậy có tên gọi là Thành Đông, nghĩa là đô thành ở phía đông (nay là Thành phố Hải Dương ). Năm Minh Mạng thứ 3 (1822), đổi phủ Thượng Hồng làm phủ Bình Giang, phủ Hạ Hồng làm phủ Ninh Giang, còn hai đạo Đông Triều và An Lão thì đặt làm hai huyện. Năm Minh Mạng thứ 12 (1831) chia thành một tỉnh độc lập và đổi làm tỉnh Hải Dương gồm 5 phủ và 19 huyện. Năm 1887, thực dân Pháp tách một số huyện ven biển của Hải Dương, đặt thành tỉnh Hải Phòng. Ngày 19 tháng 7 năm 1888, Tổng thống Pháp Sadi Carnot ký sắc lệnh thành lập thành phố Hải Phòng và Hà Nội - thành phố Hải Phòng chính thức có tên trên bản đồ Liên bang Đông Dương. Theo sắc lệnh thành phố Hải Phòng được tách ra từ tỉnh Hải Phòng, phần còn lại của tỉnh Hải Phòng lập thành tỉnh Kiến An. Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Tháng 3 năm 1947, chia thành phố Hải Dương thành 2 quận rồi trở về thành thị xã. Năm 1968, tỉnh Hải Dương sáp nhập với Hưng Yên thành tỉnh Hải Hưng, tỉnh lỵ là thị xã Hải Dương. Năm 1977, hợp nhất 2 huyện Cẩm Giàng và Bình Giang thành huyện Cẩm Bình. Năm 1979, hợp nhất 2 huyện Gia Lộc và Tứ Kỳ thành huyện Tứ Lộc; hợp nhất 2 huyện Kim Thành và Kinh Môn thành huyện Kim Môn; hợp nhất 2 huyện Nam Sách và Thanh Hà thành huyện Nam Thanh; hợp nhất 2 huyện Ninh Giang và Thanh Miện thành huyện Ninh Thanh. Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia 2 huyện Tứ Lộc và Ninh Thanh thành 4 huyện như cũ. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hải Dương từ tỉnh Hải Hưng. Khi tách ra, tỉnh Hải Dương có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Hải Dương và 8 huyện: Cẩm Bình, Chí Linh, Gia Lộc, Kim Môn, Nam Thanh, Ninh Giang, Thanh Miện, Tứ Kỳ. Ngày 17 tháng 2 năm 1997, chia lại các huyện Cẩm Bình, Kim Môn và Nam Thanh thành 6 huyện như cũ. Ngày 6 tháng 8 năm 1997, chuyển thị xã Hải Dương thành thành phố Hải Dương. Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố Hải Dương được công nhận là đô thị loại II. Ngày 12 tháng 2 năm 2010, chuyển huyện Chí Linh thành thị xã Chí Linh. Ngày 1 tháng 3 năm 2019, chuyển thị xã Chí Linh thành thành phố Chí Linh. Ngày 17 tháng 5 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 580/QĐ-TTg công nhận thành phố Hải Dương mở rộng đạt tiêu chí đô thị loại I trực thuộc tỉnh Hải Dương. Ngày 1 tháng 11 năm 2019, chuyển huyện Kinh Môn thành thị xã Kinh Môn. Tỉnh Hải Dương có 2 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Hải Dương có 12 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 9 huyện với 235 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 47 phường, 178 xã và 10 thị trấn. Dân số. Năm 2020 Tỉnh Hải Dương có 1.936.774 người. Đây cũng là tỉnh đông dân nhất Bắc Bộ (nếu không tính Hà Nội và Hải Phòng - 2 thành phố trực thuộc Trung ương). Thành phần dân số: Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 6 tôn giáo khác nhau, đạt 62.274 người. Nhiều nhất là Công giáo có 52.812 người, tiếp theo là Phật giáo có 9.290 người, đạo Tin Lành có 163 người. Còn lại các tôn giáo khác như: Hồi giáo có bảy người, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài mỗi tôn giáo chỉ có một người. Kinh tế. Trên cơ sở số liệu ước tính được Tổng cục Thống kê công bố, Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP theo giá 2010) ước tăng 8,6% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng thấp thứ 2 (năm 2015 – 8,2%) trong vòng 5 năm trở lại đây, cao hơn bình quân cả nước (ước tăng gần 7,0%); thấp hơn một số tỉnh lân cận như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hà Nam, Ninh Bình; trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản (NLTS) giảm 3,1%; công nghiệp - xây dựng tăng 11,9% (công nghiệp +12,2%, xây dựng +10,1%); dịch vụ tăng 6,7%. Đóng góp vào tăng trưởng chung 8,6%, nhóm ngành NLTS làm giảm 0,3 điểm%; công nghiệp, xây dựng đóng góp 6,7 điểm% (trong đó, công nghiệp đóng góp 6,1 điểm%, xây dựng đóng góp 0,6 điểm%); dịch vụ đóng góp 2,2 điểm%. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông, lâm nghiệp, thủy sản, tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp - xây dựng và dịch vụ; cơ cấu kinh tế ước đạt 8,8% - 59,7% - 31,5% (năm 2018 là 9,9% - 57,3% - 32,8%). Ngành NLTS năm 2018 tăng trưởng cao (+5,9%) nên đóng góp làm tăng GRDP 0,7 điểm%; tuy nhiên năm 2019 ước giảm 3,1% đã kéo "lùi" tăng trưởng của tỉnh xuống 0,3 điểm%. Đây là nguyên nhân chính làm cho GRDP của tỉnh tăng thấp hơn năm trước 0,7 điểm% (NLTS làm giảm 1 điểm%); nguyên nhân do giá trị, sản lượng cây lúa, cây vải giảm, chăn nuôi bị ảnh hưởng của dịch tả lợn châu Phi. Ngành công nghiệp, xây dựng của tỉnh vẫn duy trì mức tăng trưởng cao, trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục khẳng định là điểm sáng, động lực chính của tăng trưởng kinh tế với mức tăng cao 13,5%, đó là nhờ sự đóng góp chủ lực của các ngành sản xuất sản phẩm điện tử; ngành sản xuất trang phục; ngành sản xuất bê tông và các sản phẩm từ xi măng... Ngành xây dựng vẫn duy trì mức tăng trưởng cao, tốc độ tăng 10,1%, đóng góp 0,6 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung. "Về thu hút đầu tư trong nước", năm 2019, đã chấp thuận đầu tư cho 192 dự án trong nước ngoài khu công nghiệp (gồm: 128 dự án mới và 64 dự án điều chỉnh), tổng số vốn đầu tư thu hút khoảng 10.764,6 tỷ đồng, thu hồi 23 dự án. "Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài", đã thu hút được 808,3 triệu USD tăng 25% so với cùng kỳ năm 2018. Trong đó cấp mới cho 65 dự án với số vốn đăng ký 461,1 triệu USD; điều chỉnh tăng vốn đầu tư cho 30 lượt dự án với số vốn tăng thêm 362,2 triệu USD. Tổng vốn đầu tư thực hiện ước đạt 700 triệu USD. Trên địa bàn tỉnh Hải Dương hiện có 451 dự án đầu tư nước ngoài, với tổng vốn 8.382,4 triệu USD. Năm 2019, quy mô kinh tế Hải Dương đứng thứ 5 trong khu vực các tỉnh trọng điểm kinh tế Bắc bộ, đứng thứ 11 trong cả nước, thu nhập bình quân đầu người đứng thứ 19 và thu ngân sách Nhà nước đạt 20.024 tỷ đồng - là một trong 16 tỉnh, thành tự cân đối thu chi ngân sách từ năm 2017. Văn hóa. Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực ở Hải Dương như: vải thiều Thanh Hà, bánh đa Lộ Cương, rươi Tứ Kỳ, thịt trâu chợ Vé, nếp cái hoa vàng Kinh Môn, rượu Phú Lộc, bún cá rô đồng, mắm cáy An Thanh, giò chả Gia Lộc, bánh gai Ninh Giang, củ đậu Kim Thành, bún tươi Đông Cận, chim cút Hà Tràng, na Hoàng Tiến, bánh cuốn Hàn Giang, cốm làng Thạc, táo thiện phiến Gia Lộc, bánh đậu xanh Hải Dương, bột sắn dây Kinh Môn, mì gạo Tống Buồng, thịt chó An Xá, giò chả Tân Hương, hành sấy Mạn Đê, gà đồi Chí Linh, cà rốt Đức Chính, chả ốc Thanh Miện, bánh đa nướng Kẻ Sặt, rươi Vĩnh Lập, nếp quýt Kim Thành, cau đông Thanh Hà, giò chả Thái Thịnh, giải ngó khoai Lê Hồng, gỏi cá mè Cẩm Hoàng, mì gạo Tống Buồng, ổi Liên Mạc, thịt chuột chợ Giống, bánh dày Gia Lộc, bánh lòng Huề Trì, dưa kiệu Ngọc Liên, mì gạo Hội Yên, rượu Văn Giang, hành tỏi Kinh Môn, bánh đa nướng Đào Lâm. Di tích - danh thắng. Một số di tích được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng (gắn liền với nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử hay văn hóa địa phương): Lễ hội. Một số lễ hội chính gắn liền với nhân vật, sự kiện lịch sử và tục thờ mẫu, tứ phủ trong cộng đồng: Nghệ thuật chèo ở Hải Dương. Trong "Tứ chiếng chèo" đồng bằng sông Hồng thì Hải Dương là trung tâm của chiếng chèo Đông (vùng đất gồm Hải Dương, Hải Phòng, đông Hưng Yên, tây Quảng Ninh ngày nay). Hải Dương là cái nôi chèo lớn của Việt Nam với những tên tuổi như Huyền Nữ Phạm Thị Trân và các cố NSND Trùm Thịnh, Trùm Bông, cố NSND Trịnh Thị Lan, cố NSND Nguyễn Thị Minh Lý, NSND Minh Huệ, NSND Thúy Mơ... Đặc biệt, Nghệ nhân Phạm Thị Trân đã được vua Đinh Tiên Hoàng phong chức Ưu Bà và giao cho việc dạy múa hát trong cung đình và cho quân lính. Bà được được ghi danh là Tổ nghề đầu tiên trong lịch sử sân khấu chèo Việt Nam. Nghệ thuật chèo được hình thành từ thế kỷ 10 tại Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) dưới thời nhà Đinh. Ưu bà Phạm Thị Trân đã truyền dạy nghệ thuật chèo cho cung nữ và quân lính. Sau đó chèo phát triển rộng ra lãnh thổ Đại Cồ Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra). Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình. Chèo trở về với nông dân, gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Nghệ thuật chèo Đồng bằng sông Hồng trở thành cái nôi chèo với Tứ chiếng chèo Đông, Đoài, Nam, Bắc. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc với kinh đô Thăng Long - Hà Nội ở vị trí trung tâm. Mỗi chiếng có những "ngón nghề" riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau. Chiếng chèo Đông gồm khu vực các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và phía đông bắc Hưng Yên. Số liệu thống kê các hội diễn ở Hải Dương năm 2020 cho thấy có tới 80% số tiết mục là chèo, 20% số tiết mục còn lại là ca nhạc, múa. Có những đội chèo có tới trên 50 năm liên tục hoạt động như An Bình, Nam Hưng (Nam Sách), Nhân Quyền, Kiến Quốc (Bình Giang), An Lạc (Chí Linh), Bông Sen (Kinh Môn). Riêng ở xã An Bình từ một đội chèo của toàn xã, nay đã phát triển lên 4 CLB văn nghệ ở 4 thôn, mỗi CLB có trên 30 diễn viên, nhạc công, người trẻ nhất 30 tuổi, cao nhất 82 tuổi. Nhà hát Chèo Hải Dương là đơn vị nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh Hải Dương; có chức năng tổ chức biểu diễn, nghiên cứu, liên kết, hướng dẫn, truyền nghề về nghệ thuật chèo nhằm đáp ứng nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của mọi tầng lớp nhân dân, góp phần bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Giáo dục - Y tế. Giáo dục. Hải Dương là đất học từ xa xưa, vùng đất Xứ Đông này là quê hương của nhiều nho sĩ, Trạng nguyên Việt Nam và Thủ khoa Đại Việt. Trong thời kì phong kiến Hải Dương có 12 Trạng nguyên (tính theo đơn vị hành chính mới, 15 vị tính theo đơn vị hành chính cũ) đứng thứ hai cả nước (sau Bắc Ninh) và có 3 Thủ khoa Đại Việt, hàng ngàn tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa. Nằm bên đường quốc lộ 5, cách thành phố Hải Dương 15 km về phía bắc, thuộc xã Cẩm Điền, huyện Cẩm Giàng (Hải Dương), văn miếu Mao Điền được biết tới là một trong số ít văn miếu hàng tỉnh còn tồn tại ở Việt Nam. Lịch sử của văn miếu bắt đầu từ hơn 500 năm về trước. Từ giữa thế kỷ 15 cho đến khoa thi cuối cùng của nhà Nguyễn, nơi đây trở thành nơi thi hương của vùng trấn Hải Dương. Đặc biệt trong thời Nhà Mạc (1527-1593) đã bốn lần tổ chức thi đại khoa ở Mao Điền. Chỉ đứng sau Văn Miếu - Quốc Tử Giám, với hơn 500 năm tồn tại và thờ hơn 600 vị tiến sĩ, văn miếu Mao Điền đã trở thành niềm tự hào về truyền thống hiếu học của con người Xứ Đông. Nền giáo dục hiện tại của Hải Dương được xem là một trong cái nôi đào tạo nhân tài của Việt Nam. Nhiều học sinh gốc từ Hải Dương đã đạt giải cao trong các kỳ thi Olympic Quốc tế. Trong kỳ thi toán Quốc tế, nổi bật như Đinh Tiến Cường huy chương vàng toán Quốc tế năm 1989 với số điểm tuyệt đối 42/42, hiện tại là giáo sư toán học tại Đại học Paris 6 . Trong các kỳ thi Cao đẳng và Đại học, cũng như các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia. Hải Dương luôn trong nhóm dẫn đầu của Việt Nam. Trong kỳ thi học sinh giỏi quốc gia 2012, Hải Dương đứng thứ 5 cả nước (theo đơn vị tỉnh thành) về tổng số huy chương . Trên địa bàn Hải Dương có các trường Đại học và cao đẳng: Y tế. Ở Hải Dương có hàng chục bệnh viện phục vụ cho người dân, trong đó một số bệnh viện nổi bật như: 15.Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh (CDC Hải Dương) 16. Các Trung tâm Y tế của Thành phố, Thị xã và các huyện trong tỉnh 17. Bệnh viện Mắt Quốc tế DND Hải Dương Giao thông. Đường bộ. Hải Dương là tỉnh có nhiều đoạn quốc lộ chạy qua: Đường sắt. Hải Dương có tuyến đường sắt Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với đường 5, vận chuyển hàng hóa, hành khách qua 7 ga trong tỉnh Hải Dương. Ngoài ra còn có tuyến đường sắt Yên Viên - Cái Lân chạy qua Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm, nông, thổ sản ở các tỉnh miền núi phía bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân (Quảng Ninh), cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh này. Đường thủy. Hải Dương có 16 tuyến sông chính nối với các sông nhỏ dài 400 km; các loại tàu, thuyền trọng tải 500 tấn có thể qua lại. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn/năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thủy một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên là điều kiện cho việc giao lưu kinh tế từ trong tỉnh đi cả nước và nước ngoài thuận lợi.Hiện tại trên địa bàn tỉnh Hải Dương có 12 tuyến sông do Trung ương quản lý như Sông Thái Bình, sông Thương, sông Luộc, sông Kinh Thầy, sông Kinh Môn... Tổng chiều dài 274,5 km, trong đó có sông Thái Bình, sông Luộc là những tuyến đường thủy quan trọng của khu vực đồng bằng sông Hồng. Các tuyến xe buýt. Hiện tại, có tất cả 16 tuyến xe buýt xuất phát từ thành phố Hải Dương đi đến trung tâm các huyện trong tỉnh Hải Dương và các tỉnh, thành lân cận.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.641275
Địa lý & Hành chính
null
null
Tân Bình là tên một phủ thuộc tỉnh Gia Định ở miền Nam Việt Nam trước đây. Địa danh này tồn tại đến đầu thời Pháp thuộc thì bị chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ. Vùng đất phủ Tân Bình trước khi giải thể gần tương ứng với địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Lịch sử. Theo sách "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức, vào năm Mậu Dần (1698), chúa Nguyễn Phúc Chu cử Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào Nam kinh lý. Nguyễn Hữu Cảnh lấy đất Nông Nại đặt làm phủ Gia Định, lập đất Đồng Nai làm huyện Phước Long, lập ra dinh Trấn Biên, lập xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lập dinh Phiên Trấn. Tân Bình khi đó là huyện duy nhất của dinh Phiên Trấn, phủ Gia Định, có địa giới rất rộng, nằm từ hữu ngạn sông Sài Gòn đến tả ngạn sông Vàm Cỏ với diện tích khoảng 11.000 km², tức trên 1/5 diện tích toàn Nam bộ (63.058 km²). Năm 1808, dưới thời vua Gia Long, huyện Tân Bình được nâng lên thành phủ Tân Bình, bốn tổng trực thuộc lúc bấy giờ là: Bình Dương, Tân Long, Thuận An, Phước Lộc đều được đổi thành huyện. Từ năm Minh Mạng thứ 13 (1832), phủ Tân Bình trở thành vùng đất của tỉnh Gia Định. Về sau, do tách đất để lập thêm các phủ Tân An (1832) và Tây Ninh (1836) nên diện tích phủ Tân Bình chỉ còn lại khoảng 1.280 km², gồm 2 huyện: Bình Dương và Tân Long. Năm 1841, tách một phần huyện Bình Dương để lập ra huyện Bình Long (lỵ sở đặt tại Hóc Môn). Phủ Tân Bình lúc này bao gồm 3 huyện với 18 tổng, 365 thôn (hoặc các đơn vị hành chính cơ sở khác tương đương như: ấp, bang, điếm, giáp, hộ, lân, nậu, phường, sóc, thủ, thuộc, xã) trực thuộc: Sau khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ vào năm 1867, chính quyền thực dân Pháp bãi bỏ các đơn vị hành chính phủ, huyện, phân chia lại toàn bộ cõi Nam Kỳ. Các hạt thanh tra về sau cũng được đổi thành hạt tham biện ("arrondissement"), do các Chánh tham biện ("administrateur") người Pháp đứng đầu. Tuy vậy, chính quyền thực dân Pháp vẫn giữ lại cơ cấu hành chính cấp thấp như tổng, xã thôn. Như vậy, phủ Tân Bình cùng các huyện trực thuộc đã bị bãi bỏ hoàn toàn.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.543931
Địa lý & Hành chính
null
null
Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung Việt Nam. Năm 2018, Khánh Hòa là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 33 về số dân, xếp thứ 24 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 15 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 42 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.232.400 người dân, GRDP đạt 76.569 tỉ Đồng (tương ứng với 3,3250 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 62,13 triệu đồng (tương ứng với 2.698 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,36%. Khánh Hòa ngày nay là phần đất cũ của xứ Kauthara thuộc vương quốc Chăm Pa. Năm 1653, lấy cớ vua Chiêm Thành là Bà Tấm quấy nhiễu dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần sai quan cai cơ Hùng Lộc đem quân sang đánh chiếm được vùng đất Phan Rang trở ra đến Phú Yên. Năm 1832 , Vua Minh Mạng thành lập tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở trấn Bình Hòa. Sau lần hợp nhất vào năm 1975, đến năm 1989, Quốc hội lại chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa cho đến ngày nay. Địa lý. Vị trí địa lý. Khánh Hòa nằm ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam, có vị trí địa lý: Tỉnh lỵ của Khánh Hòa là thành phố Nha Trang, cách Thành phố Hồ Chí Minh 443 km về phía Nam, cách Đà Nẵng 531 km về phía Bắc và cách thủ đô Hà Nội 1.280 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1. Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.197 km². Phần đất liền của tỉnh nằm kéo dài từ tọa độ địa lý 12°52’15" đến 11°42’50" vĩ độ Bắc và từ 108°40’33" đến 109°29’55" kinh độ Đông. Điểm cực Đông trên đất liền của Khánh Hòa nằm tại Mũi Đôi trên bán đảo Hòn Gốm, huyện Vạn Ninh và cũng là điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam. Chiều dài vào khoảng 150 km, chiều ngang chỗ rộng nhất vào khoảng 90 km. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử chia cắt và sáp nhập nên 9.300 ha nằm giữa xã Ea Trang (huyện M'Drắk, tỉnh Đắk Lắk) và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) nên cả hai tỉnh Đắk Lắk và Khánh Hòa đều tranh chấp để phân định địa giới hành chính. Địa hình. Là một tỉnh nằm sát dãy núi Trường Sơn, đa số diện tích Khánh Hòa là núi non, miền đồng bằng rất hẹp, chỉ khoảng 400 km², chiếm chưa đến 1/10 diện tích toàn tỉnh. Miền đồng bằng lại bị chia thành từng ô, cách ngăn bởi những dãy núi ăn ra biển. Do đó để đi suốt dọc tỉnh phải đi qua rất nhiều đèo như đèo Cả, đèo Cổ Mã, đèo Chín Cụm, đèo Bánh Ít, đèo Rọ Tượng, đèo Rù Rì. Vùng núi và bán sơn địa. Khánh Hòa là một tỉnh có địa hình tương đối cao ở Việt Nam, độ cao trung bình so với mực nước biển khoảng 60 m. Núi ở Khánh Hòa tuy hiếm những đỉnh cao chót vót, phần lớn chỉ trên dưới một ngàn mét nhưng gắn với dãy Trường Sơn, lại là phần cuối phía cực Nam nên địa hình núi khá đa dạng. Phía Bắc và Tây Bắc tỉnh có vùng núi cao thuộc dãy Vọng Phu cao hơn 1000 m, trong đó có dãy Tam Phong gồm ba đỉnh núi cao là Hòn Giữ (cao 1264 m), Hòn Ngang (1128 m) và Hòn Giúp (1127 m). Dãy Vọng Phu - Tam Phong có hướng tây nam - đông bắc, kéo dài trên 60 km, tạo thành ranh giới tự nhiên giữa hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên, Đắk Lắk. Các núi thuộc đoạn giữa của tỉnh thường có độ cao kém hơn, có nhiều nhánh đâm ra sát biển tạo nên nhiều cảnh đẹp, gắn với những huyền thoại dân gian và di tích lịch sử, sự kiện của địa phương. Đến phía nam và tây nam, lại xuất hiện một vùng núi rộng, với nhiều đỉnh núi cao trên 1500 m đến trên 2000 m, trong đó có Đỉnh Hòn Giao (2062 m) thuộc địa phận huyện Khánh Vĩnh, là đỉnh núi cao nhất Khánh Hòa. Do có nhiều núi cao, mật độ chia cắt lớn bởi khe, suối, sông tạo thành nhiều hẻm, vực, Thung lũng sâu, gây khó khăn cho giao thông. Ngoài ra, khu vực này còn có Thung lũng Ô Kha, được biết đến là một vùng nguy hiểm cho hàng không. Đồng bằng. Đồng bằng ở Khánh Hòa nhỏ hẹp, bị chia cắt bởi các dãy núi đâm ra biển. Chẳng những thế, địa hình rừng núi của tỉnh không thuận lợi cho quá trình lắng đọng phù sa, nên nhìn chung Khánh Hòa không phải là nơi thuận lợi để phát triển nông nghiệp. Các đồng bằng lớn ở Khánh Hòa gồm có đồng bằng Nha Trang - Diên Khánh nằm ở hai bên sông Cái với diện tích 135 km²; đồng bằng Ninh Hòa do sông Dinh bồi đắp, có diện tích 100 km². Cả hai đồng bằng này đều được cấu tạo từ đất phù sa cũ và mới, nhiều nơi pha lẫn sỏi cát hoặc đất cát ven biển. Ngoài ra, Khánh Hòa còn có hai vùng đồng bằng hẹp là đồng bằng Vạn Ninh và đồng bằng Cam Ranh ở ven biển, cùng với lượng diện tích canh tác nhỏ ở vùng Thung lũng của hai huyện miền núi Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Bờ biển và biển ven bờ. Không những có đường bờ biển dài nhất, Khánh Hòa còn là một trong những tỉnh có đường bờ biển đẹp của Việt Nam. Đường bờ biển kéo dài từ xã Đại Lãnh tới cuối vịnh Cam Ranh, có độ dài khoảng 385 km tính theo mép nước với nhiều cửa lạch, đầm, vịnh, cùng khoảng 200 đảo lớn, nhỏ ven bờ. Khánh Hòa có sáu đầm và vịnh lớn, đó là Đại Lãnh, vịnh Vân Phong, Hòn Khói, đầm Nha Phu, vịnh Nha Trang (Cù Huân) và vịnh Cam Ranh. Trong đó có nổi bật nhất vịnh Cam Ranh với chiều dài 32 km, chiều rộng 16 km, thông với biển thông qua eo biển rộng 1,6 km, có độ sâu từ 18–20 m, và thường được xem là cảng biển có điều kiện tự nhiên tốt nhất Đông Nam Á, trước đây được sử dụng làm căn cứ quân sự của Hoa Kỳ rồi Liên Xô (sau này là Nga) nhưng về sau được chuyển thành cảng dân sự. Thềm lục địa tỉnh Khánh Hòa rất hẹp. Địa hình vùng thềm lục địa phản ánh sự tiếp nối của cấu trúc địa hình trên đất liền. Các nhánh núi Trường Sơn đâm ra biển trong quá khứ địa chất như dãy Phước Hà Sơn, núi Hòn Khô, dãy Hoàng Ngưu không chỉ dừng lại ở bờ biển để tạo thành các mũi Hòn Thị, mũi Khe Gà (Con Rùa), mũi Đông Ba... mà còn tiếp tục phát triển rất xa về phía biển mà ngày nay đã bị nước biển phủ kín. Vì vậy, dưới đáy biển phần thềm lục địa cũng có những dãy núi ngầm mà các đỉnh cao của nó nhô lên khỏi mặt nước hình thành các hòn đảo như hòn Tre, hòn Miếu, hòn Mun... Xen giữa các đái đảo nổi, đảo ngầm là những vùng trũng tương đối bằng phẳng gọi là các đồng bằng biển, đó chính là đáy các vũng, vịnh như vịnh Vân Phong, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh. Ngoài các đảo đá ven bờ, Khánh Hoà còn có các đảo san hô ở huyện đảo Trường Sa, với khoảng 100 đảo bãi cạn, bãi ngầm rải rác trên một diện tích từ 160 đến 180 ngàn km², trong đó có từ 23 đến 25 đảo, bãi cạn nổi thường xuyên, với tổng diện tích 10 km². Đảo lớn nhất trong quần đảo Trường Sa là Ba Bình chỉ rộng 0,65 km². Bãi lớn nhất là bãi Thuyền Chài, dài 30 km; rộng 5 km (ngập nước khi triều lên). Địa hình trên bề mặt các đảo rất đơn giản, chỉ là những mõm đá, vách đá vôi san hô, cao vài ba mét. Địa chất - tài nguyên. Cấu tạo địa chất của Khánh Hòa chủ yếu là đá granit và ryolit, dacit có nguồn gốc mác ma xâm nhập hoặc phún trào kiểu mới. Ngoài ra còn có các loại sa thạch, trầm tích ở một số nơi. Về địa hình kiến tạo, phần đất của tỉnh Khánh Hòa đã được hình thành từ rất sớm, là một bộ phận thuộc rìa phía Đông-Nam của địa khối cổ Kom Tom, được nổi lên khỏi mặt nước biển từ đại Cổ sinh, cách đây khoảng 570 triệu năm. Trong đại Trung sinh có 2 chu kỳ tạo sản inđôxi và kimêri có ảnh hưởng một phần đến Khánh Hòa. Do quá trình phong hóa vật lý, hóa học diễn ra trên nền đá granit, ryolit đã tạo thành những hình dáng độc đáo, đa dạng và phong phú, góp phần làm cho thiên nhiên Khánh Hòa có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng. Khánh Hòa có nhiều tài nguyên khoáng sản như than bùn, cao lanh, sét, sét chịu lửa, vàng sa khoáng, cát thủy tinh, san hô, đá granit, quặng ilmênit, nước khoáng, phục vụ sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp khai thác. Ngoài ra còn có nhiều tài nguyên biển, bao gồm các nguồn rong, tảo thực vật, trữ lượng hải sản lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến hải sản; các điều kiện thuận lợi để khai thác sinh vật biển và nuôi trồng thủy sản. Sông ngòi. Sông ngòi ở Khánh Hòa nhìn chung ngắn và dốc, cả tỉnh có khoảng 40 con sông dài từ 10 km trở lên, tạo thành một mạng lưới sông phân bố khá dày. Hầu hết, các con sông đều bắt nguồn tại vùng núi phía Tây trong tỉnh và chảy xuống biển phía Đông. Dọc bờ biển, cứ khoảng 5–7 km có một cửa sông. Mặc dù hướng chảy cơ bản của các sông là hướng Tây - Đông, nhưng tùy theo hướng của mạch núi kiến tạo hoặc do địa hình cục bộ, dòng sông có thể uốn lượn theo các hướng khác nhau trước khi đổ ra biển Đông. Đặc biệt là sông Tô Hạp, bắt nguồn từ dãy núi phía Tây của huyện Khánh Sơn, chảy qua các xã Sơn Trung, Sơn Bình, Sơn Hiệp, Sơn Lâm, Thành Sơn rồi chảy về phía Ninh Thuận. Đây là con sông duy nhất của tỉnh chảy ngược dòng về phía Tây. Hai con sông lớn nhất tỉnh là Sông Cái (Nha Trang) và sông Dinh. Sông Cái có độ dài 79 km, bắt nguồn từ hòn Gia Lê cao 1.812 m chảy qua Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Nha Trang rồi đổ ra biển qua Cửa Bé (Tiểu Cù Huân) và Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Dinh bắt nguồn từ vùng núi Chư H'Mư (đỉnh cao 2.051 m) thuộc dãy Vọng Phu, có tổng diện tích lưu vực 985 km², chảy qua thị xã Ninh Hòa và đổ ra đầm Nha Phu. Khí hậu. Khánh Hòa là một tỉnh ở vùng duyên hải cực Nam Trung Bộ, nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới xavan. Song khí hậu Khánh Hòa có những nét biến dạng độc đáo với các đặc điểm riêng biệt. So với các tỉnh, thành phía Bắc từ Đèo Cả trở ra và phía Nam từ Ghềnh Đá Bạc trở vào, khí hậu ở Khánh Hòa tương đối ôn hòa hơn do mang tính chất của khí hậu đại dương. Thường chỉ có 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa nắng. Mùa mưa ngắn, từ khoảng giữa tháng 9 đến giữa tháng 12 dương lịch, tập trung vào 2 tháng 10 và tháng 11, lượng mưa thường chiếm trên 50% lượng mưa trong năm. Những tháng còn lại là mùa nắng, trung bình hàng năm có tới 2.600 giờ nắng. Nhiệt độ trung bình hàng năm của Khánh Hòa cao khoảng 26,7 °C riêng trên đỉnh núi Hòn Bà (cách Nha Trang 30 km đường chim bay) có khí hậu như Đà Lạt. Độ ẩm tương đối khoảng 80,5%. Từ tháng 1 đến tháng 8, có thể coi là mùa khô, thời tiết thay đổi dần. Những tháng đầu mùa, trời mát, nhiệt độ từ 17-25 °C, nhưng từ tháng 5 đến tháng 8 trời nóng nực, nhiệt độ có thể lên tới 34 °C (ở Nha Trang) và 37-38 °C (ở Cam Ranh). Tháng 9 đến tháng 12, được xem như mùa mưa, nhiệt độ thay đổi từ 20-27 °C (ở Nha Trang) và 20-26 °C (ở Cam Ranh). Khánh Hòa là vùng ít gió bão, tần số bão đổ bộ vào Khánh Hòa thấp chỉ có khoảng 0,82 cơn bão/năm so với 3,74 cơn bão/năm đổ bộ vào bờ biển Việt Nam. Các trận bão được dự đoán sẽ đổ bộ vào Khánh Hòa trong những năm gần đây thường lệch hướng vào Nam hoặc tan ngay khi gần vào bờ. Tuy vậy, do địa hình sông suối có độ dốc cao nên khi có bão kèm theo mưa lớn, làm nước dâng cao nhanh chóng, trong khi đó sóng bão và triều dâng lại cản đường nước rút ra biển, nên thường gây ra lũ lụt. Lịch sử. Thời tiền sử và Vương quốc Chăm Pa. Các tư liệu khảo cổ học khẳng định rằng ngay từ thời tiền sử, con người đã sinh sống ở Khánh Hòa. Ở Hòn Tre trong Vịnh Nha Trang các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra nhiều công cụ bằng đá của một nền nông nghiệp dùng cuốc. Với việc phát hiện ra bộ đàn đá Khánh Sơn vào tháng 2 năm 1979 tại huyện Khánh Sơn, cho thấy chủ nhân của bộ đàn đá này đã sinh sống ở đây khoảng giữa thiên niên kỷ 1 TCN. Các di chỉ đã phát hiện của nền văn hóa Xóm Cồn (Ba Ngòi, Cam Ranh) cho phép khẳng định nền văn hóa thời đại đồ sắt ở Khánh Hòa có niên đại khoảng gần 4000 năm và phát triển sớm hơn văn hóa Sa Huỳnh. Nằm trong địa bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh, Khánh Hòa có nhiều di chỉ khảo cổ học về nền văn hóa này như: Diên Sơn, Bình Tân, Hòn Tre, Ninh Thân. Vào đầu Công Nguyên, một bộ phận trong bộ tộc Cau (Kranukavamsa) - một trong hai bộ tộc lớn của người Chăm Pa thời bấy giờ - đã thành lập nên một tiểu quốc và được đặt tên là Tiểu quốc Nam Chăm (bia ký ghi là Panrăn hay Panduranga). Tiểu quốc này gồm hai xứ là Panrăn (khu vực ngày nay là Phan Rang, Phan Thiết) và Kauthara (khu vực Khánh Hòa ngày nay). Đối địch với Tiểu quốc Nam Chăm là Tiểu quốc Bắc Chăm ở khu vực thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay. Sau đó, trải qua nhiều thế kỷ nội chiến liên miên, vương quốc Chăm Pa được thành lập trên cơ sở sự thống nhất của hai xứ Nam Chăm và Bắc Chăm. Đến thế kỷ VIII, Nam Chăm chiếm ưu thế dẫn đến sự ra đời của Vương triều Panduranga (Hoàn Vương Quốc), vùng Kauthara từ đó phát triển đến mức cực thịnh với những khu đền tháp to lớn và linh thiêng mà tiêu biểu là ngôi đền Po Nagar thờ vị nữ thần mẹ xứ sở Yang Pô Y Na Gar. Đến nay, vẫn còn tồn tại nhiều bia ký ghi bằng tiếng Phạn và tiếng Chăm cổ ở Khánh Hòa nằm rải rác ở nhiều nơi. Trung đại. Năm 1653, lấy cớ vua Chiêm Thành là Bà Tấm (hay còn gọi là Bà Bật) quấy nhiễu dân Việt ở Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần đã sai quan cai cơ Hùng Lộc Hầu Trương Phúc Hùng đem 3000 quân sang đánh. Thất bại nặng nề, vua Chiêm Thành sai con mang thư hàng và xin dâng đất cho Chúa từ sông Phan Rang trở ra đến Phú Yên. Chúa chấp thuận và đặt dinh Thái Khang gồm hai phủ là phủ Thái Khang gồm các huyện Tân Định, Quảng Phước ở phía bắc (nay là các huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh) và phủ Diên Ninh gồm các huyện Phước Diên, Hoa Châu, Vĩnh Xương ở phía nam (nay là các huyện Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Sơn, thị xã Cam Ranh, thành phố Nha Trang và một phần phía Bắc của tỉnh Ninh Thuận), giao cho Hùng Lộc làm thái thú. Từ đó, vùng đất này đã trở thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam và công cuộc khai khẩn lập làng của người Việt được đẩy mạnh. Dân cư sống tập trung tại các hạ lưu sông Dinh và sông Cái. Đến năm 1690, phủ Thái Khang được đổi tên thành phủ Bình Khang. Năm 1742, phủ Diên Ninh đổi thành phủ Diên Khánh. Vào năm 1771, ba anh em nhà Tây Sơn dấy binh đánh Chúa Nguyễn. Chỉ ba năm sau, quân Tây Sơn đã kiểm soát vùng đất kéo dài từ Quy Nhơn đến Bình Thuận. Sau đó, tướng nhà Nguyễn là Tống Phúc Hạp kéo quân ra đánh lấy lại được Dinh Bình Thuận và Phủ Diên Khánh nhưng rồi lại bị Nguyễn Huệ đem quân đánh lấy lại được hai vùng trên. Tháng 7 năm 1793, Định Vương Nguyễn Phúc Ánh thân chinh thống lĩnh đại binh thủy, bộ từ Gia Định kéo ra Nha Trang. Từ Nha Trang tấn công lên Diên Khánh. Quân Tây Sơn không cầm cự nổi phải bỏ Diên Khánh và Bình Khang. Nguyễn Ánh sai người xây thành Diên Khánh, lập xưởng đóng thuyền. Sau đó, tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu còn hai lần đem quân vào đánh nữa vào các năm 1794, 1795 nhưng đều không thành. Năm 1802, sau khi đánh bại nhà Tây Sơn, Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long. Năm 1803, Dinh Bình Khang được đổi tên thành Dinh Bình Hòa, phủ Bình Khang cũng được đổi tên thành phủ Bình Hòa nhưng sở lỵ đã được chuyển từ đây sang phủ Diên Khánh. Năm 1808, Dinh được đổi thành Trấn. Đến năm 1831 (năm Minh Mạng thứ 12), trấn Bình Hòa được đổi tên thành tỉnh Khánh Hòa, còn phủ Bình Hòa trở thành phủ Ninh Hòa. Vào thời điểm đó, tỉnh Khánh Hòa gồm 2 phủ, 4 huyện là: Phủ Diên Khánh gồm 2 huyện: Phước Điền, Vĩnh Xương; Phủ Ninh Hòa gồm 2 huyện: Quảng Phước và Tân Định, tỉnh lỵ là Phủ Diên Khánh. Năm 1884, triều đình nhà Nguyễn ký kết hiệp ước Patenotre với Pháp, tạo cơ sở cho việc thiết lập chính quyền đô hộ của Pháp ở Việt Nam và sự suy yếu của nhà Nguyễn. Là một tỉnh ở xứ Trung Kỳ, Khánh Hòa vẫn là bộ phận của Nam triều, đồng thời tồn tại Chính quyền bảo hộ Pháp. Quan lại của Nam triều gồm có chức tuần vũ, án sát coi việc hành chính, lãnh binh coi việc canh gác và giữ gìn an ninh trong tỉnh, đóng tại Diên Khánh. Cơ quan bảo hộ Pháp gồm có chánh sứ, phó sứ và giám binh, đóng tại Nha Trang. Nha Trang dần phát triển thành thị trấn. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, giao tỉnh Khánh Hòa cho các quan Nam triều quản lý, cơ quan hành chính của tỉnh dời xuống Nha Trang. Từ đó, Nha Trang chính thức trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Khánh Hòa. Thời kỳ từ 1945 đến nay. Ngày 19 tháng 8 năm 1945, lực lượng Việt Minh ở Khánh Hòa đứng dậy giành chính quyền, nhưng chỉ nắm chính quyền được hai tháng thì Pháp đổ bộ lên Nha Trang và đánh chiếm lại. Năm 1955, dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Khánh Hòa cũng được tổ chức lại trên mọi phương diện. Các phủ huyện đổi thành quận. Các làng đổi thành xã. Tháng 5 năm 1959, hai tổng Krong Jing và Krong Hinh thuộc tỉnh Đắk Lắk được sáp nhập vào tỉnh Khánh Hòa và lập thành quận Khánh Dương. Tháng 4 năm 1960, 12 thôn Thượng thuộc quận Cam Lâm được trích ra khỏi Khánh Hòa để nhập vào quận Du Long tỉnh Ninh Thuận. Tháng 10 năm 1965, một phần đất quận Cam Lâm ở phía Nam bị cắt để thành lập thị xã Cam Ranh trực thuộc trung ương (khu đặc biệt Cam Ranh). Trong vòng 3 ngày 1, 2 và 3 tháng 4 năm 1975, quân giải phóng miền Nam Việt Nam lần lượt tiếp quản Ninh Hòa, Nha Trang và Cam Ranh. Việc chuyển giao chính quyền diễn ra trong hòa bình vì hầu hết quân đội Việt Nam Cộng hòa đã rút hết về phòng tuyến Phan Rang. Sau năm 1975, tỉnh Khánh Hòa hợp nhất với tỉnh Phú Yên và thị xã Cam Ranh thành tỉnh Phú Khánh. Đồng thời, hợp nhất thị xã Cam Ranh và huyện Cam Lâm thành huyện Cam Ranh, hợp nhất hai huyện Diên Khánh và Vĩnh Xương thành huyện Khánh Xương, hợp nhất hai huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh thành huyện Khánh Ninh, thành lập huyện Khánh Vĩnh. Ngày 10 tháng 3 năm 1977, chuyển thị xã Nha Trang thành thành phố Nha Trang, sáp nhập huyện Khánh Sơn vào huyện Cam Ranh, hợp nhất hai huyện Khánh Xương và Khánh Vĩnh thành huyện Diên Khánh. Ngày 5 tháng 3 năm 1979, huyện Khánh Ninh được chia lại thành 2 huyện: Ninh Hòa và Vạn Ninh. Ngày 28 tháng 12 năm 1982, huyện đảo Trường Sa từ tỉnh Đồng Nai chuyển sang tỉnh Phú Khánh. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Phú Khánh thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Khi tách ra, tỉnh Khánh Hòa có 8 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Nha Trang, các huyện: Cam Ranh, Diên Khánh, Khánh Sơn, Khánh Vĩnh, Ninh Hòa, Vạn Ninh và huyện đảo Trường Sa. Ngày 7 tháng 7 năm 2000, chuyển huyện Cam Ranh thành thị xã Cam Ranh. Ngày 11 tháng 4 năm 2007, tách một số xã của thị xã Cam Ranh và huyện Diên Khánh để tái lập huyện Cam Lâm. Ngày 22 tháng 4 năm 2009, thành phố Nha Trang được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Khánh Hòa. Ngày 25 tháng 10 năm 2010, chuyển huyện Ninh Hòa thành thị xã Ninh Hòa. Ngày 23 tháng 12 năm 2010, chuyển thị xã Cam Ranh thành thành phố Cam Ranh. Hành chính. Tỉnh Khánh Hòa có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố trực thuộc tỉnh, 1 thị xã và 6 huyện với 139 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 35 phường, 6 thị trấn và 98 xã. Hội đồng nhân dân tỉnh, với các đại biểu được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 5 năm, có quyền quyết định các kế hoạch phát triển dài hạn về kinh tế, văn hóa, giáo dục... của tỉnh. Đứng đầu Hội đồng Nhân dân gồm một Chủ tịch, một Phó chủ tịch và một Uỷ viên thường trực. Hội đồng Nhân dân chịu sự giám sát và hướng dẫn hoạt động của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, chịu sự hướng dẫn và kiểm tra của Chính phủ trong việc thực hiện các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên theo quy định của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch Hội đồng nhân dân hiện nay là ông Nguyễn Tấn Tuân. Hội đồng Nhân dân tỉnh bầu nên Ủy ban Nhân dân, cơ quan trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý về mọi hoạt động chính trị, an ninh, kinh tế và văn hóa trên địa bàn Khánh Hòa. Đứng đầu Ủy ban Nhân dân gồm một Chủ tịch và các Phó chủ tịch. Các sở, ngành của Ủy ban Nhân dân sẽ quản lý về các lĩnh vực cụ thể, như y tế, giáo dục, đầu tư, tư pháp, tài chính. Tương tự, cấp thành phố, thị xã, huyện cũng có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân chịu sự chỉ đạo chung của cấp tỉnh. Ngoài ra, Ủy ban Nhân dân còn quản lý Đài Phát thanh - Truyền hình Khánh Hòa và một số tổng công ty trên địa bàn tỉnh. Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh hiện nay là ông Nguyễn Tấn Tuân. Bên cạnh Chủ tịch Hội đồng Nhân dân và Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Khánh Hòa (Tỉnh ủy Khánh Hòa) còn bầu ra Bí thư Tỉnh ủy, hiện nay là ông Nguyễn Khắc Định được Bộ Chính trị phân công vào tháng 10 năm 2019. Quyền hạn và trách nhiệm của Bí thư Tỉnh ủy được quy định theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVII, nhiệm kỳ 2015-2020 gồm 53 vị: -  Ông Lê Tiến Anh  -  Ông Nguyễn Anh  -  Ông Lê Tấn Bản  -  Ông Nguyễn Duy Bắc  -  Ông Huỳnh Ngọc Bông  -  Ông Mấu Thái Cư  -  Ông Cao Cường  -  Ông Nguyễn Chuyện  -  Ông Nguyễn Văn Danh  -  Ông Lê Văn Dẽ  -  Ông Trần Mạnh Dũng  -  Ông Lương Dự  -  Ông Nguyễn Công Định  -  Ông Lương Kiên Định  - Ông Nguyễn Khắc Định -  Ông Nguyễn Văn Ghi  -  Ông Nguyễn Khắc Hà  -  Ông Nguyễn Xuân Hà  -  Ông Lê Văn Hạ  -  Ông Lương Đức Hải  -  Ông Võ Hoàn Hải  -  Ông Trần Sơn Hải  -  Bà Nguyễn Thị Hạnh  -  Bà Lê Minh Hiền  -  Ông Nguyễn Hòa  -  Ông Lê Hữu Hoàng  -  Ông Trần Duy Hưng  -  Ông Lê Văn Khải  -  Ông Nguyễn Văn Kháng  -  Ông Trần An Khánh  -  Ông Trần Ngọc Khánh  -  Ông Bùi Xuân Minh  -  Ông Hồ Văn Mừng  -  Ông Trần Hòa Nam  -  Ông Lê Thanh Quang  -  Ông Trần Hải Sơn  -  Ông Nguyễn Đắc Tài  -  Ông Nguyễn Khắc Toàn  -  Ông Nguyễn Tấn Tuân  -  Ông Hồ Thanh Tùng  -  Ông Võ Tấn Thái  -  Ông Trần Ngọc Thanh  -  Ông Lê Xuân Thân  -  Ông Đào Công Thiên  -  Ông Lê Hữu Thọ  -  Ông Phan Thông  -  Ông Nguyễn Lê Đình Thống  -  Ông Tống Trân  -  Ông Lê Hữu Trí  -  Ông Ngô Quang Trung  -  Ông Ngô Truyện  -  Ông Lê Đức Vinh  -  Ông Lê Vinh  Hiện nay, Ủy ban nhân dân Tỉnh Khánh Hòa đang lập đề án đưa cả tỉnh thành thành phố trực thuộc trung ương trước năm 2020. Hội đồng nhân dân tỉnh Khánh Hòa và Bộ Chính trị đã thông qua nghị quyết Quy hoạch xây dựng vùng tỉnh Khánh Hòa đến năm 2020 với mục tiêu đề ra là xây dựng tỉnh Khánh Hòa trở thành đô thị loại I trực thuộc trung ương. Kinh tế. Khánh Hòa là một trong những tỉnh có nền kinh tế phát triển nhanh và vững của Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Uỷ ban nhân dân tỉnh, tốc độ tăng trưởng GDP của tỉnh là 11,55%, giá trị sản xuất công nghiệp – xây dựng tăng 15,5%, giá trị nông lâm thủy sản tăng 2,81%, ngành dịch vụ du lịch tăng 14,5%. GDP bình quân đầu người năm 2011 là 1.710 USD cao hơn mức bình quân chung của Việt Nam. Dịch vụ - du lịch chiếm 45% cơ cấu kinh tế, công nghiệp - xây dựng là 42%, còn nông - lâm - thủy sản chiếm 13%.. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,99%, trong đó GRDP theo ngành kinh tế tăng 7,43% gồm: +. Công nghiệp xây dựng tăng 10,58%. +. Dịch vụ tăng 7,02%. +. Nông, lâm, thủy sản tăng 1,52%. Chỉ số IIP tăng 7,52%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 19.138,38 tỉ đồng (113,9% dự toán; bằng 87,6% năm 2018). Chi ngân sách đạt 9.799,2 tỉ đồng (81,9% dự toán), trong đó: Chi ngân sách thường xuyên là 6.395,8 tỉ đồng (92,8% dự toán); chi đầu tư phát triển là 3.401,7 (80,1% dự toán). Trong năm 2019, chỉ số GRDP tăng 6,8%, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 7%, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 11,2%, doanh thu du lịch tăng 24,2%, kim ngạch xuất khẩu tăng 13,5%, thu ngân sách tăng 10%... Công - nông - ngư nghiệp. Ngoài du lịch, Khánh Hòa cũng là địa phương phát triển công nghiệp mạnh trong khu vực Miền Trung và Tây Nguyên. Các thế mạnh công nghiệp truyền thống của Khánh Hòa là công nghiệp đóng tàu, chế biến thủy hải sản, vật liệu xây dựng, may mặc... Ngoài ra, Khánh Hòa cũng có nhiều loại khoáng sản; đến năm 2003 đã có 72 mỏ quặng được phát hiện và đăng ký trên địa bàn tỉnh. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp trong năm 2009 của Khánh Hòa đạt 14.095 tỷ đồng. Các khu công nghiệp lớn trong tỉnh như Khu công nghiệp Suối Dầu, khu công nghiệp Ninh Hòa, khu công nghiệp Bắc và Nam Nha Trang, cùng với những cảng biển lớn đang được đầu tư xây dựng, giúp cho Khánh Hòa trở thành một trong 10 tỉnh thành có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất nước. Năm 2018, giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản  là 35,6%. Cũng như các tỉnh vùng duyên hải Nam Trung Bộ khác có các dải đồng bằng nhỏ hẹp, trồng trọt không phải là thế mạnh của tỉnh. Lúa vẫn chiếm diện tích lớn nhất và được trồng tập trung tại đồng bằng Ninh Hòa và Diên Khánh. Cây công nghiệp ngắn ngày được trồng nhiều nhất là cây mía, sau đó là đậu phộng, cây lương thực được trồng nhiều nhất trong tỉnh là cây khoai mì và cây bắp. Việc trồng cây bắp đã mang lại giá trị kinh tế cao cho nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở huyện Khánh Vĩnh. Bên cạnh nông sản, tài nguyên thủy hải sản ở Khánh Hòa rất dồi dào. Khánh Hòa có tổng trữ lượng hải sản ước tính 150.000 tấn/năm và khả năng khai thác 40-50.000 tấn/năm. Có 600 loài hải sản được các nhà khoa học xác định ở vùng biển Khánh Hòa, trong đó có hơn 50 loài cá có giá trị kinh tế cao. Dân cư. Theo số liệu điều tra ngày 1 tháng 4 năm 2019 dân số tỉnh Khánh Hòa là 1.231.107 người với mật độ dân số toàn tỉnh là 225 người/km², trong đó nam giới có khoảng 612.513 người (49.75%) và nữ giới khoảng 618.594 người (50.35%); tỷ lệ tăng dân số của tỉnh bình quân từ năm 2009-2019 là 0,62%; tỷ số giới tính là 97,9%. Theo điều tra biến động dân số năm 2019, Khánh Hòa có 520.008 người sinh sống ở khu vực đô thị (42,2% dân số toàn tỉnh) và 711.099 người sống ở khu vực nông thôn (57,8%).. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến hết năm 2022 đạt 65%. Dân số Khánh Hòa hiện nay phân bố không đều. Dân cư tập trung đông nhất ở thành phố Nha Trang (chiếm 1/3 dân số toàn tỉnh), trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của tỉnh. Huyện Diên Khánh và thành phố Cam Ranh cũng có mật độ dân số khá cao (xấp xỉ 400 người/km²) thị xã Ninh Hòa và các huyện còn lại ở đồng bằng có mật độ dân cư không chênh lệch lớn và gần bằng mức trung bình toàn tỉnh (khoảng 200 người/km²), các huyện miền núi có mật độ dân số tương đối thấp là Khánh Sơn (62 người/km²) và Khánh Vĩnh (29 người/km²). Nơi có mật độ dân số thấp nhất tỉnh là huyện đảo Trường Sa (0,39 người/km²). Theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2010 thì toàn tỉnh có khoảng 519.600 người sinh sống tại khu vực thành thị và 648.100 sinh sống ở khu vực nông thôn. Về độ tuổi năm 2009 toàn tỉnh có 526.061 người dưới 25 tuổi (45% dân số), 450.393 người từ 25 đến 50 tuổi (39% dân số) và 183.150 trên 50 tuổi (16%) Dân tộc. Hiện nay có 32 dân tộc đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa, trong đó dân tộc Kinh có 1.095.981 người sống phân bố đều khắp huyện, thị, thành phố, nhưng tập trung nhiều nhất vẫn là các vùng đồng bằng, thành phố, thị xã, thị trấn. Dân tộc thiểu số lớn nhất là người Raglai với 45.915 người sống tập trung chủ yếu ở hai huyện Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và một vài xã miền núi các huyện Diên Khánh, Cam Lâm và thành phố Cam Ranh trong các bản làng (palây). Tại các khu vực giáp ranh với Lâm Đồng và Đăk Lăk có khoảng 4.778 người Cơ-ho và 3.396 người Ê-đê sinh sống. Dân tộc Hoa có khoảng 3.034 người tập trung chủ yếu ở thành phố Nha Trang (khoảng 2.000 người), thị xã Ninh Hòa và các xã phía Đông huyện Diên Khánh. Một nhóm thiểu số chính khác là người Tày (1.704) và người Nùng (1.058) di cư từ các tỉnh phía Bắc vào trong cuộc di cư năm 1954 và trong các năm gần đây sinh sống chủ yếu ở huyện Khánh Vĩnh. Ngoài các nhóm chính trên còn có các nhóm dân tộc chiếm 1 thiểu số rất nhỏ trong dân số như Mường, Thái, Chăm, Khmer, Thổ... Người Chăm là cư dân bản địa ở Khánh Hòa. Tuy nhiên do những điều kiện lịch sử, từ giữa thế kỷ XVII về sau này, người Chăm ở Khánh Hòa lần lượt di chuyển vào các tỉnh phía Nam. Vì vậy mà ngày nay, người Chăm ở Khánh Hòa chỉ còn khoảng 290 người. Trên địa bàn thành phố Nha Trang cũng có một vài nhóm người nước ngoài sinh sống và làm việc thường xuyên trong những năm gần đây, một ít trong số họ hiện đã định cư lâu dài và nhập quốc tịch Việt Nam. Tôn giáo. Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam, toàn tỉnh Khánh Hòa vào thời điểm của cuộc tổng điều tra dân số năm 2019, Khánh Hòa có 265.316 người tự khẳng định mình có tín ngưỡng, nhiều nhất là Công giáo 132.992 người, tiếp theo là Phật giáo 100.560 người, đạo Tin Lành 24.500 người, đạo Cao Đài 6.819 người, Phật giáo Hòa Hảo 284 người và các tôn giáo khác là Hồi giáo 94 người, Bà La Môn 25 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam 17 người, Baha'i giáo 13 người và Minh Sư đạo 12 người. Phật giáo tập trung nhiều nhất ở Nha Trang (50,4%) và Diên Khánh; Công giáo tập trung nhiều ở Cam Lâm, đạo Cao Đài tập trung ở Cam Ranh; đạo Tin Lành tập trung ở Khánh Sơn và Khánh Vĩnh. Riêng Phật giáo Hòa Hảo phân bố chủ yếu ở xã Ninh Ích. Đô thị hóa. Khánh Hòa là tỉnh có số dân đô thị cao nhất trong các tỉnh thuộc khu vực miền Trung với 584.200 người (năm 2011) chiếm khoảng 48,8% dân số toàn tỉnh. Tính đến cuối năm 2011, toàn tỉnh có 1 đô thị loại I (thành phố Nha Trang), 1 đô thị loại III (thành phố Cam Ranh), 3 đô thị loại IV (thị xã Ninh Hòa và các thị trấn Diên Khánh, Vạn Giã) cùng với 7 đô thị loại V (các thị trấn Cam Đức, Khánh Vĩnh, Tô Hạp và các xã Đại Lãnh, Suối Hiệp, Suối Tân, Ninh Sim). Phần lớn các đô thị lớn nằm ở vùng duyên hải và dọc theo Quốc lộ 1, một vài đô thị khác nằm dọc theo các hành lang đông dân cư ven các sông chính và các tuyến đường nối vùng duyên hải lên Tây Nguyên như trục Ninh Hòa - Ninh Sim nằm dọc theo sông Dinh và quốc lộ quốc lộ 26 nối lên Buôn Ma Thuột. Trục Diên Khánh - Khánh Vĩnh nằm ven theo sông Cái và quốc lộ 27C (Đường 723 cũ) nối lên Đà Lạt. Theo kết luận số 53-KL/TW ngày 24 tháng 12 năm 2012 của Bộ Chính trị, Tỉnh Khánh Hòa được phép quy hoạch thành thành phố trực thuộc trung ương trong quy hoạch đến năm 2020 Khoa học - Giáo dục. Nền khoa học ở Khánh Hòa được đặt nền móng từ thời Pháp thuộc với việc hình thành hai cơ sở khoa học thực nghiệm là Viện Pasteur Nha Trang vào năm 1891, nghiên cứu về vệ sinh dịch tễ và Sở Ngư nghiệp Đông Dương năm 1922 (tiền thân của Viện Hải dương học Nha Trang) chuyên nghiên cứu về biển và động vật biển. Lĩnh vực khoa học từ đó dần dần được mở rộng sang các ngành khoa học ứng dụng để đáp ứng cho nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. Các công trình nghiên cứu tiêu biểu tại Khánh Hòa gồm có việc bảo tồn và phát triển trầm hương, kỳ nam, duy trì và nuôi dưỡng chim yến, nghiên cứu các hình thức nuôi trồng thủy sản trên biển... Trước thời nhà Nguyễn, vì là đất mới được mở mang, lại xa kinh đô, nên nền giáo dục Khánh Hòa gần như không phát triển. Người Khánh Hòa thời đó không có đóng góp gì trong địa hạt văn chương thi phú. Mãi đến đời vua Gia Long, triều đình mới cho lập trường dạy chữ ở phủ Diên Khánh và Bình Hòa. Học sinh sau khi có bằng Tiểu học phải ra Quy Nhơn hoặc các tỉnh khác để tiếp tục học lên Trung học, cho đến năm 1936, khi trường trung học đầu tiên được mở tại Nha Trang là Trường trung học tư thục Kim Yến (Institution Kim Yến), làm nơi học tập cho học sinh từ Phan Thiết đến Quy Nhơn. Đầu năm 1947, Trường Trung học Nha Trang (tiền thân của Trường Phổ thông trung học Lý Tự Trọng) được thành lập. Sang đến năm 1952, trường đổi tên thành Trường Trung học Võ Tánh và chuyển đến địa điểm hiện nay. Năm 1957, trường Võ Tánh được Bộ Giáo dục Quốc gia nâng cấp lên bậc Đệ nhị cấp (tương đương bậc Phổ thông trung học ngày nay). Kể từ đó, học sinh tại Khánh Hòa có thể đi học đến khi tốt nghiệp Tú tài ngay tại tỉnh nhà mà không phải khăn gói đi ra ngoài. Năm 1971, Khánh Hòa có cơ sở đào tạo bậc đại học đầu tiên là Đại Học Cộng đồng Duyên Hải tại Nha Trang. Sau ngày thống nhất đất nước, Trường Đại học Thủy sản Nha Trang, được chuyển từ Hải Phòng vào. Hiện nay, Khánh Hòa có đầy đủ các bậc học, ngành học, phục vụ cho tất cả các đối tượng học sinh sinh viên tại tỉnh (được kê trong bảng phía dưới). Y tế. Khánh Hòa là một trong những tỉnh có hệ thống Y tế phát triển nhất ở khu vực Nam Trung Bộ. Theo quyết định 1047/QĐ-BYT của Bộ Y tế thì Nha Trang là một trong 3 trung tâm y tế của vùng Nam Trung Bộ. Tính đến 30/6/2017, Toàn tỉnh có tổng số bác sĩ công lập/10.000 dân là 6,83; thực hiện được 29,5 giường/10.000 dân; tỷ lệ suy dinh dưỡng thể nhẹ cân của trẻ em dưới 5 tuổi tại Khánh Hòa đạt 8,86% (chỉ tiêu giao là 9%); tỷ lệ người dân tham gia BHYT đạt 81,93%. Hệ thống tuyến y tế cơ sở được quan tâm đầu tư phát triển đã góp phần làm giảm áp lực cho bệnh viện tuyến trên và tạo thuận tiện trong chăm sóc sức khỏe của người dân ở cấp cơ sở. Đến nay, toàn tỉnh có 137/140 xã có trạm y tế xã (riêng các đảo nổi của 3 đơn vị cấp xã tại huyện đảo Trường Sa đều có các trạm y tế do Quân đội quản lý), toàn bộ các đơn vị hành chính cấp huyện đều có bệnh viện tuyến huyện trực thuộc trung tâm y tế (riêng huyện đảo huyện đảo Trường Sa có Trung tâm Y tế thị trấn Trường Sa hoạt động như một trung tâm y tế tuyến huyện), 100% bệnh viện tuyến huyện được xây dựng mới đáp ứng cơ bản nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Khánh Hòa là bệnh viện xếp hạng I, 1 trong 10 bệnh viện đa khoa cấp vùng của cả nước Văn hóa - Du lịch. Sự kiện. Tỉnh lỵ của Khánh Hòa đặt tại Nha Trang, một thành phố du lịch và sự kiện. Nha Trang là nơi từng diễn ra nhiều sự kiện lớn như Festival Biển, hay các cuộc thi sắc đẹp lớn như Hoa hậu Việt Nam 2006, Hoa hậu Thế giới người Việt 2007 và 2010, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Trái Đất 2010, Hoa hậu Hoàn vũ Việt Nam 2015, Hoa hậu Trái Đất 2023. Khánh Hòa là địa danh thu hút nhiều du khách với những khu di tích chiến khu, căn cứ cách mạng. Ngoài ra, tỉnh cũng đầu tư chú trọng đến văn nghệ và nghệ thuật để phục vụ người dân và thu hút du khách; các đội chiếu bóng phục vụ ở những nơi hẻo lánh, miền núi hiểm trở. Hệ thống thư viện, các câu lạc bộ cũng phát triển mạnh nhằm đáp ứng nhu cầu của quần chúng. Khánh hòa có 11 di tích văn hóa-lịch sử cấp quốc gia. Công tác bảo tồn, trùng tu bảo tàng và quản lý các khi di tích cũng được chú trọng, có nhiều đợt trưng bày quy mô lớn thu hút hàng chục ngàn du khách tham quan. Công tác sưu tầm, nghiên cứu giới thiệu văn hóa phi vật thể đã và đang tiếp tục được phát triển. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu như: sự nghiên cứu về chữ viết của người Ra Glai, truyện cổ, trường ca và một số loại hình văn hóa dân gian có ảnh hưởng khác, bao gồm một số công trình được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đánh giá cao. Lễ hội. Hiện nay, tỉnh Khánh Hòa còn lưu giữ được khá nhiều lễ hội mang đậm nét văn hóa bản địa, tục thờ cúng trong tín ngưỡng dân gian. Các lễ hội đều xuất phát từ lao động, từ phong tục tập quán, là nếp sinh hoạt văn hóa tinh thần của người dân. Theo thống kê của chính quyền địa phương, tính đến năm 2010, Khánh Hòa có 494 di sản lễ hội lớn, nhỏ của người Kinh, bao gồm 237 lễ hội đình làng, 121 lễ hội miếu, lăng và 136 lễ hội chùa. Ngoài ra còn các lễ hội truyền thống của người dân tộc. Các lễ hội tiêu biểu: Ẩm thực. Là một tỉnh ven biển có nhiều làng chài nên phong cách ẩm thực ở Khánh Hòa chịu ảnh hưởng sâu sắc từ biển, với nguyên liệu chủ yếu được chế biến từ hải sản. Đồng thời cư dân Khánh Hòa xưa chủ yếu di cư vào từ các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Quảng Nam và Quảng Ngãi nên phong cách ẩm thực cũng chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tỉnh trên. Các món đặc sản của Khánh hòa được nhiều người biết đến như nem Ninh Hòa, bún cá Nha Trang, bún sứa, bánh ướt Diên Khánh... Ngoài ra dưới sự ảnh hưởng của người Hoa (sinh sống đông đúc gần khu vực chợ Đầm phường Xương Huân), người Pháp (từng đến Nha Trang nghỉ dưỡng rất đông thời Pháp thuộc) và những người miền Bắc di cư vào Nam sau năm 1954 tạo cho Nha Trang phong cách ẩm thực đặc biệt khác hẳn với các địa phương khác trong tỉnh và khu vực Nam Trung Bộ tiêu biểu là những món ăn như phở Nha Trang, bánh mì Nha Trang, bò nướng Lạc Cảnh... Đặc sản. Khánh Hòa có hai loại sản vật quý hiếm: Du lịch. Khánh Hòa là một trong những trung tâm du lịch lớn của Việt Nam. Nhờ có bờ biển dài hơn 200 km và gần 200 hòn đảo lớn nhỏ cùng nhiều vịnh biển đẹp như Vân Phong, Nha Trang (một trong 12 vịnh đẹp nhất thế giới), Cam Ranh... với khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình 26 °C, có hơn 300 ngày nắng trong năm, và nhiều di tích lịch sử văn hóa và danh lam thắng cảnh, nên dịch vụ - du lịch là ngành phát triển nhất ở Khánh Hòa với số du khách hơn 1,6 triệu lượt vào năm 2009. Các hình thức du lịch ở Khánh Hòa rất phong phú với các hình thức như du lịch sinh thái biển đảo, du lịch tham quan - vãn cảnh, du lịch văn hóa... Trong các khách sạn và khu nghỉ mát lớn ở Khánh Hòa, có những khu du lịch và khách sạn tầm cỡ thế giới như khu nghỉ mát Ana Mandara, Vinpearl Land, Sheraton Nha Trang hotel & spa, Novotel, hay khu nghỉ dưỡng cao cấp Evason Hideaway (huyện Ninh Hòa) của tập đoàn Ana Mandara, được tờ "Sunday Times" bầu là một trong 20 resort tốt nhất thế giới vào năm 2005. Những di tích lịch sử văn hóa có Tháp Po Nagar, thành cổ Diên Khánh, các di tích của nhà bác học Alexandre Yersin... Ngoài vị thế là một trung tâm du lịch lớn Nha Trang đã trở thành điểm đến của nhiều sư kiện lớn của Việt Nam và Thế giới như: Hoa hậu Việt Nam, Hoa hậu Thế giới người Việt 2007 và 2009, Hoa hậu Hoàn vũ 2008, Hoa hậu Trái Đất 2010... cùng với Festival Biển (Nha Trang) được tổ chức 2 năm một lần đã góp phần quảng bá du lịch Khánh Hòa với thế giới. Tuy vậy, việc chất lượng dịch vụ sút kém và tăng giá dịch vụ thiếu kiểm soát vào những mùa cao điểm du lịch vẫn chưa được tỉnh giải quyết triệt để. Phát triển du lịch một cách bền vững, bảo vệ tài nguyên môi trường vẫn còn là vấn đề gây nhiều bàn cãi. Giao thông. Đường bộ. Khánh Hòa có hệ thống cơ sở hạ tầng về giao thông tương đối phát triển, nằm trên các trục giao thông quan trọng ven biển của Việt Nam như: Quốc lộ 1 chạy dọc ven biển từ Đèo Cả đến Ghềnh Đá Bạc nối liền với các tỉnh phía Bắc và phía Nam; quốc lộ 26 nối Ninh Hòa với Đăk Lăk và các tỉnh Tây Nguyên; đường quốc lộ 27C (trước là đường 723) (Nha Trang đi Đà Lạt), quốc lộ 27B nối Cam Ranh với huyện Ninh Sơn (tỉnh Ninh Thuận) và dự án đường cao tốc Bắc Nam đi qua Khánh Hòa. Toàn tỉnh hiện có 2.086 km đường giao thông. Trong đó, đường do trung ương quản lý dài 224,38 km, chiếm 10,75%; đường do tỉnh quản lý dài 254,95 km, chiếm 12,21%; đường do huyện quản lý dài 327,47 km, chiếm 15,69% và đường do xã quản lý dài 1.566,97 km, chiếm 75%. Chất lượng đường bộ: Đường cấp phối, đường đá dăm dài 399,52 km chiếm 19,14%; đường nhựa dài 362,77 km, chiếm 17,38% còn lại là đường đất. Tất cả các xã đã có đường ô tô đến tận trung tâm xã. Hiện nay, Nha Trang đang có 6 tuyến xe buýt phục vụ công cộng. Đường sắt. Do vị trí của Khánh Hòa nằm trên tuyến đường cái quan, người Pháp lại chọn Nha Trang làm nơi đặt cơ quan bảo hộ, nên Nha Trang đã sớm trở thành một điểm dừng quan trọng trên tuyến đường sắt do Pháp xây dựng. Tuyến đường sắt Sài Gòn - Nha Trang được khởi công xây dựng từ năm 1900 đến năm 1913 mới hoàn tất. Vào thời điểm đó, điểm cuối của tuyến đường sắt là Ga Phú Vinh, nằm cạnh đường 23 tháng 10 hiện nay, tại xã Vĩnh Thạnh, Nha Trang. Đến năm 1928, người Pháp khởi công đoạn Đà Nẵng đến Nha Trang dài 532 km để hoàn tất tuyến đường sắt xuyên Việt, đồng thời xây dựng Ga Nha Trang với lối kiến trúc đặc trưng cùng cảnh quan hài hòa. Ga Nha Trang được khánh thành ngày 2 tháng 9 năm 1936 và tuyến đường sắt xuyên Việt cũng hoàn thành vào tháng 10 cùng năm. Ga Nha Trang ngày nay vẫn giữ nguyên được lối kiến trúc nhà ga cùng tuyến đường sắt hình "bóng đèn" độc đáo. Hiện nay, tất cả các tuyến tàu Thống Nhất đều dừng ở đây. Ngoài các tàu Thống Nhất "SE", còn có các đôi tàu địa phương nối với Ga Sài Gòn mang số hiệu "SNT". Ngoài ga Nha Trang, tỉnh còn 12 ga khác phân bố tại tất cả các huyện, thị xã, thành phố trừ hai huyện miền núi Khánh Sơn, Khánh Vĩnh và huyện đảo Trường Sa. Đường thủy. Khánh Hòa có nhiều vùng vịnh kín gió, nước sâu lại nằm ở cực đông của Việt Nam gần với tuyến hàng hải quốc tế nên rất thuận lợi cho xây dựng cảng biển. Hiện tại trên địa bàn tỉnh có 5 cảng biển, trong đó tiêu biểu nhất là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong và cảng Cam Ranh (một trong ba vịnh tốt nhất thế giới cho xây dựng cảng biển). Hàng không. Sân bay quốc tế Cam Ranh được nâng cấp ngày 16 tháng 8 năm 2007 tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu trong nước và quốc tế của tỉnh Khánh Hòa cũng như khu vực Nam Trung Bộ Năm 2008, sân bay này đã phục vụ 683.000 lượt khách, vượt qua Sân bay quốc tế Phú Bài để thành sân bay có số lượng hành khách thông quan đông thứ 4 trong các sân bay tại Việt Nam. Tỷ lệ tăng của số lượt khách thông qua vào năm 2007 là 36,8%, của năm 2008 là 36,3% so với năm trước, là sân bay có tốc độ tăng trưởng lượng hành khách cao nhất tại Việt Nam Hiện nay sân bay phục vụ các đường bay đến Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng và nhiều đường bay quốc tế khác
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Cái Nha Trang, còn có tên là sông Phú Lộc, sông Cù, là sông lớn nhất tỉnh Khánh Hòa . Sông có chiều dài 84 km, diện tích lưu vực 1.732 km² . Lưu vực này bao gốm toàn bộ 2 huyện Khánh Vĩnh và Diên Khánh, thành phố Nha Trang (trừ xã Vĩnh Lương) và khu vực Tây Bắc huyện Cam Lâm, độ cao trung bình 548 m, độ dốc trung bình 22,8%, mật độ sông suối 0,82 km/ km². Có 15 phụ lưu với chiều dài trên 10 km. Tổng lượng nước cả năm 1,79 km³, tương ứng với độ sâu dòng chảy 940 mm, môđun dòng chảy 29,8 l/s. km². Mùa lũ từ tháng 10 đến tháng 12, chiếm khoảng 73% lượng dòng chảy cả năm, môđun mùa lũ 240 l/s. km². Mùa cạn từ tháng 1 đến tháng 9, chiếm khoảng 27% lượng nước cả năm, môđun dòng chảy mùa cạn 10 - 18 l/s. km². Các nhánh Sông/Suối. Sông phát nguyên từ Hòn Gia Lê, cao 1.812 m, chảy qua các huyện Khánh Vĩnh, Diên Khánh và thành phố Nha Trang rồi đổ ra biển ở Cửa Lớn (Đại Cù Huân). Sông Cái Nha Trang có 7 phụ lưu, bắt nguồn ở độ cao từ 900 đến 2.000 m nhưng lại rất ngắn, thường dưới 20 km nên độ dốc rất lớn tạo nhiều ghềnh thác ở thượng lưu. Sông chảy đến thôn Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc, thành phố Nha Trang thì chia làm hai nhánh: Một nhánh chảy theo hướng Đông-Nam, men theo chân núi Đồng Bò, chảy xuống Trường Đông, Vĩnh Trường và chảy ra cửa biển Tiểu Cù Huân, gọi là Cửa Bé. Nhánh này hiện nay đã bị lấp, chỉ đến mùa nước lũ, dòng chính mới hiện rõ. Nhánh thứ hai chảy xiên theo hướng Đông - Bắc (đây là nhánh chính của sông Cái) từ Xuân Lạc, xã Vĩnh Ngọc chảy đến Ngọc Hội, sông chia làm 2 chi: Hai chi trước khi chảy ra cửa biển, gặp nhau và cùng ôm lấy cồn đất phù sa, tên gọi là Cồn Dê (Cồn Ngọc Thảo). Phần thượng lưu của sông Cái Nha Trang có rất nhiều thác. Từ cửa sông Chò trở lên thì có thác Đồng Trăng, thác Ông Hào, thác Đá Lửa, thác Nhét, thác Mòng, thác Võng. Qua khỏi thác Võng thì có thác Dằng Xay, thác Tham Dự, thác Ngựa, thác Hông Tượng, thác Trâu Đụng, thác Giang Ché, thác Trâu Á, thác Nai, thác Rùa, thác Hòm... Phần trên nguồn còn có rất nhiều thác nhưng ít người lên đến nên không có tên gọi.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.730627
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Cầu (còn gọi là "sông Như Nguyệt", "sông Phú Lương" (Phú Lương Giang, 富良江), "sông Thị Cầu", "sông Nguyệt Đức" hay mỹ danh "dòng sông quan họ"), là con sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình, sông nằm lọt trong vùng Đông Bắc Việt Nam . Lưu vực sông Cầu là một trong năm con sông dài nhất ở miền Bắc Việt Nam (Hồng, Đà, Lô, Cầu, Đáy) và cũng là một trong những lưu vực sông lớn ở Việt Nam, có vị trí địa lý đặc biệt, đa dạng và phong phú về tài nguyên cũng như về lịch sử phát triển kinh tế - xã hội của các tỉnh nằm trong lưu vực của nó. Dòng chảy. Sông Cầu bắt nguồn từ phía Nam đỉnh Phia Boóc (cao 1.578 m) của dãy Văn Ôn trong địa phận xã Phương Viên huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, chảy ngoằn ngoèo giữa hai dãy núi Ngân Sơn và dãy núi Sông Gâm theo hướng bắc tây bắc-nam đông nam tới địa phận xã Dương Phong, huyện Bạch Thông rồi đổi hướng để chảy theo hướng tây tây nam-đông đông bắc qua thành phố Bắc Kạn tới xã Mỹ Thanh huyện Bạch Thông. Tại đây nó đổi hướng để chảy theo hướng đông bắc-tây nam. Tại xã Nông Hạ huyện Chợ Mới nó nhận một chi lưu phía hữu ngạn, chảy về từ xã Mai Lạp cùng huyện theo hướng tây bắc-đông nam. Tới địa phận thị trấn Chợ Mới, nó nhận một chi lưu nữa phía hữu ngạn rồi đổi hướng sang tây bắc-đông nam. Tới địa phận xã Vân Lăng (huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên), nhận một chi lưu phía tả ngạn rồi đổi hướng sang bắc đông bắc-nam tây nam. Tới xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên nhận tiếp một chi lưu phía hữu ngạn là sông Đu rồi chảy qua lòng thành phố. Chảy tới xã Nga My huyện Phú Bình thì đổi sang hướng đông bắc-tây nam tới xã Thuận Thành, thị xã Phổ Yên nhận tiếp một chi lưu là sông Công. Tới ranh giới xã Mai Đình huyện Hiệp Hòa và xã Việt Long huyện Sóc Sơn (Hà Nội) nó nhận một chi lưu nhỏ phía hữu ngạn là sông Cà Lồ rồi chảy tiếp về phía đông qua ranh giới của hai huyện Việt Yên-Bắc Giang và Yên Phong-Bắc Ninh rồi hợp lưu với sông Thương tại ngã ba Lác (nơi giáp ranh giữa Đồng Phúc, Đức Long và Phả Lại) để tạo thành sông Thái Bình. Thông số chính. Sông Cầu có diện tích lưu vực khoảng 6.030 km², với chiều dài khoảng 290 km, độ cao bình quân lưu vực: 190 m, độ dốc bình quân 16,1%, chiều rộng lưu vực trung bình: 31 km, mật độ lưới sông 0,95 km/km² và hệ số uốn khúc 2,02. Chế độ thủy văn. Lưu vực sông Cầu có dòng chính là sông Cầu với chiều dài 290 km bắt nguồn từ núi Văn Ôn (Vạn On) ở độ cao 1.170 m và đổ vào sông Thái Bình ở Phả Lại. Trong lưu vực sông Cầu có tới 26 phụ lưu cấp một với tổng chiều dài 670 km và 41 phụ lưu cấp hai với tổng chiều dài 645 km và hàng trăm km sông cấp ba, bốn và các sông suối ngắn dưới 10 km. Lưu vực sông Cầu nằm trong vùng mưa lớn (1.500-2.700 mm/năm) của các tỉnh Bắc Kạn và Thái Nguyên. Tổng lưu lượng nước hàng năm đạt đến 4,2 tỷ m³. Sông Cầu được điều tiết bằng hồ Núi Cốc trên sông Công (một chi lưu của nó) với dung tích hàng trăm triệu m³. Chế độ thủy văn của các sông trong lưu vực sông Cầu được chia thành 2 mùa: Lưu lượng dòng chảy trung bình các tháng trong năm chênh lệch nhau tới 10 lần, mực nước cao và thấp nhất chênh nhau khá lớn, có thể tới 5–6 m. Các vấn đề liên quan. Do việc khai thác và phát triển chưa hợp lý như phát triển công nghiệp và khai khoáng ồ ạt, chặt phá rừng phòng hộ đầu nguồn cũng như phát triển làng nghề chưa có quy hoạch cụ thể và việc xử lý nước thải còn bị coi nhẹ v.v nên nguồn nước, cảnh quan và hệ sinh thái của sông Cầu cũng như lưu vực đang bị suy thoái và có nguy cơ cạn kiệt, nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm nặng nề, giảm giá trị sử dụng, ảnh hưởng xấu đến sản xuất và đời sống, môi trường sinh thái, cảnh quan thiên nhiên. Ngày 23 tháng 6 năm 2001, tại thị xã Bắc Giang đã diễn ra Hội nghị Chủ tịch Ủy ban nhân dân 6 tỉnh (thuộc đề án sông Cầu) lần thứ 4 nhằm tìm ra giải pháp toàn diện cho các vấn đề kể trên. Tại hội nghị đã ký "Thỏa ước về hợp tác bảo vệ và khai thác bền vững sông Cầu và lưu vực sông Cầu". Hiện trên sông Cầu có các cây cầu bắc qua: Sự kiện lịch sử. Năm 1077 trên sông Như Nguyệt, quân đội nhà Lý do danh tướng Lý Thường Kiệt chỉ huy đã đánh bại đội quân xâm lược của nhà Bắc Tống gồm 100.000 quân do Quách Quỳ chỉ huy. Văn hóa. Thánh Tam Giang. Trong truyền thuyết, vị thần cai quản sông Cầu là Đức thánh Tam Giang, do hai tướng Trương Hống, Trương Hát của Triệu Việt Vương sau khi chết được phong thần. Sau này hai ông đã hiển linh giúp Nam Tấn Vương đánh Lý Huy, các quân Việt Nam đánh quân phương Bắc (thời Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt...). Đồng thời hai ông cũng cai quản cả sông Long Nhỡn (sông Thương), sông Đuống. Dòng sông Quan họ. Phần sông Cầu đoạn chảy qua ranh giới 2 tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh tập trung hầu hết các làng quan họ của vùng văn hóa Kinh Bắc. Do đó mà sông Cầu được gọi là "dòng sông quan họ" trong thơ ca và trong bài hát nổi tiếng của Phan Lạc Hoa mang tên "Tình yêu trên dòng sông quan họ":
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.801758
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Cửu Long (chữ Nôm: 九龍河) là tên gọi chung cho các phân lưu của sông Mê Kông chảy trên lãnh thổ của Việt Nam. Khái quát. Bắt đầu từ Phnom Penh, sông Mê Kông chia thành hai nhánh theo dòng chảy từ Bắc xuống Nam: bên phải (hữu ngạn) là sông Bassac (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái (tả ngạn) là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220–250 km mỗi sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái, hay sông Cửu Long. Lưu lượng hai sông này rất lớn, khoảng 6.000 m³/s về mùa khô, lên đến 120.000 m³/s vào mùa mưa, và chuyên chở rất nhiều phù sa bồi đắp đồng bằng Nam Bộ. Sông Tiền và sông Hậu chảy qua địa phận các tỉnh, thành: Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, An Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng. Các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre và phần lớn tỉnh Đồng Tháp ở phía bên tả sông Tiền. Các tỉnh Vĩnh Long, Trà Vinh, một phần lớn tỉnh Đồng Tháp và An Giang nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Phía hữu sông Hậu là vùng Tứ giác Long Xuyên và vùng bán đảo Cà Mau (ở phía Nam kênh Cái Sắn và hữu ngạn sông Hậu). Sông Cửu Long hiện nay chảy ra biển Đông tại các cửa: Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên, Cung Hầu, Bát Xắc, Định An và Tranh Đề. Các con sông chính. Lịch sử. Theo An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Taberd năm 1838, sông Cửu Long có 9 cửa lần lượt từ đông bắc xuống tây nam gồmː Đại Nam nhất thống chí chỉ kể 7 cửa của sông Cửu Long gồm 6 cửa thuộc sông Tiền Giang và 1 cửa sông Hậu Giang (lần lượt từ đông bắc xuống tây nam là: cặp cửa Tiểu - cửa Đại, cửa Ba Lai, cặp cửa Ngao Châu - Bân Côn, cửa Cổ Chiên (đều thuộc sông Tiền), và cửa Ba Thắc của sông Hậu. Đại Nam nhất thống chí chépː Các bản đồ người Pháp vẽ về Nam Kỳ từ cuối thế kỷ 19 (năm 1884) đến đầu thế kỷ 20 (năm 1901, 1902) ghi tên cho 9 cửa sông chính của sông Cửu Long, lần lượt từ đông bắc xuống tây nam gồmː trên sông Tiền có 6 cửa Tiểu, Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên và Cung Hầu, trên sông Hậu có 3 cửa Định An, Ba Thắc (tức Ba Thắc (nhỏ)) và Tranh Đề. Chín cửa sông đầu thế kỷ 20, đến ngày nay, chỉ còn lại có tám cửa sông. (Cửa Ba Thắc (nhỏ) khoảng thập niên 1960 đã bị bồi lấp, chỉ còn vết tích là rạch nhỏ bé xíu mang tên sông Cồn Tròn có cửa nằm sâu bên trong cửa Tranh Đề, nên sông Hậu chỉ còn hai cửa biển ngày nay). Với việc cửa Ba Lai đã bị hệ thống cống đập ngăn mặn Ba Lai ngăn lại, sông Cửu Long chỉ còn 7 cửa sông chính thông thuyền ra biển Đông. Tuy vậy, trong nhiều thời kỳ dòng sông có 9 cửa chính chảy ra biển Đông nên sông Mê Kông đoạn qua Việt Nam còn được gọi là sông Cửu Long, tức "sông chín rồng". Hiện có khoảng 17 triệu người dân Việt Nam đang sinh sống tại lưu vực của hệ thống sông Cửu Long, còn được gọi là đồng bằng sông Cửu Long Sự khó khăn về giao thông thủy của con sông này làm chia cắt con người sống hai bên bờ hơn là liên kết họ. Nền văn minh được biết sớm nhất là nền văn hóa Mã Lai, Ấn Độ hóa hồi thế kỷ 1, của Vương quốc Phù Nam, trong lưu vực sông Mê Kông. Sự khai quật ở Óc Eo, gần Rạch Giá ngày nay, đã tìm thấy những đồng tiền khác xa với Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam được nối tiếp bởi quốc gia Khmer Chân Lạp ("Chenla") cho đến thế kỷ 5. Đế chế Khmer Angkor là quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cuối cùng trong khu vực. Sau khi quốc gia này bị tiêu diệt sông Mê Kông đã là đường biên giới của các quốc gia đối đầu nhau như Xiêm và Việt Nam, với Lào và Campuchia nằm trong tầm ảnh hưởng của họ. Con người. Ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long (tổng diện tích khoảng 3,3 triệu hecta đất nông nghiệp) khi chảy vào Việt Nam, có khoảng 17 triệu người đang sinh sống vào thời điểm đầu 2006, tăng 5 triệu so với 16 năm trước đó. Trong số họ, có khoảng 9,5 triệu người trong độ tuổi lao động (trên 15 tuổi), hay 55%. Ảnh hưởng của môi trường và con người. Hai trong số chín cửa sông Cửu Long là Ba Lai và Bát Sắc đã bị nghẽn và nước đã không còn lưu thông được nữa. Nguyên nhân bị nghẽn của sông Bát Sắc do các cồn cát ở hai cửa sông này phát triển mạnh tạo nên rào chắn lớn làm nghẽn đường chảy của cửa sông. Còn nguyên nhân nghẽn sông trên của sông Ba Lai là do tác động của con người, do xây dựng hệ thống cống đập. Việc hai cửa sông đã chết đã gây ra ảnh hưởng lớn như làm tăng tình trạng sạt lở đất và vận tải giảm sút. Sông Cửu Long đem lại nhiều lợi ích cho trồng trọt và thủy sản, nhất là trong mùa lũ. Nguồn cung cấp nước tưới, phù sa và rửa phèn cho đất lúa, cùng với lượng tôm cá dồi dào đã khiến cư dân nơi đây chấp nhận sống chung cùng lũ hơn là đắp đê như ở đồng bằng châu thổ sông Hồng. Nhưng dòng sông cũng gây ra nhiều mặt bất lợi, điển hình là úng ngập thường xuyên trong các tháng mùa mưa, hoặc tình trạng xâm nhập mặn vào mùa khô.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Mê Kông là một trong những con sông lớn nhất trên thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Thanh Tạng nơi sông bắt nguồn thuộc tỉnh Thanh Hải, chảy qua Vân Nam Trung Quốc, qua các nước Lào, Myanmar, Thái Lan, Campuchia và đổ ra Biển Đông ở Việt Nam. Tính theo độ dài đứng thứ 12 (thứ 7 tại châu Á), còn tính theo lưu lượng nước đứng thứ 10 trên thế giới (lưu lượng hàng năm đạt khoảng 475 tỉ m³). Lưu lượng trung bình 13.200 m³/s, vào mùa nước lũ có thể lên tới 30.000 m³/s. Lưu vực của nó rộng khoảng 795.000 km² (theo số liệu của Ủy hội sông Mê Kông) hoặc hơn 810.000 km² (theo số liệu của "Encyclopaedia Britannica 2004"). Ủy hội sông Mê Kông là một cơ quan liên chính phủ nhằm "thúc đẩy và phối hợp quản lý và phát triển tài nguyên nước cũng như tài nguyên có liên quan một cách bền vững vì lợi ích chung của các quốc gia và sự an sinh của cộng đồng", gồm các thành viên Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, còn Myanmar và Trung Quốc là hai đối tác. Giao thông bằng đường thủy trên sông Mê Kông gặp nhiều khó khăn do dòng chảy bị thay đổi nhiều theo mùa, các đoạn chảy xiết và các thác nước cao. So với tiềm năng to lớn nếu được khai thác đúng mức, hiện nay, chỉ một phần nhỏ của sông được dùng trong việc dẫn thủy nhập điền và tạo năng lực thủy điện. Tuy nhiên lưu lượng và nhịp độ nước lũ ban phát nhiều lợi ích: biên độ dao động cao (sai biệt khoảng 30 lần giữa mùa hạn và mùa nước lũ) rất thuận lợi cho lối canh tác ruộng lúa ngập nước cho nhiều vùng rộng lớn. Đặc điểm thủy năng nổi bật của sông Mê Kông là vai trò điều lượng dòng nước bởi hồ Tonlé Sap - hồ thiên nhiên lớn nhất Đông Nam Á - người Việt thường gọi là "Biển Hồ" . Dòng chảy. Đầu nguồn của sông Mê Kông có hai nhánh: đầu nguồn phía bắc là sông Trát A Khúc và đầu nguồn phía nam là sông Trát Na Khúc. Nhánh phía nam được biết đến nhiều hơn, vị thế gần đèo Lungmug (龍模) với chiều dài 87,75 kilômét. Nhánh phía bắc chảy xuống từ rặng núi Quả Tông Mộc Tra. Nhánh này, từ độ cao 5224 mét - kinh tuyến đông 94°41'44", vĩ tuyến bắc 33°42'41", gồm hai nhánh phụ có chiều dài 91,12 kilômét và 89,76 kilômét. Hệ thống sông ngòi khu vực đầu nguồn sông Mê Kông bao gồm: thuỷ hệ Trát A Khúc và thuỷ hệ Trát Na Khúc. Hai nguồn hợp lưu tại Ca Nạp Tùng Đa (尕納松多) cao 4.360 mét, có toạ độ là 94°36′40″Đ, 33°12′33″B, cách huyện Tạp Đa, Ngọc Thụ, Thanh Hải 106,9km về phía tây bắc. Người ta đo được sông Trát A Khúc rộng 62 mét, độ sâu trung bình của sông là 0,72 mét, lưu tốc trung bình 2,63m/s, lưu lượng là 117,4 m3/s; sông Trát Na Khúc rộng hơn 51 mét, độ sâu trung bình của sông là 0,35 mét, lưu tốc trung bình 1,81m/s, lưu lượng là 32,3 m3/s. Đầu nguồn của dòng sông đến nay đã được xác định rõ qua những cuộc thám hiểm gần đây. Năm 1994, một phái đoàn Trung Quốc và Nhật Bản đã đến nguồn phía Bắc cùng lúc với phái đoàn Pháp, do M. Peissel dẫn đầu, đến nguồn mạch phía tây với cùng một mục đích: chứng minh nguồn mạch chính của sông Mê Kông. Sau đó, những cuộc thám hiểm kế tiếp cho đến năm 1999 dưới sự hợp tác các nước Trung Hoa, Mỹ và Nhật Bản đã chính thức xác minh nguồn mạch sông Mekong thuộc nhánh bắc. Các con số về độ dài của sông dao động trong khoảng 4.200km đến 4.850km. Các nhà công tác khoa học của đội khảo sát, sau khi tiến hành so sánh, phân tích và nghiên cứu cẩn thận về các dữ liệu nói trên của hai sông, tuyên bố nhận định sông Trát A Khúc là nơi phát nguyên của sông Mê Kông. Ngày nay vùng khởi nguồn sông Mekong, cùng với sông Trường Giang và sông Salween (Nộ Giang) hợp thành "khu bảo tồn Tam Giang Tịnh Lưu" tại tỉnh Vân Nam, Trùng Quốc. Gần một nửa chiều dài con sông này chảy trên lãnh thổ Trung Quốc, ở đó đoạn đầu nguồn nó được gọi theo tiếng Tây Tạng là "Dza Chu", tức Trát Khúc (扎曲; bính âm: "Zā Qū"), và nói chung được gọi là Lan Thương Giang trong tiếng Hán (瀾滄江; bính âm: "Láncāng Jiāng"; Wade-Giles: "Lan-ts'ang Chiang"), có nghĩa là "con sông cuộn sóng". Trát Khúc hợp lưu với một nhánh khác tên là Ngang Khúc (橫曲; bính âm: "Áng Qū") ở gần Xương Đô (昌都; bính âm: "Chāngdū") tạo ra Lan Thương Giang. Phần lớn đoạn sông này có các hẻm núi sâu, ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc, con sông chỉ còn ở độ cao khoảng 500 m so với mực nước biển. Sau đó, đoạn sông Mê Kông dài khoảng 200 km tạo thành biên giới giữa hai nước Myanmar và Lào. Tại điểm cuối của biên giới ở Tam giác Vàng, sông này hợp lưu với sông Ruak. Điểm này cũng là điểm phân chia phần Thượng và phần Hạ của Mê Kông. Sông Mê Kông sau đó tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan, trước khi dòng chảy chạy vào đất Lào ở tỉnh Bokeo. Người Lào và người Thái gọi sông với tên "Mènam Khong" ("Mè" là mẹ, "nam" là sông, tức "sông mẹ", tựa như "sông cái" theo thói quen gọi sông lớn của người Việt cổ), và là cội nguồn của tên quốc tế "Mekong" hiện nay khi bỏ đi từ "nam". Sử Việt Nam thì gọi là Sông Khung. Khoảng sông Mê Kông ở Lào đặc trưng bởi các hẻm núi sâu, các dòng chảy xiết và những vũng nước nông khoảng nửa mét vào mùa khô. Sau khi tiếp nhận dòng Nam Ou từ Phongsaly chảy đến ở Pak Ou phía trên Luang Prabang dòng sông mở rộng ra, ở đó nó có thể rộng tới 4 km và sâu tới 100 mét, mặc dù dòng chảy của nó vẫn rất trái ngược nhau. Sau đó Mekong lại tạo thành biên giới của Lào và Thái Lan trong đoạn chảy qua Viêng Chăn đến tỉnh Champasack. Từ phía đông thì có dòng Se Bangfai đổ vào sông Mekong ở ranh giới tỉnh Savannakhet với Khammouan, và dòng Se Banghiang đổ vào ở Muang Songkhone, Savannakhet. Từ phía Thái Lan thì có phụ lưu bên bờ phải là Mènam Mun dài 750 km, đổ vào tại Khong Chiam thuộc Ubon Ratchathani, Thái Lan. Sau đó lại là một đoạn ngắn chảy trên đất Lào, với một phụ lưu bờ trái là dòng Xe Don đổ vào ở Pak Se. Ở cực nam Lào tại tỉnh Champasack, nó bao gồm cả khu vực Si Phan Don (bốn ngàn đảo) phía trên thác Khone gần biên giới Campuchia. Thác nước này dài 15 km, cao 18 m khá hùng vĩ và gần như không thể vượt qua đối với giao thông bằng đường thủy. Tại Campuchia, con sông này có tên là sông "Mékôngk" (theo tiếng thiểu số gốc Lào ở đây) hay "Tông-lê Thơm" (sông lớn, theo tiếng Khmer). Tại khu vực tỉnh lỵ Stung Treng là nơi dòng Tonlé San đổ vào. Tonlé San là hợp lưu của các dòng Se Kong từ Nam Lào, và sông Sê San (Tonlé San) và sông Serepok (Tonlé Srepok) bắt nguồn từ Tây Nguyên ở Việt Nam chảy đến. Vùng nước chảy xiết (ghềnh) Sambor phía trên Kratie là cản trở giao thông cuối cùng. Ở phía trên Phnôm Pênh nó hợp lưu với Tonlé Sap, con sông nhánh chính của nó ở Campuchia. Vào mùa lũ, nước chảy ngược từ sông Mê Kông vào Tonlé Sap. Bắt đầu từ Phnôm Pênh, nó chia thành hai nhánh: bên phải là sông Ba Thắc (sang Việt Nam gọi là Hậu Giang hay sông Hậu) và bên trái là Mê Kông (sang Việt Nam gọi là Tiền Giang hay sông Tiền), cả hai đều chảy vào khu vực đồng bằng châu thổ rộng lớn ở Nam Bộ Việt Nam, dài chừng 220–250km mỗi sông. Tại Việt Nam, sông Mê Kông còn có tên gọi là sông Lớn, sông Cái. Tập hợp của cả chín nhánh sông lớn tại Việt Nam được gọi chung là sông Cửu Long. Lịch sử. Sự khó khăn về giao thông thủy của con sông này làm chia cắt con người sống hai bên bờ hơn là liên kết họ. Nền văn minh được biết sớm nhất là nền văn hóa Mã Lai, Ấn Độ hóa hồi thế kỷ 1, của Vương quốc Phù Nam, trong lưu vực sông Mê Kông. Sự khai quật ở Óc Eo, gần Rạch Giá ngày nay, đã tìm thấy những đồng tiền khác xa với Đế chế La Mã. Vương quốc Phù Nam được nối tiếp bởi quốc gia Khmer Chân Lạp ("Chenla") cho đến thế kỷ 5. Đế chế Khmer Angkor là quốc gia chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ cuối cùng trong khu vực. Sau khi quốc gia này bị tiêu diệt sông Mê Kông đã là đường biên giới của các quốc gia đối đầu nhau như Xiêm và Việt Nam, với Lào và Campuchia nằm trong tầm ảnh hưởng của họ. Người châu Âu đầu tiên thám hiểm sông Mê Kông là người Bồ Đào Nha có tên là Antonio de Faria vào năm 1540. Bản đồ của người châu Âu năm 1563 có vẽ lại con sông này, mặc dù chỉ có một đoạn nhỏ ở khu vực đồng bằng châu thổ. Sự quan tâm của người châu Âu không có chung mục đích: những người Tây Ban Nha và người Bồ Đào Nha chỉ thực hiện những cuộc thám hiểm nhằm mục đích truyền giáo và buôn bán, trong khi đó người Hà Lan Gerrit van Wuysthoff đã dẫn đầu một cuộc thám hiểm đến tận Viêng Chăn (1641-1642). Người Pháp có sự quan tâm đặc biệt tới khu vực này vào giữa thế kỷ 19, sau khi chiếm đóng Sài Gòn năm 1861 và thiết lập sự bảo hộ Campuchia năm 1863. Cuộc thám hiểm có hệ thống đầu tiên là cuộc thám hiểm sông Mekong 1866-1868 do người Pháp là Ernest Doudart de Lagrée và Francis Garnier thực hiện. Họ đã phát hiện ra rằng Mekong có quá nhiều thác nước và những chỗ chảy xiết, không có lợi cho giao thông đường thủy. Từ năm 1893, người Pháp mở rộng quyền kiểm soát của họ đối với con sông này tới tận Lào bằng việc thiết lập ra Liên bang Đông Dương trong những năm đầu tiên của thế kỷ 20. Điều này đã chấm dứt sau Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất kết thúc và người Mỹ can thiệp vào khu vực. Sau Chiến tranh Việt Nam, những bất đồng giữa Thái Lan, Việt Nam và Trung Quốc khi đó đã hạn chế sự hợp tác của các bên trong việc khai thác tiềm năng của dòng sông này. Tuy nhiên, hiện nay các bên đã xích lại gần nhau hơn trong vấn đề này. Lưu lượng. Lưu lượng ròng hằng năm của sông Mê Kông là 475 tỉ mét khối, đứng ở vị trí thứ hai trong các sông ở Đông Nam Á, chỉ xếp sau sông Ayeyarwady có lưu lượng ròng hằng năm là 486 tỉ mét khối. Nguồn cung cấp nước chủ yếu là giáng thuỷ trong lưu vực và nước tan từ núi tuyết, trong đó giáng thuỷ chiếm hơn 1/2 lưu lượng ròng của dòng sông, nước tan từ núi tuyết chiếm khoảng 1/6. Do lưu vực sông Mê Kông bị gió mùa ảnh hưởng, nên mực nước và lưu lượng dòng chảy cao nhất vào mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Mùa mưa bắt đầu vào tháng 5, mực nước lên cao, từ tháng 9 đến tháng 10 là đỉnh lũ, lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất từng đạt 75.700 m3/s. Khu vực ngập lụt chủ yếu ở châu thổ, diện tích ngập lụt khoảng 4 triệu hécta, do có hồ Tonlé Sap điều tiết, nên đã giảm nhẹ mức độ ngập lụt. Từ tháng 1 đến tháng 2 là khoảng thời gian nước cạn, lưu lượng tối thiểu 1.250 m3/s. Sông Mê Kông có một chuỗi đảo dài chừng 50 kilômét ở chỗ sát gần biên giới Lào và Campuchia. Khi mùa mưa đến, chỗ rộng nhất đạt 14 kilômét, là một đoạn "eo" rộng nhất của sông Mê Kông. Mùa khô nước sông rút xuống, đoạn "eo rộng" này sẽ xuất hiện hàng trăm đảo nhỏ. Nếu đem bãi nhỏ, bãi cạn tính vào trên, số lượng hơn một ngàn, người địa phương đem khu vực này gọi là Si Phan Don (bốn ngàn hòn đảo xinh đẹp). Khu vực đồng bằng sông Cửu Long là một đồng bằng bồi tích do sông Mê Kông vận chuyển phù sa trải qua hàng nghìn năm mà hình thành, hầu như không có sự chênh lệch về độ cao, vào cuối mùa khô lưu lượng ít, hiệu ứng thuỷ triều của biển Đông xuất hiện rõ rệt. Lúc triều lên và triều rút, mực nước Vàm Kênh, Tiền Giang gần cửa sông thay đổi 3m, mực nước gần cầu Mỹ Thuận cách cửa sông khoảng 100km thay đổi từ 2 đến 2,5m, mực nước ở Châu Đốc cách cửa sông khoảng 200 km thay đổi khoảng 1 m, sự thay đổi này chính là do thuỷ triều ảnh hưởng, có đặc trưng của sông cảm triều rất mãnh liệt. Lưu lượng trung bình hằng tháng đo tại trạm quan trắc Pakxe (m3/s) Lưu vực. Sông Mê Kông là dòng sông dài nhất ở Đông Nam Á, có tổng chiều dài 4.350 kilômét, tổng diện tích lưu vực 795.000 kilômét vuông, là sông dài thứ mười hai thế giới, sông dài thứ bảy ở châu Á. Sông Mê Kông bắt nguồn ở tỉnh Thanh Hải, Trung Quốc, chảy qua Tây Tạng và Vân Nam, sau đó trở thành bộ phận biên giới quốc tế giữa Myanmar và Lào, giữa Lào và Thái Lan, vẫn còn chảy qua Campuchia và Việt Nam, cuối cùng đổ vào biển Đông thông qua hệ thống đồng bằng sông Cửu Long. Viêng Chăn - thủ đô Lào, và Phnôm Pênh - thủ đô Campuchia, đều nằm ở bên bờ sông. Khoảng 3/4 diện tích lưu vực sông Mê Kông nằm ở 5 quốc gia - Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam, có hạ du của sông chảy qua. Đoạn sông sau khi sông Lan Thương chảy ra khỏi biên giới Trung Quốc gọi là sông Mê Kông, chiếm 79,3% tổng diện tích lưu vực sông Mê Kông - Lan Thương, hầu như bao gồm toàn bộ Lào, Campuchia và phần lớn khu vực Thái Lan, khu vực tam giác châu ở Việt Nam có gradient bỉ giáng trung bình khoảng 0,16‰. Là dòng sông quốc tế lớn thứ hai đổ vào biển Đông ở Thái Bình Dương, xếp sau sông quốc tế sông Amur đổ vào biển Okhotsk ở Thái Bình Dương. Chi lưu chủ yếu có sông Nam Tha, sông Nam Ou, sông Nam Khan, sông Nam Ngum, sông Nam Theun, sông Bang Fai, sông Bang Hiang, sông Mun, sông San, sông Tonlé Sap... trong đó sông Mun là chi lưu lớn nhất. Diện tích lưu vực. Có 22 chi lưu của sông Mê Kông có diện tích lưu vực lớn hơn 5.000 kilômét vuông. Diện tích lưu vực sông Cửu Long, Việt Nam là 65.000 kilômét vuông, lưu lượng trung bình hằng năm là 1.660 m3/s. Trong đó, bốn nước Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam ở hạ du sông Mê Kông hợp thành Uỷ hội sông Mê Kông. Nhân khẩu lưu vực. Cư dân ở lưu vực hạ du chiếm khoảng 1/3 dân số của bốn quốc gia ven bờ sông. Hầu như tất cả mọi người đều làm nông nghiệp, lúa nước là cây trồng chủ yếu. Chỗ tập trung nhân khẩu nhất nằm ở đồng bằng sông Cửu Long và cao nguyên Khorat. Một số ít nhân khẩu ở các thành thị liên tục gia tăng nhanh chóng, chủ yếu là thông qua di cư mà chuyển đến đô thị. Nhân khẩu lưu vực không chung quan hệ chủng tộc. Các nhóm chủng tộc từ khu vực thượng du sông Mê Kông bao gồm người Karen (ngữ hệ Hán - Tạng) và người H'Mông (ngữ hệ Miêu - Dao) cho đến khu vực hạ du sông Mê Kông bao gồm người Khmer (ngữ hệ Nam Á), người Chăm (ngữ hệ Nam Đảo), người Thái (ngữ hệ Kra-Dai), người Môn (ngữ hệ Nam Á). Người Việt tập trung ở tam giác châu, người Khmer và người Thái thậm chí phân bố rộng rãi hơn ở lưu vực hạ du. Địa lí tự nhiên. Theo khảo sát của Hiệp hội Thám hiểm Khoa học Trung Quốc (CASE), sông Mê Kông phát nguyên từ suối Lạp Tái Công Mã, cao 5.224 mét so với mặt nước biển. Suối này nằm trên núi Quả Tông Mộc Tra ở tỉnh Thanh Hải, hình thành sông Trát A Khúc, sông Trát A Khúc được Viện Khoa học Trung Quốc công nhận là nơi phát nguyên của sông Mê Kông. Tuy nhiên, một đoàn thám hiểm do Michel Peissel dẫn đầu vào năm 1994, xác định sông Trát Na Khúc - nằm xa về phía tây ở đèo Rupsa (cao 4.975 mét), là nơi phát nguyên của sông Mê Kông. Diện tích lưu vực sông Mê Kông khoảng 795.000 kilômét vuông, từ cao nguyên Thanh Tạng một mạch kéo dài đến biển Đông. Bởi vì lòng sông của sông Mê Kông bị thu hẹp trong 1.955 kilômét đầu của lưu trình, cho nên trạng thái tự nhiên chiếm vị trí chủ đạo ở thượng du và hạ du của sông Mê Kông sau khi chảy ra khỏi cao nguyên Vân Nam hình thành sự tương phản, căn cứ vào đó đem nó chia thành hai bộ phận chủ yếu. Thượng du sông Mê Kông là một thung lũng hẹp dài, chiếm khoảng 1/4 tổng diện tích lưu vực, cắt xuyên qua dãy núi và cao nguyên ở Trung Quốc. Hạ du sông Mê Kông nằm ở bên dưới điểm bắt đầu hình thành biên giới Myanmar và Lào, dài 2.390 kilômét, có cao nguyên Khorat ở Thái Lan, có sườn phía tây của dãy núi Trường Sơn - dải núi dài phân chia ranh giới Việt Nam và Lào, cùng với đa số khu vực ở Campuchia là lưu vực của nó, sau đó chảy qua hệ thống sông ngòi của đồng bằng sông Cửu Long ở Việt Nam rồi đổ vào biển Đông. Sông Mê Kông ở phía thượng du là một trong những cụm sông cả bắt nguồn trên cao nguyên nằm giữa sông Thanlwin và sông Trường Giang; lòng sông cắt sâu vào khu vực gập ghềnh mà nó chảy qua. Ở giữa Lào và Myanmar, khoảng 20.720 kilômét vuông lãnh thổ Myanmar là lưu vực sông Mê Kông, toàn là khu vực gập ghềnh, không bằng phẳng. Đoạn sông hạ du của sông Mê Kông tương đối thoai thoải, tạo thành một đoạn biên giới khá dài giữa Lào và Thái Lan, trở thành một nguyên nhân chính gây xung đột và hợp tác giữa bốn nước Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam. Địa hình địa mạo. Sông Lan Thương - thượng nguồn sông Mê Kông. Sông Lan Thương là dòng sông có hướng chảy về phía nam điển hình, tuỳ theo dòng chảy từ bắc xuống nam của sông, lưu vực mà nó chảy qua, hầu như đã bao gồm tất cả cảnh quan tự nhiên và loại hình khí hậu trên thế giới trừ sa mạc và bán sa mạc Gobi ra. Ở phương diện xã hội nhân văn, lưu vực sông Lan Thương là khu vực tập trung nhiều sắc tộc, chỉ trong lưu vực đoạn chảy qua Vân Nam đã phân bố 16 dân tộc như người Thái (ngữ hệ Kra - Dai), người Bạch (ngữ hệ Hán - Tạng), người Bố Y (ngữ hệ Kra - Dai), người Lô Lô (ngữ hệ Hán - Tạng)... trong đó người Thái, người Bố Y và người Derung (ngữ hệ Hán - Tạng) là các dân tộc xuyên biên giới. Phong tục tập quán, phương thức sinh hoạt và tín ngưỡng tôn giáo mỗi dân tộc có đặc sắc riêng, phần lớn hoà nhập với môi trường tự nhiên ở địa phương. Khu vực đầu nguồn chỉ lưu vực phía trên huyện Tạp Đa, tỉnh Thanh Hải, có chiều cao trung bình trên 4.500 mét so với mực nước biển, thuộc khu vực thảo điện cao nguyên. Loại hình địa mạo chủ yếu có: đồng bằng lũng sông, núi cao và sông băng. Đồng bằng lũng sông chỉ lũng sông nằm ở hai phía sông cái hoặc chi lưu, có độ cao trung bình trên 4.500 mét so với mực nước biển, đặc điểm của nó là mặt đất bằng phẳng, chênh lệch độ cao tương đối không lớn, độ dốc của mặt đất nhỏ hơn 10°, lũng sông phân bố đồng đều với ao đầm. Núi cao là loại hình địa mạo chủ yếu ở khu vực đầu nguồn. Chiều cao của núi cao là từ 4.500 đến 5.800 mét so với mực nước biển. Căn cứ vào sự khác nhau của độ nhấp nhô mặt đất có thể chia thành 4 loại: gò đồi cao (độ nhấp nhô nhỏ hơn 200 mét), núi nhấp nhô nhỏ (độ nhấp nhô từ 200 đến 500 mét), núi cao nhấp nhô vừa (độ nhấp nhô từ 500 đến 1.000 mét) và núi cao nhấp nhô lớn (độ nhấp nhô lớn hơn 1.000 mét). Các núi cao có độ nhấp nhô khác nhau phân bố xen kẽ với lũng sông. Tổng diện tích sông băng ở khu vực đầu nguồn khoảng 60 kilômét vuông, tập trung phân bố ở trên núi cao nhấp nhô lớn có độ cao trên 5.500 mét so với mực nước biển. Tạp Đa - Xương Đô là một bộ phận của thượng du sông Lan Thương, nó kết hợp với khu vực đầu nguồn gọi là thượng du sông Lan Thương. Địa mạo của phân đoạn lưu vực này là loại hình chuyển tiếp từ địa mạo núi cao - đồng bằng lũng sông ở khu vực đầu nguồn sang địa mạo núi cao - hẻm núi ở trung du, cũng là loại hình địa mạo chuyển tiếp từ cao nguyên Thanh Tạng sang dãy núi Hoành Đoạn. Từ phía dưới huyện Tạp Đa cho đến khu vực biên giới giữa Thanh Hải và Tây Tạng là núi cao xen kẽ với lũng sông có mặt cắt ngang rộng lớn, phát triển dọc theo đảo sông và bãi ngập lũ, chiều cao trung bình của lũng sông là 3.500 - 4.000 mét, núi cao ở hai bờ có chiều cao là 5.000 mét so với mực nước biển. Đoạn từ biên giới Thanh Hải và Tây Tạng cho đến Xương Đô, núi cao ở hai bờ cao từ 5.000 đến 5.500 mét so với mực nước biển, chiều cao lòng sông là 3.150 đến 3.500 mét, hình thành một số hẻm núi hình chữ V bổ sâu 500 đến 1.000 mét, điều này đã cho thấy địa mạo núi cao - hẻm núi. Từ phía dưới Xương Đô cho đến cầu treo Công Quả (về sau đổi tên thành cầu Xương Cam) ở Vân Long, Vân Nam là trung du sông Lan Thương. Khu vực này là địa mạo núi cao - hẻm núi điển hình. Núi cao xen kẽ với hẻm núi, độ nhấp nhô của địa hình lớn, lưu vực chật hẹp. Khu vực này nằm ở chỗ tam giang tính lưu của dãy núi Hoành Đoạn, chênh lệch độ cao tương đối giữa núi cao và hẻm núi là 3.000 đến 4.000 mét. Đỉnh núi chủ yếu ở hai bờ của lũng sông cao trên 5.500 mét so với mực nước biển. Hẻm núi lớn Mai Lí sông Lan Thương, dài 150 kilômét, là chỗ có chênh lệch độ cao lớn nhất ở tỉnh Vân Nam. Mặt sông của hẻm núi có độ cao 2.006 mét so với mực nước biển, núi tuyết Mai Lí ở tả ngạn có đỉnh Kawagarbo cao 6.740 mét so với mực nước biển, núi tuyết Bạch Mã ở hữu ngạn có đỉnh Zhalaqueni cao đến 5.460 mét, chênh lệch độ cao lớn nhất của hẻm núi đạt 4.734 mét, khoảng cách mặt sườn núi tính từ mặt sông đến đỉnh núi là 14 kilômét, cứ mỗi kilômét trung bình tăng lên 337 mét, hẻm núi có một mặt sườn gần như thẳng đứng. Mực nước cạn của đoạn sông chính này từ trên xuống dưới là 3.150 đến 1.240 mét. Phân đoạn lưu vực trung du sông Lan Thương vừa là phân đoạn có chênh lệch độ cao tương đối lớn nhất toàn lưu vực vừa là phân đoạn chật hẹp nhất toàn lưu vực. Đoạn có độ nhấp nhô lớn nhất là làng Lựu Đồng Giang, Địch Khánh, Vân Nam, mực nước cạn của nó là 2.054 mét, nhưng mà đỉnh Kawagarbo của núi tuyết Mai Lí ở hữu ngạn có độ cao 6.740 mét, chênh lệch độ tương đối của nó đạt 4.686 mét. Đoạn đất chật hẹp nhất của lưu vực là chỗ sát gần khối núi Vân Lĩnh ở phía tây bắc Vân Nam, đường phân thuỷ giữa hai bờ chỉ có 20 - 25 kilômét. Từ phía dưới cầu treo Công Quả cho đến cửa sông Nam A là hạ du sông Lan Thương. Từ phía dưới cầu treo Công Quả cho đến cầu Doãn Cảnh Hồng sông Lan Thương là khu vực núi vừa - thung lũng nới rộng, là khu vực chuyển tiếp giữa cao nguyên Thanh Tạng sang cao nguyên Vân Quý. Địa hình khu vực này bị nứt vỡ, lũng sông cắt xẻ mãnh liệt, thung lũng chính vẫn có hình chữ V, chênh lệch độ cao của núi cao - hẻm núi là 3.500 - 1.000 mét. Từ cầu Doãn Cảnh Hồng sông Lan Thương đến cửa sông Nam A, có cảnh quan địa mạo núi thấp vừa - thung lũng nới rộng (bồn địa), độ cao từ 500 đến 1.000 mét, đáy thung lũng rộng 150 đến 300 mét, tối đa có thể đạt 800 đến 1.200 mét. Có một số tiểu bồn địa phân bố rải rác giữa các núi. Sự phát triển lũng sông và sự xuất hiện hệ thống sông ngòi của đoạn sông này vẫn bị sơn hệ hình dạng "chổi" của phía nam dãy núi Hoành Đoạn kiểm soát, nhưng tác dụng cắt bổ và xói mòn của nước chảy cũng đóng vai trò rất lớn. Sông Mê Kông. Địa hình sông Mê Kông chia thành 5 vùng: cao nguyên bắc bộ, dãy núi Trường Sơn, cao địa nam bộ, cao nguyên Khorat và đồng bằng sông Mê Kông. Cao nguyên bắc bộ bao gồm phía bắc Lào, vùng núi của tỉnh Loei và tỉnh Chiang Rai ở Thái Lan, đến đâu đều là núi cao đỉnh lớn, chiều cao đạt từ 1.500 đến 2.800 mét so với mực nước biển, chỉ có số ít đồng bằng cao địa và đồng bằng bồi tích lũng sông. Dãy núi Trường Sơn kéo dài hơn 800 mét từ tây bắc đến đông nam, sườn núi phía bắc và phía trung dốc gần như thẳng đứng, phía nam là khu vực gò đồi. Sườn nam và sườn tây bị gió mùa Tây Nam ảnh hưởng, lượng mưa khá lớn, nhưng mà lũng sông ở phía trung khá khô hạn. Cao địa nam bộ bao gồm dãy núi Kravanh ở Campuchia, mặt phía đông là đồi núi dài dằng dặc, mặt phía tây là gò đồi. Cao nguyên Khorat bao gồm đông bắc Thái Lan và một bộ phận của Lào, là bồn địa sơn gian hình cánh bướm có chiều dài và chiều rộng chừng 500 kilômét, sông Mun và sông Chi - các chi lưu của sông Mê Kông, chảy qua chỗ này. Đồng bằng sông Mê Kông là vùng đất thấp rộng lớn, bao gồm khu vực tam giác châu. Đầu nguồn sông Lan Thương có hai nhánh: sông Trát Khúc (Zha Qu) và sông Ngang Khúc (Ang Qu), bắt nguồn ở cao địa có chiều cao hơn 4.900 mét so với mực nước biển trong dãy núi Tanggula. Hai sông này sau khi hợp lưu ở thị trấn Thành Quan, thành phố Xương Đô, Tây Tạng thì mới bắt đầu gọi là sông Lan Thương. Sông Lan Thương chảy dốc xuống theo hướng nam, xuyên qua cao nguyên Vân Nam bị xói mòn cắt xé thành gò đồi và thung lũng, cho đến một điểm phía nam ở Cảnh Hồng, trở thành dòng sông phân chia ranh giới Trung Quốc và Myanmar. Nước sông tiếp tục chảy xiết theo hướng tây nam; đoạn sông dài hơn 201 kilômét hình thành biên giới giữa Myanmar và Lào. Lưu vực về phía dưới Myanmar chia thành 6 bộ phận chủ yếu: cao địa bắc bộ, cao nguyên Khorat, cao địa đông bộ, đê địa nam bộ, cao địa nam bộ và tam giác châu. Đa số thảm thực vật thuộc loài cây lá rộng nhiệt đới, nhưng mà tuỳ theo sự khác nhau giữa vĩ độ và địa hình mà xuất hiện cây trồng cá biệt khác nhau. Cao địa bắc bộ có núi nếp uốn cao, cao khoảng 2.743 mét so với mực bước biển, rất nhiều đỉnh núi, sườn núi dốc gần như thẳng đứng. Mặt phía nam của dòng sông có chiều đông - tây ở hạ du Viêng Chăn là cao nguyên Khorat, hầu như đã bao bọc tất cả bộ phận của lưu vực sông Mê Kông ở Thái Lan, cùng với hạ du của chi lưu sông Mê Kông ở Lào. Đây là một vùng gò đồi lên xuống êm dịu, đan xen dọc ngang với đồng bằng bồi tích bằng phẳng. Cao địa đông bộ là bộ phận hợp hành dãy núi Trường Sơn, dòng sông giữa núi đổ vào sông Mê Kông từ mặt phía tây. Phần lớn đoạn đất giữa Kỳ Sơn, Việt Nam và Kratié, Campuchia, đường phân thuỷ tạo thành biên giới giữa Việt Nam ở phía đông với Lào và Campuchia ở phía tây. Đê địa nam bộ kề sát hai bên sông Mê Kông vùng hạ du ở Pakxe, Lào. Sông Mê Kông đột nhiên "té" chảy vào Campuchia ở thác Khone. Ở giữa thác Khone và Kratié, ghềnh hiểm trở và dòng nước xiết đan chéo qua lại với đồng bằng bồi tích. Ở phía dưới Kampong Cham, độ dốc của lòng sông biến thành thoai thoải, dòng sông chảy qua đới bồi tích rộng lớn trên đồng bằng ngập lũ của nó. Ở sát gần Phnôm Pênh, sông Mê Kông hợp lưu với sông Tonlé Sap, đồng thời nối liền với hồ Tonlé Sap thông qua sông Tonlé Sap. Hướng chảy của sông Tonlé Sap dựa vào mùa mà thay đổi. Vào đỉnh điểm mùa lũ, lúc mực nước sông Mê Kông cao, nước chảy vào trong hồ thông qua sông Tonlé Sap, mặt hồ lúc đó từ hơn 2.590 kilômét vuông tăng lên đến diện tích tối đa khoảng 10.360 kilômét vuông. Vào mùa khô, lúc nước lũ rút đi, sông Tonlé Sap hướng ngược lại chảy vào trong sông Mê Kông theo hướng đông nam. Hồ Tonlé Sap là một ngư trường có sản lượng cao. Dãy núi Damrei và dãy núi Kravanh ở phía tây nam Campuchia hợp thành cao địa nam bộ. Một vài chi lưu của sông Tonlé Sap bắt nguồn ở những cao địa này. Sông Mê Kông về phía dưới Phnôm Pênh chia thành hai chi lưu : sông Tiền và sông Hậu. Tam giác châu từ đó một mạch kéo dài đến ven biển, tổng diện tích tam giác châu chừng 64.750 kilômét vuông, chia thành ba phần, về phía nam sông Hậu là bán đảo Cà Mau, bởi vì ứ tích bùn và cát của sông Mê Kông cho nên bán đảo mỗi năm kéo dài 60 - 80 mét hướng về ven biển phía tây nam. Bãi biển ở phía tây bán đảo đủ dài tạo thành rừng ngập mặn đặc biệt chỉ có ở miền nhiệt đới, bên trong vùng đất có nhiều ruộng lúa nước và rừng rậm nhiệt đới. Ở giữa sông Tiền và sông Hậu là đồng bằng màu mỡ và bằng phẳng, kênh mương dày đặc như mạng nhện. Bộ phận về phía bắc sông Tiền chia ra, phía tây là Đồng Tháp Mười, thực tế là vùng ao đầm, mùa mưa tạo thành một bãi nước rộng lớn bao la, chiều sâu của nước là từ 3m trở xuống, mùa khô cạn nước cũng đến đầu gối, sản xuất nhiều củ sen và lúa nước nổi, phía đông là đồng bằng Đồng Nai. Từ biên giới Trung, Miến, Lào cho đến Viêng Chăn của Lào là thượng du, dài 1.053 kilômét. Phần lớn chảy qua khu vực có độ cao từ 200 đến 1.500 mét so với mực nước biển, địa hình lên xuống khá lớn, dọc đường bị dãy núi ngăn cản, dòng sông mấy lần trải qua uốn khúc, bề rộng lũng sông lúc rộng lúc hẹp thay qua đổi lại, độ dốc lòng sông khá dốc, phần nhiều là dòng nước chảy xiết và bãi cạn. Từ Viêng Chăn đến Pakxe là đoạn trung du, dài 724 kilômét. Chảy qua gò đồi của cao nguyên Khorat và chân núi của dãy núi Trường Sơn, phần lớn khu vực cao 100 đến 200 mét so với mực nước biển, địa hình lên xuống không lớn. Trong đó lũng sông ở đoạn phía trên rộng lớn, dòng nước yên tĩnh. Từ Kaysone Phomvihane cho đến Pakxe, độ dốc của lòng sông khá dốc, nhiều đá ngầm, bãi cạn và dòng nước chảy xiết. Thác Khone - một vùng nước hiểm, lớn nhất toàn sông nằm ở đoạn này. Từ phía dưới Phnôm Pênh cho đến cửa sông là đoạn sông tam giác châu, dài 332 kilômét. Sông Mê Kông sau khi tiếp nhận sông Tonlé Sap ở chỗ sát gần Phnôm Pênh chia thành sông Tiền và sông Hậu, sông Tiền và sông Hậu đi vào Việt Nam, lại chia thành 6 nhánh, qua 9 cửa sông rồi đổ vào biển Đông, cho nên đoạn sông Mê Kông đổ vào biển đặt tên là sông Cửu Long. Chiều cao trung bình của tam giác châu không đủ 2 mét, diện tích 44.000 kilômét vuông, địa thế thấp bằng, mạng lưới sông ngòi dày đặc, thổ nhưỡng phì nhiêu. Là một trong những khu sản xuất gạo trọng yếu ở Đông Nam Á. Khí hậu. Lưu vực sông Lan Thương, có nhiệt độ trung bình năm tính từ phía dưới Đức Khâm là trên 10℃, nhiệt độ mỗi tháng đều trên 8℃, tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, tháng có nhiệt độ thấp nhất là tháng 1; nhiệt độ trung bình năm ở khu vực phía trên Đức Khâm là dưới 10℃, tháng có nhiệt độ trung bình thấp nhất xuất hiện vào tháng 1 dưới 0℃, tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất xuất hiện vào tháng 7. Nhiệt độ trung bình năm ở Tạp Đa - đầu nguồn sông Lan Thương chỉ 0,2℃, nhiệt độ tháng 1 là -11,3℃, nhiệt độ tháng 7 cũng chỉ có 10,69℃, đều là khu vực có nhiệt độ thấp nhất toàn lưu vực. Lưu vực hạ du sông Mê Kông, nhiệt độ trung bình năm đều trên 25℃, nhiệt độ trung bình mỗi tháng đều trên 20℃, tháng có nhiệt độ cao nhất là vào tháng 5, tháng có nhiệt độ thấp nhất là từ tháng 12 đến tháng 1 năm sau, nhiệt độ từ tháng 2 đến tháng 5 dần dần lên cao, nhiệt độ từ tháng 6 đến tháng 12 dần dần xuống thấp. Khu vực đê địa ở hạ du sông Mê Kông có nhiệt độ trung bình cả năm khá cao. Khí hậu của lưu vực thượng du và hạ du sông Mê Kông bị nền thời tiết lớn của gió mùa ảnh hưởng khá lớn; vĩ độ, độ cao so với mực nước biển và địa hình cũng đóng vai trò to lớn đối với khí hậu của lưu vực, trong đó lấy sự ảnh hưởng của địa hình về giáng thuỷ là rõ ràng nhất. Cả lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông hầu như đều bị gió mùa ảnh hưởng; đầu nguồn bị ảnh hưởng ít nhất, hạ du nhiều nhất, từ đầu nguồn đến hạ du bị ảnh hưởng càng ngày càng lớn. Lưu vực, vào mùa đông, bị gió mùa khô lạnh kiểm soát, trời quang mây tạnh, thời tiết khô hanh; mùa hè bị gió mùa Tây Nam nóng ấm kiểm soát, mây mưa khá nhiều. Thời tiết mùa đông và mùa hè hoàn toàn không giống nhau, có tồn tại mùa chuyển tiếp của hai loại thời tiết này là mùa xuân và mùa thu, hơn nữa thời gian chuyển tiếp tương đối ngắn, cho nên đem một năm chia làm hai mùa: mùa khô và mùa mưa. Lưu vực thượng du và hạ du bởi vì chịu ảnh hưởng đến sớm hay muộn của gió mùa Tây Nam và mức độ ảnh hưởng không giống nhau, cho nên thời gian và độ dài ngắn bắt đầu mùa khô và mùa mưa cũng có sự khác biệt. Lưu vực hạ du sông Mê Kông từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa, từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là mùa khô; hạ du sông Lan Thương và lưu vực sông Mê Kông gần giống nhau; trung du sông Lan Thương từ tháng 6 đến tháng 10 là mùa mưa, từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau là mùa khô; thượng du sông Lan Thương là khu vực khô hạn và giá rét, trong một năm chỉ có ba tháng 6, 7 và 8 có giáng thuỷ hơi nhiều một chút, hơn 100 milimét, các tháng khác nước ít hơn, mùa khô và mùa mưa không hoàn toàn rõ ràng. Bị vĩ độ và gió mùa Tây Nam ảnh hưởng, nhiệt độ và giáng thuỷ về tổng thể có xu thế thấp lần lượt từ hạ du lên thượng du, tức là giáng thuỷ và nhiệt độ ở hạ du cao hơn thượng du, cục bộ bị địa mạo ảnh hưởng thì có chỗ khác nhau. Trong quá trình di chuyển về phía bắc của luồng khí ẩm do gió mùa Tây Nam đem đến, bởi vì mưa rơi dọc đường, cho nên lượng nước chứa trong nó giảm dần, điều này đã dẫn đến lượng mưa cũng có xu thế giảm dần ở dọc dường. Thí dụ như giáng thuỷ hằng năm ở thượng du sông Lan Thương thấp hơn 1.000 milimét, hạ du khoảng 1.500 milimét, nhưng mà giáng thuỷ trung bình hằng năm ở lưu vực sông Mê Kông thì lớn hơn 1.500 milimét. Lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông từ hạ du lên thượng du về tổng thể xuất hiện rõ ràng quy luật giảm dần của giáng thuỷ và nhiệt độ, nhưng mà khu vực cục bộ chịu sự ảnh hưởng của địa hình vô cùng lớn. Luồng khí ẩm gặp phải đồi núi cao và cao nguyên, trong quá trình leo lên sẽ sản sinh lượng mưa lớn ở sườn đón gió, gọi là "mưa địa hình". Khu vực lưng của sườn đón gió có địa hình khá thấp, lượng mưa khá ít gọi là "khu vực bóng mưa". Lưu vực chịu sự ảnh hưởng của địa hình hình thành khu vực bóng mưa rõ rệt có: khu vực hồ Tonlé Sap, cao nguyên Khorat và khu vực lũng sông ở trung du sông Lan Thương. Hồ Tonlé Sap nằm ở mặt phía đông của dãy núi Kravanh và dãy núi Damrei, cao nguyên Khorat nằm ở phía đông của hệ thống dải núi dài Phetchabun-Dong Phaya Yen-Sankamphaeng, lũng sông vùng trung du sông Lan Thương nằm ở phía đông núi Cao Lê Cống và phía đông dãy núi Nộ Sơn. Tất cả chúng đều nằm ở khu vực bóng mưa sườn trái gió của gió mùa Tây Nam, giáng thuỷ tương đối ít, lượng mưa ở trong lũng sông tại chỗ tiếp giáp Vân Nam và Tây Tạng thuộc vùng trung du sông Lan Thương không đến 400 milimét. Bộ phận thung lũng bị kẹp giữa hai dãy núi cao ở vùng trung du sông Lan Thương không chỉ nằm ở khu vực bóng mưa có lượng mưa ít, thậm chí còn bị tác dụng của hiệu ứng foehn hình thành thung lũng khô nóng. Sự ảnh hưởng của địa hình lên nhiệt độ chính là ở một số khu vực mưa nhiều phía sườn đón gió, không chỉ có chiều cao so với mặt nước biển cao, mà bản thân lượng mưa cũng khiến cho nhiệt độ giảm xuống rõ rệt, thí dụ như nhiệt độ trung bình và hằng năm ở Paksong và Xiengkhuang thấp hơn rõ rệt so với các khu vực khác cùng vĩ độ. Nhiệt độ hằng năm ở Paksong là từ 17 - 22℃, trở thành khu nghỉ mát tránh nóng nổi tiếng. Cao nguyên Khorat có giáng thuỷ khá ít, nhiệt độ hằng năm khá cao, bị khu vực vực bóng mưa ảnh hưởng rõ rệt. Sự phân bố độ ẩm ở lưu vực sông Lan Thương - sông Mê Kông có tính nhất quán khá tốt, phù hợp với quy luật biến thiên trong năm và quy luật biến thiên của lượng mưa. Các vấn đề. Theo tiến sĩ C. Hart Schaaf, cựu ủy viên Ủy ban Mê Kông, "...Đây là người khổng lồ đang ngủ, chứa trong lòng một tiềm năng to lớn về thủy điện, thủy lợi cũng như khả năng phòng lụt, một nguồn năng lượng bị bỏ quên...". Có hai vấn đề chính gây mâu thuẫn giữa các bên là việc xây dựng các con đập hay việc phá hủy những chỗ chảy xiết. Một loạt các đập đã được xây dựng trên các nhánh của dòng sông này, đáng kể nhất là đập Pak Mun tại Thái Lan. Nó bị công kích dữ dội do chi phí cao cũng như ảnh hưởng xấu tới môi trường và tới cuộc sống của những khu dân cư chịu ảnh hưởng. Người Trung Quốc hiện đang tiến hành một chương trình lớn về xây dựng các đập trên sông: họ đã hoàn thành các đập tại Mạn Loan (漫湾), Đại Triều Sơn (大朝山), Cảnh Hồng (景洪), đang tiến hành xây đập Tiểu Loan (小湾 "Xiaowan") và khoảng hơn một chục đập khác đang được nghiên cứu. Tính đến đầu năm 2016, Trung Quốc đã hoàn thành ít nhất 8 đập chính trên sông Lan Thương (dòng chính tại thượng nguồn sông Mekong) và đang xây tối thiểu thêm 4 đập nữa. Người ta lo ngại rằng các đập này sẽ ngăn cản chuyển động của trầm tích và sẽ gây thiệt hại cho nông nghiệp và nghề cá ở phía hạ lưu. Sự giảm đi của các dao động mức nước theo mùa cũng sẽ ảnh hưởng mạnh đến Tonlé Sap(Biển Hồ). Các chính phủ Lào và Campuchia cũng có kế hoạch xây dựng các đập ngăn nước, hiện đang bị một số người phản đối. Chính quyền Trung Quốc cũng thực hiện việc làm sạch các tảng đá và cồn cát từ dòng chảy để tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông, và điều này cũng khuyến khích Lào làm như vậy. Các nhà môi trường cho rằng điều này sẽ làm tăng sự lưu thông nước và kết quả của nó là sự gia tăng xói mòn cũng như gây thiệt hại cho nguồn cá. Việt Nam thì thường lên tiếng về các tác động của những hoạt động làm thay đổi chế độ thủy văn của sông Mekong này do có đồng bằng sông Cửu Long là nơi chịu tác động trực tiếp của những thay đổi này. Đặc biệt là đợt hạn hán miền Nam Việt Nam 2016 được cho là do lượng nước đổ về đồng bằng sông Cửu Long từ sông Mê Kông bị giảm mạnh do hệ thống các đập thủy điện được nhiều quốc gia xây dựng trên dòng chính của con sông . Việt Nam tìm cách phản đối việc xây dựng đập trên dòng chính, nhưng các công ty đầu tư thì đang chạy đua trong việc xây dựng thủy điện trên các phụ lưu. Trong điều kiện chưa có quy tắc ứng xử hoàn thiện, thì theo tạp chí Mỹ "The National Interest" hệ thống hàng chục đập thủy điện của Trung Quốc tại thượng nguồn các sông ở đông nam dãy Himalaya được coi là "vũ khí hủy diệt đáng sợ". Nó sẵn sàng trở thành công cụ hỗ trợ sức ép cho xử lý các quan hệ ngoại giao rắc rối để thu lợi thế cho họ . Dẫu vậy thì trong các thảo luận về chia sẻ nguồn nước, điểm khó bàn thảo nhất chính là quyền chính đáng của các vùng đất trong việc "giữ lại lượng nước đã mưa trên vùng lãnh thổ của mình", và "không để đất bị xói mòn trôi xuống thành phù sa sông", nhằm cải thiện môi trường sống của mình. Vùng thượng nguồn sông đáp ứng chia sẻ ở mức độ nào là vấn đề thương thảo với nhiều yếu tố hậu trường thường có biến động. Các vùng hạ nguồn có nghĩa vụ phải chuyển hướng thích hợp với tình hình đó. Chẳng lẽ vùng hạ nguồn đã không giữ lại lượng nước mưa đã rơi trên lãnh thổ của mình đến 2 mét nước, mà lại tháo trôi hết ra biển, rồi trông chờ vào "tài nguyên" từ vùng khác trôi đến để chống hạn mặn và tạo sự phì nhiêu của riêng mình. Các động vật quý hiếm. Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên ("World Wide Fund for Nature" hay "World Wildlife Fund" - WWF) cho biết các nhà khoa học đang tìm kiếm các sinh vật như cá úc, cá trê, cá đuối gai độc khổng lồ, cá nhái răng nhọn, cá chép lớn, ăn thịt ở sông Mê Kông – các loài cá này có thể nặng tới hơn 90 kg và dài hơn 1,80 mét. Ngoài ra sông Mê Kông còn có các loài cá chiên và cá lăng quý hiếm, chưa kể đến cá hô và cá chép khổng lồ, dịch vụ du lịch câu cá vì thế rất phát triển ở đây. Đặc biệt, đoạn sông Mê Kông ở Campuchia và vùng hồ Tonlé Sap còn có cá heo sông (Irrawaddy dolphin, "Orcaella brevirostris"), số lượng có thể chỉ còn vài chục cá thể. Người Campuchia không săn bắt chúng, trừ thời kỳ chiến tranh khi lính Khmer Đỏ đã từng nã đạn cối vào đàn của chúng; hành động này được quay phim tư liệu, sau này phim được National Geographic Channel đưa vào loạt phóng sự về cá heo sông Mekong, thỉnh thoảng được phát từ năm 2010 đến nay. Loài này đang bị đe dọa tuyệt chủng vì môi môi trường sống và nguồn thức ăn đang bị phá vỡ nghiêm trọng. Ngày 24/8/2012 chính phủ Campuchia đã lập khu bảo tồn cá heo sông Mekong với chiều dài 180 km, trải từ tỉnh Kratie ở phía đông tới biên giới với Lào. Người dân vẫn được phép câu cá trong khu bảo tồn, song chính phủ cấm sử dụng nhà nổi, lồng cá và lưới quét bởi chúng đe dọa mạng sống của cá heo sông. Zed Hogan, phụ trách dự án do WWF và Hội địa lý quốc gia tài trợ cho biết, các động vật này là "độc nhất" và "đang biến mất với tốc độ nhanh chóng". Theo Hogan, khi nghiên cứu cá úc khổng lồ ở sông Mê Kông, Campuchia, các nhà khoa học sẽ theo dõi sự di chuyển của cá với hy vọng hiểu thêm về hướng di trú của chúng và nguyên nhân chúng bị chết. Sự biến mất các loài cá này là dấu hiệu đầu tiên cảnh báo tình trạng đánh bắt quá mức hoặc các xáo trộn khác ở các sông, hồ nơi chúng cư trú. Một số sinh vật khổng lồ nước ngọt được ghi vào sách đỏ các loài đang bị đe dọa của Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN). Cá úc khổng lồ sông Mê Kông được coi là loài cá nước ngọt lớn nhất cùng họ với loài cá nhám chó, đã được đưa vào danh sách những loài bị đe dọa vào năm 2003, sau khi nghiên cứu chỉ ra số lượng cá giảm ít nhất 80% trong hơn 13 năm qua. Robin Abell, nhà sinh học của WWF cho biết: "Các loài cá khổng lồ là những sinh vật nước ngọt có trọng lượng tương đương với voi và tê giác và nếu chúng biến mất thì thế giới sẽ bất ổn. Cuối cùng, chúng ta sẽ nhận thức tốt hơn về cách quản lý việc đánh bắt và bảo vệ các nơi cư trú nhằm cứu vớt các loài trong tương lai". Cầu qua sông. Đoạn hạ lưu trên khu vực Đông Nam Á:
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Nam là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2020, Hà Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 45 về số dân, xếp thứ 44 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 23 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ sáu về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 808.200 người dân, GRDP đạt 44.613 tỉ Đồng (tương ứng với 1,9376 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 55,2 triệu đồng (tương ứng với 2.397 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,02%,Năm 2022, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Hà Nam đạt 10,82%, đứng thứ 3 trong khu vực đồng bằng sông Hồng và đứng thứ 12 toàn quốc. Địa lý. Hà Nam là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Hồng, nằm trong vùng thủ đô, có vị trí địa lý: Điều kiện tự nhiên. Diện tích: 860,5 km², là tỉnh có diện tích đứng thứ 62/63 tỉnh, thành phố trong cả nước, trên tỉnh Bắc Ninh. Địa hình. Địa hình thấp dần từ tây sang đông. Địa hình đồi núi phía tây của tỉnh (chủ yếu ở phía Tây huyện Kim Bảng và phần phía Tây của huyện Thanh Liêm bao gồm khu vực hữu ngạn sông Đáy) với dạng địa hình cacxtơ xen kẽ vùng thung lũng bằng phẳng. Phần đồi núi phía Tây huyện Kim Bảng có điểm cao nhất là 459,4 mét so với mực nước biển thuộc vùng núi xã Thanh Sơn, đây cũng là điểm cao nhất của huyện Kim Bảng cũng như tỉnh Hà Nam. Phần đồi núi tập trung phía Tây huyện Thanh Liêm với điểm cao nhất là 385 mét thuộc xã Thanh Thủy và đây cũng là điểm cao nhất của huyện Thanh Liêm. Phía đông là đồng bằng với nhiều điểm trũng. Có một số dãy núi thấp, đồi sót giữa đồng bằng thuộc các xã Liêm Cần, Thanh Hương, Thanh Tâm, Liêm Sơn và thị trấn Tân Thanh (thuộc phía Đông huyện Thanh Liêm) với điểm cao nhất là 113 mét nằm ở giáp khu dân cư hai thôn là Trình Núi và Trè Núi thuộc xã Thanh Tâm); và núi sót ở thôn An Lão, xã An Lão (phía Nam huyện Bình Lục) với điểm cao nhất là 90 mét. Đèo Bòng Bong là con đèo ngắn và thấp trên quốc lộ 21 nằm giữa địa giới hai tỉnh Hà Nam và Hòa Bình (liền kề khu dân cư xóm 6, thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng). Hành chính. Tỉnh Hà Nam có 6 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 4 huyện với 109 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 thị trấn, 20 phường và 83 xã. Đây cũng là tỉnh có số lượng đơn vị hành chính cấp huyện ít nhất cả nước. Lịch sử. Cách đây 225 triệu năm toàn bộ vùng đất của Hà Nam, Nam Định, Thái Bình và Ninh Bình còn nằm sâu dưới đáy biển. Cuối kỷ Jura hay đầu kỷ Creta, một vận động tạo sơn đã tạo nên vùng đá vôi của 3 tỉnh Hà Nam, Nam Định và Ninh Bình hiện nay. Đa số các núi đá phân bố dọc hữu ngạn sông Đáy, có rất ít ngọn nằm ở tả ngạn. Khoảng 70 triệu năm trước đây, chế độ biển kết thúc, thay thế là một quá trình bồi tụ để hình thành đồng bằng cổ. Phù sa mới và việc hình thành đồng bằng trên cơ sở tạo nên vùng đất thấp là trầm tích trẻ nhất châu thổ Bắc bộ. Hà Nam là vùng đất được bồi đắp bởi phù sa của sông Hồng, sông Đáy và thu nhận đất đai bị bào mòn từ vùng núi cao trôi xuống. Ngoài những ngọn núi, Hà Nam còn được bao bọc bởi những con sông. Đó là sông Hồng ở phía Đông, sông Đáy ở phía Tây, sông Nhuệ ở phía Bắc, sông Ninh ở phía Nam và nhiều con sông khác chảy trong tỉnh. Chính những điều kiện tự nhiên đã tạo cho vùng đất này các đặc trưng về văn hóa lịch sử của một khu vực giao thoa hay vùng đệm kết nối văn hóa từ Đông sang Tây, từ Bắc xuống Nam và chính những đặc điểm này đã hình thành nên tính cách của người Hà Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Theo kết quả khảo cổ thì người nguyên thủy đã xuất hiện ở Hà Nam trên dưới 1 vạn năm vào buổi đầu thời kỳ đồ đá mới và đồ gốm thuộc nền văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn. Cũng có thể do sự bùng nổ dân số từ sơ thời kỳ đại kim khí nên bắt đầu đã có cư dân xuống trồng lúa nước ở vùng chiêm trũng. Họ được xem như những người tiên phong khai thác châu thổ Bắc bộ. Từ thời các vua Hùng, đất Hà Nam ngày nay nằm trong quận Vũ Bình thuộc bộ Giao Chỉ; đến thời nhà Trần đổi là châu Lỵ Nhân, thuộc lộ Đông Đô. Dưới thời Lê vào khoảng năm 1624, Thượng thư Nguyễn Khải đã cho chuyển thủ phủ trấn Sơn Nam từ thôn Tường Lân (xã Trác Văn) huyện Duy Tiên, phủ Lỵ Nhân đến đóng ở thôn Châu Cầu (nay là trung tâm thành phố Phủ Lý) thuộc tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lỵ Nhân, trấn Sơn Nam Thượng. Đến năm 1832 dưới thời Nguyễn, vua Minh Mạng quyết định bỏ đơn vị trấn thành lập đơn vị hành chính tỉnh, phủ Lỵ Nhân được đổi là phủ Lý Nhân thuộc tỉnh Hà Nội. Đến tháng 10 năm 1890, phủ Lý Nhân được đổi tên thành tỉnh Hà Nam. Ngày 20 tháng 10 năm 1908, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định đem toàn bộ phủ Liêm Bình và 17 xã của huyện Vụ Bản và Thượng Nguyên (phần nam Mỹ Lộc) của tỉnh Nam Định, cùng với 2 tổng Mộc Hoàn, Chuyên nghiệp của huyện Phú Xuyên (Hà Nội), nhập vào huyện Duy Tiên lập thành tỉnh Hà Nam. Tháng 4 năm 1965, Hà Nam được sáp nhập với tỉnh Nam Định thành tỉnh Nam Hà. Tháng 12 năm 1971, Nam Hà sáp nhập với Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh, năm 1991, tỉnh Nam Hà và tỉnh Ninh Bình lại chia tách như cũ. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Hà Nam được tái lập. Khi tách ra, tỉnh Hà Nam có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Phủ Lý và 5 huyện: Bình Lục, Duy Tiên, Kim Bảng, Lý Nhân, Thanh Liêm. Ngày 9 tháng 6 năm 2008, chuyển thị xã Phủ Lý thành thành phố Phủ Lý. Ngày 1 tháng 1 năm 2020, chuyển huyện Duy Tiên thành thị xã Duy Tiên. Kinh tế. Cơ cấu kinh tế năm 2005: Hà Nam có trên 40 làng nghề. Có những làng nghề truyền thống lâu đời như dệt lụa Nha Xá, trống Đọi Tam, mây giang đan Ngọc Động (Duy Tiên), sừng mỹ nghệ (Bình Lục), gốm Quyết Thành, nghề mộc (Kim Bảng), thêu ren xã Thanh Hà (Thanh Liêm). Nghề thêu ren thu hút nhiều lao động ở Thanh Hà. Xã Thanh Hà (Thanh Liêm) nằm cạnh Quốc lộ 1, có 2.626 hộ với 9.699 người ở 7 thôn. Trong số 2.626 hộ thì có 2.002 hộ làm nghề thêu ren chiếm 76,2%, với 5.740 lao động tham gia, trong số này lao động chính có 2.684 người, lao động phụ là 2.896 người và lao động thuê là 160 người. Những con số trên chứng tỏ Thanh Hà là xã mà số hộ và số lao động làm nghề thêu ren nhiều nhất tỉnh. Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, làng nghề mở rộng về quy mô và thu hút hàng ngàn lao động, nghề thêu ren được truyền dạy rộng rãi, sản xuất không ngừng phát triển. Từ năm 1975 đến năm 1989 là thời gian thịnh vượng của làng nghề: sản phẩm đa dạng phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng trong nước, xuất khẩu sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Từ năm 1990 đến nay là thời kỳ chuyển đổi cơ chế, làng thêu ren Thanh Hà đã trải qua bao trăn trở tìm cho mình hướng đi để tồn tại và phát triển trong điều kiện thị trường truyền thống bị thu hẹp và thị trường nước ngoài lại đòi hỏi rất khắt khe về chất lượng và thời gian. Công cụ, thiết bị của làng nghề thêu ren rất giản đơn. Lao động chủ yếu là thủ công. Toàn bộ làng nghề hiện có hơn 5.000 khung thêu, 30 hộ có thiết bị giặt là và in, ngoài ra còn có các dụng cụ khác như: kim, kim móc, dao, kéo. Các công đoạn của nghề thêu ren là: chuẩn bị nguyên liệu, tạo mẫu, pha và in màu, thêu, giặt là, kiểm tra đóng gói và cuối cùng là tiêu thụ. Các công đoạn trên hiện nay đều thực hiện bằng lao động thủ công. Để tạo mẫu đảm bảo chất lượng, chỉ có một số hộ có kỹ thuật, có vốn đảm nhiệm công đoạn này và làm dịch vụ cho cả làng nghề. Khâu kiểm tra, đóng gói và tiêu thụ sản phẩm là thuộc về các doanh nghiệp (đảm nhận bao tiêu toàn bộ sản phẩm của làng nghề). Người lao động chỉ thực hiện một công đoạn: thêu. Nghề thêu ren có đặc điểm: nguyên liệu tiêu hao ít, nhưng lao động kết tinh trong sản phẩm nhiều vì thế giá trị sản phẩm lớn. Tuy nhiên, giá cả của sản phẩm thêu lại phụ thuộc vào hai yếu tố: nguyên liệu và kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm đó có được khách hàng ưa chuộng hay không. Hiện nay những mặt hàng đang được ưa chuộng là: ga trải giường, gối, khăn trải bàn... Để phát triển làng nghề, người Thanh Hà đã đầu tư cho việc tiếp thị như mở nhiều cửa hàng quảng cáo ở khắp mọi miền của đất nước, không ngừng nâng cao chất lượng hàng, cải tiến mẫu mã, đáp ứng yêu cầu của thị trường khó tính. Ở Thanh Hà, hiện nay, hầu hết các hộ đều làm vệ tinh cho các doanh nghiệp. Huyện Thanh Liêm hiện có 2 công ty TNHH và 3 doanh nghiệp tư nhân với tổng số vốn đầu tư 2,2 tỷ đồng cho sản xuất kinh doanh hàng thêu ren, đã tạo đầu mối và việc làm cho hàng ngàn lao động, trong đó có làng thêu ren Thanh Hà. Làng thêu Thanh Hà không gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu. Vải, chỉ thêu có rất sẵn trên thị trường. Tuy nhiên, họ lại gặp khó khăn về vốn. Đó là vốn để mua nguyên liệu và vốn tồn đọng trong quá trình lưu thông. Theo kết quả điều tra của Sở Công nghiệp thì toàn bộ tài sản cố định gồm toàn thể cơ sở vật chất khoảng 30 triệu đồng/hộ; vốn lưu động bình quân 250.000đ/hộ. Hiện ở Thanh Hà nguồn vốn tự có là chủ yếu. Vốn vay thì chỉ có nguồn vốn ngắn hạn, vốn trung hạn và dài hạn còn chưa được sự quan tâm của ngân hàng đối với làng nghề. Những lúc cần huy động vốn thì vay của tư nhân. Tính đến hết tháng 6/1999, vốn vay ưu đãi cho làng nghề mới ở mức khiêm tốn: 300 triệu đồng, trong đó nhu cầu vay ngân hàng cần tới 1,6 tỷ đồng. Đối với nghề thêu ren xuất khẩu vốn rất cần thiết, vì trong điều kiện hiện nay, khách hàng chủ yếu là mua đứt bán đoạn chứ không gia công. Năm 1999, những người thợ Thanh Hà đã làm ra 88.500 bộ sản phẩm đạt 9,44 tỷ đồng. Một con số không phải là nhỏ với bất cứ làng nghề nào. Tuy nhiên, thu nhập hàng tháng của người thợ thêu ren không giống nhau mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố: vốn, tay nghề và sản phẩm có được tiêu thụ nhanh hay không. Những người thợ có tay nghề cao bình quân thu nhập đạt 300.000-350.000đ/tháng, thợ tay nghề thấp đạt 200.000-250.000đ/tháng. Như vậy, một hộ có 2 lao động chính, 2 lao động phụ tay nghề trung bình và khá, một tháng thu nhập từ 800.000-1.000.000đ và một năm đạt trên dưới 10 triệu đồng. Những người thợ ở Thanh Hà rất mong muốn Nhà nước có chính sách cho vay vốn ưu đãi đối với làng nghề, hỗ trợ đầu tư chi phí cho đào tạo thợ thêu; mong muốn các cơ quan chức năng như: Sở Công nghiệp, Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Sở kế hoạch - Đầu tư... giúp đỡ trong việc Thương mại - Du lịch tích cực tìm kiếm thị trường thêu ở nước ngoài và có biện pháp hạn chế sự ép giá của các đơn vị trung gian xuất khẩu mặt hàng này. Có làng đã đạt từ 40–50 tỷ đồng giá trị sản xuất, tạo việc làm cho hàng trăm ngàn lao động, mây giang đan: 5,5 triệu sản phẩm; lụa tơ tằm: 0,695 triệu m; hàng thêu ren: 2,83 triệu sản phẩm... Với giao thông thuận tiện: Đây là một trong số ít các khu công nghiệp giáp với 3 phía đều giáp với quốc lộ lớn. phía Đông giáp với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình, phía Nam giáp quốc lộ 38, phía Tây giáp Quốc lộ 1. Khu công nghiệp cũng liền kề với ga Đồng Văn thuộc hệ thống đường sắt Bắc Nam. Ngoài ra tỉnh cũng xây dựng được nhiều cụm công nghiệp và đã cho các doanh nghiệp và tư nhân thuê, tạo việc làm cho nhiều nhân lực. Phát triển công nghiệp dồn dập cũng đã ít nhiều mang lại các hậu quả về môi trường, xong tỉnh cũng đã từng bước thanh kiểm tra các khu công nghiệp và dần tốt đẹp hơn. Nhiều khu công nghiệp đã có hệ thống xử lý rác thải hoạt động hiệu quả và kinh tế. Cơ cấu nông nghiệp trong GDP giảm dần từ 39,3% năm 2000 còn 28,4% năm 2005. Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân đạt 4,1% (2001-2005). Trong đó: trồng trọt tăng 1,7%, chăn nuôi tăng 6,7%, dịch vụ 31%, sản lượng lương thực đạt 420 tấn/năm, sản lượng thủy sản năm 2005 đạt 11.500 tấn, giá trị sản xuất trên 1 ha đạt 38,5 triệu đồng. -Hình thành vùng cây lương thực chuyên canh, thâm canh có năng suất cao ở thị xã Duy Tiên, và 2 huyện Lý Nhân, Bình Lục. Tại đây đầu tư vùng lúa đặc sản xuất khẩu có năng xuất cao. Chuyển diện tích trũng ở vùng độc canh, hoang hóa sang sản xuất đa canh để nuôi trồng thủy sản là 5.188 ha. Chuyển một phần đất màu sang trồng rau sạch chuyên canh và trồng hoa. -Các sản phẩm chăn nuôi chủ yếu: Tổng đàn bò 35.000 con; lợn 350.000 con; dê 16.000 con; gia cầm 3.350.000 con. Nhập bò sữa cung cấp cho nông dân là: 150 con. Đến nay đã phát triển được 355 con. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt trên 30.000 tấn/năm. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Hà Nam xếp ở vị trí thứ 62/63 tỉnh thành. -Khu du lịch đền Trúc thờ vị anh hùng Lý Thường Kiệt và Ngũ Động Thi Sơn là quả núi năm hang nối liền nhau cách thành phố Phủ Lý 7 km. Đã quy hoạch Khu du lịch Tam Chúc thuộc huyện Kim Bảng với quy mô gần 2000 ha với 9 khu chức năng. Diện tích mặt nước hồ khoảng 600 ha, diện tích phụ cận và khu du lịch sinh thái là 600 ha. Xây dựng các nhà nghỉ, khách sạn, sân gôn, quần vợt, công viên nước, nhà thủy tạ. Nơi đây cách chùa Hương 7 km, cách Hà Nội 60 km, Nam Định 40 km, Ninh Bình 45 km, Hưng Yên 40 km là điểm dừng chân cho khách du lịch nhiều tỉnh, nơi nghỉ dưỡng và giải trí vào các ngày nghỉ cuối tuần của khách thập phương, đang thu hút đầu tư. -Chùa Long Đọi Sơn ở xã Tiên Sơn thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Di tích Long Đọi Sơn được xếp hạng từ năm 1992. Hàng năm có trùng tu, tôn tạo để gìn giữ cho muôn đời sau. - Khu trung tâm du lịch thành phố Phủ Lý: Được xây dựng 2 bên dòng sông Đáy, giáp cửa sông Châu; có khách sạn 3 sao, 11 tầng, có khu du lịch bến thủy phục vụ du khách đi chùa Hương, Ngũ Động Sơn, chùa Bà Đanh, Hang Luồn. Nơi đây còn là địa điểm bơi thuyền dọc sông Châu, sông Đáy vãng cảnh nước non Phủ Lý. -Đền Trần Thương, ở huyện Lý Nhân, thờ quốc công tiết chế Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn. Đến được xây dựng năm 1783; với diện tích 1,4 ha. Giáo dục. Toàn tỉnh Hà Nam có: 29 trường Trung học Phổ Thông (THPT) với 1 trường chuyên, 24 trường công lập và 4 trường dân lập. Ngoài ra, có 6 trung tâm Giáo dục Thường Xuyên (GDTX) - Giáo dục Nghề Nghiệp (GDNN). Dân cư. Theo điều tra dân số 01/04/2019 Hà Nam có 802.200 người, chiếm 3,8% dân số đồng bằng sông Hồng, mật độ dân số 954 người/km². 62% dân số sống ở khu vực nông thôn và 38% sống ở khu vực đô thị. Dân cư đô thị chủ yếu ở thành phố Phủ Lý, thị xã Duy Tiên và các thị trấn Quế, Vĩnh Trụ, Bình Mỹ, Kiện Khê, Tân Thanh. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên năm 1999 là 1,5%. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng đồng bằng sông Hồng với 800.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa ở Hà Nam tính đến năm 2022 là 38,1%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 172.053 người, nhiều nhất là Công giáo có 114.689 người, tiếp theo là Phật giáo có 57.277 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 79 người, Minh Lý đạo có ba người, Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi tôn giáo có hai người và 1 người theo đạo Cao Đài. Văn hóa. Hà Nam là tỉnh có nền văn minh lúa nước lâu đời và nền văn hóa dân gian phong phú, thể hiện qua các điệu chèo, hát chầu văn, hầu bóng, ca trù, đặc biệt là hát dậm. Đây cũng là vùng đất có nhiều lễ hội truyền thống và di tích lịch sử. Một số công trình văn hóa tiêu biểu: Di tích lịch sử. Khu văn hóa tâm linh Tam Chúc trong đó có đình, chùa Tam Chúc từ thời Đinh đang được đầu tư xây dựng trở thành khu du lịch quốc gia, điểm nhấn của du lịch Hà Nam. Quần thể di tích đền Lăng gồm Đền Thượng, Đền Trung, Đền Hạ và Đền Tam Thiên Nhân thuộc thôn Cõi xã Liêm Cần, huyện Thanh Liêm là vua Đinh Tiên Hoàng và 3 vua nhà Tiền Lê (Lê Đại Hành, Lê Trung Tông, Lê Long Đĩnh) trên vùng đất tương truyền là quê hương của Vua Lê Hoàn. Đền Trúc-Ngũ Động Sơn: nằm tại thôn Quyển Sơn, xã Thi Sơn, huyện Kim Bảng, cách Phủ Lý hơn 7 km theo quốc lộ 21A. Tương truyền Lý Thường Kiệt trên đường chiến thắng trở về đã cho quân dừng ở đây để tế lễ và ăn mừng. Sau này để tưởng nhớ ông, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ dưới chân núi Cấm gọi là đền Trúc. Trong dãy núi còn có danh thắng Ngũ Động Sơn, là năm hang đá nối liền nhau thành một dãy động liên hoàn, có chiều sâu trên 100m. Chùa Bà Đanh: Mới được cải tạo lại từ năm 2010, nằm ở đoạn uốn khúc của dòng sông Đáy và nằm giữa đê sông Đáy và sông Đáy. Đối diện với chùa và ở phía bên kia sông là núi Ngọc. Chùa cách cầu nối đường 21A và thị trấn Quế khoảng 4 km. Xung quanh chùa là vườn cây rộng và um tùm, xa hơn là dòng sông đáy trong veo nên không gian rất yên tĩnh, vắng vẻ, thậm chí có thể nghe được cả tiếng lá rơi. Chùa Long Đọi: được xây dựng từ đời vua Lý Thánh Tông, chùa nằm ở tọa độ 105o30-186,01 kinh độ Đông; 20o20-22,775 vĩ độ Bắc. Chùa nằm trên đỉnh núi Đọi, với độ cao 79m so với mặt nước biển, thuộc địa phận xã Tiên Sơn, thị xã Duy Tiên, cách thủ đô Hà Nội 50 km về phía Nam; cách thành phố Phủ Lý 10 km về phía Đông Bắc. Long Đọi sơn tự nằm trên thế đất cửu long. Toàn cảnh núi Đọi nhìn xa giống như một con rồng đất rất lớn nằm phục ở giữa đồng bằng vùng chiêm trũng. Tuy được xây dựng từ giữa thế kỷ XI nhưng thực sự phát triển và xây dựng bề thế vào năm 1118, đời vua Lý Nhân Tông, tháp Sùng Thiện Diên Linh đã được xây dựng với ý nghĩa cầu thiện. Đền Đức Thánh Cả ở xã Tân Sơn, huyện Kim Bảng nằm bên bờ sông Đáy (đền chính nằm ở thôn Hữu Vĩnh, huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội, đây là điểm du lịch văn hóa tâm linh được nhiều người lựa chọn trên hành trình trở về sau khi đến với quần thể danh thắng chùa Hương (Hà Nội). Danh thắng Kẽm Trống thuộc xã Thanh Hải, huyện Thanh Liêm. Đây là nơi dòng sông Đáy chảy xen giữa hai dãy núi đá vôi tạo thành cảnh quan sơn thủy thơ mộng. Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở tỉnh Hà Nam như: chuối ngự Đại Hoàng, bánh đa Phúc Hạ, hồng Nhân Hậu, gà móng Duy Tiên, bánh đa cá rô đồng Phủ Lý, chè kho, mắm cáy Bình Lục, mì miến làng Đầm, bánh cuốn chả nướng Phủ Lý, cá mòi sông Hồng, bánh rau sắng Kim Bảng, đậu phụ Trác Văn, hạt sen tươi Chuyên Ngoại, kẹo lạc, rắn Bạch Xá, rượu nếp làng Bèo, bánh đa nem làng Chều, dê núi Kim Bảng, bánh cuốn Cát Lại, cá kho niêu Hòa Hậu, bún cá rô đồng, bún sốt vang, bánh đa nướng Kiện Khê, bún tươi Tái Kênh, chim trời Nhật Tân, quýt Lý Nhân, rượu Vọc, rau sắng Ba Sao, cá trối Tam Chúc, bánh chưng làng Đầm, na Ba Sao, rượu rắn Bạch Xá, bánh mì Chính Lý, chè lam Tam Chúc. Giao thông. Tỉnh lộ. Có nhiều tuyến tỉnh lộ như 491, 492, 493, 494, 495, 495B, 495C, 496, 496B, 497, 498, 498B, 499, 499B... kết nối giữa các địa phương trong tỉnh; nối các xã, thị trấn với thành phố Phủ Lý đều là đường nhựa với quy mô từ 2 làn xe tới 4 làn xe ôtô. Cùng với rất nhiều con đường nhựa lớn quy mô từ 2 làn xe ôtô trở lên, đã và đang thi công nối các khu kinh tế, khu công nghiệp với các tuyến quốc lộ làm hệ thống giao thông đường bộ của Hà Nam càng ngày càng thuận tiện. Hệ thống giao thông nông thôn. Là tỉnh đi đầu cả nước về việc bê tông hoặc nhựa hóa các tuyến đường giao thông liên thôn liên xã... kể cả từ nhà ra cánh đồng đường nhiều nơi cũng được bê tông hóa. Đường sắt Bắc Nam. Trên tỉnh có các ga Đồng Văn, Phủ Lý, Bình Lục, thuận lợi trong việc lên xuống bằng đường sắt. Đường thủy. Trên sông Đáy, sông Châu, từ năm 2008 tỉnh đang cho cải tạo Âu thuyền nối giữa sông Châu và sông Đáy. Khi dự án này hoàn thành giao thông đường Thủy thuận tiện hơn do tàu thuyền có thể từ sông Đáy qua Âu thuyền này dọc sông Châu, qua âu thuyền Tắc giang và đi vào sông Hồng một cách thuận tiện. Đường hàng không. Không có sân bay cũng như chưa có dự án. Sân bay quốc tế gần nhất là Nội Bài khoảng 70 km (khoảng 1h di chuyển bằng ôtô).
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Năm 2018, Phú Thọ là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 21 về số dân, xếp thứ 35 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 46 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 23 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.404.200 người dân, GRDP đạt 57.353 tỉ Đồng (tương ứng với 2,34800 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38,5 triệu đồng (tương ứng với 1.672 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,34%. Tỉnh nổi tiếng từng là châu Phong - kinh đô nước Văn Lang. Địa lý. Tỉnh có vị trí địa lý: Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Thành phố Việt Trì là trung tâm hành chính, kinh tế chính trị văn hoá giáo dục của tỉnh, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 80 km và sân bay quốc tế Nội Bài 50 km về phía tây bắc. Thành phố Việt Trì nằm đối diện với huyện Ba Vì, Hà Nội qua sông Hồng. Lịch sử. Phú Thọ được coi là vùng Đất Tổ cội nguồn của dân tộc Việt Nam. Tương truyền tại nơi đây, các vua Hùng đã dựng nước nên nước Văn Lang - nhà nước đầu tiên của Việt Nam, với kinh đô là Phong Châu, tức vùng xung quanh thành phố Việt Trì ngày nay. Thời Hùng Vương, nhà nước Văn Lang được chia thành 16 bộ, trong đó Phú Thọ thuộc bộ Văn Lang, trung tâm của nước Văn Lang. Thời An Dương Vương với nhà nước Âu Lạc, Phú Thọ thuộc huyện Mê Linh. Dưới thời Bắc thuộc (từ năm 111 trước Công nguyên đến thế kỷ thứ X), Phú Thọ thuộc quận Mê Linh, Tân Xương, Phong Châu. Thời loạn 12 sứ quân, Phú Thọ là địa bàn chiếm đóng của 2 sứ quân Kiều Công Hãn và Kiều Thuận tại các căn cứ Hồi Hồ, Phong Châu. Thời kỳ phong kiến độc lập nhà Lý, Trần, phân cấp hành chính của Việt Nam có sự thay đổi, chế độ quận, huyện thời Bắc thuộc được thay thế bằng các đạo (lộ, trấn, xứ, tỉnh), dưới đạo là các phủ, châu, huyện. Phú Thọ thuộc lộ Tam Giang. Từ thời nhà Lê đến đầu triều nhà Nguyễn (1428 - 1891), phần lớn tỉnh Phú Thọ ngày nay thuộc tỉnh Sơn Tây trừ huyện Thanh Xuyên và huyện Yên Lập thuộc tỉnh Hưng Hóa (huyện Thanh Xuyên nay là 3 huyện Tân Sơn, Thanh Sơn và Thanh Thủy; huyện Yên Lập thuộc phủ Quy Hóa nay thuộc tỉnh Phú Thọ). Năm Minh Mạng thứ 12 (1831), nhà vua đã tiến hành cải cách hành chính, đổi tất cả các trấn trong nước là tỉnh, phân lại địa giới các tỉnh (điều chuyển một số huyện từ tỉnh nọ sang tỉnh kia), chia tách một số huyện lớn... Theo đó, trong địa bàn tỉnh Sơn Tây đã điều chuyển như sau: Điều chuyển huyện Từ Liêm về tỉnh Hà Nội; Điều chuyển huyện Tam Nông về tỉnh Hưng Hóa để làm tỉnh lỵ (tỉnh Hưng Hóa khi đó bao gồm toàn bộ diện tích các tỉnh vùng tây bắc Việt Nam ngày nay). Trong địa bàn tỉnh Hưng Hóa, năm 1833, tách huyện Thanh Xuyên phủ Gia Hưng thành hai huyện Thanh Sơn và Thanh Thủy. Sau khi đánh chiếm Bắc Kỳ, hoàn thành việc xâm lược toàn bộ Việt Nam, thực dân Pháp lập ra các đạo quan binh, các quân khu, tiểu quân khu... để dễ dàng và chủ động đàn áp các phong trào kháng chiến. Theo đó, tỉnh Hưng Hóa với địa bàn rộng lớn ở vùng tây bắc Việt Nam đã được chia thành nhiều tiểu quân khu: tiểu quân khu Tuyên Quang, tiểu quân khu Lào Cai, tiểu quân khu Yên Bái, tiểu quân khu Vạn Bú; tiểu quân khu phụ Lai Châu (sau đổi thành các tỉnh dân sự Tuyên Quang, Yên Bái, Lào Cai, Sơn La, Lai Châu...). Sau khi cắt đi 16 châu, 4 phủ và hai huyện Trấn Yên, Văn Chấn để thành lập các đạo quan binh, khu quân sự, tiểu quân khu, Toàn quyền Đông Dương đã điều chỉnh một số huyện của tỉnh Sơn Tây sang, cộng với các huyện còn lại để thành lập tỉnh Hưng Hóa mới. Theo Điều I của Nghị định Toàn quyền Đông Dương ngày 8 tháng 9 năm 1891, tỉnh Hưng Hóa mới được thành lập gồm có: Như vậy tỉnh Hưng Hóa mới thành lập có 5 huyện và là tiền thân của tỉnh Phú Thọ sau này. Ngày 9 tháng 12 năm 1892, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuyển huyện Cẩm Khê nằm trong địa bàn tiểu quân khu Yên Bái về tỉnh Hưng Hóa mới; ngày 5 tháng 6 năm 1893, huyện Hạ Hòa tách khỏi tiểu quân khu Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hóa mới (trước đó ngày 9 tháng 9 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương đã điều chuyển huyện Cẩm Khê và huyện Hạ Hòa thuộc phủ Lâm Thao, tỉnh Sơn Tây về tiểu quân khu Yên Bái). Tiếp đó ngày 17 tháng 7 năm 1895, hai châu Thanh Sơn và Yên Lập thuộc khu quân sự Đồn Vàng chuyển về tỉnh Hưng Hóa mới. Ngày 24 tháng 8 năm 1895, hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan của phủ Đoan Hùng thuộc tiểu quân khu Tuyên Quang thuộc đạo quan binh 3 Yên Bái nhập vào tỉnh Hưng Hóa mới. Năm 1900, thành lập thêm huyện Hạc Trì. Trong năm 1900, Hưng Hoá do P. Simoni làm Công sứ (1900 - 1903) Ngày 5 tháng 5 năm 1903, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định thành lập thị xã Phú Thọ trên cơ sở làng Phú Thọ thuộc tổng Yên Phú, huyện Sơn Vi. Khi đó thị xã Phú Thọ nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh Hưng Hóa lại có sân bay, đường sắt sang Trung Quốc và nhà ga nên Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đã quyết định chuyển tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Hóa (từ làng Trúc Phê huyện Tam Nông) lên thị xã Phú Thọ và đổi tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ, do Nicolas Auer làm Công sứ Pháp đầu tiên (1903 - 1907). Khi đó tỉnh Phú Thọ gồm có 2 phủ (Đoan Hùng, Lâm Thao), 8 huyện (Tam Nông, Thanh Thủy, Sơn Vi, Thanh Ba, Phù Ninh, Cẩm Khê, Hạ Hòa, Hạc Trì) và 2 châu (Thanh Sơn, Yên Lập). Như vậy, ngày 8 tháng 9 năm 1891 được coi là ngày thành lập tỉnh Phú Thọ, còn ngày 5 tháng 5 năm 1903 chỉ là ngày thành lập thị xã Phú Thọ và ngày đổi từ tên tỉnh Hưng Hóa thành tỉnh Phú Thọ. Từ năm 1903 đến Cách mạng tháng Tám năm 1945, về cơ bản là đơn vị hành chính trong tỉnh không có những thay đổi lớn, chỉ có thay đổi tên gọi một số huyện và thành lập một số làng xã mới. Năm 1919, bỏ tên huyện Sơn Vi đổi gọi là phủ Lâm Thao. Cũng chính năm này hai huyện Hùng Quan và Ngọc Quan hợp nhất thành phủ Đoan Hùng. Năm 1939, phủ Đoan Hùng chuyển gọi là châu Đoan Hùng. Cũng năm này huyện Thanh Ba đưa lên thành phủ Thanh Ba. Đến năm 1940, tỉnh Phú Thọ bao gồm hai phủ: Lâm Thao, Thanh Ba; sáu huyện: Hạ Hòa, Cẩm Khê, Hạc Trì, Thanh Thủy, Tam Nông, Phù Ninh; ba châu: Thanh Sơn, Yên Lập, Đoan Hùng; hai thị xã: Phú Thọ, Việt Trì và một thị trấn Hưng Hóa. Toàn tỉnh có 66 tổng, 467 làng xã, 22 phố. Sau Cách mạng tháng Tám, về mặt hành chính nhà nước Việt Nam thống nhất gọi các phủ, châu, huyện là huyện, bỏ cấp tổng và tiến hành hợp nhất các làng nhỏ thành xã. Năm 1946, tỉnh Phú Thọ từ 467 làng cũ hợp nhất thành 106 xã mới. Do có xã quá lớn nên giữa năm 1947, chính phủ lại chia tách một số xã, đưa số xã từ 106 lên 150 xã. Cũng năm 1947, 5 huyện hữu ngạn sông Thao là Cẩm Khê, Tam Nông, Thanh Thủy, Thanh Sơn và Yên Lập sáp nhập vào khu 14 không thuộc tỉnh Phú Thọ. Đến tháng 2 năm 1948, khu 14 hợp nhất với khu 10 thành liên khu 10, 5 huyện hữu ngạn sông Thao lại trở về tỉnh Phú Thọ. Ngày 22 tháng 7 năm 1957, thành lập thị xã Việt Trì - thị xã thứ hai của Phú Thọ, chỉ có 4 khu phố, 293 hộ người Kinh, 30 hộ Hoa kiều. Ngày 4 tháng 6 năm 1962 thành phố Việt Trì được thành lập theo quyết định số 65 của Hội đồng Chính phủ. Từ đây Việt Trì trở thành tỉnh lị của Phú Thọ. Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra nghị quyết số 504-NQ/TVQH về việc hợp nhất hai tỉnh Phú Thọ và Vĩnh Phúc thành tỉnh Vĩnh Phú; theo cách đặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên tỉnh được ghép tên 2 tỉnh là Vĩnh Yên cũ và Phú Thọ. Thành phố Việt Trì trở thành tỉnh lỵ của Vĩnh Phú. Ngày 5 tháng 7 năm 1977: Ngày 22 tháng 12 năm 1980, chia huyện Sông Thao thành 2 huyện Yên Lập và Sông Thao, chia huyện Sông Lô thành 2 huyện Đoan Hùng và Thanh Hòa, chuyển 4 xã thuộc huyện Sông Lô vừa giải thể về huyện Phong Châu. Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia lại huyện Thanh Hòa thành 2 huyện Thanh Ba và Hạ Hòa, chuyển 10 xã thuộc huyện Sông Thao về huyện Hạ Hòa. Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết (ngày 26 tháng 11 năm 1996) về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh, trong đó có việc tái lập tỉnh Vĩnh Phúc và tỉnh Phú Thọ. Tỉnh Phú Thọ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1997, ngay năm sau Phú Thọ được công nhận là tỉnh miền núi. Khi tách ra, tỉnh Phú Thọ có diện tích 3.465,12 km², dân số 1.261.949 người, gồm 10 đơn vị hành chính cấp huyện: thành phố Việt Trì (tỉnh lỵ), thị xã Phú Thọ và 8 huyện: Đoan Hùng, Hạ Hòa, Phong Châu, Sông Thao, Tam Thanh, Thanh Ba, Thanh Sơn, Yên Lập. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, huyện Phong Châu chia lại thành hai huyện Phù Ninh và Lâm Thao; huyện Tam Thanh chia lại thành hai huyện Tam Nông và Thanh Thủy. Ngày 8 tháng 4 năm 2002, đổi lại tên huyện Sông Thao thành huyện Cẩm Khê. Tại nghị định số 61/2007/NĐ-CP ngày 9 tháng 4 năm 2007 của chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, huyện Thanh Sơn được tách thành 2 huyện: Thanh Sơn và Tân Sơn. Như vậy, tỉnh Phú Thọ có 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện như ngày nay. Hành chính. Tỉnh Phú Thọ có 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện với 225 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 197 xã, 17 phường và 11 thị trấn. Điều kiện tự nhiên. Diện tích. Tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh 3.532,9493 km², chiếm khoảng 1,1% diện tích cả nước. Khí hậu. Phú Thọ nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, có một mùa đông khô và lạnh. Nhìn chung khí hậu của Phú Thọ thuận lợi cho việc phát triển cây trồng, vật nuôi đa dạng. Địa hình. Phú Thọ là tỉnh miền núi, trung du nên địa hình bị chia cắt, được chia thành các tiểu vùng chủ yếu. Thành phố Việt Trì là điểm đầu của tam giác châu Bắc Bộ. Vùng núi chiếm 79% diện tích tự nhiên toàn tỉnh; vùng trung du chiếm 14,35% diện tích; vùng đồng bằng chiếm 6,65% diện tích. Điểm cao nhất có độ cao 1.200m so với mực nước biển, điểm thấp nhất cao 30m; độ cao trung bình là 250m so với mực nước biển. Sông ngòi. Phú Thọ có ba con sông lớn chảy qua: sông Hồng (đoạn từ Lao Cai đến Việt Trì được gọi là sông Thao), sông Lô và sông Đà, chúng hợp lại với nhau ở Thành phố Việt Trì (trên thực tế thì đoạn sông Đà giao với sông Hồng cách chỗ hợp lưu sông Lô và sông Hồng 12 km). Chính vì thế mà đây được gọi là "ngã ba sông". Tương truyền tại nơi giao của ba dòng nước này luôn mang lại may mắn vì vậy nơi đây thường tập trung những người đến lấy nước để cầu may khi dựng nhà, động thổ... Xuất hiện nghề lấy nước bán... Ngoài ra, Phú Thọ còn có một vài con sông ngòi nhỏ: Là phụ lưu của sông Lô như sông Chảy (từ hồ hồ Thác Bà đến ngã ba Đoan Hùng), ngòi Chanh (Phù Ninh, Việt Trì), Sông Đồng Y, Suối Vai, Suối Nhà Dao, Suối Hố Nứa, Ngòi Rượm, Ngòi Dầu (Đoan Hùng, Phù Ninh), Ngòi Tế (Đoan Hùng)... Là phụ lưu của sông Chảy như Ngòi Ham, Ngòi Nga, Ngòi Duỗn (Đoan Hùng)... Là phụ lưu của sông Thao như sông Bứa (hay Ngòi Bứa, bắt nguồn từ Sơn La và hợp lưu với Sông Thao ở vùng giáp ranh Tam Nông và Cẩm Khê), sông Mùa, sông Dân, sông Diên, Ngòi Lạt, suối Cái (Thanh Sơn); Ngòi Me, Sông Cầu Tây, Khe Con Rùa, Ngòi Rành, Ngòi Cỏ (Cẩm Khê), Ngòi Vân, Ngòi Sen, Ngòi Lửa (hay Lửa Việt), Ngòi Mỹ, Ngòi Quê, Ngòi Chán, Suối Rích, Suối Ngay, Suối Khe Ngọt, Ngòi Lao (Hạ Hòa), ngòi Me, ngòi Cỏ, Ngòi Giành (hay Ngoài Giam ở Yên Lập, Hạ Hòa), ngòi Mạn Lạn (Thanh Ba)... Là phụ lưu của sông Bứa như Sông Gôm, Sông Cô Sơn, Sông Mứa, Sông Min, Sông Giày, Ngòi Sài, Ngòi Min, Suối Dài, Suối Ngầu, Suối Thông, Suối Dân, Suối Nước Thang, Suối Dụ, Suối Chiềng, Suối Ràm, Suối Vuỗng, Suối Xuân, Suối Min, Suối Cúc, Suối Sung, Suối Quả, Suối Đáy, Suối Sạn, Suối Cú, Suối Tấm, Suối Giát, Suối Lê, Suối Chiêu, Suối Buông (Tân Sơn), Sông Dân, Sông Giân (hay Sông Diên), Ngòi Yên, Suối Chát, Suối Khoa, Suối Lánh, Suối Khánh, Suối Giân, Suối Chỏi, Suối Sinh, Suối Giàu, Suối Dạn, Suối Xé, Suối Gân, Suối Chôm, Suối Thân, Ngòi Kết, Suối Măng, Suối Khắc, Suối Tháng, Suối Giùng (Thanh Sơn), Suối Dọc, Suối Liệm, Suối Bớt, Suối Lèn, Suối Trong Vung, Suối Dè, Suối Thứ (Tân Sơn, Thanh Sơn), Sông Cây Ngõa, Suối Dầu Dương (Tam Nông)... Là phụ lưu của sông Đà như Ngòi Lạt, Suối Quất, Suối Cái, Suối Vui, Suối Cháu, Suối Khoang Xanh, Suối Vai Chót, Suối Đá Mài (Thanh Sơn), Ngòi Xem, Ngòi Tre, Ngòi Tu Vũ, Ngòi Cái, Suối Sương (Thanh Thủy)... Hệ thống sông ngòi đa dạng và phong phú khiến Phú Thọ có nhiều hồ, đầm lớn trong đó tập trung nhất ở khu vực Hạ Hòa, Cẩm Khê, Tam Nông dọc theo lưu vực sông Thao. Nhiều hồ, đầm lớn như: Hồ Đồng Phai, Hồ Hiền Lương, Hồ Bến Thẩn, Hồ Láng Thượng, Hồ Chính Công, Hồ Đầm Trắng, Hồ Đồng Máng, Hồ Đồng Đào, Hồ Phùng Thịnh, Hồ Liên Phương, Hồ Thanh Ba, Đầm Chiêm, Đầm Cây Si, Đầm Ao Châu, Đầm Meo, Đầm Lang Trì, Đầm Đung, Đầm Láng (Hạ Hòa), Hồ Ngả Hai, Hồ Nưa, Hồ Vực Sy, Hồ Thụy Liễu, Hồ Đồng Mèn, Đầm Cây Si, Đầm Chiêm, Đầm Mùn, Đầm Trắng, Đầm Phai Lớn, Đầm Sảy, Đầm Si, Đầm Trắng, hồ Đồng Đào (Cẩm Khê), Hồ Độc Giang (Yên Lập), Hồ Lạc Lang, Hồ Đầm Cả, (Việt Trì), Hồ Liên Phương (Đoan Hùng), Đầm Vang, Đầm Cả (Phù Ninh), Đầm Câu Cá, Đầm Thọ Sơn, Đầm Ngoài, Đầm Trong, Đầm Đức Phong, Đầm Lại Đăm, Đầm Cùng (Tam Nông)... Hạ tầng. Đường bộ có quốc lộ 2, quốc lộ 32, quốc lộ 70 đi qua. Đường cao tốc Nội Bài – Lào Cai đi qua 7 huyện thị: thành phố Việt Trì, Phù Ninh, Lâm Thao, thị xã Phú Thọ, Thanh Ba, Cẩm Khê, Hạ Hòa. Đường sắt có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai đi qua 5 huyện thị: thành phố Việt Trì, Lâm Thao, thị xã Phú Thọ, Thanh Ba, Hạ Hòa. Đường thủy có sông Đà, sông Hồng, sông Lô chảy qua. Dân số. Theo điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm 2019, Phú Thọ có 1.463.726 người, nam giới có 726.909 người, nữ giới có 736.817 người, với mật độ dân số 373 người/km². Với số dân này Phú Thọ đứng thứ 21 (sau tỉnh Bình Định và trước tỉnh Bắc Ninh) trong 63 tỉnh, thành cả nước. Tổng số hộ gia đình là 402.618 hộ, với trung bình là 3,6 người/hộ (cả nước trung bình là 3,5 người/hộ). Tỷ lệ dân số sống tại nông thôn, vùng núi 81,9% và tại thành thị 18,1%, đây là tỉ lệ thấp hơn nhiều so với trung bình cả nước. Tỉ lệ tăng dân số trung bình giai đoạn từ 2009-2019 là 1,06% (thấp hơn trung bình cả nước là 1,14%). Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 23%. Dân tộc Kinh là thành phần có tỉ lệ lớn nhất trong cơ cấu các thành phần dân tộc ở Phú Thọ. Theo điều tra dân số ngày 1/4/2019, thì cộng đồng người Kinh có 1.214.162 người (chiếm 83%), ngoài ra còn có cộng đồng người Mường, Dao, Sán Chay có số dân tương đối đông đảo. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 155.114 người, nhiều nhất là Công giáo có 130.193 người, tiếp theo là Phật giáo có 24.790 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 92 người, Hồi giáo có 31 người, đạo Cao Đài có ba người, Phật giáo Hòa Hảo có hai người, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Baha'i giáo và Bà La Môn mỗi tôn giáo chỉ có một người. Văn hóa. - Đền Hùng là khu di tích gồm đền Hạ, Gác chuông, chùa Thiên Quang, đền Trung, đền Thượng, lăng vua Hùng thứ 6, đền Giếng. Lễ hội chính hàng năm vào ngày 10-3 âm lịch. - Đền Âu Cơ (Hiền Lương, Hạ Hòa). Gắn liền với truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Trong đền có tượng mẹ Âu Cơ (tổ Mẫu của cộng đồng người Việt) đặt ở vị trí trang trọng. Lễ hội đền hàng năm được tổ chức vào ngày mùng 7 tháng Giêng âm lịch. - Chùa Xuân Lũng (xã Xuân Lũng, Lâm Thao). Chưa xác định chính xác chùa được xây dựng vào năm nào. Khoảng thời Lý - Trần chùa đã được trùng tu nhiều lần. Di tích còn lại hiện nay ở chùa là một bia đá có chiều ngang 3,2 mét, rộng 1,23 mét, cao 0,95 mét có niên đại 1377 - 1387 ở chính điện. - Chùa Phúc Thánh tọa lạc trên núi Ngọc Phúc xã Hương Nộn, Tam Nông chùa do phu nhân thứ năm của vua Lý Thần Tông là Lê Thị Lan Xuân xây dựng vào năm Ất Sửu 1145 (đời vua Lý Anh Tông). Bà đã tu hành và mất tại đây vào Tân Mão (1171). Trên điện chùa có tượng thờ bà gọi là tượng thánh Mẫu. Mộ bà táng ở phía Tây chùa. Chùa Phúc Thánh là một số ít ngôi chùa thời Lý còn lại đến nay với nhiều chi tiết kiến trúc cổ trên chất liệu gỗ quý. - Hội đánh cá thờ (Kẻ Giáp, Tứ Xã, Lâm Thao) tối 11 rạng 12 tháng 12 âm lịch. - Hội Cầu tháng Giêng (Đào Xá, Thanh Thủy) có nhiều nghi lễ và nhiều trò vui như múa voi, thổi cơm thi. Lễ hội tổ chức vào ngày 27-28 tháng Giêng. - Hội Chu Hóa (Chu Hóa, Lâm Thao) ngày 5 tháng Giêng nhằm tưởng nhớ 3 anh em Cả Đông, Nhị Đông, Tam Đông tương truyền là tướng giỏi của vua Hùng Vương thứ 18. - Hát xoan là loại dân ca lễ nghi của vùng đất tổ. Kiểu thức hát xoan gần giống như hát dậm hay hát dô. Hát xoan theo trình tự quy định gồm phần nghi lễ tôn giáo và phần diễn xướng. Cơ bản là hát lối và ngâm đọc, có thêm hát hội mang tính chất trữ tình với nội dung về tình yêu đôi lứa, giao duyên. Cuộc đời hát là "giã cá" kết thúc quá trình diễn xướng. Kinh tế. Phú Thọ là cửa ngõ, trung tâm kinh tế của liên tỉnh phía Bắc, nằm trong vùng đô thị Hà Nội, hành lang kinh tế Côn Minh - Hà Nội - Hải Phòng nên có nhiều lợi thế để phát triển kinh tế. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tình năm 2018 ước đạt 6.025 tỷ đồng, xếp thứ 2 trong 14 tỉnh khu vực miền núi, trung du phía Bắc. Tổng vốn đầu tư thực hiện năm 2018 ước đạt 26,6 nghìn tỷ đồng, tăng 15,2% so với cùng kỳ. Tính đến ngày 15/12/2018, toàn tỉnh đã cấp đăng ký thành lập mới cho 767 doanh nghiệp với số vốn đăng ký là 3.769,5 tỷ đồng, tăng 17,6% về số doanh nghiệp nhưng giảm 10,9% về số vốn đăng ký; bình quân vốn đăng ký một doanh nghiệp đạt 4,9 tỷ đồng. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 theo giá so sánh 2010 ước đạt 40.890,4 tỷ đồng, tăng 8,34% so với năm 2017.Phú Thọ là một trong những địa phương có quá trình xây dựng thôn mới đạt nhiều kết quả tích cực nhất trong số các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc, tính đến ngày 30/9/2019 đã có 93/247 xã đạt chuẩn nông thôn mới (chiếm 37,7% số xã). Phú Thọ có 07 khu công nghiệp và gần 30 Cụm công nghiệp với diện tích gần 4.000 ha: KCN Thụy Vân, TP Việt Trì: 323 ha; 2 KCN Trung Hà và Tam Nông huyện Tam Nông: 550 ha; KCN Phú Hà, TX Phú Thọ: 450 ha; KCN Phù Ninh, huyện Phù Ninh: 100 ha; KCN Cẩm Khê, huyện Cẩm Khê: 450 ha; KCN Hạ Hòa, huyện Hạ Hòa: 400 ha. Các KCN đều được kết nối với nút lên xuống của đường cao tốc Hà Nôi - Lào Cai và đường Hồ Chí Minh. Lễ hội và địa danh văn hóa. Phú Thọ có nền văn hoá rực rỡ từ lâu đời. Những di chỉ khảo cổ văn hoá Sơn Vi, Đồng Đậu, Làng Cả và nhiều đình, chùa, lăng, tẩm còn lại quanh vùng núi Nghĩa Lĩnh cho thấy đất Phong Châu là một trung tâm văn hoá của dân tộc Việt. Di tích lịch sử quan trọng là đền quốc mẫu Âu Cơ, khu di tích đền Hùng. Đây là vùng đất có nhiều lễ hội, đáng kể nhất là lễ hội Giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng Ba âm lịch). Các dân tộc ít người cũng có những đặc trưng văn hoá riêng của mình: người Mường có nhiều truyện thơ, ca dao, tục ngữ, hát xéc bùa, hát ví, hát đúm. Người Việt có hát xoan, hát ghẹo... Các lễ hội tiêu biểu trong tỉnh có thể kể đến: Ngoài ra còn nhiều lễ hội khác như: Hội chùa Thắm (5/5 âm lịch - Xã Võ Lao, huyện Thanh Ba); Hội đình Cả ở xã Võ Lao, huyện Thanh Ba suy tôn: Thần Nông, thần Núi, thần Nước; Lễ hội Gia Thanh; Hội Chu Hóa; Lễ Cầu tháng Giêng; Hội đình nghè tổ chức tại xã Văn Lang, huyện Hạ Hòa, vào ngày chính hội mùng 10 tháng giêng hàng năm; Hội đền Nghè ở xã Năng Yên, Thanh Ba vào ngày mùng 7 tháng giêng hàng năm; Hội Đâm Đuống (Tết Doi) ở Xã Thu Cúc, Tân Sơn vào ngày tết (mồng 8 tháng 1 âm lịch) hàng năm... Phong tục. Sau khi uống xong một chén rượu hay một cốc bia người dân Phú Thọ nói riêng và một số tỉnh miền tây bắc nói chung (Vĩnh Phúc, Yên Bái, Lào Cai) thường bắt tay, thể hiện tình cảm và sự trân trọng với nhau. Ẩm thực. Phú Thọ có một số sản vật địa phương khá đặc biệt: Danh sách ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở Phú Thọ như: thịt chua Thanh Sơn, nếp gà gáy Mỹ Lung, cá thính Tử Đà, bánh nẳng làng Dòng, chè lam đền Hùng, rau dớn Xuân Sơn, cuốn cão làng Sỏi, thịt lợn lửng, rau sắn, măng sặt Ấm Hạ, bánh khúc Việt Trì, thịt nộm nâu người Mường, hồng Gia Thanh, mì gạo Hùng Lô, hạt dổi Xuân Sơn, bánh tai hòn Phú Thọ, quế Yên Lập, xôi cọ, tương làng Bợ, mục hoa chuối Tân Sơn, chè búp khô, chè xanh, cơm nắm lá cọ Phù Ninh, khoai tầng vàng Tân Sơn, cá sỉnh Ngòi Lao, rượu hoẵng người Dao Thanh Sơn, nhộng tằm lá sắn Đồng Lương, cơm lam người Mường, cọ ỏm, kẹo lạc Việt Trì, bưởi Đoan Hùng, bánh củ mài đền Hùng, rau đắng cảy, tương Dục Mỹ, rau đồ người Mường Thanh Sơn, bánh cuốn Lâm Lợi, nhộng cọ, cá lăng, gà chín cựa Xuân Sơn, đu đủ Tam Nông, thịt chó Việt Trì, bánh chưng làng Xốm, xôi ngũ sắc Tân Sơn, bánh tẻ mật Đào Xá, vịt lam Xuân Sơn, bún tươi xóm Chùa, bánh sắn Phù Ninh, rêu đá Tân Sơn, chè san tuyết Xuân Sơn, trám om kho cá, bánh trứng kiến người Mường, xáo chuối Cao Xá, bánh tẻ Hà Thạch.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.793817
Địa lý & Hành chính
null
null
An Giang là một tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. An Giang là tỉnh thuộc Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Là tỉnh có dân số đông nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long và là tỉnh đứng thứ 8 cả nước về dân số. Một phần của An Giang nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên. An Giang sở hữu diện tích khá lớn ở miền Tây Nam Bộ, trong đó có nhiều cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, có sông nước mênh mông, có núi non kỳ vĩ, có rừng tràm, có đồng ruộng bát ngát,… Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh An Giang nằm về phía tây nam đồng bằng sông Cửu Long, cách Thành phố Hồ Chí Minh 187 km, có vị trí địa lý: Tỉnh An Giang có tổng diện tích tự nhiên 3,7 km², trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp 280.658 ha, đất lâm nghiệp 14.724 ha, bằng 1,03% diện tích cả nước và đứng thứ 4 so với 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. An Giang là tỉnh duy nhất của vùng Đồng bằng sông Cửu Long có địa bàn ở cả hai bờ sông Hậu. Điểm cực Bắc của tỉnh nằm ở vĩ độ 10°57'B (xã Khánh An, huyện An Phú), cực Nam ở vĩ độ 10°10'60"B (xã Bình Thành, huyện Thoại Sơn), cực Tây ở 104°46'Đ (xã Vĩnh Gia, huyện Tri Tôn), cực Đông trên kinh độ 105°35'Đ (xã Bình Phước Xuân, huyện Chợ Mới). Khoảng cách lớn nhất theo hướng bắc - nam là 86 km và đông - tây là 87,2 km. Khí hậu. Với vị trí đó An Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong năm có 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 27 độ C, lượng mưa trung bình năm khoảng 1.130 mm. Độ ẩm trung bình 75 – 80%, khí hậu cơ bản thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Điều kiện tự nhiên. An Giang là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, có hệ thống giao thông thuận tiện bao gồm giao thông thủy và giao thông bộ. Tỉnh có mạng lưới giao thông quan trọng trong khu vực và có cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên và Vĩnh Xương. An Giang có nguồn nước mặt và nước ngầm phong phú. Hai con sông chính là Sông Tiền và Sông Hậu chảy qua tỉnh với lưu lượng trung bình năm khoảng 13.800 m³/s. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều tuyến sông, rạch và kênh khác. Tuy chế độ thủy văn của tỉnh phụ thuộc vào chế độ nước của Sông Mê Kông, nhưng tỉnh cũng phải đối mặt với tác động tiêu cực của lũ, gây thiệt hại đến cuộc sống và kinh tế địa phương. Về đất đai và thổ nhưỡng, An Giang có 6 nhóm chính, trong đó nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ lớn với diện tích 151.600 ha, tương đương 44,5% diện tích tự nhiên của tỉnh. Ngoài ra, còn có nhóm đất phù sa có phèn, nhóm đất phát triển tại chỗ và đất phù sa cổ, cùng với đất phèn và các nhóm đất khác.. Tài nguyên thiên nhiên. An Giang là một tỉnh có 37 loại đất khác nhau, chủ yếu là đất phù sa chiếm tỷ lệ 44,5%. Đất đai đa phần là màu mỡ và phù sa, thích hợp cho nhiều loại cây trồng. Tỉnh cũng có diện tích rừng tự nhiên khoảng 583 ha, với cây lá rộng là chủ yếu, bao gồm nhiều loài cây quý hiếm. Nguồn lợi thủy sản từ sông Tiền và sông Hậu, cùng hệ thống kênh, rạch, ao, hồ tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nuôi cá và tôm. An Giang cũng có tài nguyên khoáng sản phong phú, bao gồm đá granit, đá cát kết, cao lanh, than bùn, vỏ sò và nhiều loại khác. Tỉnh cũng có tiềm năng du lịch với các lĩnh vực như du lịch văn hoá, sinh thái, vui chơi giải trí và nghỉ dưỡng. Ngành công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng cũng được hưởng lợi từ tài nguyên khoáng sản của tỉnh.. Hành chính. Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố (Long Xuyên và Châu Đốc), 2 thị xã (Tân Châu và Tịnh Biên) và 7 huyện (An Phú, Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Phú Tân, Thoại Sơn, Tri Tôn) với 156 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 28 phường, 18 thị trấn và 110 xã được chia thành 879 khóm - ấp. Thị xã Tịnh Biên và huyện Tri Tôn được Chính phủ công nhận là huyện thị miền núi. Lịch sử. Vùng đất An Giang được người Khmer gọi là Moăt Chruk (មាត់ជ្រូក), nghĩa là xứ Miệng Heo. Nghĩa xứ Miệng Heo nghe có vẻ tối nghĩa, có thể suy đoán thêm các nghĩa khác như: xứ Tiếng Heo (xứ có nhiều heo rừng kêu la), xứ Bờ Heo (xứ có nhiều đường đất do heo rừng ủi thành). Sau người Việt đọc trại địa danh này thành Chu Đốc, nhưng do kị húy nên đọc thành Châu Đốc. Thời Nguyễn, địa danh này được phiên âm là Mật Luật (hoặc Ngọc Luật), dùng để chỉ khu vực xung quanh Châu Đốc. Tỉnh An Giang thời phong kiến. Theo Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì, đất An Giang (Khmer: ខេត្តមាត់ជ្រូក) xưa là đất Tầm Phong Long nước Chân Lạp (vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu). Đến năm 1757 (Đinh Sửu), quốc vương Chân Lạp là Nặc Tôn (Outey II) dâng đất này cho chúa Nguyễn. Từ thời thuộc Chân Lạp cho đến tận đầu nhà Nguyễn, đất An Giang còn hoang hóa, rất ít dân cư. Những năm đầu thời vua Gia Long, nhà Nguyễn mới tổ chức mộ dân đến khai hoang định cư, và cho thuộc vào trấn Vĩnh Thanh (1 trong 5 trấn của thành Gia Định). Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), vua Minh Mạng chia trấn Vĩnh Thanh thành hai tỉnh An Giang và Vĩnh Long. Tỉnh An Giang (chữ Hán: "安江"), đồng thời chia thành 2 phủ (với 4 huyện): phủ Tuy Biên (gồm 2 huyện: Tây Xuyên, Phong Phú), phủ Tân Thành (gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Vĩnh An). Cùng lúc, đặt ra chức An-Hà tổng đốc thống lĩnh cả hai tỉnh An Giang và Hà Tiên, lỵ sở đặt tại tỉnh thành Châu Đốc của tỉnh An Giang. Địa bàn tỉnh An Giang dưới thời nhà Nguyễn rất rộng. So với địa giới hành chính ngày nay bao gồm toàn bộ tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần tỉnh Đồng Tháp và huyện Giá Rai (thuộc tỉnh Bạc Liêu). Tháng 4 năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn ông Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas), Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum và Mật Luật (Mật Luật sau thành đất huyện Tây Xuyên). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên (Tịnh Biên)/tỉnh Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang. An Giang là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ (Nam Kỳ lục tỉnh) vào thời nhà Nguyễn độc lập, thành lập năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Năm 1833, tỉnh An Giang bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng Án sát An Giang là Bùi Văn Lý lấy lại được tỉnh thành (Châu Đốc) từ tay của quân Khôi. Năm 1833-1834, quân nước Xiêm La, theo cầu viện của Lê Văn Khôi, tiến vào An Giang theo đường sông Cửu Long đánh nhà Nguyễn, bị quân nhà Nguyễn do Trương Minh Giảng, Nguyễn Xuân đánh bại trên sông Vàm Nao. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), nhà Nguyễn lấy thêm đất Ba Thắc (Bassac, thuộc Cao Miên) sáp nhập vào An Giang và lập thành phủ Ba Xuyên. Đất Ba Thắc cũ chia thành 2 huyện Phong Nhiêu và Phong Thịnh. Đồng thời nhập thêm huyện Vĩnh Định của tỉnh Vĩnh Long vào phủ Ba Xuyên, khiến phủ Ba Xuyên có 3 huyện: Phong Nhiêu, Phong Thịnh và Vĩnh Định. Phân chia hành chánh tỉnh An Giang năm 1836: -Huyện Vĩnh An: -Huyện Vĩnh Định: -Huyện Đông Xuyên: -Huyện Tây Xuyên: Năm Minh Mạng thứ 20 (1839), nhà Nguyễn đặt thêm huyện An Xuyên (tách từ phần đất huyện Vĩnh An ra) lệ thuộc vào phủ Tân Thành. Cùng năm này, nhà Nguyễn còn cắt đất huyện Chân Thành phủ Chân Chiêm thuộc Trấn Tây Thành (xứ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) hợp với phần đất cắt từ huyện Tây Xuyên để lập hai huyện Hà Dương (ở bờ Nam sông Vĩnh Tế) và Hà Âm (ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế) của tỉnh Hà Tiên (sau chuyển sang tỉnh An Giang), nhập thêm thổ huyện Ô Môn (tên gọi cũ của vùng đất thuộc Cao Miên (Trấn Tây Thành) có nhiều người Khmer sinh sống) vào thành huyện Phong Phú, thổ huyện Mật Luật (Ngọc Luật) của Trấn Tây Thành vào huyện Tây Xuyên. Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Trị trích phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên, sáp nhập vào An Giang. Năm 1844, trích thêm huyện Hà Âm của tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tĩnh Biên, lúc này phủ Tĩnh Biên gồm các huyện Hà Âm, Hà Dương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), nhà Nguyễn bỏ phủ Tĩnh Biên, cho nhập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên. Vào thời vua Tự Đức tỉnh An Giang gồm có 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, Vĩnh Định. - Huyện Hà Âm, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng (có thể là 2 tổng với tên là Thành Tín và Quy Đức, sau này được tổ chức lại thành 2 tổng nằm ngay bên bờ kênh Vĩnh Tế của tỉnh Châu Đốc năm 1901) với 40 làng xã "(Vĩnh Thông, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lạc, Vĩnh Gia, Vĩnh Điều, Thân Nhơn Lý...)", phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Hà Dương, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo, Campuchia. -Huyện Hà Dương (河陽), nguyên là đất huyện Chân Thành nước Cao Miên, gồm 4 tổng (Thành Tâm, Thành Ý, Thành Lễ, Thành Ngãi (hay Thành Nghĩa)) với 40 làng xã "(Vĩnh Quới, Hưng Nhượng, An Nông, An Thạnh, Phú Thạnh, Nhơn Hòa, Thới Sơn, Tà Đảnh, Thuyết Nạp, Trát Quan, Tu Tế, Văn Giáo, Vĩnh Trung, Xuân Tô, An Cư, Ba Chút, Bích Trì, Bôn Ca, Châu Lăng, Lê Huất, Lương Đô, Phi Yên, Trầm Văn, An Tức, Đôn Hậu, Giai Âm, Nam Qui, Phi Cấm, Tri Tôn, Cô Tô, Nam Chỉ, Ngôn Nạp, Ô Lâm...)", phía tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía đông giáp huyện Tây Xuyên, phía bắc giáp huyện Hà Âm. Đất huyện Hà Dương vào thời nay thuộc các huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Tịnh Biên và Tri Tôn của tỉnh An Giang. -Huyện Phong Phú (豐富) từng là đất huyện Vĩnh Định và đất thổ huyện Ô Môn (của Cao Miên), gồm 3 tổng với 31 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp huyện Vĩnh Định (phủ Ba Xuyên), phía bắc giáp 2 huyên Tây Xuyên và An Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Phong Phú nay có thể là đất thuộc các quận huyện Thốt Nốt, Ô Môn... của thành phố Cần Thơ. Đại Nam nhất thống chí chép: "Sông Cần Thơ ở bờ Tây sông Hậu, cách huyện Phong Phú 3 dặm về phía đông..., bờ phía tây là thủ sở đạo Trấn Giang cũ..." -Huyện Tây Xuyên (西川) nguyên là đất đạo Châu Đốc cùng huyện Vĩnh Định và thổ huyện Mật Luật (của Cao Miên), nằm ở bờ Tây sông Hậu, gồm 3 tổng (Châu Phú, Định Thành, Định Phước) với 38 làng xã, phía tây giáp huyện Hà Dương, phía nam giáp huyện Long Xuyên tỉnh Hà Tiên, phía đông và phía bắc giáp huyện Đông Xuyên (phủ Tân Thành). Đất huyện Tây Xuyên nay có thể là đất thuộc các huyện thị Châu Đốc, An Phú, Châu Phú, Châu Thành, thành phố Long Xuyên... của tỉnh An Giang. -Huyện Đông Xuyên nguyên là đất huyện Vĩnh Định (gồm đạo Tân Châu) nằm ở phía đông sông Hậu Giang (giữa sông Tiền và sông Hậu), gồm 4 tổng với 33 làng xã, phía tây và phía nam giáp huyện Tây Xuyên, phía đông giáp các huyện Kiến Đăng, (Kiến Phong) tỉnh Định Tường, phía bắc giáp nước Cao Miên. Đất huyện Đông Xuyên nay có thể là thuộc đất các huyện thị Tân Châu, An Phú, Phú Tân... của tỉnh An Giang. -Huyện Vĩnh An (永安) gồm 4 tổng với 36 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam và phía đông giáp huyện An Xuyên, phía bắc giáp huyện Kiến Phong tỉnh Định Tường. Đất huyện Vĩnh An có thể nay là đất thuộc huyện Chợ Mới và một số huyện phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, Sa Đéc (đạo Đông Khẩu). Theo Đại Nam nhất thống chí thì đạo Đông Khẩu ở bờ Nam sông Sa Đéc thuộc địa phận huyện Vĩnh An. -Huyện An Xuyên (安川) gồm 3 tổng với 25 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Phú, phía nam giáp huyện Vĩnh Định, phía đông giáp tỉnh Vĩnh Long, phía bắc giáp tỉnh Định Tường. Đất huyện An Xuyên có thể nay thuộc các huyện thị phía nam tỉnh Đồng Tháp (nằm giữa sông Tiền và sông Hậu) là: Lấp Vò, Lai Vung, Châu Thành... và có thể là cả đất huyện Bình Minh tỉnh Vĩnh Long ngày nay. -Huyện Vĩnh Định (永定) nguyên trước là huyện Vĩnh Định tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn sau cắt sang An Giang, gồm 4 tổng (Định Thới, Định An, Định Khánh, và Trấn Giang (tức Cần Thơ)) với 19 làng xã, phía tây giáp huyện Phong Nhiêu, phía nam giáp huyện Phong Thịnh, phía đông và phía bắc giáp tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn. Đất huyện Vĩnh Định nay có thể là vùng đất giáp bờ sông Hậu thuộc các tỉnh Hậu Giang (chủ yếu), Sóc Trăng (một phần). -Huyện Phong Nhiêu (豐饒), gồm 3 tổng với 17 làng xã, phía tây giáp huyện Kiên Giang tỉnh Hà Tiên, phía nam giáp biển Đông, phía đông và phía bắc giáp huyện Vĩnh Định. Nay đất huyện Phong Nhiêu có thể thuộc phần phía tây 2 tỉnh Hậu Giang và Sóc Trăng, cùng phần phía đông hay toàn bộ tỉnh Bạc Liêu. -Huyện Phong Thịnh (豐盛), đến năm Tự Đức thứ 3 (1850) bị nhập vào cùng huyện Vĩnh Định với sự kiêm quản của phủ lỵ nên bị xóa tên. Toàn bộ đất huyện Phong Thịnh có thể là nằm trọn vẹn trong địa bàn tỉnh Sóc Trăng ngày nay. Các tổng đốc An Giang-Hà Tiên của nhà Nguyễn: Các Tuần phủ (tỉnh trưởng) An Giang nhà Nguyễn Tỉnh Long Xuyên và tỉnh Châu Đốc thời Pháp thuộc. Năm 1868, thực dân Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây Nam Kỳ là An Giang, Vĩnh Long và Hà Tiên. Lúc này, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn ở khu vực này, đồng thời cũng đặt ra các hạt Thanh tra. Theo đó, tỉnh An Giang bị đổi tên thành tỉnh Châu Đốc, do lấy theo tên gọi nơi đặt lỵ sở của tỉnh là thành Châu Đốc. Tỉnh Châu Đốc khi đó gồm các hạt Thanh tra, vốn lấy tên gọi theo địa điểm nơi đặt lỵ sở như: hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ) và hạt Ba Xuyên (phủ Ba Xuyên cũ): -Hạt Châu Đốc (phủ Tuy Biên cũ), đặt lỵ sở tại Châu Đốc, gồm 2 huyện: Đông Xuyên và Hà Dương -Hạt Sa Đéc (phủ Tân Thành cũ), đặt lỵ sở tại Sa Đéc, gồm 3 huyện: An Xuyên, Vĩnh An và Phong Phú -Hạt Ba Xuyên (phủ Ba Xuyên cũ), đặt lỵ sở tại Sóc Trăng, gồm 3 huyện: Vĩnh Định, Phong Nhiêu và Phong Thạnh Sau này, hạt Thanh tra Ba Xuyên cũng được đổi tên thành hạt Thanh tra Sóc Trăng. Về sau, hạt Thanh tra Châu Đốc cũng tách ra để thành lập thêm hạt Thanh tra Long Xuyên; hạt Thanh tra Sa Đéc tách ra hợp với một phần đất thuộc tỉnh Vĩnh Long trước đây để thành lập hạt Thanh tra Trà Ôn. Một năm sau, Tòa Bố chính từ Trà Ôn lại dời về Cái Răng. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, hạt Thanh tra Long Xuyên và hạt Thanh tra Châu Đốc nhận thêm phần đất đai thuộc địa bàn tổng Phong Thạnh vốn thuộc huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường vào thời nhà Nguyễn độc lập như sau: -Hạt Châu Đốc: lấy phần đất 3 làng An Bình, An Long và Tân Thạnh thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong. Phần đất này nằm ở phía tây bắc Đồng Tháp Mười, sau gọi là tổng An Phước thuộc hạt Châu Đốc. -Hạt Long Xuyên: lấy địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh của tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng thuộc hạt Long Xuyên. Theo Nghị định ngày 5 tháng 1 năm 1876, thực dân Pháp bỏ hẳn hệ thống Nam Kỳ lục tỉnh thời nhà Nguyễn, đồng thời các hạt Thanh tra được thay bằng hạt tham biện "(arrondissement)", các thôn đổi thành làng. Vùng đất Nam Kỳ lúc này bị chia thành 4 khu vực hành chính "(circonscription)" do thực dân Pháp đặt ra, trong đó có khu vực Bassac (Hậu Giang) cai quản các hạt tham biện: Châu Đốc, Hà Tiên, Long Xuyên, Rạch Giá, Trà Ôn và Sóc Trăng. Tuy nhiên, hạt tham biện Sa Đéc lại thuộc về khu vực Vĩnh Long. Ngày 23 tháng 2 năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định mới lấy huyện Phong Phú và một phần huyện An Xuyên và Tân Thành để lập hạt Cần Thơ với thủ phủ là Cần Thơ. Hạt Cần Thơ thuộc khu vực Bassac (Hậu Giang). Năm 1882, thiết lập hạt tham biện Bạc Liêu trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Hưng của hạt tham biện Rạch Giá hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện Sóc Trăng chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện Sóc Trăng. Như vậy địa bàn tỉnh An Giang cũ gồm các hạt tham biện Sa Đéc, Châu Đốc, Long Xuyên, Cần Thơ, Sóc Trăng và Bạc Liêu nằm trong 2 khu vực Vĩnh Long và Bassac (Hậu Giang). Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt tham biện Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, thực dân Pháp lại tái lập hạt tham biện Rạch Giá. Năm 1888, Hà Tiên cho thuộc về hạt tham biện Châu Đốc, đến cuối năm 1892 lại phục hồi hạt tham biện Hà Tiên. Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào ngày 20 tháng 12 năm 1899 thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ở Nam Kỳ thành tỉnh. Địa bàn tỉnh An Giang cũ chia ra thành 6 tỉnh giống như thời kỳ trước đây: Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và Bạc Liêu. Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1956. Vào thời Pháp thuộc, vùng đất tỉnh An Giang ngày nay (thuộc Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam) là phần đất thuộc Châu Đốc và Long Xuyên. Phần đất của hai tỉnh này khi đó còn bao gồm cả một phần đất thuộc về tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Năm 1903, tỉnh Châu Đốc ban đầu có 3 quận: Tân Châu, Tri Tôn và Tịnh Biên. Năm 1917, Châu Đốc thành lập thêm quận Châu Thành, đến năm 1919 thì đổi tên là quận Châu Phú. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Ngày 19 tháng 12 năm 1929, thực dân Pháp lập thêm quận Hồng Ngự thuộc do tách ra từ quận Tân Châu cùng tỉnh. Tỉnh lỵ Châu Đốc đặt tại làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Thành. Từ ngày 9 tháng 2 năm 1913 đến ngày 9 tháng 2 năm 1924, tỉnh Hà Tiên bị giải thể, trở thành một quận thuộc tỉnh Châu Đốc. Sau đó, lại tách ra trở thành tỉnh Hà Tiên độc lập như trước. Năm 1917, thực dân Pháp cho thành lập ở tỉnh Long Xuyên 3 quận trực thuộc: Châu Thành, Chợ Mới và Thốt Nốt. Năm 1953, tỉnh Long Xuyên thành lập thêm hai quận mới là Núi Sập và Lấp Vò. Quận Thoại Sơn được thành lập do tách tổng Định Phú ra khỏi quận Châu Thành; quận Lấp Vò được thành lập do tách tổng An Phú ra khỏi quận Thốt Nốt cùng tỉnh. Tỉnh lỵ Long Xuyên thuộc khu vực hai làng Bình Đức và Mỹ Phước cùng thuộc tổng Định Phước, quận Châu Thành. Dựa theo các Sắc lệnh ngày 31 tháng 1 năm 1935 và 16 tháng 12 năm 1938, thị xã Long Xuyên trực thuộc tỉnh Long Xuyên được thành lập bao gồm phần đất nội ô tỉnh lỵ trước đó. Ngày 29 tháng 12 năm 1952, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp quyết định công nhận đô thị tỉnh lỵ Long Xuyên trở thành thị xã hỗn hợp "(commune mixte)" trực thuộc tỉnh Long Xuyên. Giai đoạn 1945-1954. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên nằm trong danh sách 21 tỉnh ở Nam Bộ. Lúc này, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Ngày 19 tháng 5 năm 1947, Chính phủ lâm thời Cộng hòa Nam Kỳ tự trị thân Pháp quyết định tách đất quận Thốt Nốt để lập thêm quận Lấp Vò ban đầu cùng thuộc tỉnh Long Xuyên; quận lỵ đặt tại Lấp Vò (thuộc làng Bình Đông). Ngày 14 tháng 5 năm 1949, chính quyền Việt Minh lại quyết định tách quận Lấp Vò ra khỏi tỉnh Long Xuyên để nhập vào tỉnh Sa Đéc. Ngày 12 tháng 9 năm 1947, theo chỉ thị số 50/CT của Ủy ban kháng chiến hành chính Nam Bộ (chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), lúc bấy giờ có sự thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Châu Đốc và Long Xuyên, thành lập các tỉnh mới có tên là Long Châu Tiền và Long Châu Hậu như sau: -Tỉnh Long Châu Tiền nằm ở phía bờ trái (tả ngạn) sông Hậu, hai bên sông Tiền, thuộc khu 8 và có 5 huyện: Tân Châu, Hồng Ngự, Chợ Mới, Châu Phú B và Lấp Vò. Ngày 14 tháng 5 năm 1949, huyện Lấp Vò được trả về tỉnh Sa Đéc. Cũng trong năm đó, huyện Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền chia thành 2 huyện mới là Phú Châu và Tân Châu. -Tỉnh Long Châu Hậu nằm ở phía bờ phải (hữu ngạn) sông Hậu và có 6 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Thốt Nốt, Thoại Sơn, Châu Phú A và Châu Thành (bao gồm 2 tỉnh lỵ Long Xuyên và Châu Đốc). Năm 1949, chính quyền Cách mạng giao huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Cần Thơ, đến năm 1954 lại trả huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Long Xuyên quản lý trở lại như trước. Tháng 10 năm 1950 tỉnh Long Châu Hậu hợp nhất với Hà Tiên thành tỉnh Long Châu Hà, gồm 8 huyện: Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Phú A, Châu Thành, Thoại Sơn, Thốt Nốt, Giang Châu (hợp nhất hai huyện Giang Thành và Châu Thành của tỉnh Hà Tiên cũ), Phú Quốc. Tháng 7 năm 1951, hợp nhất 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên thành huyện Tịnh Biên; hợp nhất 2 huyện Châu Thành và Thoại Sơn thành huyện Châu Thành. Tháng 6 năm 1951, tỉnh Long Châu Tiền hợp nhất với tỉnh Sa Đéc thành tỉnh Long Châu Sa, gồm 7 huyện: Châu Thành của tỉnh Sa Đéc cũ), Lai Vung, Cao Lãnh, Tân Hồng, Tân Châu, Phú Châu, Chợ Mới. Trong đó, hai huyện Tân Hồng và Tân Châu vốn là hai huyện Hồng Ngự và Tân Châu của tỉnh Long Châu Tiền trước đó. Tháng 7 năm 1951, nhập huyện Lấp Vò vào tỉnh Long Châu Sa. Tuy nhiên, tên các tỉnh Long Châu Tiền, Long Châu Hậu, Long Châu Sa và Long Châu Hà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Năm 1953, chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp lại quyết định thành lập thêm tại Long Xuyên một quận mới là quận Núi Sập, với quận lỵ đặt tại Núi Sập (thuộc làng Thoại Giang) do tách tổng Định Phú ra khỏi quận Châu Thành cùng tỉnh. Năm 1954, chính quyền Việt Minh giải thể các tỉnh Long Châu Sa và Long Châu Hà, đồng thời khôi phục lại các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc và Hà Tiên như cũ. Việt Nam Cộng hòa. Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi Long Xuyên và Châu Đốc như thời Pháp thuộc. Năm 1955, tỉnh Châu Đốc có 5 quận gồm: Châu Thành, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, Hồng Ngự trong đó tất cả 70 xã. Tỉnh Long Xuyên có 4 quận gồm: Châu Thành, Chợ Mới, Núi Sập, Thốt Nốt với tổng cộng 47 xã. Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tách quận Hồng Ngự (có cả cù lao Tây) ra khỏi tỉnh Châu Đốc và tổng Phong Thạnh Thượng ra khỏi quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên để cùng nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới thành lập (sau đó lại đổi tên thành tỉnh Kiến Phong, ngày nay là tỉnh Đồng Tháp). Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này tỉnh Châu Đốc và tỉnh Long Xuyên được sáp nhập để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh An Giang. Tỉnh lỵ tỉnh An Giang đặt tại Long Xuyên và vẫn giữ nguyên tên là "Long Xuyên", về mặt hành chánh thuộc địa bàn xã Phước Đức, quận Châu Thành. Ngày 14 tháng 1 năm 1959, xã Phước Đức bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn hai xã Mỹ Phước và Bình Đức cùng thuộc quận Châu Thành. Lúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. Tuy nhiên, do tỉnh lỵ tỉnh An Giang có tên là "Long Xuyên" và được đặt ở quận Châu Thành thuộc, cho nên quận Châu tỉnh Châu Đốc cũ được đổi tên là quận Châu Phú như ở giai đoạn 1919-1939. Ngày 24 tháng 4 năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh. Tỉnh An Giang lúc này gồm 8 quận là Châu Thành, Châu Phú, Chợ Mới, Tân Châu, Thốt Nốt, Tịnh Biên, Tri Tôn, Núi Sập. Tỉnh lỵ đặt tại Long Xuyên. Ngày 06 tháng 8 năm 1957, tách 13 xã phía Bắc của quận Châu Phú để thành lập quận mới thuộc tỉnh An Giang có tên là quận An Phú. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên quận Núi Sập thành quận Huệ Đức. Chính quyền Cách mạng. Năm 1957, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng giải thể và sáp nhập hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc với nhau để thành lập một tỉnh mới, vẫn lấy tên là tỉnh An Giang như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã thực hiện vào năm 1956. Tỉnh An Giang khi đó gồm 9 huyện: Chợ Mới, Thốt Nốt, Núi Sập, Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Tịnh Biên, Tri Tôn và 2 thị xã: Long Xuyên, Châu Đốc. Chính quyền Cách mạng cũng trả huyện Hồng Ngự về tỉnh Kiến Phong và huyện Lấp Vò về tỉnh Sa Đéc. Năm 1963, lại giao huyện Thốt Nốt về cho tỉnh Cần Thơ quản lý. Việt Nam Cộng hòa. Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh 246/NV, quy định kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Châu Đốc trên cơ sở tách đất từ tỉnh An Giang. Phần đất còn lại tương ứng tỉnh Long Xuyên trước năm 1956, tuy nhiên chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên tỉnh An Giang cho vùng đất này đến năm 1975. Tỉnh Châu Đốc khi đó gồm 5 quận: Châu Phú, Tân Châu, Tri Tôn, Tịnh Biên, An Phú. Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là "Châu Phú", do nằm trong khu vực xã Châu Phú, quận Châu Phú. Phân chia hành chánh tỉnh Châu Đốc năm 1970 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa như sau: Tỉnh An Giang mới sau năm 1964 tức phần đất của tỉnh Long Xuyên trước đó. Cho đến năm 1975, tỉnh An Giang tỉnh lỵ có tên là "Long Xuyên", bao gồm 4 quận: Châu Thành, Huệ Đức, Chợ Mới và Thốt Nốt. Phân chia hành chánh tỉnh An Giang năm 1970 của chính quyền Việt Nam Cộng hòa như sau: Chính quyền Cách mạng. Trong giai đoạn 1964-1971, địa bàn tỉnh Châu Đốc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh An Giang của chính quyền Cách mạng quản lý. Năm 1965, chính quyền Cách mạng giao huyện Hà Tiên và huyện Phú Quốc (cùng thuộc tỉnh Rạch Giá) cho tỉnh An Giang quản lý. Đến năm 1967 lại trả hai huyện Hà Tiên và Phú Quốc về cho tỉnh Rạch Giá như trước. Tháng 12 năm 1965, huyện Chợ Mới cũng được giao về cho tỉnh Kiến Phong quản lý. Đến tháng 5 năm 1974, chính quyền Cách mạng đặt huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Sa Đéc. Năm 1971, Trung ương Cục miền Nam quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh An Giang và tỉnh Rạch Giá, trên phần đất tỉnh Châu Đốc và tỉnh Hà Tiên trước năm 1956. Lúc này tỉnh Châu Hà còn có thêm các huyện Châu Thành A, Hà Tiên và Phú Quốc vốn cùng thuộc tỉnh Rạch Giá trước đó. Tỉnh Châu Hà gồm các huyện: Huệ Đức, Tịnh Biên, Tri Tôn, Châu Thành A, Hà Tiên và Phú Quốc. Tháng 5 năm 1974, chính quyền Cách mạng lại quyết định giải thể các tỉnh An Giang, Châu Hà và Kiến Phong để tái lập các tỉnh Long Châu Hà, Long Châu Tiền và Sa Đéc: Tuy nhiên, tên các tỉnh Châu Hà, Long Châu Hà và Long Châu Tiền cũng không được chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận, mà thay vào đó vẫn sử dụng tên gọi tỉnh Châu Đốc và tỉnh An Giang cho đến năm 1975. Sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì các tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Tiền như trước đó. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, địa bàn các tỉnh Long Châu Hà và Long Châu Tiền cũ sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Cụ thể như sau: Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó thành lập tỉnh An Giang trên cơ sở hợp nhất tỉnh An Giang và tỉnh Châu Đốc thời Việt Nam Cộng hòa, trừ huyện Thốt Nốt giao cho tỉnh Hậu Giang quản lý. Tỉnh An Giang từ năm 1976 đến nay. Tháng 2 năm 1976, tỉnh An Giang chính thức được tái lập trở lại, ban đầu bao gồm 8 huyện: Châu Phú, Châu Thành, Chợ Mới, Huệ Đức, Phú Châu, Phú Tân, Tịnh Biên, Tri Tôn và 2 thị xã: Long Xuyên (tỉnh lỵ), Châu Đốc. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 56-CP về việc hợp nhất một số huyện thuộc tỉnh An Giang như sau: Ngày 23 tháng 8 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị quyết số 300-CP về việc phân vạch địa giới một số huyện và thị xã thuộc tỉnh An Giang như sau: Ngày 13 tháng 11 năm 1991, huyện Phú Châu được chia thành 2 huyện: Tân Châu và An Phú. Ngày 12 tháng 11 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 669/TTg về việc xác định ranh giới giữa hai tỉnh An Giang và Kiên Giang. Năm 1996, hoàn tất việc xác định ranh giới giữa tỉnh An Giang và các tỉnh lân cận. Ngày 1 tháng 3 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 09/1999/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Xuyên trước đó. Ngày 14 tháng 4 năm 2009, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 474/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang. Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 40/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã thuộc huyện Tân Châu, huyện An Phú, huyện Phú Tân, thành lập thị xã Tân Châu, thành lập các phường thuộc thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang. Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP về việc thành lập thành phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ 10.529,05 ha diện tích tự nhiên, 157.298 nhân khẩu và 7 đơn vị hành chính cấp xã của thị xã Châu Đốc trước đó. Ngày 15 tháng 4 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 449/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang. Ngày 5 tháng 12 năm 2019, Bộ Xây dựng quyết định công nhận thị xã Tân Châu là đô thị loại III. Ngày 23 tháng 7 năm 2020, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1078/QĐ-TTg, công nhận thành phố Long Xuyên là đô thị loại I trực thuộc tỉnh An Giang. Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 721/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập thị xã Tịnh Biên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tịch tự nhiên và dân số của huyện Tịnh Biên. Tỉnh An Giang có 2 thành phố, 2 thị xã và 7 huyện như hiện nay. Kinh tế. Cư dân An Giang đã từ lâu sống bằng nghề làm ruộng, đánh bắt cá, tôm và các nghề thủ công như dệt, mộc, đan lát, nắn nồi, chạm khắc đá...Tỉnh An Giang là đầu ngành về sản lượng lúa (trên 2 triệu tấn) và cũng trồng bắp, đậu nành, nuôi (trồng) cá, tôm...Nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt lụa khá phổ biến, tập trung nhiều nhất ở vùng Tân Châu, Chợ Mới. Cho đến đầu thế kỷ XX, lụa Tân Châu đã nổi tiếng một thời vừa bền, vừa đẹp. Ở Bảy Núi, Châu Giang (Châu Đốc), đồng bào Khơmer, Chăm đã cần cù dệt nên những chiếc "Xà Rong", khăn đội đầu, khăn choàng tắm, áo,… nhiều màu sặc sở. Nghề mộc cũng sớm phát triển trên đất Chợ Mới. Ở An Giang và cả Miền Tây đều biết đến những người thợ mộc Chợ Thủ (Chợ Mới) qua những sản phẩm thủ công tinh xảo có tính nghệ thuật cao, từ đơn giản đến cầu kỳ, phức tạp. Ở núi Sam, núi Sập do nhu cầu tiêu dùng của xã hội, dần dần hình thành tầng lớp "thợ" chuyên khai thác đá. Ngoài đá xây dựng ra, họ còn làm ra những đồ dùng như cối giã gạo, chày đâm tiêu, cối xay bột, mặt bàn...và cả đồ trang sức bằng đá quý. Tuy nghề thủ công có phát triển, nhưng cơ nghiệp của người dân An Giang dựng lên được hàng trăm năm nay chủ yếu là bắt nguồn từ cây lúa. Những người dân An Giang đầu tiên cũng chỉ biết làm ruộng cấy ở vùng Cù lao, Bảy Núi, còn ở vùng ngập nước thì đánh bắt cá, tôm hoặc trồng hoa màu phụ sinh sống qua ngày. Cảnh "phá sơn lâm, đâm hà bá" ngày càng không phù hợp với sự gia tăng dân số. Bản thân cây lúa cũng bị hạn chế về diện tích gieo trồng, không đối đầu được với mùa nước nổi hàng năm. Người dân An Giang trong quá trình lao động sau này đã tìm cho mình cây lúa nổi (Riz Flotlant) đủ sức vươn mình và tồn tại lên trên mặt nước mênh mông. Cây lúa nổi đối với cư dân An Giang là một biểu tượng tuyệt vời về sức sống mãnh liệt trong quá trình mở đất và giữ đất. Năm 2018, An Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ sáu về số dân, xếp thứ 26 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 56 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 59 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.908.352 người dân, trong đó có 947.570 nam và 960.782 nữ, tỷ số giới tính 98,6 nam/100 nữ, diện tích bình quân đầu người là 612 người/km², tỷ lệ dân số trên 15 tuổi biết đọc, biết viết là 91,6%...GRDP đạt 74.297 tỉ Đồng (tương ứng với 3,2268 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 34,33 triệu đồng (tương ứng với 1.491 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,52%. An Giang là một tỉnh phát triển kinh tế mạnh mẽ và ổn định. Với tốc độ tăng trưởng ổn định, tỉnh đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP hai con số, đạt 13,36% vào năm 2007. An Giang có nền kinh tế xuất khẩu đáng kể, với tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 540 triệu USD vào năm 2007, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và 13% tổng kim ngạch xuất khẩu của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Nền kinh tế cũng đa dạng với nhiều ngành như thương mại, du lịch và chế biến. An Giang có hệ thống giao thông thuận tiện, bao gồm các tuyến đường bộ, đường thủy và cảng. Quốc lộ 91 nối liền với cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên và là tuyến giao thông chính của tỉnh. Sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Nao là các con sông quan trọng và hệ thống kênh đảm bảo giao thông thủy trong tỉnh. An Giang cũng có nhiều bến phà quan trọng trên các con sông này. An Giang cũng đầu tư phát triển hạ tầng điện, nước, viễn thông và y tế để phục vụ nhu cầu dân sinh và kinh doanh. Nền giáo dục và y tế của tỉnh được đẩy mạnh, bao gồm các trường đại học, trường cao đẳng và bệnh viện đa khoa. Tỉnh An Giang cũng có nhiều dự án phát triển kinh tế như chăn nuôi, chế biến sản phẩm nông nghiệp, cơ sở hạ tầng khu công nghiệp và du lịch sinh thái. Tất cả những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế bền vững của tỉnh. Xã hội. Giáo dục. Trường Đại học An Giang là một trường đại học đa ngành, thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tại An Giang, được xếp vào nhóm trường đại học trọng điểm quốc gia Việt Nam, có vai trò nòng cốt trong hệ thống giáo dục tại Việt Nam. Trường được thành lập theo Quyết định 241/1999/QĐ-TTg ngày 30/12/1999 trên cơ sở Trường Cao đẳng Sư phạm An Giang. Ngoài đào tạo, trường còn có nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp và Chính phủ. Dân cư. Theo thống kê năm 2020, tỉnh An Giang có diện tích 3.536,83 km², dân số năm là 1.904.532 người, mật độ dân số đạt 539 người/km². An Giang là tỉnh có dân số đông nhất ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đồng thời cũng là tỉnh có dân số đông thứ 8 tại Việt Nam (sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Thanh Hóa, Nghệ An và Đồng Nai, Bình Dương, Hải Phòng). Một phần diện tích của tỉnh An Giang nằm trong vùng tứ giác Long Xuyên. Tính đến ngày 9 tháng 8 năm 2019, dân số toàn tỉnh An Giang là 2.164.200 người, mật độ dân số 612 người/km². Đây là tỉnh có dân số đông nhất khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, 31.6% dân số sống ở đô thị và 68.4% dân số sống ở nông thôn. Dân cư phân bố tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng, ven sông (dọc theo sông Tiền và sông Hậu)... Huyện Chợ Mới và thành phố Long Xuyên là hai địa phương có dân số đông nhất tỉnh. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 42%. Toàn tỉnh có 24.011 hộ dân tộc thiểu số, với 114.632 người, chiếm 5,17% tổng dân số toàn tỉnh. Dân tộc Khmer có 18.512 hộ, 86.592 người, chiếm tỷ lệ 75,54% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 3,9% so tổng dân số toàn tỉnh; trong đó có 16.838 hộ với dân số khoảng 80.000 người (chiếm gần 92% tổng số dân tộc Khmer toàn tỉnh) sống tập trung ở 2 huyện miền núi: Tri Tôn và Tịnh Biên, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn. Hầu hết đồng bào dân tộc Khmer theo Phật giáo Nam tông, có mối quan hệ rộng rãi với đồng bào dân tộc Khmer các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer ở Campuchia. Nguồn thu nhập chủ yếu của đồng bào Khmer từ trồng trọt, chăn nuôi gia súc và làm thuê mướn theo thời vụ. Dân tộc Chăm có 2.660 hộ, 13.722 người, chiếm tỷ lệ gần 12% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,62% so tổng dân số toàn tỉnh, sống tập trung khá đông ở huyện An Phú và thị xã Tân Châu, số còn lại sống rải rác ở các huyện: Châu Phú và Châu Thành. Hầu hết đồng bào Chăm theo đạo Hồi, có mối quan hệ với tín đồ Hồi giáo các nước Ả Rập, Malaysia, Indonesia, Campuchia. Nguồn thu nhập chính bằng nghề chài lưới, buôn bán nhỏ và dệt thủ công truyền thống. Dân tộc Hoa có 2.839 hộ, 14.318 người, chiếm tỷ lệ 12,50% so tổng số người dân tộc thiểu số và chiếm 0,65% tổng dân số toàn tỉnh. Đại bộ phận sống ở thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ, có mối quan hệ chặt chẽ với người Hoa trong vùng và nhiều nước trên thế giới. Đồng bào người Hoa phần lớn theo Phật giáo Đại thừa, đạo Khổng và tín ngưỡng dân gian. Một bộ phận lớn kinh doanh thương mại, sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, có cuộc sống ổn định, thu nhập khá hơn so với các dân tộc khác. Về tôn giáo, An Giang là nơi xuất phát của một số tôn giáo nội sinh như Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo... An Giang hiện có 9 tôn giáo được Nhà nước công nhận, gồm: Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Công giáo, Tin Lành, Tịnh Độ Cư sĩ, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hồi giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, với gần 1,8 triệu tín đồ (chiếm 78% dân số toàn tỉnh), 487 cơ sở thờ tự hợp pháp, 602 chức sắc và trên 3.400 chức việc. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau đạt 1.733.332 người, nhiều nhất là Phật giáo Hòa Hảo có 956.720 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 569.770 người, đạo Cao Đài có 105.220 người, Công giáo có 44.346 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa chiếm 34.821 người, Hồi giáo đạt 14.831 người, Bửu Sơn Kỳ Hương đạt 8.253 người, đạo Tin Lành đạt 5.226 người. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 321 người, Bà La Môn có 30 người, Minh Lý Đạo có 26 người, Minh Sư Đạo có 22 người và Baha'i giáo có hai người. Văn hóa. Truyền thông. Đài Phát thanh-Truyền hình tỉnh An Giang được thành lập ngày 02 tháng 9 năm 1977, là một Đài Phát thanh-Truyền hình địa phương tại tỉnh An Giang của Việt Nam, Đài này trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang. Du lịch. Danh lam thắng cảnh. An Giang là một trong 10 vùng du lịch trọng điểm quốc gia có một số thắng cảnh tiêu biểu như: Giao thông. Đường bộ. An Giang có các tuyến giao thông quan trọng như Quốc lộ 91, Quốc lộ 91C và Quốc lộ N1. Quốc lộ 91 là tuyến đường huyết mạch của tỉnh, nối cửa khẩu quốc tế Tịnh Biên, Châu Đốc, Long Xuyên và Cần Thơ. Đây là tuyến đường có mật độ lưu lượng xe cao, thường xảy ra kẹt xe trong các đô thị như TP. Long Xuyên và TT. Cái Dầu vào các khung giờ cao điểm. Quốc lộ 91C nối cửa khẩu quốc tế Long Bình với TP. Châu Đốc. Quốc lộ N1 nối Thị trấn Nhà Bàng với ngã ba Cây Bàng thuộc huyện Giang Thành, Kiên Giang, chạy dọc theo kênh Vĩnh Tế. Ngoài ra, tỉnh còn có nhiều tuyến đường Tỉnh lộ như 942, 943, 944, 945, 946, 955A và nhiều tuyến đường khác, kết nối các địa phương trong tỉnh. Đường thủy (nội địa). An Giang phát triển mạnh về giao thông thủy nhờ hệ thống sông ngòi phong phú. Tỉnh là điểm đầu nguồn của hai con sông Tiền và sông Hậu, là tuyến giao thông thủy quan trọng của cả vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, còn có các tuyến giao thông thủy khác như sông Vàm Nao, Kênh Vĩnh Tế, Kênh Tri Tôn, Kênh Thoại Hà, kênh Ba Thuê, Rạch Ông Chưởng và nhiều khác. Với mạng lưới sông ngòi phong phú, An Giang có nhiều bến phà lớn qua sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Nao. Một số bến phà nổi tiếng là phà Vàm Cống (hiện đã ngừng hoạt động do có cầu Vàm Cống), phà An Hòa, phà Năng Gù, phà Châu Giang (sẽ được thay thế bằng cầu Châu Giang), phà Thuận Giang, phà Tân Châu và nhiều bến phà khác. Các bến phà này đóng vai trò quan trọng trong việc vận chuyển hàng hóa và người dân trên các tuyến sông chính của tỉnh. Biển số xe cơ giới. Biển kiểm soát xe mô tô. Biển số xe của tỉnh An Giang là 67 theo quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Thông tư 15/2014/TT-BCA ngày 04/4/2014, biển số chi tiết của các huyện, thị xã, thành phố như sau: Danh nhân. Nông nghiệp. Giáo sư,Tiến sĩ Nông học, Nhà giáo nhân dân: Võ Tòng Xuân (Tri Tôn)
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Duyên hải Nam Trung Bộ (cũng được gọi là Nam Trung Bộ) là vùng địa phương ven biển của phía nam thuộc Trung Bộ Việt Nam, với thành phố trọng điểm và lớn nhất là thành phố Đà Nẵng. Vị trí. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tiếp giáp Đông Nam Bộ ở phía nam, thuận lợi trong giao lưu phát triển kinh tế và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Đông Nam Bộ trong quá trình phát triển; giáp với Tây Nguyên và là cửa ngõ ra biển của Tây Nguyên, Campuchia, Thái Lan, thuận lợi giao lưu phát triển kinh tế và hình thành nền kinh tế mở. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có vị trí địa lý kinh tế rất thuận lợi, nằm trên các trục giao thông đường bộ, đường sắt, đường hàng không và đường biển, gần khu tam giác kinh tế trọng điểm miền Đông Nam Bộ; cửa ngõ của Tây Nguyên, của Đường Xuyên Á ra biển nối với đường hàng hải quốc tế. Lịch sử hình thành và phát triển. Theo cách chia Trung Bộ thành 4 phần Bắc, Trung, Nam và Tây Nguyên thì Duyên hải Nam Trung Bộ gồm 3 tỉnh: Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Thành phố Đà Nẵng và các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên cùng với các tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế hợp thành vùng (Duyên hải) Trung Trung Bộ. Thành phố trung tâm và lớn nhất là thành phố Đà Nẵng. Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn trước đây là thị xã tỉnh lỵ của các tỉnh trong vùng đều đã trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh (ngoại trừ Đà Nẵng trực thuộc trung ương từ đầu năm 1997). Trong đó, tỉnh Quảng Nam có 2 thành phố là Tam Kỳ và Hội An, tỉnh Khánh Hòa có 2 thành phố là Nha Trang và Cam Ranh. Trong suốt thời kỳ từ sau năm 1975 cho đến năm 1986, toàn vùng Nam Trung Bộ chỉ có 2 thành phố là Đà Nẵng và Nha Trang. Từ năm 1986 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp trở thành các thành phố trực thuộc tỉnh. Các thành phố trước năm 1986: Các thành phố từ năm 1986 đến nay: Hiện nay, ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có 3 đô thị loại I: thành phố Đà Nẵng (trực thuộc Trung ương), Quy Nhơn (thuộc tỉnh Bình Định), Nha Trang (thuộc tỉnh Khánh Hòa). Các thành phố là đô thị loại II: Tam Kỳ (thuộc tỉnh Quảng Nam), Quảng Ngãi (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), Tuy Hòa (thuộc tỉnh Phú Yên), Phan Rang – Tháp Chàm (thuộc tỉnh Ninh Thuận), Phan Thiết (thuộc tỉnh Bình Thuận). Các thành phố còn lại hiện nay đều là các đô thị loại III trực thuộc tỉnh. Tài nguyên. Địa hình: Các vùng gò, đồi thuận lợi chăn nuôi bò, dê, cừu. Đồng bằng Tuy Hòa màu mỡ thuận lợi sản xuất lương thực thực phẩm. Tài nguyên lớn nhất của vùng là kinh tế biển. Kinh tế biển ở đây bao gồm: Nguồn lợi hải sản (chiếm gần 20% sản lượng đánh bắt của cả nước) và nuôi trồng thủy sản, nhất là các loại đặc sản (tôm, tôm hùm, cá mú, ngọc trai...) với diện tích có thể nuôi trồng là 60.000 ha trên các loại thủy vực: mặn, ngọt, lợ. Vận tải biển trong nước và quốc tế. Chùm cảng nước sâu đảm bảo tàu có trọng tải lớn vào được, có sẵn cơ sở hạ tầng và nhiều đất xây dựng để xây dựng các khu công nghiệp tập trung gắn với các cảng nước sâu và với vị trí địa lý của mình có thể chọn làm cửa ngõ ra biển cho đường "xuyên Á". Có triển vọng về dầu khí ở thềm lục địa. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ nằm trong khu vực có tiềm năng về khoáng sản của Việt Nam, đáng chú ý là sa khoáng nặng, cát trắng (cho phép vùng trở thành trung tâm phát triển công nghiệp thủy tinh, kính quang học), đá ốp lát, nước khoáng, vàng... Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có nhiều sân bay quốc tế và có nhiều cảng biển nước sâu có thể đón được các loại tàu biển có trọng tải lớn như cảng Cam Ranh, Khánh Hòa, một trong những cảng biển nước sâu lớn nhất cả nước. Đồng bằng Quảng Ngãi rộng khoảng 1.200 km² bao gồm cả thung lũng sông Trà Khúc và sông Vệ cũng được cấu tạo tương tự đồng bằng Quảng Nam. Nhưng vào mùa khô sông Trà Khúc và sông Vệ đều cạn nước đến mức người ta có thể lội qua, hiện nay trên sông Trà Khúc đã có công trình thủy nông Thạch Nham ngăn sông, xây dựng hệ thống kênh mương chuyển nước phục vụ sản xuất cho nhiều huyện. Khí hậu: có hai mùa mưa khô tương phản rõ rệt. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 12. Lượng mưa trung bình năm khoảng 900-1000 mm Du lịch. Du lịch biển, đảo và di tích lịch sử văn hóa dân tộc là nguồn lực quan trọng, là một trong 3 trung tâm du lịch của cả nước (ngoài thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh), trong đó nổi bật là dải Đà Nẵng - Hội An, Quy Nhơn - Phú Yên, Nha Trang - Cam Ranh - Ninh Chử, và Mũi Né. Sân bay quốc tế Đà Nẵng và Cam Ranh là 2 sân bay lớn trong vùng, đón lượng lớn khách du lịch nước ngoài cũng như trong nước. Bên cạnh đó, sân bay Phù Cát ở Bình Định cũng tăng trưởng liên tục về lượng khách thông quan trong nhiều năm qua, hiện đang đúng thứ 3 về lưu lượng khai thác. Và đang mở thêm các đường bay mới trong nước cũng như ra quốc tế (đến Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan). Kinh tế. Có nhiều bãi tôm, bãi cá, đặc biệt ở vùng cực Nam Trung Bộ. Có ngư trường lớn ở Hoàng Sa (Đà Nẵng) và Trường Sa (Khánh Hòa). Sản lượng đánh bắt hải sản năm 2006 đã hơn 624.000 tấn, trong đó sản lượng cá chiếm 420.000 tấn. Trong vùng có nhiều vũng, vịnh, đầm phá... có lợi cho việc nuôi trồng thủy sản. Nuôi tôm hùm, tôm sú đang phát triển mạnh, nhất là ở Phú Yên và Khánh Hòa. Tương lai ngành thủy hải sản sẽ giải quyết được vấn đề lương thực của vùng và cung cấp được nhiều sản phẩm giúp chuyển dịch cơ cấu nông thôn ven biển. Tuy nhiên, việc khai thác hợp lý và bảo vệ nguồn lợi thủy sản (nhất là Hoàng Sa - Trường Sa) là rất cấp bách. Du lịch hàng hải. Duyên hải Nam Trung Bộ là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi nhất để xây dựng các cảng nước sâu do bờ vịnh khúc khuỷu, nhiều vịnh nước sâu. Hiện tại có một số cảng lớn do Trung ương quản lý như: Đà Nẵng, Quy Nhơn (sản lượng hàng hoá lớn thứ 3 cả nước), Cam Ranh..., cảng nước sâu Dung Quất. Ở vịnh Vân Phong sẽ hình thành cảng trung chuyển quốc tế lớn nhất nước, và cạnh tranh với các cảng lớn trong khu vực. Ngành du lịch phát triển mạnh nhờ có nhiều bãi biển lý tưởng, thắng cảnh đẹp, di tích lịch sử, văn hóa đa dạng. Đà Nẵng và Quy Nhơn là một trong những đầu mối giao thông đường biển quan trọng nhất của cả nước. Dân cư. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có số dân là 9.385.214 người. 3 tỉnh Quảng Nam, Bình Thuận và Bình Định có dân số đông nhất, dân số của riêng 3 tỉnh này chiếm gần một nửa dân số của vùng (45,2%). Có khoản 3,9 triệu người (38% dân số) sinh sống ở các thành phố và khu dân cư. Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Định và Bình Thuận là 4 địa phương có đa số dân cư sống ở thành thị. Trong khi đó đa số dân cư Quảng Nam, Quảng Ngãi lại sống ở nông thôn. Từ năm 2000 đến 2017, tỉ lệ tăng dân số trung bình hằng năm của vùng là 1,22%. Trong đó Đà Nẵng là địa phương tăng nhanh nhất - khoảng 1,95%; Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định tăng chậm nhất - khoảng 1%. Bốn tỉnh còn lại có tốc độ tăng từ 1,26% (Khánh Hòa) đến 1,59% (Ninh Thuận). Như các vùng khác, dân tộc chiếm đa số của vùng là dân tộc Kinh. Có một vài dân tộc thiểu số, trong đó đáng chú ý là dân tộc Chăm. Họ sống chủ yếu ở xung quanh thành phố Phan Rang - Tháp Chàm (tỉnh lị Ninh Thuận) và phía bắc tỉnh Bình Thuận. Họ cũng sống rải rác ở một số nơi khác, như phía nam tỉnh Bình Định. Những dân tộc thiểu số khác sống ở phần đồi núi phía tây của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Vùng sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số chiếm hơn một nửa diện tích của tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi. Đô thị. Tính đến ngày 19 tháng 5 năm 2022, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đông Nam Bộ (hay còn được gọi là miền Đông) là một trong hai phần của Nam Bộ Việt Nam. Vùng Đông Nam Bộ có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Thành phố Hồ Chí Minh và 5 tỉnh: Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Tây Ninh. Theo kết quả điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009, dân số vùng Đông Nam Bộ là 14.025.387 người, chiếm 16.34% dân số Việt Nam, là vùng có tốc độ tăng dân số cao nhất nước, do thu hút nhiều dân nhập cư từ các vùng khác đến sinh sống. Tuy nhiên chỉ sau 13 năm, theo số liệu mới đây năm 2021 của Tổng cục Thống kê VN, tổng dân số của vùng Đông Nam Bộ là 18.719.266 người (không kể số người tạm trú lâu dài) trên một diện tích là 23.560,6 km², với mật độ dân số bình quân 795 người/km², chiếm 19,1% dân số cả nước. Riêng tài liệu trước đây của Tổng cục Thống kê Việt Nam và một số ít tài liệu khác dựa theo số liệu thống kê của Tổng cục Thống kê lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận (thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ) vào vùng Đông Nam Bộ. Hiện nay Tổng cục Thống kê đã xếp Bình Thuận cùng Ninh Thuận vào vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Đông Nam Bộ là khu vực kinh tế phát triển nhất ở Việt Nam, đóng góp hơn 2/3 thu ngân sách hằng năm, có tỉ lệ đô thị hóa 62.8%. Lịch sử hình thành các tỉnh thành Đông Nam Bộ. Năm 1957, dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa, khu vực này mang tên Miền Đông Nam phần, đại diện bởi Tòa Đại biểu Chính phủ cho 13 tỉnh thành: Đô thành Sài Gòn, các tỉnh Gia Định, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Phước Thành, Hậu Nghĩa, Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Long An. Khu vực này là một đơn vị hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Năm 1963, Đệ Nhất Cộng hòa bị lật đổ và đơn vị Miền Đông Nam phần bị xóa bỏ, tuy nhiên danh từ này vẫn thông dụng để chỉ định khu vực địa lý. Giai đoạn 1966-1975 thời Đệ Nhị Cộng hòa, Miền Đông Nam phần bao gồm 12 tỉnh thành: Đô thành Sài Gòn, các tỉnh Gia Định, Tây Ninh, Bình Dương, Bình Long, Phước Long, Hậu Nghĩa, Biên Hòa, Long Khánh, Phước Tuy, Bình Tuy và Long An. Năm 1975, sáp nhập các tỉnh thành để thành lập các tỉnh thành mới lớn hơn, khi đó miền Đông Nam Bộ gồm 4 tỉnh thành: Thành phố Hồ Chí Minh (tỉnh Gia Định, Đô thành Sài Gòn, quận Củ Chi của tỉnh Hậu Nghĩa và quận Phú Hòa của tỉnh Bình Dương), Sông Bé (gồm tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long), Tây Ninh, Đồng Nai (gồm Biên Hòa, Long Khánh và Phước Tuy). Tỉnh Bình Tuy cũ nhập vào tỉnh Thuận Hải thuộc miền Trung, tỉnh Long An nhập vào Miền Tây Nam Bộ. Năm 1979, miền Đông Nam Bộ gồm 4 tỉnh thành và 1 đặc khu: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai và Đặc khu Vũng Tàu-Côn Đảo. Năm 1991, miền Đông Nam Bộ có 5 tỉnh thành gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Ninh, Sông Bé, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Từ năm 1997 đến nay, vùng Đông Nam Bộ có 6 tỉnh thành gồm: Thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu. Địa lý. Địa hình. Đông Nam Bộ có địa hình bán bình nguyên, trung du và đồi núi thấp dưới 1000m, bề mặt thoải. Độ cao giảm dần từ tây bắc xuống đông nam, có độ cao bề mặt dao động từ khoảng 500 - 700m (H.Bù Gia Mập, Bình Phước - phần rìa phía nam cao nguyên Mơ Nông) xuống 1m (H.Bình Chánh, TP.HCM - giáp ranh đồng bằng sông Cửu Long). Hơn 70% diện tích của vùng có độ cao trên 50m, chủ yếu là các đồi thấp xen bưng bàu trũng, địa hình cao và lượn sóng mạnh ở phía bắc, giảm dần về phía nam Các ngọn núi cao ở khu vực:<br>-Núi Bà Đen - 986m (Tây Ninh)<br>-Núi Chứa Chan - 838m (Đồng Nai)<br>-Núi Bà Rá - 736m (Bình Phước)<br>-Núi Mây Tào - 716m (Bà Rịa Vũng Tàu)<br>-Núi Dinh - 505m (Bà Rịa Vũng Tàu)<br>-Núi Cậu - 289m (Bình Dương) Do vùng này là trung tâm công nghiệp nên rừng ít, cây công nghiệp được trồng với diện tích lớn hàng bậc nhất cả nước, tình trạng ô nhiễm ngày càng nặng, trong đô thị rất dễ bị lũ lụt do không có cây giữ lại. Đất có bảy loại: đất feralit, đất phù sa (chiếm thấp nhất trong vùng), đất ba dan, đất xám trên phù sa cổ, đất mặn, đất phèn (đất mặn, đất phèn tập trung nhiều ở Thành phố Hồ Chí Minh). Vùng đất này thuộc địa chất giới Kainozoi: Cuội, cát, sét kết và các thành tạo bở rời Sông ngòi. Khu vực Đông Nam Bộ có các sông lớn như hệ thống sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải... Sông Sài Gòn và sông Thị Vải là nơi tập trung các cảng chính của khu vực như cảng Sài Gòn, cảng Cái Mép, cảng Thị Vải. Sông Bé và sông Đồng Nai có trữ lượng thủy năng dồi dào (Thủy Điện Trị An, Thủy Điện Thác Mơ, Thủy Điện Cần Đơn, Thủy Điện Srok Pu Mieng) Các hồ thủy lợi và thủy điện ngăn sông có ý nghĩa hết sức quan trọng, giúp cung cấp nước sản xuất và sinh hoạt có diện tích lớn là hồ Dầu Tiếng, hồ Trị An, hồ Thác Mơ, hồ Phước hòa. Đặc biệt là hồ thủy lợi Phước Hòa và hồ Dầu Tiếng còn có tác dụng điều phối nguồn nước để chống xâm nhập mặn cho sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Bờ biển. Bờ biển khu vực này thuộc các địa phương: Bà Rịa-Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh. Khu vực ven biển này có nhiều bãi biển đẹp là khu nghỉ mát nổi tiếng như: bãi Sau, bãi Dứa (Vũng Tàu). Vùng biển ấm, ngư trường rộng, hải sản phong phú Phát triển ngành khai thác và nuôi trồng thủy sản. Các tỉnh thành khu vực Đông Nam Bộ. Tất cả các tỉnh ở miền Đông Nam Bộ đều nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Mục dân số và diện tích ghi theo số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam trên trang Wikipedia các tỉnh thành Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các đô thị vốn là thị xã tỉnh lỵ của các tỉnh ở vùng Đông Nam Bộ trước đây đều đã trở thành thành phố trực thuộc tỉnh (ngoại trừ Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố trực thuộc Trung ương). Trong đó, tỉnh Bình Dương có 4 thành phố là Thủ Dầu Một, Dĩ An, Tân Uyên, Thuận An, tỉnh Đồng Nai có 2 thành phố là Biên Hòa và Long Khánh, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 2 thành phố là Bà Rịa và Vũng Tàu. Trong suốt thời kỳ từ đầu năm 1975 cho đến năm 1991, toàn vùng Đông Nam Bộ chỉ có 2 thành phố là Thành phố Hồ Chí Minh và Biên Hòa. Từ năm 1991 đến nay, lần lượt các thị xã được nâng cấp thành các thành phố trực thuộc tỉnh. Các thành phố được thành lập trước năm 1976: Các thành phố được thành lập từ năm 1991 đến nay: Hiện nay, vùng Đông Nam Bộ có 1 đô thị loại đặc biệt: Thành phố Hồ Chí Minh (trực thuộc Trung ương); 3 đô thị loại I: Thủ Dầu Một (thuộc tỉnh Bình Dương), Biên Hòa (thuộc tỉnh Đồng Nai), Vũng Tàu (thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Các thành phố là đô thị loại II: Bà Rịa (thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu), Dĩ An (thuộc tỉnh Bình Dương). Các thành phố còn lại là đô thị loại III trực thuộc tỉnh. Đô thị. Tính đến ngày 27 tháng 3 năm 2023, vùng Đông Nam Bộ có: Kinh tế. Đông Nam Bộ là vùng có kinh tế phát triển nhất Việt Nam, dân số đông và dẫn đầu cả nước về xuất khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, GDP, cũng như nhiều yếu tố kinh tế - xã hội khác. Về Công nghiệp: khu vực công nghiệp-xây dựng tăng trưởng nhanh,chiếm tỉ trọng lớn nhất trong GDP của vùng;cơ cấu sản xuất cân đối,bao gồm công nghiệp nặng,công nghiệp nhẹ và chế biến lương thực, thực phẩm.Một số ngành công nghiệp đang hình thành và phát triển như dầu khí,điện tử,công nghệ cao. Về Nông nghiệp: Đông Nam Bộ là vùng trồng cây nông nghiệp quan trọng của cả nước các cây như lạc, đậu... (Tây Ninh là tỉnh có diện tích trồng mía, mì, đậu phộng lớn nhất) là thế mạnh của vùng. Ngành chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng,ngành đánh bắt thủy sản trên cá ngư trường đem lại nguồn lợi lớn về kinh tế. Tỉnh Bình Phước là tỉnh xuất khẩu Điều lớn nhất VN, đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu trung bình 3 tỷ USD mỗi năm Đầu tư trực tiếp nước ngoài của khu vực này dẫn dầu cả nước nổi bật ở các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh. Gần đây, Vũng Tàu cũng thu hút khá nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Năm 2006, Vũng Tàu là thành phố thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cao nhất cả nước với hơn 1,1 tỷ USD. Ngoài ra, Bà Rịa Vũng Tàu hiện là tỉnh có GDP bình quân đầu người cao nhất VN. Tứ giác kinh tế trọng điểm. Gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu. Cả bốn tỉnh, thành trên đều thuộc vùng Đông Nam bộ, chiếm một diện tích khiêm tốn so với cả nước, nhưng đóng góp của 4 địa phương này đối với quốc gia là rất lớn, mang tính quyết định đối với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Theo số liệu năm 2004 thì tứ giác kinh tế này chiếm: 37,40% GDP cả nước, đóng góp 55,76% ngân sách, giá trị sản xuất công nghiệp 47,12%... Thành phố Hồ Chí Minh là Trung tâm thương mại và kinh tế của khu vực. Được ví là "Hòn ngọc Viễn Đông", Thành phố Hồ Chí Minh với lịch sử hơn 300 năm đã khẳng định vị trí hàng đầu, trung tâm kinh tế, tài chính, văn hóa, du lịch, giáo dục, khoa học kỹ thuật, y tế lớn nhất nhì cả nước. Nằm tại ngã tư quốc tế, giữa các con đường hàng hải từ Bắc xuống Nam, Đông sang Tây, được xem là tâm điểm của khu vực Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh là cửa ngõ lớn của Việt Nam thông ra thế giới. Đồng Nai là trung tâm công nghiệp lớn trong vùng với trung tâm là Biên Hoà. Các huyện như Nhơn Trạch, Long Thành, Trảng Bom là 3 huyện công nghiệp lớn của Đồng Nai thu hút nhiều đầu tư vào các khu công nghiệp tập trung lớn và quy mô. Các huyện thành này tạo thành trung tâm công nghiệp của tỉnh và của cả khu vực Đông Nam Bộ. Trong tương lai, Nhơn Trạch sẽ là một thành phố công nghiệp thuộc tỉnh của Đồng Nai. Huyện Trảng Bom và Long Thành cũng là trung tâm của các dự án lớn và là các đô thị phát triển trong tương lai của tỉnh Đồng Nai. Bình Dương là một tỉnh năng động trong thu hút vốn nước ngoài cùng với tỉnh Đồng Nai. Tỉnh có thị xã công nghiệp nổi bật là Bến Cát và 4 thành phố là Thủ Dầu Một, Thuận An, Dĩ An, Tân Uyên. Những phát triển của Bình Dương đang góp phần to lớn cho sự phát triển bền vững và phát triển nhất của khu vực đối với cả nước. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu và Đồng Nai, Bình Dương hợp chung thành tứ giác phát triển nhất cả nước. Khu tứ giác này góp 48,6% trong ngân sách quốc gia. Theo kế hoạch, đến năm 2020, Bình Dương sẽ trở thành đô thị loại 1 và là thành phố trực thuộc trung ương với năm quận nội thành là Thủ Dầu Một, Dĩ An, Thuận An, Nam Tân Uyên, Bến Cát và 4 huyện ngoại thành là Bắc Tân Uyên, Bàu Bàng, Phú Giáo, Dầu Tiếng(Đến nay vẫn chưa thực hiện được). Bà Rịa – Vũng Tàu (BR-VT) là trung tâm du lịch, khai thác - lọc - hóa dầu khí trọng điểm. Nhắc đến Bà Rịa – Vũng Tàu người ta liên tưởng ngay đến các thế mạnh của tỉnh gắn liền với biển là công nghiệp khai thác dầu mỏ, vận tải hàng hải, dịch vụ du lịch và khai thác hải sản. Với trữ lượng 900 - 1.200 triệu mét khối dầu mỏ và 360 tỷ mét khối khí đối, BR-VT đang đứng đầu quốc gia về lĩnh vực này. Sự phát triển của ngành công nghiệp khai thác dầu mỏ đã thúc đẩy nền kinh tế BR-VT tăng trưởng đáng kể. GDP đầu người năm 2004 kể cả dầu khí tăng gấp 5,33 lần, không kể dầu khí tăng gấp 10 lần so với năm 1992 (khi mới thành lập tỉnh). Cùng với việc khai thác dầu mỏ, các ngành công nghiệp liên quan cũng đồng thời phát triển theo như công nghiệp sử dụng khí làm nguyên liệu, nhiên liệu, khí hóa lỏng, phân đạm, nhựa, hóa chất... Tương lai của khu vực này sẽ có nhiều trong các dự án lớn như: sân bay quốc tế Long Thành (Đồng Nai), đường cao tốc Biên Hoà – Vũng Tàu, thành phố mới Nhơn Trạch (Đồng Nai), Thành phố mới Bình Dương (Bình Dương), các trung tâm công nghiệp mới Trảng Bom, Long Thành, (Đồng Nai), đô thị hoá các huyện trung tâm tỉnh Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa – Vũng Tàu. Quy hoạch Tứ giác kinh tế. Theo Quyết định số 06/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng kinh tế trọng điểm phía nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030. Quy hoạch nêu rõ, tập trung phát triển giao thông vận tải với bước đột phá mạnh mẽ, tạo tiền đề đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu là vùng đi đầu trong CNH, HĐH, thu hút đầu tư nước ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế. Quy hoạch cũng nhấn mạnh, phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành 580 km đường cao tốc; đưa vào cấp kỹ thuật hệ thống đường tỉnh và mở mới một số tuyến cần thiết; tiếp tục phát triển giao thông nông thôn, 80% đường giao thông nông thôn được cứng hóa mặt. Hoàn thành nâng cấp, cải tạo tuyến đường sắt Bắc - Nam và khu đầu mối TP Hồ Chí Minh; nghiên cứu đầu tư xây dựng tuyến đường sắt cao tốc Bắc - Nam vào thời điểm thích hợp. Tập trung xây dựng một số bến cảng nước sâu tại các cụm cảng Vũng Tàu, Đồng Nai và TP Hồ Chí Minh; hoàn thành di dời các cảng trên sông Sài Gòn. Xây dựng và đưa vào khai thác giai đoạn 1 cảng hàng không quốc tế Long Thành. Tổ chức vận tải hợp lý trên một số hành lang chủ yếu như hành lang: TP Hồ Chí Minh - phía bắc; TP Hồ Chí Minh - đồng bằng sông Cửu Long; TP Hồ Chí Minh - Bà Rịa – Vũng Tàu...
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Vùng đồng bằng sông Cửu Long (còn được gọi là Tây Nam Bộ, Cửu Long, hay miền Tây) là vùng cực nam của Việt Nam, một trong hai phần của Nam Bộ. Khu vực này có 1 thành phố trực thuộc trung ương là Cần Thơ và 12 tỉnh: Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Hậu Giang, Sóc Trăng, Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang, Bạc Liêu và Cà Mau. Đồng bằng sông Cửu Long có tổng diện tích 40.577,6 km² và có tổng dân số là 17.744.947 người (2022). Vùng chiếm 12,8% diện tích cả nước nhưng có 17,9% dân số cả nước, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn cả nước (năm 2017 tăng 8,8% trong khi cả nước tăng 7,6%). Chỉ riêng lúa đã chiếm 54% diện tích và 58% sản lượng lúa cả nước; xuất khẩu gạo từ toàn vùng chiếm tới 93% sản lượng. Chưa kể thủy sản chiếm 77% diện tích, 40% sản lượng và 60% xuất khẩu cả nước... Tuy nhiên, Đồng bằng sông Cửu Long đứng về phương diện thu nhập vẫn còn thấp hơn cả nước: thu nhập bình quân đầu người với mức 60 triệu đồng (cả nước là 74 triệu đồng/người/năm). Giới thiệu sơ lược. Đồng bằng sông Cửu Long hay còn gọi là Châu thổ sông Mê Kông, là phần lãnh thổ cực nam của Việt Nam, nằm về phía đông nam của Campuchia, là vùng đất màu mỡ nhất và có nhân khẩu đông nhất ở Việt Nam. Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành: TP. Cần Thơ, tỉnh An Giang, tỉnh Đồng Tháp, tỉnh Long An, tỉnh Tiền Giang, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Bến Tre, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Hậu Giang, tỉnh Bạc Liêu, tỉnh Cà Mau và tỉnh Kiên Giang. Vùng đất này đất đai màu mỡ, lúa nước được thu hoạch bảy lần trong hai năm. Cư dân ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long bây giờ chủ yếu là người Việt, người bản địa người Khmer sinh sống chủ yếu ở tỉnh Trà Vinh, tỉnh Sóc Trăng và tỉnh An Giang. Vẫn có người Hoa quy mô tương đương ở tỉnh Kiên Giang và tỉnh Trà Vinh, một số di cư đến khoảng thời gian cuối nhà Minh đầu nhà Thanh do Mạc Cửu tuyển mộ. Địa lý. Đồng bằng sông Cửu Long là bộ phận của châu thổ sông Mê Kông có diện tích 39.194,6 km². Có vị trí nằm liền kề vùng Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía Tây Nam là vịnh Thái Lan, phía Đông Nam là Biển Đông. Các điểm cực của đồng bằng trên đất liền gồm điểm cực Tây ở phường Mỹ Đức, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; cực Đông ở xã Thừa Đức, huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre; cực Bắc ở xã Hưng Điền A, huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An; cực Nam ở xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Ngoài ra, còn có các đảo xa bờ của Việt Nam như đảo Phú Quốc, quần đảo Thổ Chu, quần đảo Hòn Khoai. Đồng bằng sông Cửu Long gồm ba tiểu vùng. Vùng cao ở phía tây gồm các tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long là Đồng Tháp, An Giang, Cần Thơ, phần phía tây các tỉnh Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và phần phía đông Kiên Giang. Đây là vùng thường bị ngập vào mùa mưa bởi nước sông Cửu Long dâng lên. Vùng thấp ở duyên hải phía đông gồm các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Bạc Liêu, Cà Mau, phần phía đông Long An, Tiền Giang, Vĩnh Long, Hậu Giang và phần ven biển Kiên Giang. Đây là vùng thường bị mặn xâm nhập vào mùa khô. Địa mạo địa hình. Tam giác châu sông Mê Kông là đồng bằng bồi tích do hạ lưu sông Mê Kông và 9 đường rẽ của nó chảy vào biển Đông mà hình thành nên, là đồng bằng lớn nhất Việt Nam, diện tích hơn 40.000km². Chiều cao trung bình so với mực nước biển không đến 2m, nhiều dòng sông và ao đầm. Phần đông dân số làm nông nghiệp, là vùng sản xuất lúa gạo chủ yếu ở Việt Nam, cũng là một trong những khu sản xuất gạo nổi tiếng ở Đông Nam Á. Sông Mê Kông về phía dưới Phnôm Pênh chia thành hai nhánh, ở trong nước Việt Nam gọi là sông Tiền và sông Hậu, hai sông này đem tam giác châu chia thành ba phần, về phía nam sông Hậu là bán đảo Cà Mau, bởi vì ứ tích bùn và cát của sông Mê Kông cho nên bán đảo mỗi năm kéo dài 60 - 80 mét hướng về ven biển phía tây nam. Bãi biển ở phía tây bán đảo đủ dài tạo thành rừng ngập mặn đặc biệt chỉ có ở miền nhiệt đới, bên trong vùng đất có nhiều ruộng lúa nước và rừng rậm nhiệt đới. Ở giữa sông Tiền và sông Hậu là đồng bằng màu mỡ và bằng phẳng, kênh mương dày đặc như mạng nhện. Bộ phận về phía bắc sông Tiền chia ra, phía tây là Đồng Tháp Mười, thực tế là vùng ao đầm, mùa mưa tạo thành một bãi nước rộng lớn bao la, chiều sâu của nước là từ 3m trở xuống, mùa khô cạn nước cũng đến đầu gối, sản xuất nhiều củ sen và lúa nước nổi, phía đông là đồng bằng Đồng Nai. Vùng đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam được hình thành từ những trầm tích phù sa và bồi dần qua những kỷ nguyên thay đổi mực nước biển; qua từng giai đoạn kéo theo sự hình thành những giồng cát (đất bằng) dọc theo bờ biển. Những hoạt động hỗn hợp của sông và biển đã hình thành những vạt đất phù sa phì nhiêu dọc theo đê ven sông lẫn dọc theo một số giồng cát ven biển và đất phèn trên trầm tích đầm mặn trũng thấp như vùng Đồng Tháp Mười, tứ giác Long Xuyên – Hà Tiên, tây nam sông Hậu (khu vực ngã ba Hậu Giang, Bạc Liêu và Cà Mau) ở bán đảo Cà Mau. Cách đây khoảng 8.000 năm, vùng ven biển cũ trải rộng dọc theo triền phù sa cổ thuộc trầm tích Pleistocen từ Hà Tiên đến thềm bình nguyên Đông Nam Bộ. Sự hạ thấp của mực nước biển một cách đồng thời với việc lộ ra từng phần vùng đồng bằng vào giai đoạn cuối của thời kỳ trầm tích Pleistocen. Một mẫu than ở tầng mặt đất này được xác định tuổi bằng C14 cho thấy nó có tuổi tuyệt đối là 8.000 năm. Sau thời kỳ băng hà cuối cùng, mực mước biển dâng cao tương đối nhanh chóng vào khoảng 3–4 m trong suốt giai đoạn khoảng 1.000 năm, gây ra sự lắng tụ của các vật liệu trầm tích biển ở những chỗ trũng thấp của châu thổ; tại đây những sinh vật biển như hàu "(Ostrea)" được tìm thấy và việc xác định tuổi tuyệt đối của chúng bằng C14 cho thấy trầm tích này được hình thành cách đây khoảng 5.680 năm. Dưới những ảnh hưởng của môi trường biển và nước lợ, thực vật rừng ngập mặn dày đặc đã bao phủ toàn vùng này, chủ yếu là những cây đước "(Rhizophora" sp.) và mắm "(Avicennia" sp.). Những thực vật chịu mặn này đã tạo thuận lợi cho việc giữ lại các vật liệu lắng tụ, làm giảm sự xói mòn do nước hoặc gió, và cung cấp sinh khối cho trầm tích châu thổ, và rồi những đầm lầy biển được hình thành. Tại vùng này, cách đây 5.500 năm trước công nguyên, trầm tích lắng tụ theo chiều dọc dưới điều kiện mực nước biển dâng cao đã hình thành những cánh đồng rộng lớn mang vật liệu sét. Sự lắng tụ kéo dài của các vật liệu trầm tích bên dưới những cánh rừng Đước dày đặc đã tích lũy dần để hình thành một địa tầng chứa nhiều vật liệu sinh phèn "(pyrit). Mực nước biển dâng cao, bao phủ cả vùng như thế hầu như hơi không ổn định và bắt đầu có sự giảm xuống cách đây vào khoảng 5.000 năm. Sự hạ thấp mực nước biển dẫn đến việc hình thành một mực nước biển mới, sau mỗi giai đoạn như thế thì có một bờ biển mới được hình thành, và cuối cùng hình thành nên những vạt cồn cát chạy song song với bờ biển hiện tại mà người ta thấy ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một cồn cát chia cắt vùng Đồng Tháp Mười và vùng trầm tích phù sa được xác định tuổi bằng C14 cho thấy có tuổi tuyệt đối vào khoảng 4.500 năm. Sự hạ dần của mực nước kèm theo những thay đổi về môi trường trong vùng đầm lầy biển, mà ở đây những thực vật chịu mặn mọc dày đặc "(Rhizophora" sp., "Avicinnia" sp.) được thay thế bởi những loài thực vật khác của môi trường nước ngọt như tràm ("Melaleuca" sp.) và những loài thực thực vật hoang dại khác "(Fimbristylis" sp.,"Cyperus" sp.). Sự ổn định của mực nước biển dẫn đến một sự bồi lắng trầm tích ven biển khá nhanh với vật liệu sinh phèn thấp hơn. Sự tham gia của sông Cửu Long đóng vai trò rất quan trọng trong suốt quá trình hình thành vùng châu thổ. Lượng nước trung bình hàng năm của sông này cung cấp vào khoảng 4.000 tỷ m³ nước và vào khoảng 100 triệu tấn vật liệu phù sa, những mảnh vỡ bị bào mòn từ lưu vực sông, mặc dù một phần có thể dừng lại tạm thời dọc theo hướng chảy, cuối cùng được mang đến cửa sông và được lắng tụ như một châu thổ. Những vật liệu sông được lắng tụ dọc theo sông để hình thành những đê tự nhiên có chiều cao 3–4 m, và một phần của những vật liệu phù sa phủ lên trên những trầm tích pyrit thời kỳ Holocen với sự biến thiên khá rộng về độ dày tầng đất vùng và không gian vùng. Các con sông nằm được chia cắt với trầm tích đê phù sa nhưng những vùng rộng lớn mang vật liệu trầm tích biển chứa phèn tiềm tàng vẫn còn lộ ra trong vùng đầm lầy biển. Tuy nhiên, độ chua tiềm tàng không xuất hiện trong vùng phụ cận của những nhánh sông gần cửa sông mà tại đây ảnh hưởng rửa bởi thủy triều khá mạnh. Ngược lại, vùng châu thổ sông Sài Gòn, nằm kế bên hạ lưu châu thổ sông Mekong, được biểu thị bởi một tốc độ bồi lắng ven biển khá chậm do lượng vật liệu phù du trong nước sông khá thấp và châu thổ này bị chia cắt bởi nhiều nhánh sông thủy triều và do bởi những vành đai thực vật chịu mặn thì rộng lớn hơn vành đai này ở vùng châu thổ sông Mekong, và kết quả là trầm tích của chúng chứa nhiều axít tiềm tàng. Khí hậu. Lưu vực tam giác châu sông Mê Kông ở vào trung tâm miền gió mùa nhiệt đới của châu Á, từ tháng 5 đến cuối tháng 9 bị ảnh hưởng của gió mùa Tây Nam đến từ biển cả, ẩm ướt nhiều mưa, từ tháng 5 đến tháng 10 là mùa mưa; từ tháng 11 đến trung tuần tháng 3 năm liền sau bị ảnh hưởng gió mùa Đông Bắc đến từ đất liền, khô khan ít mưa, từ tháng 10 đến tháng 11 là mùa khô, từ tháng 9 đến tháng 3 năm liền sau có thủy triều sáng và tối. Mưa dông có cường độ rất lớn, thời gian xảy ra khá ngắn, phạm vi ảnh hưởng khá nhỏ đều rất thường xuyên trong suốt mùa mưa; mưa xuống có thời gian xảy ra khá dài, phạm vi rất lớn thường xuyên nhất vào tháng 9, có thể dẫn đến nước lũ dâng lên tràn ngập một cách nghiêm trọng, nhưng mà sự ảnh hưởng của nó phần nhiều chỉ giới hạn ở khu vực tam giác châu và vùng đất phía tây lưu vực, đôi khi xuyên qua đất liền khiến phạm vi lớn hơn bị mưa lớn đánh bất ngờ trong khoảng thời gian dài. Bởi vì mùa tiết của mưa phân bố không đồng đều, các nơi ở lưu vực mỗi năm đều phải trải qua một đợt hạn hán có cường độ và thời gian xảy ra khác nhau. Đây là vùng có khí hậu cận xích đạo nên thuận lợi phát triển ngành nông nghiệp (mưa nhiều, nắng nóng) đặc biệt là phát triển trồng lúa nước và cây lương thực. Thủy văn. Tam giác châu sông Mê Kông có lượng nước chảy vào biển trung bình nhiều năm là 475 tỉ mét khối. Trữ lượng lí thuyết thủy năng ở lưu vực sông Mê Kông là 58 triệu kilowatt, thủy năng được khai phát ước tính là 37 triệu kilowatt, lượng phát điện hằng năm là 180 tỉ kilowatt giờ, trong đó 33% ở Campuchia và 51% ở Lào. Thủy năng chưa khai phát không đến 1%. Dòng chảy ở lưu vực tam giác châu sông Mê Kông đến từ mưa, bởi vì ảnh hưởng gió mùa không thay đổi hằng năm, cho nên đường tiến trình mức nước chủ yếu từ một năm thủy văn trước đến một năm thủy văn sau hầu như không thay đổi, chênh lệch giữa mức nước cao và mức nước thấp không lớn. Nếu quy định lưu lượng mức nước cao hằng năm là trên 110% lưu lượng trung bình nhiều năm, lưu lượng mức nước thấp hằng năm là dưới 90% lưu lượng trung bình nhiều năm, như vậy xác suất xuất hiện năm nước cao, năm nước bằng, năm nước thấp khoảng chừng là 25%, 50%, 25% đo ở trạm Viêng Chăn, Lào, là 20%, 60%, 20% đo ở trạm Kratié, Campuchia. Về phía tây, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bởi sông Châu Đốc và kênh Vĩnh Tế một dòng kênh nhân tạo chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Hậu Giang qua sông Châu Đốc tại Thành phố Châu Đốc đổ nước ra Vịnh Thái Lan, giới hạn một vùng đất thấp ngập nước theo mùa gọi là Tứ giác Long Xuyên. Ở khu vực giữa hai dòng sông Hậu và sông Tiền, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn đầu nguồn bởi các dòng kênh nối ngang tại 2 huyện thị đầu nguồn Tân Châu và An Phú của tỉnh An Giang như kênh Vĩnh An... Về phía đông bắc và đông, Đồng bằng sông Cửu Long được giới hạn bằng hàng loạt các dòng sông kênh rạch liên thông với nhau, chảy dọc theo biên giới Việt Nam-Campuchia, (giới hạn vùng đất trũng khác ngập nước theo mùa là vùng Đồng Tháp Mười), và đều là phân lưu của sông Mekong: hoặc trực tiếp của dòng chính sông Tiền Giang, hay nhận nước gián tiếp qua một phân lưu chính của Mekong là Preak Banam đổ ra biển Đông qua sông Vàm Cỏ Tây (sông Vàm Cỏ) và các cửa của sông Cửu Long. Giới hạn phía đông bắc và đông của Đồng bắng sông Cửu Long là các dòng sông kênh rạch sau: sông Sở Thượng (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Mekong qua Preak Banam), sông Sở Hạ (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak phân lưu của Preak Banam), rạch Cái Cỏ (chảy trên biên giới Việt Nam-Campuchia, là ranh giới phía bắc của Đồng Tháp Mười, nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak một thượng lưu của sông Sở Hạ và rạch Long Khốt), rạch Long Khốt (nhận nước sông Mekong qua Preak Trabeak và Cái Cỏ, thượng nguồn của sông Vàm Cỏ Tây), sông Vàm Cỏ Tây (nhận nước sông Mekong qua rạch Long Khốt và các kênh rạch nối thông với sông Tiền Giang), sông Vàm Cỏ (nhận nước sông Mekong qua sông Vàm Cỏ Tây và các kênh rạch nối thông với sông Tiền Giang), và cuối cùng là sông Soài Rạp (nhận nước sông Mekong qua sông Vàm Cỏ). Các sông Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ, Soài Rạp mặc dù thuộc hệ thống sông Sài Gòn-Đồng Nai, là hệ thống sông thuộc địa bàn Miền Đông Nam Bộ, nhưng chúng là những dòng sông cuối cùng nhận nước từ sông Mekong về phía đông, đồng thời một trong số chúng (sông Soài Rạp) là ranh giới tự nhiên của 2 tỉnh phía đông Đồng bằng sông Cửu Long là Long An và Tiền Giang với tỉnh thành phía tây của miền Đông Nam Bộ là Thành phố Hồ Chí Minh, nên lưu vực các sông rạch này (chính là địa bàn tỉnh Long An) cũng là địa bàn ranh giới tận cùng phía đông của Đồng bằng sông Cửu Long với Miền Đồng Nam Bộ. Biến đổi khí hậu và thiên tai. Theo công bố của Bộ Tài nguyên và Môi trường (Việt Nam), khoảng 40% vùng đồng bằng sông Cửu Long có thể bị ngập trong nước biển do biến đổi khí hậu. Bên cạnh đó do ảnh hưởng của hiện tượng Elnino, nhiều vùng ven biển của Đồng bằng sông Cửu Long gặp tình trạng hạn hán và nước mặn xâm nhập sâu vào nội địa. Mặt khác trong khi nước biển dâng lên, thì "tình trạng khai thác nước ngầm quá mức là một trong những nguyên nhân gây sụt lún đất ở khu vực TP.HCM và vùng đồng bằng sông Cửu Long". Những đề xuất về "bơm bù nước ngầm" để giảm sụt lún thì không được quan tâm thực hiện. Ngoài ra tác động ở thượng nguồn như nạn phá rừng và một loạt các đập nước đang đưa vào kế hoạch ở Hoa lục, Lào, và Campuchia đã giảm thiểu lượng phù sa bồi đắp ở các cửa sông, khiến vùng ven biển bị ngập dần. So với năm 1990 khi sông Cửu Long đưa 160 triệu tấn phù sa ra biển thì số lượng vào năm 2015 chỉ còn 75 triệu tấn, giảm hơn phân nửa. Lượng phù sa dù ra đến gần biển cũng bị trút bớt vì con người dùng sỏi cát vào các công trình xây cất, gây thiệt hại trầm trọng đến viễn cảnh sống còn của vùng đồng bằng. Theo nghiên cứu của Trường Đại học Cần Thơ, biến đổi khí hậu và hiện tượng ấm lên toàn cầu sẽ làm mực nước biển dâng lên. Nếu dâng 1m thì 20% đồng bằng châu thổ sẽ bị đe dọa. Dâng 2m diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị xóa còn phân nửa, ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống 15 triệu dân. Theo nghiên cứu của 19 nhà khoa học đăng trên tạp chí Science thì nếu tiếp tục phát triển với cách thức như hiện tại, vùng này sẽ bị nhấn chìm đến 90% diện tích vào năm 2100. Năm 2016, Đồng bằng sông Cửu Long hứng chịu đợt hạn hán và xâm nhập mặn nặng nề nhất trong vòng 100 năm, gây thiệt hại hơn 160.000 ha lúa, tương đương 800.000 tấn lúa bị mất trắng, với mỗi gia đình có diện tích sản xuất khoảng 0,5 ha thì xâm nhập mặn đã làm khoảng 300.000 hộ gia đình (khoảng 1,5 triệu người) trong những tháng qua không có thu nhập. Các tỉnh bị thiệt hại nặng nhất là Kiên Giang (hơn 54.000 ha), Cà Mau (gần 50.000 ha), Bến Tre (gần 14.000 ha), Bạc Liêu (gần 12.000 ha)... Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã phải công bố tình trạng thiên tai đặc biệt nghiêm trọng. Theo Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà, ngoài những nguyên nhân như mùa mưa năm 2015 đến muộn và kết thúc sớm, nguyên nhân chính là các vấn đề ở thượng nguồn dòng chảy. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, các hồ chứa trên dòng chính ở phía Trung Quốc có dung tích khoảng 23 tỉ m³, các hồ chứa trên những sông nhánh khoảng 20 tỉ m³. Tổng dung tích này tác động rất lớn đến việc điều tiết nước và lưu lượng dòng chảy về phía hạ lưu. Trong dịp Tết Nguyên đán ở Trung Quốc, nhu cầu năng lượng giảm nên họ tích nước, do vậy vào thời điểm này lượng nước giảm đáng kể, sau đó dòng chảy tăng lên (khi các hồ xả nước để chạy thủy điện). “Tôi khẳng định đây là nguyên nhân cơ bản” - ông Hà nói. Dân cư. Dân cư ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long đa số là người Kinh. Khu vực này trước đây từng là một phần của Đế quốc Khmer, do đó là vùng tập trung người Khmer nhiều nhất bên ngoài nước Campuchia. Người Khmer sống chủ yếu ở Trà Vinh, Sóc Trăng và người Chăm theo đạo Hồi sống ở Tân Châu, An Giang. Người Hoa sống ở Sóc Trăng 64.910 người, tỉnh Kiên Giang 29.850 người, tỉnh Bạc Liêu 20.082 người (2009). Dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long là 17,33 triệu người vào năm 2011. Dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long tăng chậm trong những năm gần đây, chủ yếu do di cư đi nơi khác. Dân số vùng tăng 471.600 người từ năm 2005 đến 2011, trong khi đó 166.400 người di cư chỉ trong năm 2011. Tương tự như vùng duyên hải miền Trung, đây là một trong những nơi tăng dân số chậm nhất nước. Tỷ lệ tăng dân số trong khoảng 0,3% đến 0,5% từ năm 2008 đến 2011, trong khi đó tỷ lệ tăng dân số vùng Đông Nam Bộ lân cận là 2%. Tỷ lệ tăng dân số cơ học trong vùng là âm trong những năm này. Tỷ lệ sinh của vùng cũng khá thấp, ở mức 1,8 trẻ em trên mỗi người phụ nữ vào năm 2010 và 2011, giảm từ 2,0 năm 2005. Kinh tế. Tài nguyên. Đồng bằng sông Cửu Long không giàu khoáng sản. Khoáng sản chủ yếu là than bùn và đá vôi. Ngoài ra đồng bằng còn có các khoáng sản vật liệu xây dựng như sét gạch ngói, cát sỏi... Tài nguyên rừng cũng giữ những vai trò quan trọng, đặc biệt là hệ thống rừng ngập mặn ven biển lớn nhất Việt Nam, trong đó hệ thống rừng ngập mặn Mũi Cà Mau được công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới, bên cạnh đó là những cánh rừng tràm ở U Minh (Cà Mau), Đồng Tháp với một hệ thống sinh học vô cùng đa dạng. Nông nghiệp. Mặc dù diện tích canh tác nông nghiệp và thủy sản chưa tới 30% của cả nước nhưng miền Tây đóng góp hơn 50% diện tích lúa, 71% diện tích nuôi trồng thủy sản, 30% giá trị sản xuất nông nghiệp và 54% sản lượng thủy sản của cả nước. Lúa trồng nhiều nhất ở các tỉnh An Giang, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang. Diện tích và sản lượng thu hoạch chiếm hơn 50% so với cả nước. Bình quân lương thực đầu người gấp 2,3 lần so với lương thực trung bình cả nước. Nhờ vậy nên Đồng bằng sông Cửu Long là nơi xuất khẩu gạo chủ lực của cả đất nước. Ngoài ra cây ăn quả còn là đặc sản nổi tiếng của vùng, với sự đa dạng về số lượng, cũng như chất lượng ngày càng được nâng cao Nghề nuôi vịt đàn phát triển mạnh, nuôi nhiều ở Đồng Tháp, Hậu Giang, Bạc Liêu, Cà Mau và Sóc Trăng. Ngày 19 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 854/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án nâng cao năng lực thích ứng với biến đổi khí hậu của hợp tác xã nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long, giai đoạn 2021-2025. Thủy sản. Sản lượng thủy sản chiếm 50% cả nước, nhiều nhất ở các tỉnh Cà Mau, Bạc Liêu, Kiên Giang và An Giang. Kiên Giang là tỉnh có sản lượng thủy sản săn bắt nhiều nhất, 239.219 tấn thủy sản (năm 2000). An Giang là tỉnh nuôi trồng thủy sản lớn nhất vùng với sản lượng 80.000 tấn thủy sản (năm 2000). Nghề nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản đang phát triển mạnh, theo quy mô công nghiệp. Công nghiệp. Ngành công nghiệp phát triển rất thấp, chủ yếu là ngành chế biến lượng thực. Cần Thơ là trung tâm công nghiệp của cả vùng bao gồm các ngành nhiệt điện, chế biến lương thực, luyện kim đen, cơ khí, hóa chất, dệt may và vật liệu xây dựng. Dịch vụ. Khu vực dịch vụ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm các ngành chủ yếu: xuất nhập khẩu, vận tải thủy và du lịch. Xuất khẩu gạo chiếm 80% của cả nước. Giao thông đường thủy giữ vai trò quan trọng nhất. Du lịch biển chủ yếu ở Kiên Giang với thắng cảnh đẹp ở Hà Tiên, Phú Quốc. Du lịch tâm linh với nhiều chùa đẹp ở An Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Trà Vinh. Du lịch sinh thái bắt đầu khởi sắc như du lịch trên sông nước, vườn, khám phá các cù lao. Du lịch bền vững bước đầu hình thành với sự thành công của khu nghỉ dưỡng bền vững Mekong Lodge tại Tiền Giang và nhiều địa phương khác như Bến Tre, Vĩnh Long, Cà Mau, Đồng Tháp. Tuy nhiên chất lượng và sức cạnh tranh của các khu du lịch không đồng đều và còn nhiều hạn chế. Giao thông. Mạng lưới đường bộ từng bước được quy hoạch, nâng cấp, xây mới theo dạng "ô bàn cờ", bao gồm các trục dọc, ngang và hệ thống đường vành đai liên kết với nhau một cách hợp lý. Nhiều trục quốc lộ đã và đang được nâng cấp, xây mới, trong đó đáng kể có dự án mở rộng Quốc lộ 1 đoạn Trung Lương – Cần Thơ; xây dựng đường cao tốc TP Hồ Chí Minh – Trung Lương; tuyến đường nam sông Hậu, tuyến Quản Lộ – Phụng Hiệp... Nhiều cầu lớn vượt sông trên Quốc lộ 1 đã được đầu tư, xây mới như cầu Mỹ Thuận vượt sông Tiền, cầu Cần Thơ vượt sông Hậu, cầu Rạch Miễu nối Tiền Giang với tỉnh Bến Tre... Những cây cầu này xóa đi cảnh chen chúc lộn xộn, mất thời gian, thiếu an toàn tại các bến phà vốn tồn tại hàng thế kỷ nay, đồng thời trở thành điểm tham quan thu hút khách du lịch bởi quy mô và kiến trúc đẹp, hiện đại. Đến nay những "anh hai lúa" có thể thỏa mãn ước mơ được đi trên những máy bay hiện đại, ngắm nhìn những cánh đồng thẳng cánh cò bay. Đó cũng là nhờ việc quan tâm đầu tư, quy hoạch các sân bay trong vùng trên nguyên tắc bảo đảm kết nối vùng với các sân bay quốc tế và phân bố đều trong khu vực, nhất là các tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với việc nâng cấp một số hạng mục các cảng hàng không Rạch Giá, Cà Mau, Phú Quốc... sân bay quốc tế Cần Thơ đã hoàn thành với sức chứa 2,5 triệu hành khách/năm và có thể khai thác được các loại máy bay lớn như B747, B777. Hiện Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc mới giai đoạn I đang được thi công, sau khi hoàn thành sẽ thuận lợi hơn cho người dân trên đảo gần với đất liền và thu hút nhiều khách trong và ngoài nước đến với đảo xa. Cùng với đường bộ và đường hàng không, hệ thống đường sông Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang được đầu tư nâng cấp một cách đáng kể, nhất là các tuyến sông chính, kết hợp với hệ thống đường thủy do các địa phương quản lý đã góp phần nâng cao khả năng kết nối khu vực với các cảng sông, biển. Từ Thành phố Hồ Chí Minh, bằng phương tiện thủy, hàng hóa và hành khách có thể đi qua Đồng Tháp Mười và Tứ giác Long Xuyên đến Hà Tiên, Cà Mau... Nông sản hàng hóa vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ đến nhanh hơn với các trung tâm kinh tế lớn của cả nước. Cầu Cần Thơ là cầu dây văng bắc ngang qua sông Hậu, được hoàn thành vào ngày 12 tháng 4 năm 2010. Trước đó 3 năm, một tai nạn lúc xây dựng làm 55 người chết và làm bị thương hơn 100 người. Cầu được xây dựng để thay thế cho phà và kết nối Quốc lộ 1. Cầu Cần Thơ bắt ngang qua tỉnh Vĩnh Long và thành phố Cần Thơ. Chi phí xây dựng ước tính là 4.842 tỷ đồng (khoảng 342,6 triệu đô la Mỹ), và là cây cầu đắt nhất Việt Nam lúc mới hoàn thành. Ngoài ra, còn có các cầu lớn như cầu Hàm Luông, cầu Cổ Chiên, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống... Văn hóa. Âm nhạc. Vùng này là cái nôi của nghệ thuật đờn ca tài tử, nghệ thuật sân khấu cải lương với các nghệ sĩ nổi tiếng như: Phùng Há, Út Trà Ôn, Lệ Thủy, Bạch Tuyết, Thanh Sang, Minh Phụng... Nhiều ca khúc âm hưởng dân ca Nam Bộ với nhiều nhạc sĩ nổi tiếng như: Bắc Sơn, Thanh Sơn, Trúc Phương... Một số bài hát nổi tiếng như "Anh về miền Tây" (Minh Vy), "Bỏ quê" (Sơn Hạ), "Bông bí vàng" (Bắc Sơn), "Dáng đứng Bến Tre" (Nguyễn Văn Tý), "Bông điên điển" (Hà Phương), "Chiếc áo bà ba" (Trần Thiện Thanh), "Về miền Tây" (Tô Thanh Tùng), "Miền Tây quê tôi" (Cao Minh Thu), "Tình em Tháp Mười" (Thanh Sơn), "Tình quê miền Tây" (Cao Minh Thu), "Sóc sờ bai Sóc Trăng" ( Thanh Sơn), "Phải lòng con gái Bến Tre" (thơ: Luân Hoán - nhạc: Phan Ni Tấn), "Đàn sáo Hậu Giang" (Trần Long Ẩn), "Trà Vinh trong những tình mật ngọt" (Trúc Phương), "Bạc Liêu hoài cổ" (Thanh Sơn), "Áo mới Cà Mau" (Thanh Sơn), "Về An Quảng Hữu" (Trúc Phương)... Văn học và phim ảnh. "Truyện" "Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm nổi tiếng về con người hào khí, nghĩa hiệp; từ đó trở thành nghệ thuật đọc thơ Lục Vân Tiên. Nhiều bộ phim được sản xuất ở vùng này để miêu tả nền văn minh của Đồng bằng sông Cửu Long. Một số phim nổi tiếng có thể kể ra như "Mùa len trâu", "Cánh đồng bất tận", "Hương phù sa", "Đất phương Nam..." Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Lê Vĩnh Hòa, Đoàn Giỏi, Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Ngọc Tư, Trang Thế Hy... đã viết nhiều quyển sách nổi tiếng về cuộc sống ở vùng Đồng bằng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.561255
Địa lý & Hành chính
null
null
Đồ Sơn là một quận nội thành thuộc thành phố Hải Phòng, Việt Nam. Địa lý. Đồ Sơn là một bán đảo nhỏ do dãy núi Rồng vươn dài ra biển 5 km với hàng chục mỏm đồi cao từ 25 đến 130 m. Quận nằm ở phía đông nam thành phố Hải Phòng, cách trung tâm thành phố khoảng 22 km về hướng đông nam, có vị trí địa lý: Đồ Sơn có một khu nghỉ mát gồm nhiều bãi biển có phong cảnh đẹp ở miền bắc Việt Nam. Do ở phía bắc và phía nam của quận là hai cửa sông Lạch Tray và Văn Úc thuộc hệ thống sông Thái Bình đổ ra biển đem theo nhiều phù sa, cộng thêm việc quai đê lấn biển ở Đảo Hòn Dấu để xây dựng khu Resort cao cấp, nên nước biển ở khu vực này đục (nhất là khu II) nhưng vẫn có sức thu hút du khách. Quận Đồ Sơn có diện tích tự nhiên là 42,37 km² và dân số là 102.234 người. Hành chính. Quận Đồ Sơn có 6 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 6 phường: Bàng La, Hải Sơn, Hợp Đức, Minh Đức, Ngọc Xuyên, Vạn Hương. Lịch sử. Đồ Sơn là bãi biển nổi tiếng từ thời nhà Nguyễn và thời Pháp thuộc. Cũng được nhắc đến trong truyện Trống mái (1936) của nhà văn Khái Hưng. Thị xã Đồ Sơn được thành lập ngày 14 tháng 3 năm 1963 trên cơ sở tách khu vực Đồ Sơn và 2 xã: Vạn Sơn, Ngọc Hải thuộc huyện Kiến Thụy; cũng từ đó, thành lập 4 tiểu khu Vạn Hương, Vạn Sơn, Ngọc Hải, Ngọc Xuyên. Ngày 7 tháng 4 năm 1966, chuyển xã Bàng La thuộc huyện Kiến Thụy vào thị xã Đồ Sơn. Ngày 26 tháng 12 năm 1970, giải thể xã Bàng La, chuyển các thôn của xã Bàng La thành các tiểu khu trực thuộc thị xã Đồ Sơn. Ngày 5 tháng 3 năm 1980, thị xã Đồ Sơn nhập với 21 xã của huyện An Thụy là: Tú Sơn, Đại Hợp, Đoàn Xá, Hợp Đức, Hòa Nghĩa, Anh Dũng, Minh Tân, Tân Phong, Đông Phương, Đại Đồng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Ngũ Đoan, Đại Hà, Tân Trào, Thụy Hương, Kiến Quốc, Ngũ Phúc, Thanh Sơn, Hữu Bằng, Thuận Thiên thành huyện Đồ Sơn, nội thị của thị xã Đồ Sơn trở thành thị trấn Đồ Sơn thuộc huyện cùng tên, tái lập xã Bàng La. Từ đó, huyện Đồ Sơn gồm 1 thị trấn Đồ Sơn và 24 xã: Bàng La, Anh Dũng, Hưng Đạo, Đa Phúc, Hải Thành, Tân Thành, Hòa Nghĩa, Hợp Đức, Đông Phương, Đại Đồng, Hữu Bằng, Thuận Thiên, Ngũ Phúc, Kiến Quốc, Thụy Hương, Thanh Sơn, Đại Hà, Ngũ Đoan, Tân Trào, Đoàn Xá, Đại Hợp, Tú Sơn, Tân Phong, Minh Tân. Tuy nhiên, thị trấn Đồ Sơn không phải là huyện lỵ của huyện cùng tên Đồ Sơn, huyện lỵ của huyện đặt tại xã Thanh Sơn. Ngày 14 tháng 2 năm 1987, thành lập thị trấn Núi Đối, thị trấn huyện lỵ huyện Đồ Sơn trên cơ sở một phần các xã Minh Tân và Thanh Sơn. Tháng 6 năm 1988, huyện Đồ Sơn chia lại thành thị xã Đồ Sơn và huyện Kiến Thụy. Thị xã Đồ Sơn được tái lập gồm 4 phường: Ngọc Hải, Vạn Sơn, Vạn Hương, Ngọc Xuyên và xã Bàng La. Ngày 12 tháng 9 năm 2007, thị xã Đồ Sơn sáp nhập thêm xã Hợp Đức thuộc huyện Kiến Thụy và được chuyển thành quận Đồ Sơn theo Nghị định số 145/2007/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam. Đồng thời, chuyển xã Bàng La thành phường Bàng La; chia xã Hợp Đức thành 2 phường: Hợp Đức và Minh Đức. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập phường Ngọc Hải và phường Vạn Sơn thành phường Hải Sơn. Từ đó, Quận Đồ Sơn có 6 phường như hiện nay. Nguồn gốc tên gọi Đồ Sơn. Đồ Sơn (塗山) nghĩa Hán là núi bùn, núi đất. Tên gọi này có từ xa xưa. Vào thời Mạc thì Nguyễn Bỉnh Khiêm có viết: "Ông cùng với các lão tăng đàm luận và thường thả thuyền dạo chơi ở Kim Hải hay Úc Hải để xem đánh cá. Các danh sơn thắng cảnh như An Tử, Ngọa Vân, Kính Chủ, Đồ Sơn, nơi nào ông cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, quên cả sớm chiều". Tiềm năng du lịch của Đồ Sơn mới bắt đầu được khai thác bởi người Pháp từ những năm đầu thế kỷ XX. Còn trước đó hơn 2 thế kỷ, trong các thế kỷ XVII - XVIII, dù tên gọi Đồ Sơn chưa được nhắc tới nhưng trong thư tịch và bản đồ cổ của những nhà hàng hải, thương nhân châu Âu tới Đàng Ngoài (chủ yếu là người Hà Lan và người Anh) thì tên gọi "Batsha" hay "Batshaw" đã xuất hiện phổ biển. Ngày nay người ta đã xác định được vị trí của Batsha (Batshaw) ở các thế kỷ XVII - XVIII là một làng chài (hoặc xóm chài) nằm trên bán đảo Đồ Sơn. Theo như mô tả của nhà hàng hải người Anh ở thế kỷ XVII William Dampier trong cuốn sách "Du hành và Khám phá" năm 1688, cư dân sống ở làng chài mang tên Batsha (Đồ Sơn ngày nay) không chỉ làm nghề đánh cá mà còn kiêm luôn vai trò làm hoa tiêu dẫn đường cho những thuyền buôn phương Tây vào vùng cửa sông Thái Bình thuộc khu vực các huyện Tiên Lãng và Vĩnh Bảo (Hải Phòng). Đây là khu vực chủ yếu ở Đàng Ngoài nơi mà các thương thuyền đến từ phương Tây như Hà Lan hay Vương quốc Anh được tự do ra vào, buôn bán trao đổi hàng hoá và lưu trú lâu dài vào thời đó. Nhưng không phải chỉ những nhà hàng hải hay thương nhân châu Âu mới chú ý đến vai trò của Batsha (Batshaw) trên con đường thương mại của xứ Đàng Ngoài mà đến cả những tên tuổi vĩ đại trong lịch sử khoa học như Isaac Newton và Pierre-Simon Laplace cũng nhắc đến địa danh "Batsha" (Đồ Sơn) trong các tác phẩm của họ bởi hiện tượng thủy triều đặc biệt ở vùng biển Đồ Sơn. Trong tác phẩm khoa học kinh điển "Principia Mathematica" của nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại người Anh Isaac Newton xuất bản (nguyên bản tiếng Latinh) lần đầu vào năm 1687 có nhắc đến địa danh cảng "Batsha" nằm trong vĩ độ 20°50' bắc, thuộc vương quốc "Tunquini" (xứ Đàng Ngoài), nơi mà thủy triều lên xuống chỉ một lần trong ngày. Newton cũng cho biết ông có được thông tin đó từ những nhà hàng hải, những người có thể đã từng du hành tới Đàng Ngoài trong thế kỷ XVII. Hơn một thế kỷ sau đó, một nhà nhà vật lý kiêm toán học vĩ đại khác là Pierre-Simon Laplace (người được giới khoa học mệnh danh là "Newton của nước Pháp") đã nhắc lại hiện tượng thủy triều ở "Batsha" trong tác phẩm nổi tiếng của ông xuất bản năm 1796 có tựa đề "Exposition du système du monde". Nguồn gốc của Kinh tộc Tam Đảo. Vào năm Hồng Thuận thứ 3 (1511) đời vua Lê Tương Dực, một nhóm ngư dân khoảng trên dưới 100 người từ bán đảo Đồ Sơn (khi đó thuộc huyện Nghi Dương, trấn Hải Dương, vốn là đất phát tích của Nhà Mạc) đã di cư theo đường biển đến lập nghiệp và bảo vệ chủ quyền biển đảo trên ba hòn đảo nhỏ (được gọi chung là Tam Đảo) thuộc châu Vĩnh An, trấn An Bang. Đến Hiệp định Pháp Thanh năm 1885 thì bị cắt về Trung Quốc. Sau này trở thành các thôn Vạn Vĩ (Wanwei), Vu Đầu (Wutou) và Sơn Tâm (Shanxin), ngày nay thuộc thành phố cấp huyện Đông Hưng, Phòng Thành Cảng, nằm trong địa phận quản lý của "địa cấp thị" Phòng Thành Cảng, Quảng Tây, Trung Quốc, gần biên giới Trung-Việt, cách cửa khẩu quốc tế Móng Cái khoảng 25 km theo đường bộ. Trải qua hơn 500 năm hòa nhập vào nền văn hóa địa phương, họ vẫn sử dụng tiếng Việt là ngôn ngữ giao tiếp chủ yếu và vẫn còn lưu giữ được nhiều truyền thống của người Việt từ xa xưa. Do chưa bị Hán hóa nên họ được gọi chung là Kinh tộc Tam Đảo. Kinh tế - xã hội. Cơ cấu kinh tế của toàn quận trong đó ngành Du lịch và dịch vụ chiếm khoảng 70%, đánh bắt thủy sản và nông nghiệp: chiếm 23% và Công nghiệp và xây dựng: 7%. Ước lượng đến năm 2005 GDP trên đầu người đạt khoảng 1.100 USD. Du lịch. Đồ Sơn là khu nghỉ mát lớn nhất miền Bắc. Đồ Sơn rất đông du khách từ khắp mọi miền Việt Nam cũng như khách quốc tế về đây tắm biển, nghỉ ngơi và leo núi, cắm trại, ngắm nhìn phong cảnh biển đẹp buổi chiều tà: Ngoài ra,khu du lịch Đồ Sơn còn vinh dự là nơi có hòn đảo nhân tạo đầu tiên của Việt Nam - đảo Hoa Phượng, toạ lạc tại trung tâm khu du lịch, được trang bị đầy đủ các tiện nghi hiện đại cực kỳ sang trọng như trung tâm thương mại cao cấp ở giữa đảo, bể bơi nhân tạo, phố ăn uống, khách sạn đẳng cấp 5 sao, khu biệt thự, bến du thuyền... là nơi lý tưởng để khách du lịch đến dừng chân và nghỉ dưỡng: Tệ nạn. Mại dâm. Đồ Sơn nổi tiếng với dịch vụ mại dâm, tập trung ở 2 khu vực. Một là Xó Lặng ở khu 1 (10 nhà nghỉ). Hai là khu 203 hay còn gọi là Bộ Xây dựng (20 nhà nghỉ). Mỗi năm công an ra quân bắt được 1-3 vụ mại dâm tại đây, mỗi vụ khoảng 2 người. Cục Phòng chống tệ nạn xã hội (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội) cho biết, báo cáo của Hải Phòng cho thấy không phát hiện ra tệ nạn mại dâm tại Đồ Sơn, chỉ có một vài trường hợp, không đáng kể. Văn hóa. Trong dịp Tết, người dân khắp nơi đổ về Đồ Sơn viếng thăm đền Bà Đế, cầu phúc cho mưa thuận gió hoà. Ngoài ra hàng năm ở Đồ Sơn còn lễ hội đảo Dấu. Vào ngày này, người dân Đồ Sơn nói riêng và người dân buôn bán khắp nơi đi thuyền ra đảo cúng và thắp hương cầu may cho một năm buôn bán thuận lợi và sức khỏe bình an. Một trong các hoạt động văn hóa nổi bật là Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn. Lễ hội được tổ chức 2 vòng: Vòng sơ loại vào ngày 8 tháng 6 âm lịch và vòng chung kết vào ngày 9 tháng 8 âm lịch, thu hút rất đông du khách cả ở trong và ngoài nước. Các trận đấu vòng chung kết được truyền hình trực tiếp trên sóng truyền hình Hải Phòng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sa Pa là phường trung tâm của thị xã Sa Pa, tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Địa lý. Phường Sa Pa nằm ở trung tâm thị xã Sa Pa, có vị trí địa lý: Phường có diện tích 6,25 km², dân số năm 2018 là 9.412 người, mật độ dân số đạt 1.506 người/km². Hành chính. Phường Sa Pa được chia thành 7 tổ dân phố đánh số từ 1 đến 7. Lịch sử. Trước đây, Sa Pa là một thị trấn huyện lỵ thuộc huyện Sa Pa. Điạ bàn phường Sa Pa hiện nay tương ứng với khu vực trung tâm của thị trấn này. Cuối năm 2018, thị trấn Sa Pa có 23,65 km² diện tích tự nhiên và 31.010 người. Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 767/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó: Sau khi thành lập, phường Sa Pa có 6,25 km² diện tích tự nhiên và 9.412 người.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hưng Yên là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2022, Hưng Yên là đơn vị hành chính Việt Nam có dân số khoảng 1.302.000 người (xếp thứ 28 về dân số), mật độ trung bình 1.400 người/km2 (xếp thứ 4 cả nước), quy mô GRDP đạt 132.176 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 102,3 triệu đồng/ người tương ứng với 4.396 USD (xếp thứ 12 cả nước và thứ 6 khu vực Bắc Bộ), tốc độ tăng trưởng GRDP trung bình hàng năm giai đoạn 2011-2020 trên 7,5%, Năm 2022 tăng 13,4% đứng thứ 5 toàn quốc. Chỉ số CPI xếp hạng 14/63, PAPI xếp hạng 11/63, PAR INDEX xếp hạng 12/63, SIPAS xếp hạng 6/63 tỉnh, thành phố. Địa lý. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hưng Yên, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 54 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Dương khoảng 50 km về phía tây nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 93 km, có vị trí địa lý: Điều kiện tự nhiên. Hưng Yên nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, là một trong hai tỉnh Bắc bộ có địa hình hoàn toàn đồng bằng, không có rừng, núi. Hưng Yên không giáp biển. Độ cao đất đai gần như đồng đều, rất thuận lợi cho giao thông, sản xuất. Điểm trung tâm của đồng bằng Bắc Bộ nằm ở thôn Dung (Thiên Xuân), xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ. Hưng Yên nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng 4 đến tháng 10 hàng năm. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm tới trên 80% tổng lượng mưa cả năm. Hành chính. Tỉnh Hưng Yên được phân chia thành 10 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 161 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 139 xã, 14 phường và 8 thị trấn. Lịch sử. Tỉnh Hưng Yên nguyên thuộc thừa tuyên Sơn Nam đặt vào năm Quang Thuận thứ 10 đời Lê (1466). Đến năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741) thì chia thành Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ. Đời nhà Nguyễn năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), Sơn Nam Thượng được đổi thành trấn Sơn Nam còn Sơn Nam Hạ thì gọi là trấn Nam Định. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831), tỉnh Hưng Yên được thành lập gồm các huyện Đông Yên, Kim Động, Ân Thi, Tiên Lữ, Phù Dung của trấn Sơn Nam và Thần Khê, Hưng Nhân, Duyên Hà của trấn Nam Định (các huyện Thần Khê, Duyên Hà và Hưng Nhân sau bị cắt vào tỉnh Thái Bình mới thành lập). Tuy là tỉnh "mới" chỉ hơn 553 năm, vùng đất Hưng Yên đã nổi danh từ thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh trước đó với Phố Hiến, vốn là thương cảng đô hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài. Thuyền bè ngược sông Hồng lên Thăng Long "Kẻ Chợ" đều phải dừng ở Phố Hiến đợi giấy phép nên Phố Hiến trở thành tụ điểm sầm uất. Người Tàu, người Nhật và người Tây phương đều đến đấy buôn bán. Do vậy dân gian đã có câu: "Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến". Ngày 27 tháng 1 năm 1968, tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên; hợp nhất 2 huyện Văn Giang và Yên Mỹ thành huyện Văn Yên ; hợp nhất 2 huyện Văn Lâm và Mỹ Hào thành huyện Văn Mỹ . Ngày 24 tháng 2 năm 1979, hợp nhất 2 huyện Kim Động và Ân Thi thành huyện Kim Thi; hợp nhất huyện Văn Mỹ và một phần huyện Văn Yên thành huyện Mỹ Văn ; hợp nhất phần còn lại của huyện Văn Yên và huyện Khoái Châu thành huyện Châu Giang. Ngày 27 tháng 1 năm 1996, chia huyện Kim Thi thành 2 huyện: Kim Động và Ân Thi. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Hưng Yên từ tỉnh Hải Hưng. Khi tách ra, tỉnh Hưng Yên có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Hưng Yên và 5 huyện: Ân Thi, Châu Giang, Kim Động, Mỹ Văn, Phù Tiên. Ngày 24 tháng 2 năm 1997, chia huyện Phù Tiên thành 2 huyện: Phù Cừ và Tiên Lữ. Ngày 24 tháng 7 năm 1999, chia huyện Châu Giang thành 2 huyện: Khoái Châu và Văn Giang; chia huyện Mỹ Văn thành 3 huyện: Mỹ Hào, Văn Lâm, Yên Mỹ. Ngày 19 tháng 1 năm 2009, chuyển thị xã Hưng Yên thành thành phố Hưng Yên. Ngày 1 tháng 5 năm 2019, chuyển huyện Mỹ Hào thành thị xã Mỹ Hào. Hiện nay, tỉnh Hưng Yên có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện đó là thành phố Hưng Yên, thị xã Mỹ Hào, và các huyện: Kim Động, Tiên Lữ, Văn Giang, Yên Mỹ, Phù Cừ, Ân Thi, Khoái Châu, Văn Lâm. Kinh tế. Năm 2022 tăng trưởng GRDP đạt 13,4% giá trị sản xuất công nghiệp tăng 10,5% , xây dựng tăng 41,52%; thương mai dịch vụ tăng 19,32%, nông nghiệp thủy sản tăng 2,5%. Cơ cấu lao động: nông, lâm nghiệp và thủy sản 21%; công nghiệp và xây dựng 47%; thương mại, dịch vụ 32%. Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế: nông, lâm nghiệp và thủy sản 7,49%; công nghiệp và xây dựng 63,91%; dịch vụ 28,6%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm 6,7%. GRDP đầu người đạt 102,3 triệu đồng tăng 16% so với năm 2021. Kim ngạch xuất khẩu 6,3 tỷ $. Trên địa bàn tỉnh có 104 chợ 24 siêu thị 2 trung tâm thương mại đang được xây dựng. Thu ngân sách năm 2022 đạt 50.850 tỷ đồng bằng 260% dự toán tăng 2,67 lần so với năm 2021. Tổng vốn đầu tư phát triển 57.600 tỷ đồng tăng 46%. Chỉ số CPI xếp hạng 39/63, PAPI xếp hạng 5/63, PARINDEX xếp hạng 12/63, SIPAS xếp hạng 3/63 tỉnh, thành phố. Tỉnh đã hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới vào năm 2020. Hiện nay, tỉnh đã có 5 khu dân cư được công nhận là khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu. Tỷ lệ đô thị hóa đạt 41,5%. Tỷ lệ hộ nghèo 1,3% (theo mức chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2016-2020); còn theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều giai đoạn 2021-2025 là 1,8%. Trong đó tỷ lệ hộ nghèo có nhà ở kiên cố 94,4% bán kiên cố 5,5%. Diện tích nhà ở bình quân 28m2/ người. Hưng Yên là một tỉnh công nghiệp phát triển nhanh và mạnh của miền Bắc. Toàn tỉnh hiện có 18 khu công nghiệp (KCN) đã được quy hoạch với quy mô gần 5.000 ha, trong đó có 11 KCN đã đi vào hoạt động: KCN Phố Nối A (688,94 ha) , KCN Thăng Long 2 (525,7 ha), KCN Dệt May Phố Nối B (121,81 ha), KCN Minh Quang (150 ha), KCN Minh Đức (198 ha), KCN Viglacera Yên Mỹ (280ha), KCN Yên Mỹ 2 (313,5 ha), Khu công nghiệp Sạch (143,08 ha), KCN số 5 (192,64 ha). Một số KCN hiện đang được nhà đầu tư xây dựng hạ tầng: KCN Lý Thường Kiệt (300 ha), KCN Tân Dân (200 ha), KCN Kim Động (100 ha), KCN số 3 (159,71 ha). Bên cạnh đó còn các KCN đang kêu gọi đầu tư là KCN số 1 (263,85 ha), KCN số 4 (445 ha), KCN Thổ Hoàng (250 ha) KCN số 6 (308,2 ha) và KCN số 7 (198,56 ha), KCN Bãi Sậy, KCN Tân Á Đại Thành... Ngoài ra tỉnh còn quy hoạch 40 cụm công nghiệp tổng diện tích hơn 1700 ha như: CCN Tân Quang- Như Quỳnh, CCN làng nghề Minh Khai, CCN Chỉ Đạo - Đại Đồng, CCN Lạc Đạo, CCN Minh Hải, CCN Hòa Phong, CCN Phùng Chí Kiên, CCN Đồng Than, CCN Minh Châu- Việt Cường, CCN Đặng Lễ, CCN Kim Động, CCN Chính Nghĩa, CCN Phạm Ngũ Lão- Nghĩa Dân, CCN Đa Lộc, CCN Thiện Phiến, CCN Đình Cao, CCN Dị Chế, CCN Đông- Nam Khoái Châu... Sản phẩm công nghiệp của tỉnh rất đa dạng là dệt may, giày da, ô tô, xe máy, điện tử, điện dân dụng, công nghiệp thực phẩm, cơ khí chính xác, thép xây dựng... Cơ cấu theo hướng phát triển kinh tế công nghiệp và dịch vụ đang là chủ đạo. Tính đến tháng 6 năm 2022, tại các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hưng Yên có hơn 211 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký thực hiện 515 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 6099,5 triệu đô la Mỹ , bao gồm: 268 dự án đầu tư thứ cấp có tổng vốn đầu tư đăng ký là 5.067 triệu đô la Mỹ và 02 dự án đầu tư hạ tầng KCN có vốn đầu tư đăng ký là 298 triệu đô la Mỹ. Tổng diện tích đất thuê sử dụng của các dự án FDI thứ cấp tại các khu công nghiệp là 545 ha. Hiện nay, đã có 20 quốc gia, vùng lãnh thổ đăng ký thực hiện dự án đầu tư tại các KCN trên địa bàn tỉnh. Nhật Bản dẫn đầu với 142 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 3.526,3 triệu đô la Mỹ, chiếm 52,6% về số dự án và 65,7% tổng vốn đầu tư; Hàn Quốc đứng thứ hai với 48 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 618,4 triệu đô la Mỹ, chiếm 17,8% về số dự án và 11,5% tổng vốn đầu tư; Trung Quốc đứng thứ ba với 28 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 356,2 triệu đô la Mỹ, chiếm 10,4% về số dự án và 6,6 % tổng vốn đầu tư; tiếp đến là Hồng Kông với 16 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 203 triệu đô la Mỹ, Singapore với 07 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 132,1 triệu đô la Mỹ... Tổng số lao động sử dụng của các doanh nghiệp FDI hiện nay khoảng 60.000 người. Đến nay toàn tỉnh có trên 8.324 doanh nghiệp số vốn đăng ký khoảng 156.199 tỷ đồng với doanh thu đạt trên 400.000 tỷ đồng. Bình quân 6,5 doanh nghiệp/1000 dân. Tổng số lao động trong các doanh nghiệp 221.557 người. Thu nhập bình quân một tháng của người lao động trong doanh nghiệp trên 8,7 triệu đồng. Nhưng phân hoá kinh tế không đồng đều giữa các khu vực trong tỉnh đang gây khó khăn cho việc thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của tỉnh cũng như cho những vùng, khu vực kinh tế còn chậm phát triển trong tỉnh. Tình hình đó đang dần được cải thiện rõ rệt khi cao tốc 5B (con đường rộng 8 làn hiện đại bậc nhất Việt Nam, xuất phát từ cầu Thanh Trì đến thành phố cảng Hải Phòng chạy qua các huyện Văn Giang, Yên Mỹ, Ân Thi với tổng chiều dài 29 km) đi vào hoạt động; bên cạnh đó là các tuyến đường trọng điểm đã và đang được đầu tư nâng cấp mở rộng đường Tân Phúc- Võng Phan (kết nối cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với Mỹ Hào, Ân Thi, Phù Cừ, Hưng Hà) , Đường liên tỉnh Hà Nội Hưng Yên kéo dài (Văn Giang, Yên Mỹ, Khoái Châu, Mỹ Hào, Văn Lâm), Đường kết nối di sản sông (thành phố Hưng Yên- Kim Động- Khoái Châu- Văn Giang- Gia Lâm), đường tỉnh 376 (chạy theo hướng Bắc - Nam cắt quốc lộ 39A theo hướng tuyến mới kết nối Tiên Lữ, Ân Thi, Yên Mỹ, Văn Giang, Văn Lâm); quốc lộ 38B (nối từ chợ Gạo đi qua Tiên Lữ, Phù Cừ sang Hải Dương); và đường nối cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình sẽ làm cân bằng kinh tế giữa các vùng trong tỉnh. Hiện nay trên địa bàn tỉnh có rất nhiều các khu đô thị mới xây dựng với quy hoạch rất hiện đại và văn minh như Khu đô thị Ecopark, Vinhomes Ocean Park 2 The Empire, Vinhomes Đại An, V-GreenCity Phố Nối, và nhiều dự án đô thị lớn đang được triển khai xây dựng như Khu đô thị Xuân Cầu, Khu nhà ở và dịch vụ đô thị công nghiệp Như Quỳnh, khu đô thị sinh thái Sen Hồ 1&2, Khu đô thị Hòa Phát ForeStar, Khu đô thị đại học Phố Hiến... đang làm thay đổi rõ rệt bộ mặt đô thị của tỉnh. Tỉnh đang hình thành các khu vực công nghiệp và đô thị mới phát triển năng động có tính kết nối chặt chẽ và rộng lớn đặc biệt là khu vực phía Bắc tỉnh với các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn sẽ hình thành vùng đô thị hiện đại trong tương lai như thị xã Mỹ Hào, Văn Giang, Văn Lâm, Yên Mỹ. Tốc độ đô thị hóa đang diễn ra rất nhanh chóng, tỷ lệ đô thị hóa tính đến hết năm 2022 đạt 43,5%. Xã hội. Giáo dục - đào tạo. Năm 2021, tỉnh có tổng số 422/534 trường học các cấp được công nhận trường chuẩn Quốc gia. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THPT đạt 92,01%, tỷ lệ trúng tuyển đại học 66,37%. tính đến hết năm 2019 toàn tỉnh có 44 học sinh đạt giải tại kỳ thi học sinh giỏi THPT Quốc gia, 1 học sinh đạt HCB cuộc thi Olympic tin học Châu Á, 1 học sinh đạt giải nhất cuộc thi vô địch tin học văn phòng thế giới - Viettel 2019, 8 học sinh THPT đạt giải tại kỳ thi KH-KT Quốc gia. Danh sách các trường cao đẳng - đại học tại tỉnh Hưng Yên Về văn học dân gian, ngoài cái chung của văn học dân gian đồng bằng Bắc Bộ, còn có những cái riêng mà chỉ Hưng Yên mới có, chẳng hạn hát trống quân - một lối hát phổ biến ở Hưng Yên xưa kia, hiện nay vẫn còn giữ được. Ngoài ra, còn có các thể loại hát ả đào, hát chèo... Hưng Yên là vùng đất địa linh nhân kiệt, luôn đóng góp bậc hiền tài cho đất nước ở mỗi thời đại. Tỉnh có 4 trạng nguyên trên tổng số 53 trạng nguyên của cả nước. Hiện nay, Văn miếu Xích Đằng còn lưu trên bia đá tên hàng trăm tiến sĩ khoa bảng của tỉnh trong các thời kỳ phong kiến. Một số câu ca dao tiêu biểu về tỉnh: "Đố ai quên được nhãn lồng Hưng Yên" Thể dục - Thể thao. Năm 2019, tỉnh đã tham gia 27 giải thể thao quốc gia, đạt 106 huy chương các loại, trong đó 20 huy chương Vàng, 29 huy chương Bạc và 57 huy chương Đồng. Có 19 VĐV đạt đẳng cấp quốc gia. Năm 2022 với 55 vận động viên tham dự, thi đấu ở 9 môn, đoàn thể thao Hưng Yên đã giành được 3 huy chương Vàng, 4 huy chương Bạc và 13 huy chương Đồng, xếp thứ 44/65 đoàn tham dự Đại hội Thể dục Thể thao toàn quốc. Ngày 24 tháng 4 năm 2018, Câu lạc bộ bóng đá Phố Hiến ra mắt người hâm mộ đã đánh dấu sự kiện lần đầu tiên tỉnh Hưng Yên có đội bóng thi đấu tại Giải bóng đá Hạng Nhì Quốc gia Việt Nam. Ngay trong năm đầu tiên thành lập, với dàn cầu thủ trẻ nòng cốt là các cầu thủ của Trung tâm đào tạo bóng đá trẻ PVF, thầy trò huấn luyện viên Hứa Hiền Vinh đã xuất sắc thăng hạng giành quyền lên chơi tại Giải bóng đá hạng nhất quốc gia 2019. Cũng trong mùa giải Giải bóng đá Hạng Nhất Quốc gia Việt Nam đầu tiên, Câu lạc bộ bóng đá Phố Hiến đã giành ngôi Á quân và đoạt vé tham dự trận playoff lên Giải bóng đá vô địch quốc gia Việt Nam nhưng đã thất bại 0 - 1 trước Câu lạc bộ bóng đá Thanh Hóa. Y tế. Tỉnh Hưng Yên có mạng lưới y tế từ tỉnh đến xã khá hoàn thiện, tuyến tỉnh có 2 bệnh viện đa khoa, 6 bệnh viện chuyên khoa, 4 trung tâm, 2 chi cục; tuyến huyện có 10 trung tâm y tế và 155 trạm y tế xã, phường, thị trấn với tổng số cán bộ, nhân viên y tế toàn ngành hơn 4.000 người trong đó có 1172 bác sỹ, tổng số giường bệnh 3880 giường, tỷ lệ trẻ em dưới một tuổi được tiêm chủng đầy đủ bình quân 97%. Với 100% y tế các xã được công nhận đạt chuẩn Quốc gia. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế 92,5%. Bệnh viện tuyến tỉnh: Trung tâm Y tế tuyến tỉnh: Chi cục thuộc Sở: Trung tâm Y tế huyện, thị xã, thành phố: Thông tin liên lạc. Hạ tầng thông tin không ngừng được đầu tư phát triển. Chỉ số sẵn sàng cho phát triển CNTT-TT của tỉnh xếp thứ 13/63 cả nước. Dân số. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, diện tích là 930,20 km², dân số tỉnh đạt 1.284,600 người. Dân số thành thị là 213.600 người (16,63%), dân số nông thôn là 1.071.000 người (83,37%). Dân số nam là 644.100 người, dân số nữ là 640.400 người. Mật độ dân số đạt 1.381 người/km², xếp thứ 4 cả nước sau thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội và Bắc Ninh. Khoái Châu là huyện có số dân lớn nhất 189.070 người, Văn Lâm là huyện có mật độ cao nhất 1805 người/ km2. Thành phần dân số. Khi mới tái lập tỉnh 1997 tỷ lệ dân số làm nông nghiệp rất cao, ước tính 50-55%. Tuy nhiên, gần đây tỷ lệ này thay đổi một cách nhanh chóng do tốc độ phát triển của công nghiệp, dịch vụ có xu hướng tăng nhanh hơn. Tỷ lệ dân số làm nông nghiệp năm 2008 ước tính còn 40-45%, công nghiệp 45%, dịch vụ 13%, năm 2010 công nghiệp chiếm 48,12% và đến năm 2015 công nghiệp 48,98%; năm 2018, công nghiệp, xây dựng chiếm 51,56%, thương mại, dịch vụ chiếm 37,86% tỷ trọng trong cơ cấu kinh tế của tỉnh, Năm 2018 tỉ lệ dân số làm nông nghiệp còn 10,58%. Thành phần dân số sống ở đô thị là 44% và nông thôn là 56%. Số người biết chữ đạt 99%, tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đã qua đào tạo chiếm 26,7%., tỷ lệ thất nghiệp 2,67%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 10,8%, Tỷ suất sinh 2,43 con/ phụ nữ, Tỷ lệ tăng dân số bình quân 1,11%, Tỷ suất nhập cư bình quân 4,74%, xuất cư bình quân 3,94%, di cư 0,78%. Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ trên 98%. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên 680.500 người chiếm 52% dân số. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 40.858 người, nhiều nhất là Công giáo có 26.226 người, tiếp theo là Phật giáo có 4.556 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 72 người, Hồi giáo có 3 người và Phật giáo Hòa Hảo chỉ có 1 người. Văn hóa. Di tích lịch sử. Hưng Yên là vùng đất cổ với hơn 1.800 di tích và trên 500 lễ hội văn hóa truyền thống. Có 446 di tích đã được xếp hạng trong đó có 172 di tích quốc gia, 3 di tích quốc gia đặc biệt được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng cấp Quốc gia, đứng thứ 3 cả nước về số lượng di tích cấp Quốc gia (sau Hà Nội với hơn 1200 di tích cấp quốc gia và Bắc Ninh với 204 di tích cấp quốc gia). Ngoài ra còn có 271 di tích cấp tỉnh, 7 bảo vật và nhóm bảo vật quốc gia, hàng trăm làng nghề và làng nghề truyền thống. Một số di tích tiêu biểu trên địa bàn tỉnh: Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở Hưng Yên rất đa dạng (chỉ sau Hà Nội) đặc trưng của vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Bộ. Có thể kể đến như: nhãn lồng Hưng Yên, bánh tẻ Phụng Công, miến rong Lại Trạch, bánh chưng chợ Đầu, canh cá rô đồng Hiệp Cường, giò bì phố Xuôi, vải trứng Phù Cừ, củ ấu Tiên Lữ, bánh khúc Văn Giang, bún tươi Thị Trung, hạt sen Hưng Yên, miến rong Phương Trù, tương Bần, mứt bí thôn Dâu, mọc nấu bóng Như Quỳnh, thịt chuột Nghĩa Trụ, bún thang lươn phố Hiến, nghệ Chí Tân, rượu Trương Xá, kẹo lạc, vải lai chín sớm Phù Cừ, gà Đông Tảo, đậu phụ An Vĩ, cá mòi sông Hồng, giò chả Đình Dù, nhãn Miền Thiết, cơm nắm Lạc Đạo, mứt táo làng Vị, chè con ong, chè hạt sen long nhãn, bưởi Hoàng, đường mật Kệ Châu, táo thiện phiến, long nhãn Hồng Nam, bún Viên Tiêu, nem chua Bình Lương, tôm cuốn Yên Vĩnh, bánh khoai chợ Đậu, củ niễng Hồng Châu, cam Văn Giang, bánh tro (âm) Văn Lâm, trà cúc hoa Nghĩa Trai, bánh dày giò Lạc Đạo, nếp thơm Yên Mỹ, ếch om Phượng Tường, dưa kiệu Tân Nhuế, chè kho Khoái Châu, giò chả Trai Trang, đậu nướng Xuân Lôi, bánh đa Trà Phương, vật vờ sông Hồng, thịt nướng Đình Dù, cá kho An Vĩ, mì gạo Nội Mai, bánh mì Việt Cường, cam Đồng Thanh, chả gà Tiểu Quan, bóng bì Tân Quang, nhãn Hương Chi, giò lây Hưng Yên, trà hạt é Nghĩa Trai, quất Văn Giang, bánh giò, cháo Hà Linh, ruốc Phú Thị, rượu Lạc Đạo, sấu Tuấn Dị, chuối tiêu hồng Khoái Châu, canh cá rô Hưng Yên, bún khô Nghĩa Giang, mứt Thiết Trụ, bánh cuốn Mễ Sở, mật ong hoa nhãn, bánh dày làng Gàu. Nghệ thuật chèo ở Hưng Yên. Nghệ thuật chèo được hình thành từ thế kỷ 10 tại Kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) dưới thời nhà Đinh. Ưu bà Phạm Thị Trân đã truyền dạy nghệ thuật chèo cho cung nữ và quân lính. Sau đó chèo phát triển rộng ra lãnh thổ Đại Cồ Việt (vùng châu thổ Bắc Bộ và các tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh trở ra). Vào thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã không cho phép biểu diễn chèo trong cung đình. Chèo trở về với nông dân, gắn liền với sinh hoạt đời sống, hội hè của người Việt. Nghệ thuật chèo Đồng bằng sông Hồng trở thành cái nôi chèo với Tứ chiếng chèo Đông, Đoài, Nam, Bắc. Chiếng Chèo là những phường Chèo hoạt động trong một vùng văn hóa, địa lý nhất định. Phong trào hát chèo xưa phân vùng chèo châu thổ sông Hồng thành 4 chiếng chèo Đông, chèo Đoài, chèo Nam, chèo Bắc với kinh đô Thăng Long - Hà Nội ở vị trí trung tâm. Mỗi chiếng có những ngón nghề riêng, kỹ thuật riêng, khó lưu truyền và phát triển ra đến bên ngoài do sự khác nhau trong phong cách nghệ thuật dựa trên cơ sở dân ca, dân vũ và văn hóa địa phương, chỉ người trong chiếng mới diễn được với nhau. Chiếng chèo Đông gồm khu vực các tỉnh Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh và 2 huyện Mỹ Hào, Ân Thi của Hưng Yên. Vùng này xưa là trấn Hải Đông. Chèo xứ Đông mang âm hưởng của ca trù, hát đúm và trống quân. Chiếng chèo Bắc gồm Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên, bắc Hà Nội và 2 huyện Văn Lâm, Văn Giang của Hưng Yên. Chiếng chèo Nam gồm khu vực nam Hà Nội và các tỉnh Hà Nam, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và 6 huyện phía nam Hưng Yên. Vùng này xưa là trấn Sơn Nam. Chèo xứ Nam mang âm hưởng của hát văn, hát xẩm, dân ca Hà Nam. Trung tâm của Hưng Yên thuộc chiếng chèo Nam nhưng một phần phía bắc lại thuộc chiếng chèo Bắc và một phần phía đông tỉnh thuộc chiếng chèo Đông và có một thời gian nơi đây sáp nhập với Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng. Do đặc tính đó mà nghệ thuật chèo ở Hưng Yên có sự giao thoa, mang cả âm hưởng chủ đạo của chiếu chèo Nam, ảnh hưởng nhiều bởi chiếu chèo Đông và ít hơn bảo chiếng chèo Bắc. Hưng Yên là đất chèo gốc, là cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong "Hý phường phả lục" thì có hai vị ở Hưng Yên. Vùng đất này đã sản sinh ra những nghệ sĩ nổi tiếng như các vị hậu tổ sân khấu chèo: Đào Văn Só (thời Đinh), Sái Ất (thời Lý) và Đào Thị Huệ (thời Lê). Các nghệ sĩ sau này như: Phạm Đình Nghị, NSND Hoa Tâm (Nhà hát Chèo Hà Nội), NSND Hoàng Lan (Đoàn Chèo Hải Phòng), NSND Tư Liêm (Nhà hát Chèo Việt Nam) và NSND Đinh Mạnh Phóng (Nhà hát Chèo Việt Nam) là những "cây đại thụ" trong làng chèo Việt Nam. Nhà hát Chèo Hưng Yên là đơn vị sự nghiệp công lập có thu trực thuộc Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch Hưng Yên. Đây là tổ chức nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh; có chức năng tổ chức biểu diễn, nghiên cứu, liên kết, hướng dẫn, truyền nghề về nghệ thuật chèo nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh, góp phần bảo tồn và phát triển nghệ thuật truyền thống của dân tộc. Du lịch. Với hơn 1.800 di tích và trên 500 lễ hội văn hóa truyền thống mang đậm nét văn hóa, phong tục Việt cùng với các giải pháp đồng bộ phát triển du lịch mang tầm chiến lược lâu dài, 175 di tích cấp quốc gia, hàng trăm làng nghề và làng nghề truyền thống. Hưng Yên đang dần trở thành một địa chỉ hấp dẫn du khách trong và ngoài nước đến với các khu, điểm du lịch của tỉnh như khu di tích qốc gia đặc biệt Phố Hiến (đền Mẫu, đền Trần, chùa Chuông, Văn miếu Xích Đằng...) gắn với phát triển du lịch đường sông; điểm du lịch di tích đền Đa Hoà - Dạ Trạch gắn với tour du lịch sông Hồng; điểm du lịch di tích đền Đậu An; cụm di tích quốc gia đình Đại Đồng, đình Đanh Xá; di tích đền Ghênh và chùa Nôm; khu đô thị sinh thái Ecopark, du lịch cộng đồng gắn với các làng nghề, sản phẩm nông nghiệp tiêu biểu... Qua từng năm, số lượng khách du lịch đến với Hưng Yên đều tăng lên đáng kể. Chỉ tính năm 2018, toàn tỉnh đón trên 900.000 lượt khách, tăng 13% so với năm 2017, trong đó khách quốc tế đạt 20.000 lượt, tăng 16% so với năm 2017, khách nội địa đạt 880.000 lượt. Riêng 6 tháng đầu năm 2019, số lượng khách du lịch đến với tỉnh đạt khoảng 670.000 lượt khách, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2018, cả năm ước đạt khoảng 1 triệu lượt khách, tăng khoảng 11%. Giao thông. Trên địa bàn Hưng Yên có các Quốc lộ sau chạy qua: Đường Tỉnh: Trong thời gian tới tỉnh Hưng Yên sẽ hình thành một số tuyến giao thông đường bộ và đường sắt mới như Đường tỉnh 381B ( Vành đai 3.5 Vùng thủ đô Hà Nội) dài 9,5km, Đường Vành đai 4 dài 19,3km, ĐT.382D ( đường gom vành đai 4) dài 17,7km, Đường kết nối di sản văn hóa du lịch sông Hồng dài 56km, ĐT.381C 10,5 km, ĐT.384B đi trùng cao tốc Chợ Bến - Yên Mỹ dài 10km, ĐT.386C( Đường Tân Phúc- Võng Phan giao ĐT.378) dài 28,1km, ĐT.379C... Đường thủy: Sông Hồng là ranh giới của Hưng Yên với các tỉnh, thành phía tây, dài 57 km. Sông Luộc là ranh giới với tỉnh Thái Bình dài 25 km. Sông Luộc và sông Hồng giao nhau tại địa phận thành phố Hưng Yên. Ngoài ra còn các sông nhỏ khác như: sông Sặt (sông Kẻ Sặt), sông Chanh, sông Cửu An (sông Cửu Yên), sông Tam Đô, sông Điện Biên... Hệ thống đại thủy nông Bắc Hưng Hải chủ yếu phục vụ tưới tiêu cho nông nghiệp của tỉnh này. Năm 2021, vận tải hành khách ước tính đạt 12,7 triệu lượt và 745,3 triệu lượt hành khách km luân chuyển. Năm 2021, vận tải hàng hóa ước tính đạt 30,5 triệu tấn và 1.095 triệu tấn luân chuyển. Danh nhân. Hưng Yên là vùng đất Địa Linh Nhân Kiệt, là nơi sinh ra nhiều người đỗ đạt, nhiều nhân vật tài giỏi được sử sách ca ngợi, nhân dân truyền tụng.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bắc Ninh là một tỉnh ở Việt Nam. Đây là tỉnh có diện tích nhỏ nhất cả nước, với vị trí nằm trong Vùng thủ đô Hà Nội, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng. Bắc Ninh là trung tâm của xứ Kinh Bắc xưa, với 44 làng quan họ cổ, là cái nôi của Dân ca Quan họ được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại sau nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên và cùng đợt với ca trù. Tỉnh cũng nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, Việt Nam. Năm 2022, Bắc Ninh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 22 về số dân số, với 2 thành phố, 2 thị xã và 4 huyện tổng cộng 1.488.250 người, xếp thứ tám về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ ba về GRDP bình quân đầu người., GRDP đạt 248.376 tỉ Đồng (tương ứng hơn 10,8 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 7.250 USD (tương ứng với 167 triệu đồng), tốc độ tăng trưởng GRDP 2022 đạt 7,39%. Địa lý. Vị trí và lãnh thổ. Bắc Ninh tiếp giáp với vùng trung du Bắc Bộ tại tỉnh Bắc Giang. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Bắc Ninh, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 30 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Bắc Ninh:. Trong quy hoạch xây dựng, tỉnh này thuộc vùng Thủ đô. Ngoài ra, Bắc Ninh còn nằm trên 2 hành lang kinh tế. Bắc Ninh là tỉnh với dân ca quan họ. Bắc Ninh là trung tâm xứ Kinh Bắc cổ xưa. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng 41 lễ hội đáng chú ý trong năm được duy trì. Trong đó có những lễ hội lớn như: hội chùa Dâu, Hội Lim, hội Đền Đô (Đền Lý Bát Đế - thờ 8 vị vua nhà Lý), hội đền Bà Chúa Kho. Bắc Ninh được biết đến là vùng đất với nghề tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian... nổi bật là những làn điệu dân ca quan họ. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Địa hình của tỉnh không hoàn toàn là đồng bằng mà xen kẽ là các đồi thấp có hướng dốc chủ yếu từ Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông, được thể hiện qua các dòng chảy bề mặt đổ về sông Đuống và sông Thái Bình. Vùng đồng bằng thường có độ cao phổ biến từ 3-7 m, địa hình trung du (thị xã Quế Võ và huyện Tiên Du) có một số dải đồi thấp độ cao không quá 200 m. Diện tích đồi núi chiếm tỷ lệ nhỏ (chiếm 0,53%) so với tổng diện tích, chủ yếu ở Quế Võ và Tiên Du. Thủy văn. Bắc Ninh có mạng lưới sông ngòi khá dày đặc, mật độ lưới sông khá cao, trung bình 1,0 - 1,2 km/km², có 3 sông lớn chảy qua gồm sông Đuống, sông Cầu và sông Thái Bình. Với hệ thống sông này nếu biết khai thác trị thủy và điều tiết nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tiêu thoát nước của tỉnh. Trong khi đó tổng lưu lượng nước mặt của Bắc Ninh ước khoảng 177,5 tỷ m3, trong đó lượng nước chủ yếu chứa trong các sông là 176 tỷ m3; được đánh giá là khá dồi dào. Cùng với kết quả thăm dò địa chất cho thấy trữ lượng nước ngầm cũng khá lớn, trung bình 400.000 m3/ngày, tầng chứa nước cách mặt đất trung bình 3–5 m và có bề dày khoảng 40 m, chất lượng nước tốt. Toàn bộ nguồn nước này có thể khai thác để phục vụ chung cho cả sản xuất và sinh hoạt trong toàn tỉnh, trong đó có các hoạt động của đô thị. Khí hậu. Bắc Ninh nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Có sự chênh lệch rõ ràng về nhiệt độ giữa mùa hè nóng ẩm và mùa đông khô lạnh. Sự chênh lệch đạt 15-16 °C. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. Lượng mưa trong mùa này chiếm 80% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.700 mm. Nhiệt độ trung bình: 23,3 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.530-1.776 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 79%. </ref> Tài nguyên, khoáng sản. Tài nguyên rừng không lớn, chủ yếu là rừng trồng. Tổng diện tích đất rừng là 661,26 ha phân bố tập trung ở Quế Võ (317,9 ha) và Tiên Du (254,95 ha). Tổng trữ lượng gỗ ước tính 3.279 m³, trong đó rừng phòng hộ 363 m³, rừng đặc dụng 2916 m³. Bắc Ninh nghèo về tài nguyên khoáng sản, chủ yếu chỉ có vật liệu xây dựng như: đất sét làm gạch, ngói, gốm, với trữ lượng khoảng 4 triệu tấn ở Quế Võ và Tiên Du, đất sét làm gạch chịu lửa ở thành phố Bắc Ninh, đá cát kết với trữ lượng khoảng 1 triệu tấn ở Thị Cầu - Bắc Ninh, đá sa thạch ở Vũ Ninh - Bắc Ninh có trữ lượng khoảng 300.000 m³. Ngoài ra còn có than bùn ở Yên Phong với trữ lượng 60.000 - 200.000 tấn. Lịch sử. Bắc Ninh hình thành lâu đời gắn liền với nền Văn minh sông Hồng. Luy Lâu từng là trung tâm tôn giáo cổ xưa nhất của Việt Nam, ngoài ra từng là trị sở Giao Chỉ. Từ hàng nghìn năm trước người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven sông Cầu, sông Dâu, sông Đuống, sông Ngũ Huyện Khê, sông Tiêu Vương sống chủ yếu bằng canh tác nông nghiệp kết hợp làm nghề thủ công. Hàng loạt di vật như trống đồng, dao găm, rìu, giáo, tấm che ngực, mảnh giáp bằng đồng với những hoa văn độc đáo được tìm thấy ở các di tích Lãng Ngâm, Đại Trạch, Quả Cảm, Đại Lai mảnh khuôn đúc trống đồng trong thành cổ Luy Lâu đã chứng tỏ người xứ Bắc rất tinh xảo trong nghề đúc đồng, chế tác các đồ trang sức, làm gốm. Những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh qua các huyền thoại ông Đùng, bà Đùng, ông khổng lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ; về Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ. Cùng với huyền thoại truyền thuyết là đậm đặc các di tích tiêu biểu như lăng mộ Kinh Dương vương, đền thờ Lạc Long Quân, Âu Cơ ở Thuận Thành. Thời kỳ Hồng Bàng, nước Văn Lang được chia làm có 15 bộ, bộ Vũ Ninh là vùng lãnh thổ thuộc phần lớn tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong thời Bắc thuộc, Giao Chỉ gồm có 10 huyện trong đó có huyện Luy Lâu. Luy Lâu đã từng là đô thị lớn, là trung tâm thương mại trong suốt thời kỳ dài từ cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ IX-X. Xung quanh Luy Lâu là các làng nông nghiệp, làng thủ công, làng buôn bán phát triển. Tại đây, tư tưởng Nho giáo và văn hoá Hán Đường đã được truyền bá liên tục vào Việt Nam. Trung tâm Luy Lâu là nơi đầu tiên có trường dạy chữ và văn hoá Hán ở Việt Nam. Ngoài ra Luy Lâu còn là trung tâm Phật giáo lớn và cổ xưa nhất của người Việt. Hệ thống di tích, chùa tháp quần tụ đậm đặc ở đây với trung tâm là chùa Dâu cùng nhiều nguồn di vật, tài liệu như tượng pháp, bia ký, bản khắc Cổ Châu Pháp Vân và lễ hội chùa Dâu - lễ hội Phật giáo lớn nhất trong đồng bằng Bắc Bộ với các nghi lễ Tân Phật, rước Tứ Pháp, rước nước chứng tỏ Luy Lâu là tổ đình của Phật giáo Việt Nam. Luy Lâu là không gian điển hình đan xen, hỗn dung tiếp xúc, biến đổi hội tụ và kết tinh văn hoá Việt Nam cổ với văn hoá Phật - Ấn, Nam Á và Trung Á, văn hoá Nho Lão (Trung Hoa - Đông Á) để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh Việt. Đến thời Ngô Quyền, Giao Châu gồm các vùng phía nam sông Hồng và sông Đuống, thuộc Hà Nội, Bắc Ninh, một phần Hưng Yên. Thời loạn 12 sứ quân, địa bàn Bắc Ninh là nơi chiếm đóng của 2 sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp và Lý Khuê với các căn cứ ở Tiên Du và Thuận Thành. Các vua thời Lý lập Phủ Thiên Đức (vốn là châu Cổ Pháp). Bắc Ninh là đất phát tích nhà Lý - triều đại khai mở ra nền văn minh Đại Việt gắn liền với tên tuổi của những nhân vật lịch sử - văn hoá kiệt xuất như: Lý Công Uẩn, Lý Nhân Tông, Lê Văn Thịnh. Đây là nơi vang vọng bài thơ Nam quốc sơn hà- bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Cuối thời Trần, cả nước có 24 đơn vị hành chính. Lộ Bắc Giang bao trùm Bắc Ninh và một phần Hà Nội, Bắc Giang ngày nay, gồm có 3 châu, lộ trực tiếp quản lý 2 huyện Siêu Loại và Gia Lâm. Châu Gia Lâm gồm 3 huyện: An Định (Gia Bình hiện nay), Tế Giang (Văn Giang hiện nay), Thiện Tài (Lương Tài hiện nay). Châu Vũ Ninh gồm 5 huyện: Tiên Du (Tiên Du hiện nay), Vũ Ninh (Võ Giàng hiện nay), Đông Ngàn (Từ Sơn và một phần Sóc Sơn thuộc Hà Nội hiện nay), Từ Sơn (Quế Võ hiện nay), Yên Phong (Yên Phong hiện nay). Châu Bắc Giang gồm 3 huyện Tân Phúc (Đa Phúc cũ, một phần Sóc Sơn hiện nay), Phật Thệ (Hiệp Hòa thuộc Bắc Giang hiện nay), Yên Việt (Việt Yên hiện nay). Năm 1490, vua Lê Thánh Tông cho định lại bản đồ cả nước, gồm 13 (đạo) xứ thừa tuyên. Vùng đất Bắc Ninh thuộc trấn (xứ) Kinh Bắc. Thời Minh Mạng, cả nước được chia thành 31 đơn vị hành chính: phủ Thừa Thiên là trung tâm, các trấn (tên đơn vị hành chính thời Hậu Lê và Tây Sơn) được đổi thành 30 tỉnh. Việc lập các tỉnh được thực hiện trong 2 đợt. Đợt đầu tiên vào năm 1831, Minh Mạng thực hiện chia các trấn phía bắc làm 18 tỉnh. Tỉnh Bắc Ninh được thành lập (nay là Bắc Ninh và Bắc Giang, một phần đất Hà Nội và Vĩnh Phúc này nay). Bắc Ninh là cửa ngõ của cố đô Thăng Long, là vùng đất trung chuyển giữa kinh đô xưa với miền địa đầu giáp giới Trung Quốc. Do có đường quốc lộ lên ải Bắc chạy qua, nên vị trí quân sự của Bắc Ninh cực kỳ hệ trọng. Chính vì thế, mùa xuân 1884, Pháp đánh thành Bắc Ninh hoàn thành gấp công cuộc thống trị và bảo hộ Việt Nam. Năm 1895, tách phủ Lạng Giang ra lập tỉnh Bắc Giang. Năm 1903, tách các huyện Đông Anh, Kim Anh, Đa Phúc nhập vào tỉnh Vĩnh Yên (từ năm 1977, 2 huyện Kim Anh và Đa Phúc hợp nhất thành huyện Sóc Sơn). Ngày 28 tháng 11 năm 1948, huyện Gia Lâm sáp nhập vào tỉnh Hưng Yên nhưng đến ngày 7 tháng 11 năm 1949 lại sáp nhập trở lại tỉnh Bắc Ninh. Năm 1960, huyện Văn Giang của Bắc Ninh được tách sang tỉnh Hưng Yên. Ngày 20 tháng 4 năm 1961, Quốc hội ban hành nghị quyết về việc mở rộng thành phố Hà Nội. Theo đó, tách toàn bộ huyện Gia Lâm gồm 15 xã: Giang Biên, Phúc Lợi, Thạch Bàn, Cự Khối, Trung Thành, Tiền Phong, Quyết Tiến, Quyết Thắng, Toàn Thắng, Quyết Chiến, Tân Hưng, Đại Hưng, Thừa Thiên, Quang Minh, Kim Lan) nhập vào thành phố Hà Nội.. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, tách thị trấn Yên Viên và 5 xã: Dương Hà, Đình Xuyên, Ninh Hiệp, Quang Trung, Tiền Phong thuộc huyện Từ Sơn; 2 xã Phù Đổng, Trung Hưng thuộc huyện Tiên Du; 2 xã Đức Thắng, Chiến Thắng thuộc huyện Thuận Thành để nhập vào huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội. Cùng vói đó, tách 5 xã Liên Hà, Vân Hà, Dục Tú, Đông Hội, Mai Lâm của huyện Từ Sơn nhập vào huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Vào năm 1963, tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập với tỉnh Bắc Giang thành tỉnh Hà Bắc; cùng lúc đó, 2 huyện Tiên Du và Từ Sơn hợp nhất thành huyện Tiên Sơn, 2 huyện Quế Dương và Võ Giàng hợp nhất thành huyện Quế Võ. Mặc dù không còn vị trí tỉnh lỵ như trước đây (lúc đó Bắc Giang trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Bắc), nhưng thị xã Bắc Ninh vẫn là một trung tâm kinh tế – xã hội quan trọng của Hà Bắc, nhất là trong mối quan hệ giao lưu với thủ đô Hà Nội.. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Bắc Ninh chính thức được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 10 ngày 06 tháng 11 năm 1996. Khi vừa tái lập, tỉnh Bắc Ninh có 6 đơn vị hành chính gồm thị xã Bắc Ninh (tỉnh lỵ) và 5 huyện Gia Lương, Quế Võ, Thuận Thành, Tiên Sơn, Yên Phong. Ngày 9 tháng 8 năm 1999, chia huyện Tiên Sơn thành hai huyện Tiên Du và Từ Sơn; chia huyện Gia Lương thành 2 huyện Gia Bình và Lương Tài. Ngày 26 tháng 1 năm 2006, chuyển thị xã Bắc Ninh thành thành phố Bắc Ninh. Ngày 24 tháng 9 năm 2008, chuyển huyện Từ Sơn thành thị xã Từ Sơn. Ngày 25 tháng 6 năm 2014, thành phố Bắc Ninh được công nhận là đô thị loại II và đến ngày 25 tháng 12 năm 2017 được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ngày 1 tháng 11 năm 2021, chuyển thị xã Từ Sơn thành thành phố Từ Sơn. Ngày 10 tháng 4 năm 2023, chuyển hai huyện Thuận Thành và Quế Võ thành hai thị xã có tên tương ứng. Tỉnh Bắc Ninh có 2 thành phố, 2 thị xã, 4 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Bắc Ninh có dân số năm 2022 là 1.488.250 người với 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 2 thành phố, 2 thị xã và 4 huyện với 126 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 52 phường, 4 thị trấn và 70 xã, tỷ lệ đô thị hóa năm 2023 đạt 60,34% - nằm trong top đầu các tỉnh phía Bắc Xã hội. Dân cư. Năm 2022, dân số Bắc Ninh là 1.488.250 người, chiếm 1,4% dân số cả nước và đứng thứ 22/63 tỉnh, thành phố, trong đó nam 732.045 người và nữ 756.205 người; khu vực thành thị 763.770 người, chiếm 60,3% dân số toàn tỉnh và khu vực nông thôn 724.480 người, chiếm 39,7%. Mật độ dân số Bắc Ninh năm 2022 đã lên tới 1.809 người/km², gần gấp 5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước và là địa phương có mật độ dân số cao thứ 3 trong số 63 tỉnh, thành phố, chỉ thấp hơn mật độ dân số của Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh.. Bắc Ninh có lực lượng lao động là 789.420 người, chiếm 53,04% tổng dân số. Tính đến năm 2022 Bắc Ninh có 60,34% dân số sống tại các đô thị (I, III, IV, V) với 898.010 người và 39,66% với 590.240 người sống ngoài đô thị. Mục tiêu của Bắc Ninh phù hợp với tiêu chí đô thị loại I trực thuộc trung ương. Trên địa bàn tỉnh hiện có nhiều dân tộc sinh sống, trong đó Kinh chiếm tuyệt đối đại đa số từ ngàn đời nay. Dưới đây là 3 dân tộc đông dân nhất là: Cũng giống như phần lớn các tỉnh khác tại Miền Bắc Việt Nam, Bắc Ninh có đại đa số cư dân "không tôn giáo". Theo thống kê năm 2019, số người theo có tôn giáo tại tỉnh Bắc Ninh là 43.573 người, tức chiếm 3,7% tổng dân số của tỉnh. Hiện nay, Bắc Ninh có 7 tôn giáo hoạt động là Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Minh Lý đạo,Phật giáo Hòa Hảo và Cao Đài. Bắc Ninh có 40 xứ đạo Công giáo hoạt động và tất cả các hoạt động Công giáo ở Bắc Ninh đều do Toà Giám mục Giáo phận Bắc Ninh chỉ đạo. Y tế - Phúc lợi xã hội. Y tế. Theo Tổng cục Thống kê Việt Nam thì năm 2010, Bắc Ninh có 217 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc sở Y tế, trong đó có 19 bệnh viện, 10 phòng khám khu vực và 186 trạm y tế.. Cùng với hệ thống y tế của nhà nước, cũng có một hệ thống bệnh viện, phòng khám tư nhân đang dần phát triển. Bắc Ninh hiện có các bệnh viện sau: Phúc lợi xã hội. Bắc Ninh là một trong những tỉnh đi đầu cả nước về chính sách an sinh, phúc lợi xã hội. Nổi bật là chính sách hỗ trợ người cao tuổi từ đủ 65 tuổi trở lên; hỗ trợ điện chiếu sáng cho thôn, khu phố; mở rộng đối tượng thụ hưởng chương trình Sữa học đường đến khối lớp 1 và lớp 2... góp phần nâng cao đời sống của người dân, tỷ lệ hộ nghèo giảm dần qua các năm, năm 2017 giảm hộ nghèo xuống còn 2,06%. Giáo dục. Trong lịch sử, Bắc Ninh là tỉnh có nhiều Trạng nguyên nhất Việt Nam dù rằng diện tích nhỏ nhất trong nước. Khoa thi đầu tiên là khoa Minh kinh bác học, và khoa thi Nho học với tên gọi Trạng nguyên chính thống lần đầu thì người khai khoa đều là người Bắc Ninh. Trong những kỳ thi Đình dưới các triều đại phong kiến, cả nước chọn được 47 Trạng nguyên và 2991 Tiến sĩ thì riêng Kinh Bắc đã có tới 17 Trạng nguyên và 622 Tiến sĩ. Riêng thôn Tam Sơn có 2 Trạng nguyên. Có 2 vị được đi sứ dự thi cùng các Nho sĩ Trung Quốc, được đỗ đầu trở thành Lưỡng quốc Trạng nguyên. Bắc Ninh là mảnh đất địa linh, nhân kiệt với câu vè mang tính ước lệ nói về các vị tài danh xứ Kinh Bắc: "Một giỏ ông Đồ/ Một bồ ông Cống/Một đống ông Nghè/ Một bè Tiến sỹ/Một bị Trạng nguyên/Một thuyền Bảng nhãn". Có những vị vừa là Thủ khoa Nho học vừa là Tể tướng như Nguyễn Đăng Đạo (Trạng nguyên - Tham tụng), Vũ Miên (Hội nguyên - Tham tụng, Quốc tử giám Tế tửu, Quốc sử quán Tổng tài). Có những dòng họ lưu giữ được truyền thống nhiều đời: dòng họ Vũ làng Lương Xá (Vũ Kính, Vũ Giới...), họ Vũ làng Xuân Lan (Vũ Miên, Vũ Tú...) Các Trạng nguyên người Bắc Ninh bao gồm Riêng bảng nhãn, thám hoa, tiến sĩ có rất nhiều. Đặc biệt Làng Kim Đôi có 25 vị trong đó, họ Nguyễn có 18 vị, họ Phạm có 7 vị (Theo Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa Việt Nam). Làng Tam Sơn là làng duy nhất của cả nước có đủ (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa). Sự nghiệp giáo dục - đào tạo phát triển toàn diện theo hướng bền vững. Công tác phổ cập giáo dục ở các cấp học tiếp tục được quan tâm và công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục – xóa mù chữ các cấp học ở mức độ cao nhất cả nước. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, hiện đại. Tỉnh Bắc Ninh đã và đang quy hoạch 3 làng Đại học: Năm 2008, toàn tỉnh có 18.293 học sinh tốt nghiệp Trung học phổ thông, thì có 19.380 lượt học sinh dự thi ĐH, với tổng điểm bình quân 3 môn thi ĐH là 12,85. Bắc Ninh xếp thứ 6 toàn quốc về tổng điểm bình quân 3 môn thi Giao thông. Bắc Ninh là tỉnh có hệ thống giao thông đa dạng, gồm cả đường bộ, đường sắt và đường sông. Trong đó, hệ thống đường bộ được đánh giá là tương đối đồng bộ so với các tỉnh khác trong cả nước. Hệ thống đường nội bộ các khu đô thi mới, khu công nghiệp trên đia bàn toàn tỉnh được đồng bộ hiện đại thích ứng được với quá trình đô thị hóa nhanh của các địa phương trong tỉnh, các tuyến này cũng được liên kết với nhau nhằm tạo lập hệ thống giao thông liên hoàn để việc vận chuyển hàng hóa thuận lợi hơn giảm áp lực giao thông cho các quốc lộ, tỉnh lộ trên địa bàn. Du lịch. Bắc Ninh hiện có hàng trăm di tích lịch sử văn hóa với nhiều đình, chùa, lễ hội và những làn điệu dân ca Quan họ. Bề dày lịch sử, văn hóa đã tạo cho Bắc Ninh tiềm năng phát triển du lịch văn hóa.. Bắc Ninh có 3 khu du lịch là: Khu du lịch văn hoá Quan họ Cổ Mễ (thành phố Bắc Ninh); khu du lịch văn hoá Đền Đầm (thành phố Từ Sơn); khu du lịch văn hoá Phật Tích (huyện Tiên Du). Bên cạnh đó, theo dự kiến sẽ có 3 khu du lịch khác là: Khu du lịch lâm viên Thiên Thai (huyện Gia Bình); khu du lịch văn hoá lịch sử Như Nguyệt (huyện Yên Phong); khu du lịch tâm linh Hàm Long - Núi Dạm (thành phố Bắc Ninh) và lựa chọn 22 điểm di tích quy hoạch phát triển thành điểm du lịch làm động lực cho các tuyến du lịch khép kín, liên hoàn và hấp dẫn trên địa bàn. Trong đó có một số di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu để hình thành các điểm, các tuyến du lịch hấp dẫn như Văn Miếu Bắc Ninh, chùa Phật Tích, lăng Kinh Dương Vương, chùa Dâu, chùa Bút Tháp, đền Đô, đền thờ Lê Văn Thịnh, Đền, chùa Cổ Lũng (xã Nội Duệ), Chùa Lim. Ngoài ra, còn có du lịch cộng đồng tại làng gốm Phù Lãng (thị xã Quế Võ), khu vực chùa Bút Tháp (thị xã Thuận Thành), làng Quan họ Viêm Xá (Thành phố Bắc Ninh), làng gỗ mĩ nghệ Đồng Kỵ . Văn hóa. Bắc Ninh có một nền văn hoá đặc sắc, một vùng quê có nhiều di tích lịch sử văn hoá, lễ hội dân gian, làng nghề truyền thống. Những dấu ấn lịch sử sống động truyền thống văn hoá Việt Nam, đậm đà bản sắc Kinh Bắc, được kết tinh trong những di sản văn hoá, các lễ hội dân gian. Bắc Ninh là địa phương thứ 3 xây dựng văn miếu có tầm cỡ, quy mô, trang trọng. Văn miếu Bắc Ninh với 677 vị đại khoa, chiếm 1/3 tổng số vị đại khoa của cả nước đã được vinh danh. Văn miếu Bắc Ninh với những trang lịch sử văn hóa, giáo dục còn lưu giữ được cho đến ngày nay là những cứ liệu vô cùng giá trị của nền văn minh ở vùng Kinh Bắc, nơi có thành cổ Luy Lâu, nơi Sĩ Nhiếp truyền bá Hán học. Chùa Dâu, Chùa Phật Tích, Chùa Bút Tháp là những nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam, Chùa Dận. Bắc Ninh với các làn điệu quan họ, các làng nghề như làng tranh Đông Hồ, làng gốm Phù Lãng, gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ, rèn sắt Đa Hội, đúc đồng Đại Bái, dệt Hồi Quan. Các di tích lịch sử đáng kể có Lăng và đền thờ Kinh Dương Vương - thờ Thủy Tổ Việt Nam, đền Đô - thờ tám vị vua triều Lý, đền Phụ Quốc, đình làng Đình Bảng, chùa Cổ Lũng v.v... Bắc Ninh có một số đặc sản như bánh phu thê Đình Bảng, bánh tẻ làng Chờ, bánh khúc làng Diềm, nem Bùi (Ninh Xá), rượu nếp làng Cẩm, cháo cá Bắc Ninh, tương Đình Tổ, bánh tro. Các nghề có truyền thống lâu đời như tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, khắc gỗ, làm giấy, tranh vẽ dân gian. Tính đến ngày 05/12/2015 Bắc Ninh đã nhận 3 danh hiệu UNESCO Việt Nam đó là: Lễ hội. Hàng năm, trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh diễn ra hơn 300 lễ hội lớn nhỏ khác nhau. Một số lễ hội tiêu biểu được liệt kê dưới đây (Theo âm lịch): Di tích, di sản văn hóa. Bắc Ninh có khoảng 1600 di tích lịch sử văn hoá, trong đó có 651 di tích được xếp hạng (trong đó có 204 di tích xếp hạng cấp Quốc gia, 4 di tích Quốc gia đặc biệt, 443 di tích xếp hạng cấp tỉnh), 17 bảo vật quốc gia. Là tỉnh có nhiều di tích cấp quốc gia chỉ sau thành phố Hà Nội. Điều đặc biệt ở Bắc Ninh là tín ngưỡng thờ Thánh Tam Giang rất phổ biến với vài trăm làng thờ, tập trung nhiều ở các làng quan họ ven sông Cầu. Di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu nhất ở Bắc Ninh là dân ca Quan họ Bắc Ninh đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc xếp vào Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Làng nghề truyền thống. Bắc Ninh với nhiều làng nghề truyền thống có tuổi đời hàng trăm năm, đã làm ra những sản phẩm thủ công tinh xảo, độc đáo. Hiện nay, Bắc Ninh có 62 làng nghề, chủ yếu trong các lĩnh vực như đồ gỗ mỹ nghệ xuất khẩu, sản xuất giấy, gốm, sắt, thép tái chế, đúc đồng. Các làng nghề đã góp phần rất lớn trong việc giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân trong tỉnh (trên 72.000 lao động thường xuyên và trên 10.000 lao động thời vụ). Ẩm thực. Món ăn đặc trưng địa phương của tỉnh không có nhiều nhưng cũng ấn tượng: bánh đa thôn Đoài, bánh tro (âm) Đình Tổ, bánh khoai Thị Cầu, đậu gù Trà Lâm, bún tươi Khắc Niệm, tỏi An Thịnh, bánh xu xê Đình Bảng, gà Hồ, bánh tẻ Chờ, giò chả Tân Hồng, cà rốt Gia Lương, thịt chuột Đình Bảng, kẹo lạc, cháo thái Đình Tổ, khoai tây Quế Võ, rượu nếp làng Cẩm, phở gan cháy Đáp Cầu, kẹo cốm Lũng Giang, bánh đa nem Yên Phụ, mì gạo Tử Nê, bánh cuốn Mão Điền, rượu Đại Lâm, tương Đình Tổ, nem Bùi, bánh khúc làng Diềm. Môi trường. Ô nhiễm môi trường làng nghề ở Bắc Ninh đang ở mức độ nghiêm trọng đặc biệt ở 4 làng nghề trọng điểm là giấy Phong Khê, sắt thép Đa Hội, nhôm Văn Môn, đồng Đại Bái. Ngoài ra, một số công ty trong các khu công nghiệp cũng gây ô nhiễm như công ty Kingmo New Materials (khu công nghiệp Tiên Sơn). Ô nhiễm đang ảnh hưởng lớn tới tới đời sống, sức khỏe của người dân và công nhân việc ô nhiễm xảy ra ngay tại từng thôn xóm của Bắc Ninh. Tuy nhiên điều này vẫn chưa được các cấp chính quyền quan tâm đúng mức. Thể thao. Bắc Ninh có Câu lạc bộ bóng chuyền Kinh Bắc Bắc Ninh là đội bóng chuyên nghiệp đang thi đấu tại Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thượng Hải (chữ Hán: 上海, bính âm: "Shànghǎi") là thành phố lớn nhất Trung Quốc về dân số và là thành phố không bao gồm vùng ngoại ô lớn nhất thế giới. Thượng Hải nằm ở bờ biển phía Đông của Trung Quốc và là một trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của nước này. Diện tích: 6.340,5 km². Năm 2018, Thượng Hải là đơn vị hành chính đông thứ 25 về số dân với 27 triệu dân, tương đương với Cameroon và đứng thứ 11 về kinh tế Trung Quốc với GDP đạt 3.82 tỉ NDT (550 tỉ USD) tương ứng với Thái Lan. Thượng Hải có chỉ số GDP đầu người đứng thứ hai Trung Quốc, chỉ sau Bắc Kinh, đạt 137.000 NDT (tương đương 20.130 USD). Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc. Ngày nay, Thượng Hải có hải cảng sầm uất nhất thế giới, hơn cả cảng Singapore và Rotterdam. Xuất phát là một làng chài hẻo lánh, Thượng Hải đã trở thành một thành phố quan trọng bậc nhất cho đến Thế kỷ XX, và là trung tâm văn hóa phổ thông, các mưu đồ chính trị và nơi tụ họp của giới trí thức trong thời kỳ Trung Hoa dân quốc. Thượng Hải đã từng một thời là trung tâm tài chính lớn thứ 3 thế giới, chỉ xếp sau Thành phố New York và Luân Đôn, và là trung tâm thương mại lớn nhất Viễn Đông cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Sau khi Mao Trạch Đông cầm quyền Trung Quốc kể từ năm 1949, Thượng Hải đã đi vào thời kỳ sụt giảm tốc độ phát triển do chế độ thuế má cao và do sự triệt thoát kinh tế tư bản của chính quyền mới. Nhờ sự cải cách, mở cửa theo mô hình kinh tế thị trường do Đặng Tiểu Bình khởi xướng và lãnh đạo mà đặc biệt là từ năm 1992, Thượng Hải đã có những bước bứt phá ngoạn mục về phát triển kinh tế và nhanh chóng vượt qua Thâm Quyến và Quảng Châu - một thành phố đặc khu được tự do hóa sớm nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để trở thành đầu tàu kinh tế Trung Quốc. Vẫn còn nhiều thách thức cho thành phố này đầu thế kỷ XXI như nạn di dân ồ ạt và sự phân hóa giàu nghèo. Tuy nhiên, bất chấp những thách thức đó, các khu nhà chọc trời và cuộc sống đô thị sôi động của Thượng Hải vẫn là biểu tượng cho sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc. Nguồn gốc tên gọi. Dân Thượng Hải đọc tên thành phố là , phiên âm pinyin theo tiếng Quan Thoại là "Shànghǎi". Thượng Hải (Thượng là trên, Hải là biển) là cái tên xuất phát từ thời Nhà Tống (thế kỷ XI) - lúc này đã có một cửa sông và một thị trấn cùng tên gọi. Nghĩa của tên gọi đang là vấn đề gây tranh cãi "phía trên biển" hoặc "đi ra biển". Người Việt Nam gọi là "Thượng Hải"; Người Đức viết là "Schanghai", tiếng Hà Lan là "Sjanghai", tiếng Bồ Đào Nha là "Xangai", tiếng Pháp là "Shanghaï". Tuy nhiên, kể từ những năm 1990, phiên âm pinyin "Shanghai" đã được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Tiếng Nhật viết tên thành phố gần với cách đọc trong Quan Thoại là シャンハイ "shanhai". Tên viết tắt của thành phố là "Hỗ" /"Hộ" (滬/沪) và "Thân" (申). Tên đất Hỗ/Hộ do tên cổ Hỗ/Hộ Độc (滬瀆/沪渎) của con sông Tô Châu. Tên Thân lấy tên theo Xuân "Thân" quân (春申君), một viên quan thời nước Sở vào thế kỷ III Trước Công Nguyên - Xuân Thân là một anh hùng thời đó của nước Sở (trong lãnh thổ đó có đất Thượng Hải bây giờ). Do vậy Thượng Hải còn được gọi là "Thân Thành" (申城). Trong tiếng Anh thành phố này có nhiều biệt danh: "Paris phương Đông", "Nữ hoàng phương Đông", "Hòn ngọc phương Đông" và thậm chí cả "Gái điếm châu Á" (gọi trong thời kỳ 1920-1930, lúc đó thành phố là một trung tâm tội phạm, ma túy và mại dâm). Lịch sử. Trước khi thành lập thành phố Thượng Hải, Thượng Hải là một phần của huyện Tùng Giang (松江縣), thuộc phủ Tô Châu (蘇州府). Từ thời Nhà Tống (960-1279), Thượng Hải dần trở thành một hải cảng sầm uất, vượt lên trên vai trò chính trị là một địa phương thuộc huyện. Ngày nay, Tùng Giang (淞江) là 1 quận thuộc thành phố Hà Nội Một bức tường thành được xây dựng năm 1553 - thời điểm được xem như bắt đầu hình thành thành phố Thượng Hải. Tuy nhiên, trước thế kỷ XIX, Thượng Hải không được xem là thành phố lớn của Trung Hoa. Do đó, so với phần lớn các thành phố khác của Trung Quốc, có rất ít công trình cổ tiêu biểu ở thành phố này ngày nay. Một vài địa điểm văn hóa ít ỏi có thể thấy ở Thượng Hải ngày nay rất cổ kính và tiêu biểu thời Tam Quốc do địa điểm này nằm trong trung tâm văn hóa lịch sử của nước Đông Ngô (222-280). Trong thời kỳ Càn Long thời Nhà Thanh, Thượng Hải đã trở thành một cảng khu vực quan trọng của khu vực sông Trường Giang và sông Hoàng Phố. Thành phố cũng trở thành hải cảng chính của các tỉnh Giang Tô và Triết Giang gần đấy dù trao đổi mậu dịch với nước ngoài thời kỳ này bị triều đình cấm. Một khu vực lịch sử quan trọng của thời kỳ này là Ngũ Giác Trường (五角场) (ngày nay là quận Dương Phố) - là nền tảng của trung tâm thành phố. Khoảng cuối thời Càn Long, Thập Lục Phố (ngày nay là quận Hoàng Phố) trở thành cảng lớn nhất Đông Á. Thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Tầm quan trọng của Thượng Hải tăng lên nhanh chóng vào thế kỷ XIX do vị trí chiến lược của thành phố này ở cửa sông Dương Tử khiến cho nó có vị trí lý tưởng để buôn bán với phương Tây. Trong cuộc chiến tranh nha phiến thứ nhất vào đầu thế kỷ XIX, các lực lượng của Anh đã tạm thời chiếm giữ Thượng Hải. Cuộc chiến kết thúc năm 1842 với hòa ước Nam Kinh với kết quả là các cảng nhượng quyền trong đó có Thượng Hải, mở cửa cho các nước buôn bán. Hiệp ước Bogue được ký năm 1843 và Hiệp ước Wangsia Trung-Mỹ ký năm 1844 khiến cho phương Tây giành được có đặc quyền ngoại giao trên đất Trung Hoa và chính thức tồn tại cho đến năm 1943 nhưng về bản chất không còn tồn tại từ cuối những năm 1930. Từ những năm 20 đến cuối những năm 30 của thế kỷ XX, Thượng Hải được gọi là thành phố tội phạm. Các băng nhóm chiếm giữ quyền lực và điều hành các sòng bạc và các nhà thổ. Thái Bình Thiên Quốc nổ ra năm 1850 và năm 1853 Thượng Hải bị chiếm giữ bởi hội Tam Hoàng gọi là Tiểu Đao hội (Small Swords Society). Các cuộc thanh trừng phá hủy các miền quê nhưng không đụng chạm đến các khu định cư của phương Tây. Mặc dù trước đó người Hoa bị cấm sống trong các khu định cư của người nước ngoài, năm 1854 các quy định mới đã cho phép người Hoa được đến ở. Giá đất tăng lên đáng kể. Trong năm 1854, cuộc họp thường niên đầu tiên của Hội đồng thành phố Thượng Hải đã họp, Hội đồng này được tạo ra để quản lý các khu định cư của dân ngoại quốc. Năm 1863, khu định cư của Anh, tọa lạc dọc theo bờ Tây sông Hoàng Phố đến phía nam nhánh sông Tô Châu (quận Hoàng Phố) và khu định cư người Mỹ tọa lạc ở bờ Tây sông Hoàng Phố đến phía Bắc của nhánh sông Tô Châu (quận Hán Khẩu) sáp nhập với nhau thành Khu định cư quốc tế. Người Pháp chọn lựa phương án ra khỏi Hội đồng thành phố Thượng Hải và thay vào đấy là duy trì Khu nhượng địa Pháp, tọa lạc ở phía Tây của Khu định cư quốc tế. Thời kỳ này có một lượng lớn dân di cư từ châu Âu và Bắc Mỹ, những người tự gọi mình là "Shanghighlanders". Chiến tranh Thanh-Nhật nổ ra năm 1894-1895 với kết quả là đế quốc Nhật Bản giành quyền kiểm soát bán đảo Triều Tiên theo hiệp ước Shimonoseki, cùng với đó nước này nổi lên như là một cường quốc đóng vai trò đầu tư kinh tế cho Thượng Hải. Nhật Bản đã xây dựng các nhà máy đầu tiên ở Thượng Hải, vốn đã sớm được sao chép bởi các cường quốc nước ngoài khác. Thượng Hải lúc đó là trung tâm tài chính quan trọng nhất ở Viễn Đông. Tất cả hoạt động quốc tế này đã mang lại cho Thượng Hải biệt danh "Athens của Trung Quốc". Dưới thời Trung Hoa Dân Quốc (1912-1949), Thượng Hải đã được nâng lên thành đô thị vào ngày 14 tháng 7 năm 1927. Mặc dù các nhượng địa bị loại khỏi tầm kiểm soát của họ, đô thị Trung Quốc mới này vẫn có diện tích 828,8 km vuông (320,0 dặm vuông)), bao gồm các quận hiện đại của Bảo Sơn, Yangpu, Zhabei, Nanshi và Phố Đông. Do một thị trưởng và hội đồng thành phố Trung Quốc đứng đầu, nhiệm vụ đầu tiên của chính quyền thành phố mới là tạo ra một trung tâm thành phố mới ở thị trấn Jiangpu của quận Yangpu, bên ngoài ranh giới của các nhượng địa. "Kế hoạch Đại Thượng Hải" bao gồm bảo tàng, thư viện, sân vận động thể thao và hội trường thành phố, được xây dựng một phần đến khi kế hoạch bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược của Nhật Bản. Thời chiến. Ngày 28 tháng 1 năm 1932, quân Nhật nổ súng xâm lược Thượng Hải. Chính quyền Trung Quốc chống cự, chiến đấu bế tắc; một cuộc ngừng bắn đã được môi giới vào tháng Năm. Trận Thượng Hải (1937) đã dẫn đến việc chiếm đóng các bộ phận quản lý của Trung Quốc ở Thượng Hải ngoài khu định cư quốc tế và nhượng địa Pháp. Các nhượng địa cuối cùng đã bị chiếm đóng bởi người Nhật vào ngày 8 tháng 12 năm 1941 và vẫn bị chiếm đóng cho đến khi Nhật Bản đầu hàng vào năm 1945, trong thời gian đó nhiều tội ác chiến tranh của binh sĩ Nhật đã xảy ra. Ngày 27 tháng 5 năm 1949, Quân đội Giải phóng Nhân dân nắm quyền kiểm soát Thượng Hải. Theo Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới (PRC), Thượng Hải là một trong ba thành phố không sáp nhập vào các tỉnh lân cận trong thập kỷ tới (những nơi khác là Bắc Kinh và Thiên Tân). Thượng Hải trải qua một loạt các thay đổi trong ranh giới các phân khu của nó trong thập kỷ tới. Sau năm 1949, hầu hết các công ty nước ngoài chuyển văn phòng của họ từ Thượng Hải sang Hồng Kông, như là một phần của việc thoái vốn nước ngoài do chiến thắng của Cộng sản. Thời hiện đại. Trong những năm 1950 và 1960, Thượng Hải trở thành trung tâm chủ nghĩa cực đoan từ khi nó là trung tâm công nghiệp của Trung Quốc với hầu hết các công nhân lành nghề. Người chủ nghĩa cánh tả cực đoan Giang Thanh và ba đồng minh của bà, cùng với tứ nhân bang, có trụ sở tại thành phố. Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ hỗn loạn nhất của Cách mạng Văn hóa, Thượng Hải vẫn có thể duy trì năng suất kinh tế cao và ổn định xã hội tương đối. Trong phần lớn lịch sử của CHND Trung Hoa, Thượng Hải là một thành phố đóng góp tương đối lớn về thu thuế cho chính quyền trung ương, Thượng Hải vào năm 1983 đã đóng góp nhiều hơn vào doanh thu thuế cho chính quyền trung ương so với lúc đã nhận được khoản đầu tư trong 33 năm trước đó. Điều này dẫn đến chi phí của phúc lợi tàn phá nghiêm trọng của người Thượng Hải và phát triển cơ sở hạ tầng và vốn của Thượng Hải. Thượng Hải cuối cùng đã được phép khởi xướng cải cách kinh tế vào năm 1991, bắt đầu sự phát triển lớn vẫn được thấy ngày nay và sự ra đời của Lujiazui (Lục Gia Chủy) ở Phố Đông. Các đơn vị hành chính. "Xem thêm "Danh sách các đơn vị hành chính Thượng Hải" Thượng Hải là một trong 4 thành phố trực thuộc Trung ương ("trực hạt thị") và gồm 16 quận ("thị hạt khu"). Thượng Hải không có quận nào độc chiếm vị thế trung tâm thành phố, mà khu vực trung tâm trải ra vài quận. Các khu vực kinh doanh có tiếng là Lục Gia Chủy (陆家嘴; Lujiazui) bên bờ đông sông Hoàng Phố, Bund tức Ngoại Than (外灘; Wàitān) và Hồng Kiều (虹桥) ở bờ tây sông Hoàng Phố. Tòa thị chính và các cơ quan hành chính chủ yếu nằm ở quận Hoàng Phố. Đây cũng là khu vực thương mại, kể cả đường Nam Kinh ("Nam Kinh lộ") nổi tiếng. Chín quận thuộc Phố Tây, khu vực Thượng Hải lâu đời, nằm phía bờ tây sông Hoàng Phố. Chín quận này được gọi chung là "Thượng Hải thị khu" (上海市区) hay trung tâm thành phố (市中心), gần đây Phố Tây chỉ còn 7 quận sau sáp nhập: Phố Đông (浦东) là khu vực mới khai phá của Thượng Hải thuộc bờ đông sông Hoàng Phố, có quận mới Phố Đông (浦东新区 Pǔdōng Xīn Qū, "Phố Đông tân khu"), từ năm 1992 trở về trước vẫn còn là huyện Xuyên Sa. Tám quận của Thượng Hải bao quát các thành phố cấp huyện vệ tinh, các vùng ngoại ô và nông thôn cách xa trung tâm thành phố: Đảo Sùng Minh nằm ở cửa sông Trường Giang là địa bàn huyện Sùng Minh (崇明县 Chóngmíng Xiàn). Tính đến năm 2003, Thượng Hải có 220 đơn vị hành chính cấp hương: 114 "trấn", 3 "hương" và 103 "nhai đạo". Địa lý. Thượng Hải nằm trên bờ biển phía đông thuộc miền Hoa Đông của Trung Quốc, là cầu nối quan trọng giữa thủ đô Bắc Kinh ở Hoa Bắc và Quảng Châu ở Hoa Nam. Thượng Hải nằm cách Bắc Kinh khoảng 1.207 km và Quảng Châu khoảng 1.450 km. Thành phố cổ (phố Tây) và trung tâm thương mại hiện đại Thượng Hải (phố Đông) hiện đang nằm ở trung tâm bán đảo đang mở rộng giữa đồng bằng sông Dương Tử ở phía Bắc và vịnh Hàng Châu về phía nam, được hình thành bởi sự bồi tụ tự nhiên của Dương Tử và các dự án cải tạo đất hiện đại. Khu đô thị Thượng Hải quản lý cả khu vực phía đông bán đảo này và nhiều hòn đảo xung quanh. Phía Bắc và Tây giáp tỉnh Giang Tô, phía nam giáp tỉnh Chiết Giang và phía đông là biển Hoa Đông. Điểm cực bắc của thành phố này nằm ở đảo Sùng Minh, là hòn đảo lớn thứ hai ở Trung Hoa đại lục sau khi nó được mở rộng trong thế kỷ 20. Về mặt hành chính, đô thị này không bao gồm một phần tách rời của Giang Tô ở phía bắc Sùng Minh hoặc hai hòn đảo tạo thành cảng Dương Sơn, là một phần của quận Thặng Tứ thuộc Chiết Giang. Trung tâm thành phố Thượng Hải bị chia cắt bởi sông Hoàng Phố, một chi lưu do con người tạo ra của sông Dương Tử theo lệnh của Xuân Thân quân trong thời kỳ Chiến Quốc. Trung tâm lịch sử của thành phố nằm ở bờ phía tây của Hoàng Phố (Puxi), gần cửa sông Tô Châu, kết nối nó với Thái Hồ và Đại Vận Hà. Khu tài chính trung tâm Lục Gia Chủy đã lớn lên ở bờ phía đông của Hoàng Phố. Việc phá hủy các vùng đất ngập nước địa phương do xây dựng Sân bay Quốc tế Phố Đông đã được bù lại bởi sự bảo vệ và mở rộng bãi cạn gần đó là Jiuduansha như một cách bảo tồn thiên nhiên. Vị trí của Thượng Hải trên đồng bằng phù sa với diện tích đất rộng 6.340,5 km2 (2,448.1 dặm vuông) phẳng, với độ cao trung bình là 4 m (13 ft). Tính chất đất đai của thành phố đã buộc các tòa nhà chọc trời của nó phải được xây dựng với cọc bê tông sâu để ngăn chặn chúng từ chìm vào mặt đất mềm của khu vực trung tâm. Một vài ngọn đồi như Sheshan nằm về hướng tây nam và điểm cao nhất là đỉnh của đảo Dajinshan ở vịnh Hàng Châu (103 m hay 338 ft). Thành phố có nhiều sông, kênh rạch, suối và hồ và được biết đến với nguồn tài nguyên nước phong phú như một phần của khu vực thoát nước Thái Hồ. Khí hậu. Thượng Hải có khí hậu cận nhiệt đới ẩm (Köppen Cfa) và trải qua bốn mùa rõ rệt. Mùa đông lạnh và ẩm ướt, với gió tây bắc từ Siberia có thể khiến nhiệt độ ban đêm rơi xuống dưới 0 °C (32 °F), mặc dù trong năm chỉ có một hoặc hai ngày tuyết rơi. Mùa hè nóng và ẩm, với trung bình 8,7 ngày vượt quá 35 °C (95 °F) hàng năm; những trận mưa nhỏ hoặc những trận bão có thể xảy ra. Thành phố cũng dễ bị ảnh hưởng bởi bão vào mùa hè và đầu mùa thu, nhưng trong những năm gần đây đã không gây ra thiệt hại đáng kể. Những mùa dễ chịu nhất là mùa xuân, mặc dù có thể thay đổi và thường có mưa, và mùa thu, thường có nắng và khô. Thành phố có nhiệt độ trung bình 4.2 °C (39.6 °F) vào tháng Giêng và 27.9 °C (82.2 °F) vào tháng 7, với mức trung bình hàng năm là 16.1 °C (61.0 °F). Với mức ánh sáng mặt trời hàng tháng có thể thay đổi, từ 34% vào tháng Ba đến 54% vào tháng Tám, thành phố này nhận được 1,895 giờ ánh nắng mặt trời hàng năm. Nhiệt độ cực hạn là từ -10,1 °C (14 °F) ngày 31 tháng 1 năm 1977 (kỷ lục không chính thức -12,1 °C (10 °F) được ấn định vào ngày 19 tháng 1 năm 1893) lên 39,9 °C (104 °F) vào ngày 6 và ngày 8 tháng 8 năm 2013. Một kỷ lục nhiệt độ cao nhất khác là 40,9 °C (106 °F) đã được ghi nhận tại Xujiahui, một ga trung tâm thành phố vào ngày 21 tháng 7 năm 2017. Nhân khẩu. Ngôn ngữ. Tiếng mẹ đẻ của dân Thượng Hải là tiếng Thượng Hải, một phương ngữ của Ngô ngữ trong khi ngôn ngữ chính thức là tiếng Quan Thoại. Tiếng Thượng Hải và tiếng Quan Thoại khác nhau và thông thường dân Bắc Kinh không thể trò chuyện với dân Thượng Hải thông qua tiếng Thượng Hải. Tiếng Thượng Hải ngày nay là một phương ngữ của Ngô ngữ nói ở Tô Châu với các phương ngữ của Ninh Ba và các vùng phụ cận có dân nhập cư vào Thượng Hải với số lượng lớn vào thế kỷ XX. Gần như toàn bộ dân Thượng Hải dưới 40 tuổi có thể nói tiếng Quan Thoại thông thạo. Dân cư có thể nói ngoại ngữ phân bố không đều. Những người tốt nghiệp đại học trước cách mạng và những người làm cho các công ty nước ngoài có thể nói tiếng Anh. Những người dưới 26 tuổi đã có tiếp xúc với tiếng Anh kể từ tiểu học do tiếng Anh được bắt đầu dạy ở lớp 1. Dân số. Theo điều tra dân số năm 2010 của Trung Quốc, Thượng Hải có tổng dân số 23.019.148 người, mức tăng 37,53% từ 16.737.734 người năm 2000. 20,6 triệu dân trong đó, hay 89,3%, là dân thành thị và 2,5 triệu dân (10,7%) là dân nông thôn. Theo tổng dân số trong khu vực hành chính, Thượng Hải là thành phố trực thuộc trung ương lớn thứ nhì trong 4 thành phố trực thuộc trung ương của Trung Quốc, sau Trùng Khánh, nhưng Thượng Hải được xem là thành phố lớn hơn vì Trùng Khánh có dân số đô thị ít hơn. Tôn giáo. Do lịch sử quốc tế của nó, Thượng Hải có một sự pha trộn của di sản tôn giáo như được hiển thị bởi các tòa nhà tôn giáo và các tổ chức vẫn còn rải rác xung quanh thành phố. Theo khảo sát năm 2012, chỉ có khoảng 13% dân số Thượng Hải thuộc về các tôn giáo có tổ chức, nhóm lớn nhất là Phật tử với 10,4%, tiếp theo là Tin lành với 1,9%, Công giáo với 0,7% và các tín ngưỡng khác với 0,1%. Khoảng 87% dân số có thể là không tôn giáo hoặc tham gia vào việc thờ phượng các vị thần và tổ tiên của thiên nhiên, các nhà thờ Nho giáo, Đạo giáo và các giáo phái dân gian. Có những ngôi đền tôn giáo dân gian như Đền Thành hoàng ở trung tâm của thành phố cổ, và một ngôi đền dành riêng cho danh tướng nổi tiếng thời Tam Quốc Quan Vũ. Bạch Vân Quán của Thượng Hải là một trung tâm Đạo giáo quan trọng trong thành phố. Các Văn miếu là dành riêng cho Khổng Tử. Phật giáo, giống như nhiều nơi khác ở Trung Quốc, đã có mặt tại Thượng Hải từ thời xa xưa. Đền Long Hoa, ngôi đền lớn nhất ở Thượng Hải, và đền Jing'an, lần đầu tiên được thành lập trong thời kỳ Tam Quốc. Một ngôi đền quan trọng khác là Chùa Phật Ngọc, được đặt tên theo một bức tượng Phật lớn được chạm khắc trên ngọc bích trong đền thờ. Trong những thập kỷ gần đây, hàng chục ngôi chùa hiện đại đã được xây dựng khắp thành phố. Hồi giáo đến Thượng Hải 700 năm trước và một nhà thờ Hồi giáo được xây dựng vào năm 1295 ở Tùng Giang, Thượng Hải. Năm 1843, trường cao đẳng của một giáo viên cũng được thành lập. Hiệp hội Hồi giáo Thượng Hải nằm ở nhà thờ Hồi giáo Xiaotaoyuan ở Hoàng Phố. Thượng Hải có một trong những tỷ lệ người Công giáo lớn nhất ở Trung Quốc (2003). Trong số các nhà thờ Công giáo, Nhà thờ St Ignatius (thánh Inhaxiô) ở Từ Gia Hối (Xujiahui) là một trong những nhà thờ lớn nhất, trong khi thánh đường She Shan (Xà sơn) là một địa điểm hành hương tích cực. Các hình thức Kitô giáo khác ở Thượng Hải bao gồm thiểu số Đông Chính thống giáo và, từ năm 1996, đã đăng ký các nhà thờ Tin lành Kitô giáo. Trong Thế Chiến II, hàng ngàn người Do Thái đã xuống Thượng Hải trong một nỗ lực để chạy trốn chế độ của Hitler. Người Do Thái sống cạnh nhau trong một khu vực được gọi là Thượng Hải Ghetto và thành lập một cộng đồng sôi động tập trung vào Giáo đường Do thái Ohel Moishe, được bảo tồn phần còn lại của quá khứ tôn giáo phức tạp của Thượng Hải. Cảnh quan thành phố. Tháp truyền hình Minh Châu. Tháp truyền hình Minh Châu (Hán tự: 明珠, nghĩa là "viên ngọc sáng") là tháp truyền hình cao thứ ba thế giới - sau tháp truyền hình ở Toronto (Canada) và Moskva (Nga) - nó cao tới 468 mét. Mặc dù vậy, khách chỉ có thể tham quan từ độ cao 350 mét trở xuống. Tháp có hệ thống thang máy rất nhanh (10 m/s). Ở độ cao 263 mét là một khu sân hình tròn. Đây là nơi để du khách ngắm toàn cảnh Thượng Hải. Tháp Thượng Hải. Tháp Thượng Hải là một tòa nhà chọc trời tọa lạc tại Lục Gia Chủy, Phố Đông. Tòa tháp cao tương đương 128 tầng. Tháp Thượng Hải hiện là công trình cao thứ hai thế giới, sau tháp Burj Khalifa và đồng thời là tòa nhà cao nhất Trung Quốc. Việc xây dựng tòa tháp được bắt đầu từ tháng 11 năm 2008 và hoàn thành vào mùa hè năm 2015. Kinh tế. Thượng Hải thường được xem như trung tâm tài chính và thương mại của Trung Quốc đại lục. Thượng Hải bắt đầu thực sự phát triển nhanh từ năm 1992, sau các thành phố ở các tỉnh phía nam Trung Quốc (Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn...) khoảng 10 năm. Trước đó, ngân sách của thành phố phần lớn để lại cho chính quyền trung ương ở Bắc Kinh, phần để lại cho thành phố này rất ít. Dù đã giảm gánh nặng thuế má kể từ 1992, nguồn thuế thu tại Thượng Hải vẫn đóng góp cho chính quyền trung ương chiếm khoảng 20-25%, trước đấy là 70%. Thượng Hải ngày nay vẫn là thành phố phát triển và đông dân nhất Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Cảng Thượng Hải xếp hàng đầu thế giới về lượng hàng hóa thông qua, khoảng 443 triệu tấn hàng/năm. Nếu tính về lượng container vận chuyển, các cảng của Thượng Hải xếp thứ 3, sau Singapore và Hồng Kông. Thượng Hải và Hồng Kông gần đây đang tranh đua vị trí trung tâm kinh tế của Trung Quốc. GDP đầu người của Thượng Hải là 12784 USD, của Hong Kong là 37.400. Hong Kong có lợi thế hơn về hệ thống pháp luật, hội nhập quốc tế, tự do hóa hơn và kinh nghiệm kinh tài cao hơn. Thượng Hải có mối liên hệ với lục địa Trung Hoa sâu hơn, mạnh hơn về ngành chế tạo và công nghệ. Thượng Hải đã và đang nâng cao vai trò là địa điểm của nhiều trụ sở các tập đoàn kinh tế, tài chính, thương mại, ngân hàng và giáo dục quốc tế. Tăng trưởng GDP đã đạt hai con số liên tục trong 14 năm. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng GDP là 11,1%, đạt 114 tỷ USD. Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD) với GDP đầu người đạt 76.000 nhân dân tệ (tương đương11.540 USD).. Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc. Thượng Hải đứng thứ 13 trong chỉ số Trung tâm tài chính toàn cầu năm 2017 (và thứ tư cạnh tranh nhất ở châu Á sau Singapore, Hồng Kông và Tokyo) do Z / Yen Group và Qatar Financial Center xuất bản Thẩm quyền. Thành phố cũng là thành phố đắt đỏ nhất Trung Quốc, theo nghiên cứu của Economist Intelligence Unit vào năm 2017. Đây là thành phố lớn nhất và thịnh vượng nhất ở Đông Á trong những năm 1930, và sự tái phát triển nhanh chóng bắt đầu vào những năm 1990. Điều này được minh họa bởi quận Phố Đông, một khu đầm lầy cũ được khai hoang để phục vụ như một khu vực thí điểm cho cải cách kinh tế tích hợp. Đến cuối năm 2009, đã có 787 tổ chức tài chính, trong đó có 170 tổ chức đầu tư nước ngoài. Vào tháng 9 năm 2013, với sự ủng hộ của Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường, thành phố đã đưa ra khu vực tự do thương mại phi công Trung Quốc (Thượng Hải) - khu thương mại tự do đầu tiên ở Trung Quốc đại lục. Khu vực đã giới thiệu một số cải cách thí điểm được thiết kế để tạo ra một môi trường ưu đãi cho đầu tư nước ngoài. Vào tháng 4 năm 2014, The Banker đã báo cáo rằng Thượng Hải "đã thu hút được khối lượng đầu tư trực tiếp nước ngoài khu vực tài chính cao nhất trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương trong 12 tháng tính đến cuối tháng 1 năm 2014". Vào tháng 8 năm 2014, Thượng Hải được mệnh danh là tỉnh Trung Quốc trong tương lai của tạp chí FDi 2014/15 do "các buổi biểu diễn đặc biệt ấn tượng trong các loại Kết nối và Thân thiện với Doanh nghiệp, cũng như xếp hạng thứ hai trong các loại Kinh tế và Nhân lực và Lối sống". Trong hai thập kỷ qua, Thượng Hải là một trong những thành phố phát triển nhanh nhất trên thế giới. Từ năm 1992, Thượng Hải đã ghi nhận tăng trưởng hai con số gần như hàng năm ngoại trừ trong cuộc suy thoái toàn cầu năm 2008 và 2009. [78] Năm 2011, tổng GDP của Thượng Hải đã tăng lên 1,92 nghìn tỷ NDT (297 tỷ USD) với GDP bình quân đầu người là 82.560 NDT (12.784 USD). [11] Ba ngành dịch vụ lớn nhất là dịch vụ tài chính, bán lẻ và bất động sản. Các ngành sản xuất và nông nghiệp chiếm lần lượt 39,9% và 0,7% tổng sản lượng. Thu nhập bình quân hàng năm của cư dân Thượng Hải, dựa trên ba quý đầu năm 2009, là 21.871 RMB. Nằm ở trung tâm của đồng bằng sông Dương Tử, Thượng Hải có cảng container đông đúc nhất thế giới, xử lý 29,05 triệu TEU trong năm 2010. Thượng Hải đặt mục tiêu trở thành một trung tâm vận chuyển quốc tế trong tương lai gần. Thượng Hải là một trong những trung tâm công nghiệp chính của Trung Quốc, đóng một vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp nặng của Trung Quốc. Một số lượng lớn các khu công nghiệp, bao gồm Khu Phát triển Kinh tế và Công nghệ Hồng Kiều Thượng Hải, Khu Chế xuất Kinh tế Xuất khẩu Jinqiao, Khu Phát triển Công nghệ và Kinh tế Mẫn Hàng và Khu Phát triển Công nghệ cao Thượng Hải, là xương sống của ngành công nghiệp thứ cấp của Thượng Hải. Các nhà máy sản xuất thép lớn nhất Trung Quốc Baosteel Group, cơ sở đóng tàu lớn nhất Trung Quốc - Tập đoàn đóng tàu Hudong-Zhonghua và Nhà máy đóng tàu Jiangnan, một trong những nhà đóng tàu lâu đời nhất của Trung Quốc đều nằm ở Thượng Hải. Sản xuất ô tô là một ngành công nghiệp quan trọng khác. SAIC Motor có trụ sở tại Thượng Hải là một trong ba tập đoàn ô tô lớn nhất tại Trung Quốc và có quan hệ đối tác chiến lược với Volkswagen và General Motors. Khu vực hội nghị cũng đang phát triển mạnh mẽ. Trong năm 2012, thành phố đã tổ chức 780 cuộc tụ họp quốc tế, tăng từ 754 năm 2011. Nguồn cung phòng khách sạn cao đã giữ giá phòng thấp hơn dự kiến, với giá phòng trung bình cho khách sạn 4 và 5 sao vào năm 2012 chỉ với RMB950 (US $ 153). Tính đến tháng 9 năm 2013, Thượng Hải cũng là nơi có khu thương mại tự do lớn nhất ở Trung Quốc, Khu Tự do Thương mại Trung Quốc (Thượng Hải). Khu vực này có diện tích 29 km2 và tích hợp bốn khu ngoại quan hiện có - Khu Thương mại Tự do Waigaoqiao, Công viên Hậu cần Thương mại Tự do Waigaoqiao, Khu cảng Thương mại Tự do Dương Sơn và Khu Thương mại Tự do Toàn diện Sân bay Phố Đông. Một số chính sách ưu đãi đã được thực hiện để thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành khác nhau cho FTZ. Bởi vì Khu vực này không được coi là lãnh thổ của PRC vì mục đích thuế, nên các hàng hóa vào khu vực này không phải chịu thuế và thông quan như trường hợp khác. Thượng Hải đang trải qua thời kỳ bùng nổ xây dựng, đặc biệt là xây dựng các cao ốc, các công trình công cộng khổng lồ với thiết kế hiện đại, độc đáo (như tháp truyền hình, nhà hát...). Khu Phố Đông là một khu đô thị mới với tốc độ xây dựng nhanh chóng, khoảng hơn 10 năm và đã trở thành trung tâm mới của Thượng Hải với rừng cao ốc. Nhà chọc trời Tháp Trung tâm Tài chính Thế giới Thượng Hải là tòa nhà chọc trời cao nhất ở thành phố này và cũng là tháp cao nhất Trung Quốc đại lục, cao thứ 5 thế giới. Ngoài ra còn có các công trình kiến trúc nổi bật khác như Tháp Minh Châu Phương Đông và Tháp Kim Mậu. Năm 2009, Sở giao dịch chứng khoán Thượng Hải xếp thứ 3 thế giới về khối lượng chứng khoán giao dịch và xếp thứ 6 về tổng giá trị vốn hóa thị trường của các công ty niêm yết, và khối lượng giao dịch của 6 mặt hàng chính bao gồm cao su, đồng và kẽm trên Shanghai Futures Exchange đều xếp hạng nhất trên thế giới. Cảng Thượng Hải là cảng container bận rộn nhất thế giới, 29,05 triệu TEU thông qua vào năm 2010. Thượng Hải đang hướng tới múc tiêu trở thành trung tâm hải vận quốc tế trong tương lai gần. Thượng Hải nổi bật với tăng trưởng GDP đã đạt hai con số liên tục trong 14 năm. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng GDP là 11,1%, đạt 114 tỷ USD. Năm 2010, GDP của Thượng Hải là 1.687 tỷ nhân dân tệ (tương đương 256,3 tỷ USD). Năm 2018, Thượng Hải là đơn vị hành chính (gồm 04 thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, 05 khu tự tri dân tộc và 02 đặc khu hành chính) đông thứ hai mươi lăm về số dân, đứng thứ mười một về kinh tế Trung Quốc với 24 triệu dân, tương đương với Cameroon và GDP đạt 3.268 tỉ NDT (483,8 tỉ USD) tương ứng với Thái Lan. Thượng Hải là đơn vị hành chính có chỉ số GDP đầu người đứng thứ tư Trung Quốc, sau Ma Cao, Hồng Kông và Bắc Kinh, đạt 137.000 NDT (tương đương 20.130 USD). Thượng Hải được xem là thủ đô kinh tế của Trung Quốc. Giao thông. Phương tiện công cộng. Thượng Hải có một hệ thống giao thông công cộng rộng lớn, phần lớn dựa trên các thành phố lớn, xe buýt và taxi. Việc thanh toán tất cả các công cụ giao thông công cộng này có thể được thực hiện bằng cách sử dụng Thẻ Giao thông Công cộng Thượng Hải. Hệ thống vận chuyển nhanh của Thượng Hải, Tàu điện ngầm Thượng Hải, kết hợp cả đường tàu điện ngầm và tàu điện ngầm hạng nhẹ và mở rộng đến mọi quận đô thị cốt lõi cũng như các quận ngoại thành lân cận. Tính đến năm 2017, có 16 tuyến tàu điện ngầm (không bao gồm Tàu Maglev Thượng Hải và Đường sắt Jinshan), 395 ga và 673 km (418 dặm) đường dây hoạt động, khiến nó trở thành mạng lưới dài nhất thế giới. Vào ngày 31 tháng 12 năm 2016, nó thiết lập kỷ lục về lượng người đi hàng ngày là 11,7 triệu. Giá vé phụ thuộc vào chiều dài của khoảng cách đi lại bắt đầu từ 3 RMB. Trong năm 2010, Thượng Hải giới thiệu lại xe điện, lần này là một hệ thống Translohr cao su hiện đại, trong khu vực Zhangjiang của Đông Thượng Hải như Zhangjiang Tram. Một hệ thống xe điện thông thường được xây dựng ở huyện Songjiang. Các tuyến xe điện bổ sung đang được nghiên cứu tại Hongqiao Subdistrict và Jiading District. Thượng Hải cũng có mạng lưới xe buýt đô thị rộng lớn nhất thế giới, với gần một nghìn tuyến xe buýt, do nhiều công ty vận tải khai thác. Hệ thống này bao gồm hệ thống xe đẩy hoạt động liên tục lâu đời nhất thế giới. Giá vé xe buýt thường là 2 RMB. Taxi rất phổ biến ở Thượng Hải. Giá vé cơ sở hiện tại là ¥ 14 (sedan) / ¥ 16 (MPV) (bao gồm phụ phí nhiên liệu; 1; ¥ 18 từ 11:00 đến 5:00 sáng) bao gồm 3 km đầu tiên (2 dặm). Chi phí km ¥ 2,4 mỗi (¥ 3,2 từ 11:00 đến 5:00 sáng). Đường bộ. Thượng Hải là một trung tâm chính của mạng lưới đường cao tốc của Trung Quốc. Nhiều đường cao tốc quốc gia (bắt đầu bằng G) đi qua hoặc kết thúc tại Thượng Hải, bao gồm cả đường cao tốc Bắc Kinh-Thượng Hải G2 (chồng lên G42 Thượng Hải-Thành Đô), G15 Thẩm Dương–Hải Khẩu, G40 Thượng Hải-Tây An, G50 Thượng Hải-Trùng Khánh, G60 Thượng Hải-Côn Minh (chồng chéo G92 Thượng Hải-Ninh Ba) và G1501 Đường cao tốc Shanghai Ring. Ngoài ra, cũng có nhiều tuyến đường cao tốc của thành phố bắt đầu bằng S (S1, S2, S20, v.v.). Thượng Hải có một đường hầm qua cầu bắc qua cửa sông Dương Tử ở phía bắc thành phố. Ở trung tâm thành phố, có một số đường cao tốc cao để giảm bớt áp lực giao thông trên đường phố, nhưng việc sử dụng xe tăng đã khiến nhu cầu vượt xa khả năng, với tình trạng tắc nghẽn nặng là phổ biến. Có làn đường dành cho xe đạp tách biệt với giao thông ô tô trên nhiều đường phố, nhưng xe đạp và xe máy bị cấm từ nhiều tuyến đường chính bao gồm cả đường cao tốc trên cao. Gần đây, đi xe đạp đã thấy sự hồi sinh phổ biến nhờ vào sự xuất hiện của một số lượng lớn các cuộc đua xe đạp dựa trên ứng dụng không cần đế như Mobike, Bluegogo và Ofo. Riêng quyền sở hữu xe hơi ở Thượng Hải đã tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, nhưng một chiếc xe tư nhân mới không thể được thúc đẩy cho đến khi chủ sở hữu mua một giấy phép trong cuộc đấu giá tấm giấy phép xe tư nhân hàng tháng. Khoảng 11.500 tấm giấy phép được bán đấu giá mỗi tháng và giá trung bình là khoảng 84.000 RMB (12,758 USD). Theo quy định của thành phố năm 2016, chỉ có những người là cư dân đăng ký Thượng Hải hoặc đã đóng bảo hiểm xã hội hoặc thuế thu nhập cá nhân trong hơn 3 năm liên tiếp. Mục đích của chính sách này là hạn chế sự phát triển của giao thông ô tô và giảm bớt tắc nghẽn. Đường sắt. Thượng Hải có bốn ga đường sắt chính: Ga Thượng Hải, Ga Thượng Hải Nam, Ga Thượng Hải Tây và Ga Hồng Kiều Thượng Hải. Tất cả đều được kết nối với mạng lưới tàu điện ngầm và đóng vai trò là trung tâm trong mạng lưới đường sắt của Trung Quốc. Hai tuyến đường sắt chính kết thúc tại Thượng Hải: Đường sắt Bắc Kinh - Thượng Hải từ Bắc Kinh và Đường sắt Thượng Hải - Hàng Châu. Ga Hồng Kiều cũng là ga cuối Thượng Hải chính của ba tuyến đường sắt cao tốc: Đường sắt cao tốc Thượng Hải - Hàng Châu, Đường sắt cao tốc Thượng Hải - Nam Kinh và Đường sắt cao tốc Bắc Kinh - Thượng Hải. Đường không. Thượng Hải là một trong những cửa ngõ vận chuyển hàng không hàng đầu ở châu Á. Thành phố có hai sân bay thương mại: Sân bay quốc tế Phố Đông-Thượng Hải và Sân bay quốc tế Hồng Kiều Thượng Hải. Sân bay Phố Đông là sân bay quốc tế chính, trong khi Sân bay Hồng Kiều chủ yếu hoạt động các chuyến bay nội địa với các chuyến bay quốc tế có quãng đường ngắn. Trong năm 2010, hai sân bay phục vụ 71,7 triệu hành khách (Phố Đông 40,4 triệu, Hồng Kiều 31,3 triệu), và xử lý 3,7 triệu tấn hàng hóa (Phố Đông 3,22 triệu tấn, Hồng Kiều 480 nghìn tấn) Thành phố kết nghĩa. Thượng Hải là thành phố kết nghĩa với:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Khu công nghiệp, còn gọi là khu kỹ nghệ là khu vực dành cho phát triển công nghiệp theo một quy hoạch cụ thể nào đó nhằm đảm bảo được sự hài hòa và cân bằng tương đối giữa các mục tiêu kinh tế - xã hội - môi trường. Khu công nghiệp thường được Chính phủ cấp phép đầu tư với hệ thống hạ tầng kỹ thuật và pháp lý riêng. Những khu công nghiệp có quy mô nhỏ thường được gọi là cụm công nghiệp.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.423413
Địa lý & Hành chính
null
null
Thái Bình là một tỉnh ven biển ở đồng bằng sông Hồng. Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Thái Bình thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ . Theo cuộc tổng điều tra về dân số năm 2019. Tính đến ngày 01/04/2019, Thái Bình là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân với 1.860.447 người (xếp sau Đắk Lắk và xếp trên Bắc Giang), xếp thứ 29 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 49 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ tám về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.860.447 người dân, GRDP đạt 68.142 tỉ Đồng (tương ứng với 2,9595 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38 triệu đồng (tương ứng với 1.650 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 10,53%. Địa lý. Vị trí. Tỉnh Thái Bình có tọa độ từ 20°18′B đến 20°44′B, 106°06′Đ đến 106°39′Đ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Thái Bình, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 100 km về phía đông nam, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 75 km về phía tây nam. Vị trí tiếp giáp tỉnh Thái Bình: Địa hình. Địa hình tỉnh Thái Bình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1–2 m trên mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam. Thái Bình có bờ biển dài 52 km. Tỉnh Thái Bình có bốn con sông chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km. Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh với lưu lượng lớn và hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều và lượng phù sa không đáng kể khiến nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền từ 15–20 km. Khí hậu - Thủy văn. Thái Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 9; mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; tháng 10 và tháng 4 là mùa thu và mùa xuân tuy không rõ rệt như các nước nằm phía trên vành đai nhiệt đới. Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C. Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 85-90% Sông ngòi. Tỉnh Thái Bình nằm trong vùng cận nhiệt đới ẩm, nên hàng năm đón nhận một lượng mưa lớn (1.600-1.800mm), lại là vùng bị chia cắt bởi các con sông lớn, đó là các chi lưu của sông Hồng, trước khi chạy ra biển. Mặt khác, do quá trình sản xuất nông nghiệp, trải qua nhiều thế hệ, người ta đã tạo ra hệ thống sông ngòi dày đặc. Tổng chiều dài các con sông, ngòi của Thái Bình lên tới 8492 km, mật độ bình quân từ 5–6 km/km². Hướng dòng chảy của các con sông đa số theo hướng tây bắc xuống đông nam. Phía bắc, đông bắc tỉnh Thái Bình thuộc lưu vực sông Thái Bình. Các hệ thống sông của tỉnh Thái Bình gồm: Quá trình hình thành các con sông lớn nhỏ của Thái Bình là sự kết hợp giữa sự phát triển tự nhiên và nhu cầu hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người. Các con sông tự nhiên được hình thành do quá trình vận động của các dòng chảy, bắt đầu từ thượng nguồn, về phía hạ lưu hướng dòng chảy luôn thay đổi do sông uốn khúc nhiều. Sông Hồng trước đây thường hay thay đổi dòng chảy. Từ khi hình thành hệ thống đê điều, dòng chảy của sông Hồng ổn định gần như diện mạo hôm nay. Hệ thống sông trong đê là kết quả quá trình chinh phục của con người, nhằm hạn chế tác hại của thiên tai, tận dụng các điều kiện tự nhiên để tưới tiêu trong nông nghiệp. Trải qua nhiều thập niên, người nông dân Thái Bình liên tục cải tạo, khơi sâu, nắn dòng các con sông nội đồng với mục đích tưới tiêu thuận lợi và một phần phục vu vận tải đường thủy. Ao, hồ, đầm. Trên địa bàn Thái Bình không có các hồ, đầm lớn, chủ yếu là các ao nhỏ, nằm xen kẽ với làng xóm hoặc ven đê, ven biển do lấy đất đắp đê hoặc do vỡ đê tạo thành các điểm trũng tích nước. Các ao hồ nhỏ nằm rải rác, xen kẽ các khu dân cư là kết quả của quá trình tạo lập đất ở. Xưa kia, đất được bồi đắp không bằng phẳng, chỗ cao chỗ thấp, người ta đào ao lấy đất đắp nền nhà, tạo thành vườn tược, và tận dụng nguồn nước từ ao hồ quanh nhà để lấy nước sinh hoạt. Vì vậy phần lớn làng xóm, cư dân của Thái Bình (nhà cửa, ruộng vườn) đều gần với ao đầm. Tổng diện tích ao hồ gần 6.575ha, chiếm 4,25% đất đai của tỉnh. Các ao hồ của Thái Bình thường có diện tích không lớn (khoảng 200-300m²). Những năm gần đây, diện tích một số ao hồ được cải tạo, có xu hướng tập trung thành quy mô trang trại để nuôi tôm cá theo quy trình bán công nghiệp. Bước đầu một số ao hồ nuôi tôm cá đã đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhất là các vùng nuôi tôm ở các ao đầm ven biển (tôm sú, tôm rảo..) Biển. Biển Thái Bình nằm trong vùng biển vịnh Bắc Bộ, là một phần của Biển Đông. Biển Đông là một biển lớn thông với Thái Bình Dương qua các eo biển rộng. Vịnh Bắc Bộ nằm ở phía tây bắc biển Đông, thực ra là phần lục địa bị chìm dưới nước biển do đó biển nông, nơi sâu nhất không quá 200 mét mực nước ngầm. Thái Bình là bộ phận của tam giác châu thổ sông Hồng, thuộc trầm tích bờ rời Đệ Tứ có nguồn gốc song - biển hỗn hợp. Xét về mặt tổng thể thì trầm tích này có khả năng chứa nước rất lớn, mực nước ngầm nông, dễ khai thác. Theo tài liệu nghiên cứu về địa chất và thủy văn, vùng này có sự phân đới thủy địa hóa theo phương nằm ngang và phương thẳng đứng như sau: Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang: Phân đới thủy hóa theo phương nằm ngang, lấy sông Trà Lý chảy qua giữa tỉnh làm ranh giới: Phía bắc sông Trà Lý gồm các huyện Hưng Hà, Đông Hưng, Quỳnh Phụ và một số xã thuộc huyện Thái Thụy gần khu vực sông Hóa, nằm trong đới nước ngọt có tổng độ khoáng hóa dao động từ 300–500 mg/l. Các tầng chứa nước ngọt rất tốt. Phía nam sông Trà Lý bao gồm các huyện Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải, phần lớn huyện Thái Thụy và Thành phố Thái Bình nằm trong đới nước mặn. Các lỗ khoan cho thấy, nước khoan lên có tổng độ khoáng hóa dao động trong khoảng 600-2.500 mg/l, nước thuộc loại Chloride Natri. Do bị nhiễm mặn nên không đạt tiêu chuẩn dùng cho nước sinh hoạt. Phân đới thủy hóa theo phương thẳng đứng từ mặt đất đến độ sâu 140 mét bao gồm các tầng cách nước và chứa nước sau: + Tầng chứa nước nghèo thuộc hệ tầng Thái Bình + Tầng cách nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II + Tầng chứa ít nước thuộc hệ tầng Hải Hưng II + Tầng cách nước thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc I + Tầng chứa nước lỗ hổng thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc II + Tầng chứa nước trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ Hà Nội Tài nguyên nước. Tài nguyên nước trong dòng chảy mặt ở Thái Bình rất phong phú. Mật độ sông ngòi dày đặc chứa và lưu thông một lượng nước mặt khổng lồ. Nguồn cung cấp hàng tỷ m3 từ các con sông lớn như sông Hồng, sông Trà Lý, sông Thái Bình, cộng vào đó là lượng nước mưa nhận được hàng năm cũng rất lớn (hàng tỉ tấn). Đây là điều kiện thuận lợi để cư dân sử dụng tài nguyên nước mặt phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất ở mọi nơi trong tỉnh. Các dòng chảy mặt đã được sử dụng tưới tiêu cho đồng ruộng thông qua hệ thống thủy lợi: mương, máng tưới tiêu, hệ thống cống tự chảy... Dòng chảy mặt của các con sông nội đồng ngoài tác dụng tưới cho đồng ruộng, phục vụ sinh hoạt của cư dân, còn mang theo các chất thải ở thể lỏng chảy ra biển Đông (nước thải sinh hoạt, nước thau chua, rửa mặn đồng ruộng). Hệ thống dòng chảy mặt, nhất là hệ thống sông ngòi nội đồng chảy quanh co, ngang dọc trên đất Thái Bình làm thành cảnh quan, tạo ra một khung cảnh sông nước, đồng ruộng, vườn cây trái, hài hòa, yên bình, thơ mộng. Các tầng chứa nước nông đều có hàm lượng sắt cao, vượt quá tiêu chuẩn cho phép; Để dùng được phải qua xử lý, khử bớt sắt mới đảm bảo tiêu chuẩn cho phép. Hầu hết các giếng khoan đã có biểu hiện ô nhiễm các chất hữu cơ do tàn tích của các loài thực vật, có xuất hiện các ion độc hại như NH4, NO2, P04, S... Tầng chứa nước lỗ hổng trong trầm tích cát - cuội- sỏi hệ tầng Hà Nội sâu 80-140m có khả năng chứa nước lớn, có giá trị cung cấp cả về số lượng lẫn chất lượng cho những trạm xử lý và cung cấp nước trung bình và nhỏ. Do tầng chứa nước ở dưới sâu nên khả năng gây ô nhiễm nguồn nước trong tầng này được bảo vệ bởi các tầng chứa nước phía trên. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn khi khai thác và sử dụng, cần lưu ý biện pháp bảo vệ và khai thác với mức độ hợp lý. Nước ngầm tầng mặt của Thái Bình, về mùa khô chỉ đào sâu xuống 1-1,5m, mùa mưa chỉ đào sâu chưa đến 1m. Tuy nhiên, đây chỉ là nước ngầm trên mặt, nếu đào sâu xuống sẽ gặp nước mặn và chua, độ trong không đảm bảo, không thể dùng trong sinh hoạt ngay được mà cần phải xử lý. Càng sâu trong đất liền (Quỳnh Phụ, Hưng Hà) thì mức độ mặn, chua giảm hơn. Tài nguyên khoáng sản. Các khoáng sản chính: Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tỉnh Thái Bình có 2 trong số 5 khu vực đa dạng sinh học được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng, 3 khu vực còn lại thuộc Nam Định và Ninh Bình. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng nằm trên địa bàn các xã ven biển thuộc 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2004 với những giá trị nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học và có ảnh hưởng lớn đến sự sống của nhân loại. Khu dự trữ sinh quyển ven biển Thái Bình gồm 2 phần nằm ở cửa biển, nơi giáp Hải Phòng và Nam Định: Lịch sử. Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỉ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Thời 12 sứ quân vùng đất này là căn cứ của sứ quân Trần Lãm. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam. Từ năm Minh Đức thứ 1 (1527) đến hết thời Mạc và kéo dài đến cuối thời Lê trung hưng, Nhà Mạc đổi trấn Hải Dương thành đạo Hải Dương. Năm Minh Đức thứ 3 (1529), Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) trao ngôi vua cho con là Mạc Đăng Doanh còn Mạc Đăng Dung làm Thái thượng hoàng về Cổ Trai, lấy Nghi Dương làm Dương Kinh, trích phủ Thuận An ở Kinh Bắc và các phủ Khoái Châu, Tân Hưng, Kiến Xương, Thái Bình ở Sơn Nam cho lệ thuộc vào Dương Kinh (gần hết tỉnh Thái Bình, Nam Định ngày nay). Qua khảo cứu Cột chúc đài (bia đá vuông) năm Vĩnh Thịnh 6 (1710) ở chùa Cao Linh (tên cũ Cao Dương) có ghi Đại Việt quốc, Sơn Nam – Hải Dương nhị xứ, Thái Bình – Nam Sách nhị phủ, Thụy Anh huyện, Cao Dương xã. Tạm dịch là: Xã Cao Dương, huyện Thụy Anh, hai phủ Thái Bình – Nam Sách, hai xứ Sơn Nam – Hải Dương, nước Đại Việt. Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên. Ngày 21 tháng 3 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh Thái Bình, gồm phủ Thái Bình, phủ Kiến Xương (tách từ tỉnh Nam Định) và huyện Thần Khê (tách từ tỉnh Hưng Yên và sáp nhập vào phủ Thái Bình - sau đổi tên là phủ Thái Ninh). Tỉnh lỵ đặt tại phủ lỵ Kiến Xương, bờ nam sông Trà Lý. Vị trí này nằm trên đường Hải Phòng- Nam Định nhưng chỉ cách Nam Định 17 km nên người dân nơi đây thường đi phà Tân Đệ (sau này là cầu) sang Nam Định mua các thứ cần thiết. Ngày 28 tháng 11 năm 1894, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cắt hai huyện Hưng Nhân và Duyên Hà thuộc phủ Tiên Hưng, tỉnh Hưng Yên sáp nhập vào tỉnh Thái Bình; lấy sông Luộc làm ranh giới giữa hai tỉnh Hưng Yên và Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình gồm có 3 phủ Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng với tổng cộng là 12 huyện Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Trực Định, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thanh Quan, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Thần Khê, Vũ Tiên. Sau đó, bỏ cấp phủ, các huyện có sở lỵ phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng. Tỉnh lị tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lỵ của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lỵ Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình. Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, gọi chung là huyện, tỉnh Thái Bình có 13 đơn vị hành chính gồm thị xã Thái Bình và 12 huyện: Đông Quan, Duyên Hà, Hưng Nhân, Kiến Xương, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thư Trì, Thụy Anh, Tiền Hải, Tiên Hưng, Vũ Tiên. Ngày 2 tháng 12 năm 1955, điều chỉnh địa giới của các huyện Đông Quan, Phụ Dực, Quỳnh Côi, Thái Ninh, Thụy Anh, Tiên Hưng, Tiền Hải. Ngày 28 tháng 2 năm 1958, điều chỉnh địa giới của ba huyện Phụ Dực, Quỳnh Côi và Thụy Anh. Ngày 17 tháng 6 năm 1969, 2 huyện Đông Quan và Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Đông Hưng; 2 huyện Hưng Nhân, Duyên Hà và 5 xã: Bắc Sơn, Đông Đô, Hòa Bình, Chi Lăng và Tây Đô của huyên Tiên Hưng hợp nhất thành huyện Hưng Hà; 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực hợp nhất thành huyện Quỳnh Phụ; 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh hợp nhất thành huyện Thái Thụy; 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì hợp nhất thành huyện Vũ Thư; riêng 13 xã của huyện Vũ Tiên cũ được sáp nhập vào huyện Kiến Xương. Tỉnh Thái Bình còn 1 thị xã và 7 huyện. Ngày 29 tháng 4 năm 2004, chuyển thị xã Thái Bình thành thành phố Thái Bình. Tỉnh Thái Bình có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay. Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 2418/QĐ-TTg công nhận thành phố Thái Bình là đô thị loại II. Dân số. Năm 2019, Thái Bình có 1.860.447 người với mật độ dân số 1.138 người/km². Thành phần dân số: Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 169.589 người, nhiều nhất là Công giáo có 116.630 người, tiếp theo là Phật giáo có 52.671 người, đạo Tin Lành có 285 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Cao Đài có hai người và Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ có một người. Hành chính. Tỉnh Thái Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện với 260 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 9 thị trấn và 241 xã. Kinh tế. Năm 2014 Định hướng phát triển Các khu Công nghiệp của Tỉnh Thái Bình. Ngoài các khu Công nghiệp trên, tương lai sẽ thành lập một số Khu Công nghiệp: Giáo dục. Ngành Giáo dục - Đào tạo và khoa học công nghệ được giữ vững và phát triển. Trong năm học 2012 - 2013, Thái Bình là một trong năm tỉnh, thành phố đầu tiên trong cả nước được công nhận đạt phổ cập mầm non cho trẻ 5 tuổi; học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông đạt tỷ lệ cao; số học sinh đỗ đại học, cao đẳng xếp thứ 2 trên toàn quốc. Giáo dục chuyên ngành. Danh sách các cơ sở giáo dục: Giáo dục phổ thông. Năm 2004, Thái Bình có 295 trường mầm non, 293 trường tiểu học, 276 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học phổ thông. Học sinh THPT tại Thái Bình đã giành rất nhiều huy chương tại các kì thi Olympic Quốc tế (Tất cả đều là học sinh trường THPT Chuyên Thái Bình). Giao thông. Tuyến xe buýt Thái Bình 1, Tuyến 01 Hoàng Hà: TP. Thái Bình -Kiến Xương - KCN Tiền Hải - Đồng Châu. Lộ trình: Cầu Phúc Khánh - Đường Trần Thái Tông - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình, Bệnh viện Đa khoa Thái Bình) - Đường Lê Lợi - Đường Lý Thường Kiệt - Quốc lộ 39 B (Thị trấn huyện Kiến Xương, Thị trấn huyện Tiền Hải) - KCN Tiền Hải - Khu vực ngã tư xã Đông Minh huyện Tiền Hải. 2, Tuyến 02 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - TT. Diêm Điền - Hồng Quỳnh. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Cống Thóc thị trấn Diêm Điền - Hồng Quỳnh huyện Thái Thụy. 3, Tuyến 03 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Đông Hưng - Hưng Hà - Cầu Triều Dương. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (BV Đa khoa Thái Bình, Vincom Thái Bình - Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Quốc lộ 39 (huyện Hưng Hà) - Cầu Triều Dương tỉnh Hưng Yên. 4, Tuyến 04 Hoàng Hà: TP. Thái Bình -Đông Hưng - Quỳnh Côi - Phố Bến Hiệp. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thị Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Ngã ba Đọ - Thị trấn Quỳnh Côi - Bến Hiệp huyện Quỳnh Phụ. 5, Tuyến 05 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Thái Ninh - Bến xe Chợ Lục. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Thái Giang - Thái Hà - Thái Phúc, Thái Ninh, chợ Lục, chợ Cầu, Thái Thượng huyện Thái Thụy. 6, Tuyến 06 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Hưng Hà - Đền Trần. Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Cầu Cống Trắng - Đường Ngô Thì Nhậm - Đường Phan Bá Vành - Đường Lý Bôn - Bệnh viện Đa khoa Thái Bình - Vincom Thái Bình - Bến xe khách Hoàng Hà - Ngã tư Tân Bình (Trường ĐH Thái Bình) - Tân Hòa - Minh Lãng - Song Lãng - Hiệp Hòa - Xuân Hòa – Cầu Tịnh Xuyên - Minh Hòa (ĐT453) - Độc Lập - Minh Tân - Hồng An - Tiến Đức (Đền Trần). 7, Tuyến 07 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân. Lộ trình: Thành phố Thái Bình - Long Hưng - Gia Lễ - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân. 8, Tuyến 08 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Kiến Xương - Tiền Hải - Cồn Vành. Lộ trình: CĐSP Thái Bình - Quang Trung -Trần Thái Tông - Lý Bôn -Ngô Quyền - Lê Quý Đôn -Cầu Trắng - đường 39B (Vũ Quý, Thanh Nê, Tiền Hải) - đường trục xã Tây Giang - BVĐK Tiền Hải - Nam Hà - Nam Hải - Nam Hồng - Nam Trung - Nam Phú - Cồn Vành. 9, Tuyến 209 Huy Hoàng: Thành phố Thái Bình - Quý Cao - Thành phố Hải Dương. Lộ trình: Thành phố Thái Bình - thị trấn Đông Hưng - Cầu Nghìn - Vĩnh Bảo - Quý Cao - Tứ Kỳ - Thành phố Hải Dương. Văn hóa - xã hội. Nghệ thuật chèo ở Thái Bình. Nếu như Hà Nội (với 3 Nhà hát Chèo Việt Nam, Hà Nội và Quân đội) là cái nôi của nghệ thuật chèo chuyên nghiệp, kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình) là đất tổ của sân khấu chèo thì Thái Bình được xem là cái nôi của phong trào hát chèo quần chúng. Trước Cách mạng tháng Tám số phường gánh hội chèo Thái Bình nở rộ khá đông đảo được hình thành, phát triển từ yêu cầu thưởng thức nghệ thuật của bà con lối xóm trong các hội làng, số phường gánh lớn mạnh thường gắn kết với số lễ hội có lịch sử lâu dài trong vùng thông qua những ước định về cúng tế lễ tiết hòa vào vô số ràng buộc của tín ngưỡng tập quán bản địa. Với ba vùng chèo: chèo Hà Xá, chèo Sáo Đền, chèo Khuốc, cùng với các nghệ nhân hát hay, diễn giỏi nổi tiếng: cụ Nguyễn Mầm, Tống Văn Ngũ (tức Năm Ngũ), Nguyễn Tích, Trần Văn Linh (tức Hai Sinh), Cao Kim Trạch, Giáo sư Hà Văn Cầu... chèo Thái Bình đã nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Tới thời điểm hiện tại, các vùng chèo Thái Bình vẫn hoạt động rất tích cực và tỉnh có chủ trương phát triển và bảo tồn loại hình nghệ thuật này. Thống kê tới năm 2015 cho thấy Thái Bình cùng với Ninh Bình là 2 tỉnh sinh ra nhiều nghệ sĩ nhân dân hát chèo nhất với 5 NSND mỗi tỉnh. Đến năm 2021, Thái Bình đã vươn lên dẫn đầu với 8 NSND chèo. Nhà hát Chèo Thái Bình là đơn vị hoạt động nghệ thuật chèo chuyên nghiệp. Đây là một đơn vị nghệ thuật thuộc chiếng Chèo xứ Nam nơi có phong trào hát chèo không chuyên phát triển bậc nhất ở Việt Nam. Thái Bình hiện cũng là địa phương được giao chủ trì lập hồ sơ đề nghị UNESCO ghi danh nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng là di sản văn hóa thế giới. Từ tháng 6/2019, Nhà hát Chèo Thái Bình lại có thêm Đoàn Cải lương Thái Bình và Đoàn Ca múa kịch Thái Bình sáp nhập về. Năm 2021 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Thái Bình đã xây dựng hồ sơ "Nghệ thuật chèo đồng bằng sông Hồng" để trình UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Danh nhân. Thái Bình là quê hương của các vị danh nhân tiêu biểu qua nhiều thời kỳ. Trước thời kỳ phong kiến, nơi này có những danh nhân tiêu biểu như: Trước, trong và Sau cách mạng tháng tám, Thái Bình có: Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực ở Thái Bình gồm có: bánh cáy làng Nguyễn, nộm sứa Thái Thụy, nem chạo Vị Thủy, mì gạo Dụ Đại, cá nướng Thái Xuyên, kẹo lạc làng Nguyễn, gỏi nhệch, bánh khúc Vũ Thư, canh cá Quỳnh Côi, bánh đa làng Me, gỏi cá mè Vũ Thắng, rươi Thụy Việt, gà Tò, chè mét Việt Thuận, bánh cuốn Tiền Hải, bún tươi làng Cọi, mọc mò, nước mắm Diêm Điền, bún tươi Đông Xuân, vịt biển Đông Xuyên, bánh gai Đại Đồng, gỏi día Thái Thụy, bún bung hoa chuối, miến rong Đông Thọ, rượu nếp làng Keo, cốm Thanh Hương, mì gạo Tô Đê, cuốn tôm làng Nấp, bánh mật Bách Thuận, nộm sứa Thái Thụy, bánh cuốn tôm chợ Gú, bánh nghệ Tiền Hải, cá vược Thụy Tân, bánh chưng Cầu Báng, giò lây, bánh đúc làng Tè, đậu phụ làng Kênh, bánh giò Bến Hiệp, nước mắm Nam Hải, bánh chưng đường Tiền Hải, ổi Bo, thuốc lào An Cố, mắm cáy Hồng Tiến. Những làng nghề nổi tiếng. Làng nghề chạm bạc Đồng Xâm. Làng nằm ở phía Bắc của huyện Kiến Xương, thuộc xã Hồng Thái, đây là một làng nghề chạm khắc trên mặt kim loại. Cách đây hơn 400 năm nghệ nhân nghề chạm bạc tên là Nguyễn Kim Lâu theo thuyền dọc sông Trà Lý về lập nghiệp ở đây. Ông đã truyền nghề chạm bạc cho dân làng, trải qua nhiều thời kỳ đến nay nghề vẫn được duy trì và ngày càng phát triển. Sau khi ông mất, để tưởng nhớ đến công lao của ông, nhân dân ở đây đã lập đền thờ ông ở ngay làng gọi là Đền Đồng Xâm. Hàng năm lễ hội đền Đồng Xâm được tổ chức từ ngày 1- 3/4 âm lịch với nghi lễ rước, tế linh đình, các trò chơi dân gian được duy trì và mở rộng nên đã thu hút được nhiều du khách từ các tỉnh, thành về dự. Vào ngày hội các sản phẩm chạm bạc của làng được trưng bày và bán hàng lưu niệm. Làng Nguyễn. Làng Nguyễn chỉ là một tên gọi khác của xã Nguyên Xá huyện Đông Hưng tỉnh Thái Bình. Nói tới Thái Bình là mọi người nghĩ ngay đến một món đặc sản đó là Bánh Cáy Làng Nguyễn. Cũng không biết nghề làm Bánh Cáy có từ bao giờ nhưng tương truyền ngày xửa ngày xưa hoàng tử con vua mắc bệnh biếng ăn, bao nhiêu là cao lương ngũ vị nhưng hoàng tử cũng chẳng chịu ăn và ngày một gầy đi. Hoàng thượng lo lắng đã ban chiếu trong cả nước mong tìm được một món ăn làm cho hoàng tử thích nhất. Sau một thời gian chiếu ban, bao nhiêu là món ngon của lạ được dâng lên nhưng tất cả đều không được hoàng tử để ý đến, tất cả triều đình đều lo cho sức khỏe của người. Một hôm, có một người ăn mặc rách rưới đến xin được yết kiến hoàng thượng và nói rằng có thể làm một món mà sẽ làm cho hoàng tử thích. Nhìn người đàn bà rách rưới, các quan ra mặt khinh bỉ nhưng nghe nói có thể làm được món mà hoàng tử thích nên cũng để cho làm thử xem sao. Sau khi món ăn được dâng lên thì lạ thay hoàng tử đã rất thích và ăn một cách ngon lành. Đức vua và bá quan văn võ đều lấy làm vui mừng, nhà vua quyết định ban thưởng cho người đàn bà đã làm ra thứ bánh đó. Nhưng khi nhà vua cho triệu tập thì người đó đã bỏ đi, nhà vua cho tìm tung tích nhưng chẳng được kết quả gì, chỉ biết rằng người đó làm nghề mò bán cáy. Để ghi nhớ công ơn của bà, nhà vua quyết định đặt tên cho món đó là món Bánh Cáy. Đó là sự tích mà mọi người được biết về món Bánh Cáy, chẳng biết thục hư ra sao nhưng Bánh Cáy ngày nay đã trở thành một đặc sản của Thái Bình và Làng Nguyễn đã trở thành cái nôi sản sinh ra món đặc sản đó. Làng Chiếu Tân Lễ. Làng Hới (Thái Bình) có nghề dệt chiếu lâu đời và nổi tiếng ở làng Hải Triều xã Tân Lễ Thái Bình (tên tỉnh). Chưa có ai biết nghề chiếu xuất hiện ở Hới từ bao giờ, cũng như Tổ nghề thật sự là ai. Theo truyền thuyết, vào thời Tiền Lê - Lý (thế kỷ X-XI), làng Hới đã bắt đầu dệt chiếu, rồi phát triển mạnh vào thời Hậu Lê (thế kỷ XV). Nghề dệt chiếu Hới thịnh đạt lúc bấy giờ là nhờ công lao của Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (1457 - ?)- Ông người làng Hải Triều, huyện Ngự Thiêm, phủ Tân Hưng. Ông thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Tân Sửu, niêu hiệu Hồng Đức năm thứ 12 (1481) làm quan tới chức Thượng thư. Khi ông lớn lên, làng Hới đã có nghề dệt chiếu từ lâu. Nhưng chiếu dệt khung đứng, không có ngựa đỡ sợi nên chiếu không đẹp. Đi sứ sang Trung Quốc, khi qua vùng Ngọc Hà, Châu Quế Lâm, tỉnh Quảng Tây, Phạm Đôn Lễ đã tìm hiểu và học được bí quyết kỹ thuật dệt chiếu của người Trung Quốc. Đó là kỹ thuật dệt khung nằm, có ngựa đỡ sợi dọc, làm cho sợi đay căng, chao cói nhanh hơn và chiếu đẹp hơn. Ông đã phổ biến kinh nghiệm và kỹ thuật dệt mới cho nhân dân. Ông cho cải tiến khung dệt. Nhờ vậy, chiếu Hới đẹp hơn và nổi tiếng từ đó. Dân làng tôn ông là ông Tổ nghề dệt chiếu, gọi ông là "Trạng Chiếu" và lập đền thờ sau khi ông mất; đền thờ Phạm Trạng nguyên. Như thế, sản phẩm chiếu dệt thủ công của làng Hới từ lâu đã trở thành một sản phẩm tiêu biểu không chỉ của một địa phương nhỏ, mà của cả một tỉnh nông nghiệp loại lớn nhất ở đồng bằng Bắc Bộ và lưu vực sông Hồng. Làng vườn Bách Thuận. Làng Bách Thuận nằm cách Thành phố Thái Bình 10 km theo hướng Cầu Tân Đệ đi Nam Định thuộc huyện Vũ Thư. Đây là một làng vườn trù phú, rìa làng là bãi phù sa nơi trồng dâu nuôi tằm. Trong làng là những vườn cây ăn quả, cây cảnh. Đến Bách Thuận du khách như lạc vào công viên thu nhỏ với đủ các gam màu đậm, nhạt dọc theo hai bên đường làng là màu xanh của cây hòe, táo. Thiên nhiên ưu đãi cho Bách Thuận phát triển nghề vườn truyền thống, ở đây có đủ các loại hoa quả bốn mùa: táo, ổi, cam, chanh, hồng xiêm, roi, chuối bên cạnh những vườn cây ăn quả là những vườn cây cảnh, cây thế. Mỗi loại cây cảnh đều mang một dáng, nét riêng với những tên gọi khác nhau tùy theo sự uốn tỉa của chủ nhân của nó. Bách Thuận còn là một làng quê cổ, tiêu biểu cho vùng quê ở vùng đồng bằng bắc bộ. Nơi đây có chùa Từ Vân và chùa Bách Tính đã được Nhà nước công nhận xếp hạng di tích lịch sử, là một điểm du lịch để du khách đến tham quan, vãn cảnh. Du khách trong và ngoài nước rất thích thú với cảnh quan, môi trường sinh thái ở làng vườn Bách Thuận này. Du lịch. Biển Đồng Châu. Biển Đồng Châu thuộc huyện Tiền Hải, cách thành phố Thái Bình 35 km theo tỉnh lộ đi Kiến Xương - Tiền Hải. Khu du lịch bao gồm bờ biển thuộc xã Đông Minh; Cửa Lân; hai đảo biển Cồn Thủ và Cồn Vành. Diện tích toàn khu du lịch rộng hàng chục km², trung tâm của khu du lịch là bãi biển Đồng Châu dài 5 km, nơi đây đã hình thành hệ thống các khách sạn, nhà nghỉ cao tầng. Ngoài ra, Đồng Châu còn có đền Nhà Bà thờ vợ một vị vua đời Tống bên Trung Quốc đã có công giúp nhà Trần đánh quân Nguyên Mông và đây cũng là cơ sở hoạt động của xứ uỷ Bắc Kỳ trước cách mạng tháng Tám. Khu du lịch sinh thái biển Cồn Vành. Cách đất liền 7 km, Cồn Thủ và Cồn Vành nổi lên như hai ngọn sóng xanh giữa biển khơi. Cồn Thủ có bãi cát trắng mịn, có rừng thông, rừng phi lao xanh ngắt, có bãi tắm nhỏ thơ mộng là địa điểm lý tưởng cho du khách đi tắm biển, tổ chức các cuộc picnic và nghỉ dưỡng bằng tàu thuyền với các trò vui chơi, giải trí trên biển như câu cá, lướt ván, bóng chuyền bãi biển... Cồn Vành rộng 15 km², có khu bảo tồn rừng ngập mặn là điểm dừng chân của các loài chim quý hiếm như cò thìa, bồ nông, mòng biển... Hằng năm nơi đây đã thu hút rất nhiều du khách là các nhà nghiên cứu, khách du lịch tới thăm cồn đảo. Cồn Vành được xem là một điểm có nhiều tiềm năng thuận lợi để phát triển thành một khu du lịch sinh thái lý tưởng và hấp dẫn. Đây là bãi sa bồi rộng gần 2 nghìn hecta, với địa hình tương đối bằng phẳng, nằm ở phía đông xã Nam Phú (Tiền Hải), phía Bắc giáp Cồn Thủ, phía Nam giáp cửa Ba Lạt (cửa sông Hồng), phía Đông giáp biển đông. Cồn Vành thuộc khu vực khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng (đã được UNESCO công nhận vào tháng 12 năm 2004), nằm trong hệ thống liên hoàn các khu rừng ngập mặn ven biển trải dài từ Ninh Bình - Nam Định - Thái Bình. Nơi đây có hệ sinh thái rừng ngập mặn khá phong phú với nhiều loài thực vật như sú, vẹt, bần, thông, trên 200 loài hải sản có giá trị và nhiều loài chim quý hiếm. Ngày nay, nhờ có tuyến đê PAM dài gần 10 km và 4 cây cầu mới được xây dựng, nối liền các nhánh sông, việc đi lại đã thuận tiện hơn rất nhiều, khiến cho giao thông đến Cồn Vành trở nên dễ dàng hơn. Khu du lịch sinh thái biển Cồn Đen. Cồn Đen Cách đất liền khoảng 3 km thuộc địa phận xã Thái Đô, Thái Thụy, Thái Bình. Cách trung tâm TP Thái Bình khoảng 40 km. Nơi đây vẫn giữ được những nét hoang sơ của một cồn biển đẹp nhất miền Bắc với rừng ngập mặn ven biển gồm những loại sú vẹt, bần đước, và những rặng phi lao thẳng tắp và rừng dừa nước ngập mặn rất hoang sơ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Nam Định là một tỉnh nằm ở phía Nam đồng bằng Bắc Bộ (còn gọi là đồng bằng Sông Hồng), Việt Nam, giáp tỉnh Thái Bình về phía đông bắc, tỉnh Ninh Bình về phía tây nam, tỉnh Hà Nam về phía tây bắc và giáp vịnh Bắc Bộ về phía đông nam. Nam Định có diện tích lớn thứ 52 trong 63 tỉnh thành. Năm 2022, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ 35 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.880.000 người dân, GRDP đạt 92.101 tỉ Đồng (tương ứng với 4 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 49 triệu đồng (tương ứng với 2.130 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,07%. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Nam Định trải dài từ 19°54′B đến 20°40′B và từ 105°55′Đ đến 106°45′Đ. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Nam Định, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 90 km về phía tây bắc, cách trung tâm thành phố Hải Phòng khoảng 90 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Nam Định:. Tỉnh Nam Định có diện tích là 1.668 km² và dân số năm 2020 là 1.780.033 người. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Địa hình Nam Định có thể chia thành 3 vùng: Nam Định có bờ biển dài 72 km có điều kiện thuận lợi cho chăn nuôi và đánh bắt hải sản. Ở đây có khu bảo tồn thiên nhiên quốc gia Xuân Thủy (huyện Giao Thủy) và có 4 cửa sông lớn: cửa Ba Lạt sông Hồng, cửa Đáy sông Đáy, cửa Lạch Giang sông Ninh Cơ và cửa Hà Lạn sông Sò. Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Tỉnh Nam Định có 2 trong số 5 khu vực đa dạng sinh học được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới châu thổ sông Hồng đầu tiên của Việt Nam theo công ước RAMSA, 2 khu vực còn lại thuộc Thái Bình và Ninh Bình. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng nằm trên địa bàn các xã ven biển thuộc 3 tỉnh Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới từ năm 2004 với những giá trị nổi bật toàn cầu về đa dạng sinh học và có ảnh hưởng lớn đến sự sống của nhân loại. Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng là một trong 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới ở Việt Nam. Tại Nam Định, phạm vi do UNESCO công nhận gồm 2 tiểu vùng nằm ở cửa Ba Lạt và cửa Đáy. Khí hậu. Khí hậu của Nam Định mang tính chất nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ không khí trung bình tăng dần từ bắc xuống nam (mùa đông), vùng ven biển mùa đông ấm hơn vùng trong nội địa, tháng 1 bình quân từ 16-18 độ (thành phố nam định 16.4 độ, Thịnh Long 17.2 độ) tháng 7 trên 29 độ. Lượng mưa trung bình trong năm từ 1.650 – 1.800 mm, chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa ít mưa từ tháng 11 đến tháng 2 năm sau. Số giờ nắng trong năm: 1.600 – 1.700 giờ. Độ ẩm tương đối trung bình: 80 – 90 %. Mặt khác, do nằm trong vùng ven biển vịnh Bắc Bộ nên hàng năm Nam Định thường chịu ảnh hưởng của bão hoặc áp thấp nhiệt đới, bình quân từ 4 – 6 cơn/năm. Thủy triều tại vùng biển Nam Định thuộc loại nhật triều, biên độ triều trung bình từ 1,6 – 1,7 m; lớn nhất là 3,31 m và nhỏ nhất là 0,11 m. Hành chính. Tỉnh Nam Định có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 226 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 188 xã, 22 phường và 16 thị trấn. Tỉnh lỵ là thành phố Nam Định. Trong đó, huyện Mỹ Lộc có diện tích nhỏ nhất và dân số thấp nhất tỉnh. Lịch sử. Thời tiền sử. Trên đất Nam Định, dấu tích con người ở thời kỳ này còn lưu lại ở các dãy núi thuộc huyện Vụ Bản và huyện Ý Yên nằm về phía tây bắc của tỉnh. Tại đây đã tìm thấy những chiếc rìu đá có vai mài lưỡi, các hòn nghè, chày đá và bàn nghiền. Đó là những dấu tích của những cư dân thuộc thời kỳ đồ đá mới hoặc sơ kỳ đồ đồng đã từ vùng rừng núi tiến xuống khai phá vùng đồng bằng ven biển để sinh sống và dần dần tiến tới lập các làng xóm. Vào lúc cực thịnh của thời kỳ đồ đá, ở tỉnh Nam Định cũng như nhiều địa điểm khác trên đất nước, đã nở rộ những nền văn hoá nguyên thủy. Ngoài kinh tế hái lượm những sản phẩm sẵn có trong tự nhiên, người nguyên thủy trên đất Nam Định đã bắt đầu sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Thời dựng nước. Nằm trong cương vực nước Văn Lang của các vua Hùng trải dài từ miền trung du đến miền đồng bằng ven biển, vùng đất Nam Định khi ấy tương đương với đất các huyện Vụ Bản, Ý Yên, Mỹ Lộc, thành phố Nam Định và phần phía bắc của huyện Nam Trực hiện nay. Theo ngọc phả đền thờ Tam Bành ở thôn Bảo Ngũ, xã Quang Trung thì vào thời Hùng Vương, huyện Vụ Bản có tên là huyện Bình Chương thuộc bộ Lục Hải, là một trong 15 bộ của nước Văn Lang. Huyện Bình Chương lúc đó nằm sát biển. Tại đây có cửa biển Côi Sơn (núi Gôi) mà dấu vết còn lại đến ngày nay là địa danh cồn Dâu, cồn Cói ở các vùng quanh chân núi. Cùng với các nghề trồng lúa nước, trồng rau củ và hoa quả thì những ngành kinh tế khai thác vẫn giữ vai trò quan trọng. Tại di chỉ núi Hổ, trong các di vật tìm được có nhiều mũi tên bằng đá và xương động vật. Cách đó không xa tại hang Lồ (núi Lê) cũng tìm thấy khá nhiều các loại xương thú khác nhau. Săn bắn bổ sung nguồn thức ăn nhiều dinh dưỡng cho con người, đồng thời cung cấp da, xương, sừng cho một số nghề thủ công như chế tạo đồ trang sức, đồ dùng, vũ khí. Năm 1963, tại núi Mai Độ (còn gọi là núi Hình Nhân) thuộc xã Yên Tân, huyện Ý Yên đã phát hiện một số hiện vật đồng có giá trị. Núi có 4 đỉnh, đỉnh cao nhất cao 52m. Đây là núi đá có lẫn đất, không có cây cao, trên mặt chỉ phủ một lớp cỏ mỏng. Sườn phía đông có một khoảng đất tương đối bằng phẳng, rộng độ 2 sào, nguyên trước có một kiến trúc tôn giáo không biết của đời nào vì đã bị phá hủy từ lâu. Cách chân núi về phía Tây 400m là thôn Mai Độ, phía Đông là thôn Mai Sơn, xung quanh núi là cánh đồng chiêm. Các hiện vật đồng được phát hiện gồm có dao, giáo và rìu. Thời Bắc thuộc. Sau khi nước Nam Việt bị nhà Tây Hán đánh chiếm vào năm 111 TCN, đất nước bước vào một thời kỳ Bắc thuộc kéo dài hơn một nghìn năm. Nam Định lúc đó nằm trong quận Giao Chỉ. Do điều kiện thuận lợi cho nghề trồng lúa nước, vùng đất Nam Định trở thành một trung tâm nông nghiệp từ rất sớm. Trên cơ sở một nền văn hoá bản địa vững chắc thể hiện bản lĩnh, cá tính, lối sống và truyền thống mà cốt lõi là ý thức độc lập, tự chủ và tinh thần yêu quê hương, đất nước, cư dân Nam Định cổ đã tiếp thu những yếu tố văn hoá mới, làm phong phú thêm văn hoá truyền thống. Tuy nhiên, nét bao trùm lên lịch sử thời kỳ Bắc thuộc trên đất Nam Định vẫn là cuộc đấu tranh chống lại ách đô hộ và âm mưu đồng hoá của phong kiến ngoại bang, mà tiêu biểu là nhân dân Nam Định nói chung và đặc biệt là phụ nữ, đã hăng hái tham gia và nhanh chóng đứng dưới ngọn cờ nghĩa của Hai Bà Trưng (Đầu năm 40) chống lại ách đô hộ của nhà Đông Hán. Theo tư liệu lịch sử hiện có, Nam Định có tới 20 tướng lĩnh cả nam lẫn nữ tham gia cuộc khởi nghĩa này. Dấu tích về các tướng lĩnh tham gia khởi nghĩa tập trung nhiều ở huyện Vụ Bản, như: Lê Thị Hoa ở Phú Cốc, Chu Liên Hoa ở làng Vậy, Dung Nương và Phương Dung ở làng Cựu, Trần Cao Đạo ở làng Riềng, Trần Công Mẫn ở xã Trung Thành... Năm 542, Lý Bí nổi dậy khởi nghĩa chống lại ách đô hộ của nhà Lương. Sau bốn năm chiến đấu anh dũng, cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi, Lý Bí lên ngôi, xưng Hoàng Đế, xây dựng nước Vạn Xuân độc lập. Đóng góp vào cuộc khởi nghĩa này, Nam Định có tướng quân Hoàng Tề ở làng Lập Vũ (nay thuộc xã Hợp Hưng, huyện Vụ Bản). Ông được Lý Bí phong chức Túc vệ tướng quân, ban gươm báu và luôn cho hầu bên mình. Khi Lý Bí qua đời, Hoàng Tề theo Triệu Quang Phục. Thời Ngô - Đinh - Tiền Lê. Sau khi Ngô Quyền mất, vùng hạ lưu sông Hồng khi đó chịu sự chi phối của sứ quân Trần Lãm. Đất Nam Định dần trở thành nơi hội tụ và đối đầu quyết liệt của hào khí bốn phương, trong danh sách 12 sứ quân, rất nhiều vị tướng nhà Đinh và các sứ quân như: Trần Lãm, Lã Đường, Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Khoan, Phạm Bạch Hổ được thờ ở đây. Đinh Bộ Lĩnh – người anh hùng "tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời", tự nhận về mình sứ mệnh thiêng liêng dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước – không thể không tìm về vùng đất duyên hải cửa sông này. Thời Lý - Trần. Dưới thời Lý, Trần, Nam Định không những là một cửa ngõ của cả vùng châu thổ sông Hồng mà còn là một trung tâm kinh tế quan trọng. Các vua Lý đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vùng đất này. Qua các tư liệu lịch sử, ta biết trên đất Nam Định xưa, nhà Lý đã cho xây ít nhất hai hành cung làm nơi cho vua dừng chân nghỉ lại trong những lần đi kinh lý vùng đất này. Vào thời Trần, Thiên Trường được coi như kinh đô thứ hai. Vị trí ứng với khu vực tháp Phổ Minh và Đền Trần ngày nay. Nơi đây còn có dấu tích của cung Trùng Quang và cung Trùng Hoa. Do vị trí trọng yếu, Nam Định trở thành một trong những nơi giao tranh quyết liệt. Năm 1203, quân nổi loạn do Phí Lang và Bảo Lương cầm đầu từ miền Đại Hoàng (Ninh Bình) xuôi theo sông Đáy đến đất Nam Định, mở rộng hoạt động ra vùng hạ lưu. Sự rối loạn lên đến cực điểm vào năm 1208, khi trong nước "người chết đói nằm chồng chất lên nhau". Đúng lúc triều Lý bất lực trong việc điều hành đất nước, vùng đất Nam Định lại là nơi hưng khởi của nhà Trần, một triều đại đầy sức sống đã đưa quốc gia Đại Việt phát triển hưng thịnh và ba lần đánh thắng quân Nguyên - Mông. Đời Trần được gọi là lộ Thiên Trường, sau lại chia làm ba lộ: Kiến Xương, An Tiêm, Hoàng Giang. Thời thuộc Minh. Tháng 5-1407, Minh Thành Tổ hạ chiếu đổi nước ta làm quận Giao Chỉ - như một địa phương của quốc gia phong kiến nhà Minh. Bằng hành động này, nhà Minh đã bộc lộ rõ ý đồ không chỉ chiếm đóng mà còn vĩnh viễn xóa bỏ nước ta, sáp nhập hẳn vào đế quốc Minh như tên gọi và đơn vị hành chính mà các đế chế đô hộ phương Bắc đã dùng từ nửa thiên niên kỷ trước. Dưới quận, nhà Minh chia ra làm 15 phủ. Phần đất Nam Định lúc ấy thuộc hai phủ Kiến Bình và Phụng Hóa. Phủ Phụng Hóa tương đương với phủ Thiên Trường cuối thể kỷ XIV, gồm bốn huyện là Mỹ Lộc, Tây Chân, Giao Thủy và Thận Uy. Bốn trong số chín huyện thuộc phủ Kiến Bình thuộc về đất Nam Định là Ý Yên, An Bản, Vọng Doanh và Đại Loan. Cả hai phủ thuộc tỉnh Nam Định đều bị nhà Minh đổi tên. Kiến Hưng đổi thành Kiến Bình với ý nghĩa xây dựng, kiến lập sự yên ổn, vững chắc, Thiên Trường đổi thành Phụng Hóa hàm ý tuân theo sự giáo hóa, cải hóa của nhà Minh. Thời Hậu Lê. Đời Lê, thuộc xứ Sơn Nam, đến niên hiệu Cảnh Hưng thứ 2 năm 1741, vùng đất này thuộc lộ Sơn Nam Hạ. Nhà nước thời Lê sơ rất quan tâm đến việc nông trang nói chung, công cuộc khai hoang mở rộng diện tích canh tác nói riêng bằng hàng loạt chính sách, nhất là dưới thời Hồng Đức. Cùng với hoạt động khẩn hoang tự nguyện của những người nông dân, chính quyền trung ương nhà Lê cũng đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức khẩn hoang dưới hình thức đồn điền ở phía Nam khu vực sông Hồng, trong đó có Nam Định. Khó có thể thống kê, khảo sát, xác định được đầy đủ những đồn điền thời Lê sơ đã từng có ở Nam Định. Ngoài lý do thời gian đã quá lâu, còn có nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác. Cư dân đầu tiên của các đồn điền này trước hết và chủ yếu là các binh lính, tù binh, tội nhân. Họ ít và khó có điều kiện ghi chép để truyền lại cho đời sau về lịch sử khai hoang lập làng. Tuy nhiên căn cứ vào các nguồn tài liệu chính thống của nhà nước phong kiến như chính sử, điền bạ… Có thể thấy vùng Nam Định tập trung khá nhiều đồn điền như: Sở Vĩnh Hưng (thuộc vùng của tổng Cổ Nông, Trực Ninh) Sở Đông Hải (nơi có các thôn Đắc Sở, Thượng Đồng, Hạ Đồng thuộc Trực Ninh) Sở Hoa Diệp (thuộc vùng Phượng Để, Cổ Lễ, Trực Ninh) Sở Vọng Doanh (nằm trong vùng các xã Yên Quang, Yên Bằng, Yên Khang thuộc Ý Yên). Sự trù mật của các đồn điền ở ven cửa biển vùng Giao Thủy, bên đê sông Hồng, sông Đáy tự đã làm nổi bật lên vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng của vùng đất phủ Thiên Trường với nhà nước thời Lê sơ, với quốc gia Đại Việt nửa sau thế kỷ XV. Nửa sau thế kỷ XV, trên vùng ven biển Nam Định chứng kiến một công trình kết tinh thành quả lao động to lớn của nhân dân Đại Việt. Đó là việc khởi công và hoàn thành đê Hồng Đức, một con đê ngăn nước mặn có quy mô lớn đầu tiên của vùng châu thổ. Với sự đầu tư, quan tâm của trung ương và địa phương như vậy, công cuộc đắp đê ở vùng biển Nam Định, Ninh Bình thời Lê sơ đã được tiến hành với tốc độ nhanh quy mô lớn. Trên địa bàn Nam Định qua những dấu tích còn lại thì thấy đê Hồng Đức kéo dài từ cửa Đại An, qua phần bắc Nghĩa Hưng, rồi Hải Hậu về đến Hội Khê. Nhiều đoạn gần trùng với con đường 56 hiện nay. Cùng với sự phát triển nho học của cả nước, giáo dục Nho học ở Nam Định thế kỷ XV có bước phá triển mới. Ngay sau khi kết thúc chiến tranh, vào năm 1428, nhà Lê đã cho mở các trường học ở phủ, lộ. Điều đáng chú ý là trong thời Lê sơ, sự phát triển của nho học ở Nam Định không chỉ diễn ra trên các vùng đất cổ như Ý Yên, Vụ Bản hay tại vùng xung quanh ấp thang mộc của nhà Trần như Lộc Vượng, mà còn ở cả địa bàn ven biển, nơi các làng mạc mới được hình thành. Trong vòng 100 năm của thời Lê sơ, Nam Định có đến 22 tiến sĩ, đại bộ phận số đại khoa này đều đỗ vào nửa sau thế kỷ XV, cho nên có thể nói Nho học ở Nam Định đã thực sự có bước phát triển mới từ sau khi Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên (1463). Ngoài con số các trạng nguyên tiến sĩ kể trên là biểu hiện quan trọng của thành tựu giáo dục nho học vùng Nam Định, điều đáng nói ở chỗ không ít vị đại khoa đã trở thành những nhân vật tiêu biểu cho trí tuệ, tài năng của Đại Việt thế kỷ XV nói riêng, lịch sử dân tộc nói chung. Thời Nguyễn. Dưới triều Nguyễn, năm 1822 (Minh Mạng thứ 3) đổi tên trấn Sơn Nam Hạ thành trấn Nam Định. Đến năm Minh Mạng 13 (1832) đổi trấn Nam Định thành tỉnh Nam Định (tỉnh Nam Định được thành lập), với 4 phủ, 18 huyện, bao gồm phần đất tỉnh Thái Bình hiện nay. Năm 1890, Thái Bình tách ra thành tỉnh riêng và một phần phía bắc Nam Định tách ra để cùng một phần phía nam Hà Nội lập thành tỉnh Hà Nam. Chữ Hà là từ Hà Nội và Nam là từ Nam Định. Điều này cũng lý giải cho việc vì sao chuối ngự thường được gọi là chuối ngự Nam Định bởi cho đến 1890 vùng Lý Nhân vẫn thuộc Nam Định. Từ năm 1890 Nam Định còn lại 2 phủ và 9 huyện. Công sứ Pháp đầu tiên ở Nam Định vào năm 1890 là Neynet. Thời kỳ độc lập (1945-nay). Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, các đơn vị hành chính trong tỉnh luôn có sự thay đổi. Có một giai đoạn ngắn nơi đây gồm: tỉnh Nam Định, tỉnh Bùi Chu và thành phố Nam Định. Tỉnh lị Nam Định đặt ở Hành Thiện, Xuân Trường. Sau Bùi Chu nhập với Nam Định mang tên tỉnh Nam Định. Ngày 3.9.1957 thành phố Nam Định, trước đó là thành phố trực thuộc Trung ương, sáp nhập vào tỉnh Nam Định.Thành phố Nam Đinh là tỉnh lị của tỉnh Nam Định từ đó. Năm 1953, 7 xã ở phía Bắc sông Đào thuộc huyện Nghĩa Hưng được cắt nhập vào huyện Ý Yên. Đồng thời, 3 huyện: Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên của tỉnh Nam Định nhập vào tỉnh Hà Nam. Đến tháng 4 năm 1956, 3 huyện này lại được cắt trả cho Nam Định. Tháng 5 năm 1965, tỉnh Nam Định được hợp nhất với tỉnh Hà Nam thành tỉnh Nam Hà. Ngày 13 tháng 6 năm 1967, 2 huyện Giao Thủy và Xuân Trường hợp thành huyện Xuân Thủy; thành phố Nam Định được mở rộng thêm trên cơ sở sáp nhập huyện Mỹ Lộc.. Ngày 26 tháng 3 năm 1968, 7 xã phía Nam sông Ninh Cơ thuộc huyện Trực Ninh nhập với huyện Hải Hậu, 2 huyện Trực Ninh và Nam Trực nhập thành huyện Nam Ninh. Năm 1975, Nam Hà hợp nhất với tỉnh Ninh Bình thành tỉnh Hà Nam Ninh. Đến ngày 12 tháng 8 năm 1991, lại chia tách thành 2 tỉnh như cũ là Nam Hà và Ninh Bình. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tách tỉnh Nam Hà để tái lập 2 tỉnh mới có tên là Nam Định và Hà Nam. Khi tách ra, tỉnh Nam Định có 7 đơn vị hành chính gồm thành phố Nam Định và 6 huyện: Hải Hậu, Nam Ninh, Nghĩa Hưng, Vụ Bản, Xuân Thủy, Ý Yên. Ngày 26 tháng 2 năm 1997, tái lập huyện Mỹ Lộc từ một số xã của thành phố Nam Định; chia huyện Xuân Thủy thành hai huyện Xuân Trường và Giao Thủy; chuyển 7 xã phía Nam sông Ninh Cơ thuộc huyện Hải Hậu về huyện Nam Ninh và chia huyện Nam Ninh thành hai huyện Nam Trực và Trực Ninh. Ngày 29 tháng 9 năm 1998, thành phố Nam Định được công nhận là đô thị loại 2. Ngày 28 tháng 11 năm 2011, thành phố Nam Định được công nhận là đô thị loại 1. Như vậy, tỉnh Nam Định có 10 đơn vị hành chính cấp huyện như ngày nay, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện. Dân số. Theo điều tra dân số ngày 1/4/2019, Nam Định có khoảng 1.780.393 người với mật độ dân số 1.078 người/km² tức là cao hơn mật độ các thành phố Đà Nẵng và Cần Thơ. Trong đó 27,1% dân số sống ở đô thị và 72,9% dân số sống ở nông thôn. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 533.378 người, nhiều nhất là Công giáo có 476.960 người, tiếp theo là Phật giáo có 55.940 người, đạo Tin Lành có 470 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 3 người, Phật giáo Hòa Hảo, đạo Cao Đài, Minh Lý đạo, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Bửu Sơn Kỳ Hương mỗi tôn giáo chỉ có 1 người. Kinh tế. Tổng quan. Năm 2021, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam xếp thứ 35 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 11 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với GRDP đạt 84.097 tỉ Đồng (tương ứng với 3,66 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 45,8 triệu đồng (tương ứng với 1.982 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,7%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh năm 2021: Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 20,8%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 41,86%; khu vực dịch vụ chiếm 34,26%. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 6.219 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu trong năm ước đạt 4,08 tỉ USD, trong đó: giá trị hàng xuất khẩu ước đạt 2,63 tỉ USD, tăng 25,5% so với cùng kỳ năm trước. Giá trị hàng hoá nhập khẩu ước đạt 1,45 tỉ USD, tăng 22,3%. Theo Sở Kế hoạch và đầu tư, trong năm 2021 có 882 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký 23.388 tỉ đồng, tăng 9,0%; bên cạnh đó có 421 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 60,1% so với năm trước. Cũng trong năm 2021, hoạt động vận tải có chuyển biến tích cực so với năm trước. Doanh thu vận tải tăng 5,1%, khối lượng hàng hóa luân chuyển tăng 10,5%. Tuy vậy, khối lượng hành khách luân chuyển giảm 9,7% so với cùng kỳ năm trước. Trong 6 tháng đầu năm 2023, tình hình kinh tế - xã hội của Nam Định tiếp tục ổn định, phát triển. Đặc biệt, kinh tế duy trì mức tăng trưởng khá, hầu hết các chỉ tiêu chủ yếu tăng so với cùng kỳ. Theo đó, kinh tế 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 27.221 tỷ đồng, tăng 8,5% so với cùng kỳ và đứng thứ 6 cả nước về tốc độ tăng trưởng. Tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 17.833 tỷ đồng, tăng 20,2% so với cùng kỳ. Nông - lâm - ngư nghiệp. Tính chung năm 2021, diện tích trồng lúa đạt 144.911 ha, giảm 0,3%. Năng suất lúa bình quân cả năm đạt 60,67 tạ/ha, giảm 0,1%. Sản lượng thóc đạt 879.226 tấn, giảm 0,5% so với năm 2020. Rau màu và cây hàng năm các loại gieo trồng 29.926 ha, giảm 2,4% so với năm trước. Tổng đàn trâu là 7.726 con, tăng 0,6% so với năm 2020; đàn bò 28.011 con, giảm 1,5%; đàn lợn (không tính lợn con chưa tách mẹ) ước tính là 641.050 con, tăng 0,1%; sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng cả năm đạt 150.470 tấn, tăng 0,2% so với năm 2020. Tổng đàn gia cầm là 9.467 nghìn con, tăng 6,1%; sản lượng thịt gia cầm các loại ước đạt 32.361 tấn. Năm 2021, ngành Lâm nghiệp tỉnh đã tăng cường trồng rừng, trồng cây phân tán để có vành đai xanh bảo vệ, phòng chống bão lũ, cải tạo môi trường sinh thái, ứng phó biến đổi khí hậu với 31,11 ha rừng và trồng 1,6 triệu cây phân tán các loại. Sản lượng gỗ khai thác ước đạt 4.578 m3 , tăng 2,6%. Sản lượng thủy sản ước đạt 178.572 tấn, tăng 4,7% so với năm trước; trong đó, sản lượng thủy sản nuôi trồng 121.131 tấn; khai thác 57.441 tấn, tăng 1,9%. Công nghiệp. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) năm 2021 ước tăng 13,30% so với năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 13,51%, đóng góp 13,05 điểm phần trăm vào mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,07%, đóng góp 0,12 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 9,26%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 3,27%, làm giảm 0,01 điểm phần trăm. Dịch vụ. Năm 2021, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ ước đạt 52.712 tỷ đồng, tăng 11,9% so với năm trước. Xét theo ngành hoạt động: Doanh thu hoạt độngthương nghiệp ước đạt 47.087 tỷ đồng, chiếm 89,3% tổng mức, tăng 13,1% so với năm 2020; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 2.787 tỷ đồng, giảm 1,7%; doanh thu du lịch lữ hành là 7 tỷ đồng, giảm 32,8%; doanh thu dịch vụ đạt 2.831 tỷ đồng, tăng 7,8%. Giao thông. Có : quốc lộ 10, : quốc lộ 21A, : quốc lộ 37B, : quốc lộ 38B, : đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình, : đường cao tốc Ninh Bình – Hải Phòng đi qua. Văn hóa - xã hội. Nam Định là nơi bảo tồn nhiều giá trị văn hóa truyền thống của nền văn minh lúa nước với ẩm thực đặc trưng, các làng nghề, lễ hội, đình, chùa, thánh đường. Nam Định là trung tâm của văn hóa xứ Sơn Nam, cũng như vùng Sơn Nam Hạ. Nam Định có 2359 di tích, trong đó có 384 di tích được xếp hạng gồm 85 di tích cấp quốc gia, 2 di tích quốc gia đặc biệt, 297 di tích cấp tỉnh; tỉnh có 5 bảo vật quốc gia. Di tích lịch sử. Làng Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định xưa là phủ Thiên Trường là quê hương của các vua nhà Trần, một trong những triều đại lừng danh nhất trong lịch sử Việt Nam với chiến tích 3 lần chiến thắng Nguyên Mông. Đặc sản ẩm thực. Khái quát. Nam Định có nhiều đặc sản nổi tiếng như: Gạo tám xoan Hải Hậu và Chuối ngự là hai vật phẩm dùng để tiến vua thời phong kiến. Gỏi nhệch, gỏi sứa, cá nướng thơm Hải Hậu. Giò truyền thống với đa dạng các loại giò lụa, giò xào. Ngoài ra còn có gạo nếp cái hoa vàng Hải Hậu. Thịt cầy, tiểu hổ Nam Trực, Phở bò Nam Định, Bánh gai, Bánh chưng Bà Thìn - Hải Hậu, kẹo dồi (được cho là xuất phát từ ngôi làng trong tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố), bánh đậu xanh, bánh nhãn - Hải Hậu, Kẹo Sìu Châu (là kẹo lạc Nam Định. Nguyên lò nấu kẹo nổi tiếng đầu tiên nằm gần một hội quán của người Triều Châu, nên có tên dân gian là kẹo Sìu Châu); bún chả Thành Nam, nem nắm Giao Thủy, nem Chạo Giao Xuân - Giao Thủy, gỏi. Nem chạo Giao Xuân - Giao Thủy. Các đặc sản biển Hải Hậu, Giao Thủy là món ăn nổi tiếng toàn quốc nhất là khu vực phía nam, không những thế du khách thế giới cũng rất ưa thích. Với các món ăn trên người Nam Định thường dùng với rượu Bỉnh Ri - Giao Thịnh nổi tiếng xưa nay được lên men từ loại gạo nếp thơm ngon của huyện Giao Thủy. Danh sách ẩm thực Nam Định. Nam Định có các đặc sản, ẩm thực như: bánh cuốn làng Kênh, phở bò Nam Định, rượu Kiên Lao, mắm cáy Hoành Nha, gạo tám Xuân Đài, xôi cá rô, thính gạo Yên Định (Hải Hậu), kẹo Sìu Châu, bún đũa Nam Định, bánh rang Cát Thành, gỏi nhệch, miến dong làng Phượng, cáy mật Xuân Thủy, bánh khúc, nộm rau câu Giao Thủy, tái thỏ Hải Hậu, bún cá Nam Định, bánh đa nem Xuân Tiến, bánh giầy Vị Dương, nước mắm Ngọc Lâm, chè kho Nam Định, gạo thơm tám xoan Hải Hậu, củ niễng, bánh phở Đồng Sơn, bánh chưng bà Thìn Yên Định, bánh xíu páo, bún tươi Phong Lộc, nước mắm Sa Châu, nếp cái Quần Liêu, bánh gối, hải sản Giao Thủy, hải sản Hải Hậu, kẹo lạc Thượng Nông, bánh gai Nam Định, xôi xíu, miến khô Nghĩa Lâm, bánh nhãn Đông Cường, nem ốc móng tay Giao Thủy, thịt chuột Vạn Lộc, miến khô Xuân Tiến, cau Hải Đường, chuối ngự, đậu phụ Mỹ Hà, cá nướng úp chậu Phương Định, gạo dự hương Nam Mỹ (Nam Trực), rượu Bỉnh Di, thịt chó tiểu hổ Cầu Vòi, kẹo dồi, nem nắm Giao Thủy. Công giáo Nam Định. Tỉnh Nam Định có rất nhiều nhà thờ Công giáo cổ kính. Các giáo xứ, giáo họ ở đây thuộc về Tổng Giáo phận Hà Nội (phần lớn thành phố Nam Định và các huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên) và Giáo phận Bùi Chu (phía nam thành phố Nam Định và 6 huyện còn lại). Trong số 117 Thánh tử vì đạo tại Việt Nam có đến 32 vị thánh có sinh quán tại Nam Định. Sách "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" của Quốc sử quán triều Nguyễn viết theo dã lục rằng Nam Định là nơi có giáo sĩ Công giáo đầu tiên đến truyền đạo ở Việt Nam, vào năm Nguyên Hòa thứ nhất, tức năm 1533. Thể dục - Thể thao. Nam Định có nhiều trung tâm thể thao lớn là Sân vận động Thiên Trường (tên cũ là Sân vận động chùa Cuối), Nhà thi đấu Trần Quốc Toản, các trận bóng đá và bóng chuyền được tổ chức tại đây. Hai trung tâm này nằm trên đường Hùng Vương, Hàn Thuyên, Trường Chinh của thành phố Nam Định. Năm 2014, tỉnh Nam Định đã khánh thành và đưa vào sử dụng Cung thể thao tỉnh Nam Định gồm nhà thi đấu đa năng 4000 chỗ ngồi và bể bơi có mái che đạt chuẩn quốc tế để phục vụ Đại hội thể dục thể thao toàn quốc lần thứ VII do Nam Định đăng cai làm chủ nhà. Ngoài ra còn có rất nhiều sân thể thao mini phục vụ phong trào thể thao quần chúng với các môn thể thao phổ biến là cầu lông, bóng đá, bóng chuyền. Bóng đá Nam Định đã hai lần đoạt chức vô địch Đông Dương trong tên gọi Đội Cotonkin năm 1941, 1945, vô đich quốc gia năm 1985, lúc đó mang tên đội bóng Công nghiệp Hà Nam Ninh, với danh thủ Nguyễn Văn Dũng . Năm 2001, đội Nam Định về nhì giải vô địch quốc gia. Năm 2007, đội bóng đá Nam Định với tên gọi Đạm Phú Mỹ Nam Định đoạt Cúp Quốc gia lần đầu tiên. Đội bóng Nam Định đăng quang ngôi Vô địch U21 QG năm 2011. Giáo dục. Khái quát chung. Từ xa xưa mảnh đất Nam Định luôn được mệnh danh là "đất học" , là một tỉnh có bề dày văn hóa và truyền thống hiếu học bậc nhất của cả nước. Sở Giáo dục cũng như Đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia nhiều năm xếp thứ nhất toàn quốc. Ngoài ra còn có nhiều học sinh đạt giải trong các kì thi OLYMPIC quốc tế, khẳng định truyền thống hiếu học của mảnh đất thành Nam. Trường Trung học phổ thông chuyên Lê Hồng Phong (tức Trường Thành Chung Nam Định xưa) là một trong những ngôi trường Chuyên nổi tiếng hàng đầu của cả nước với bề dày thành tích đáng nể 100 năm xây dựng và phát triển. Trường cũng thường được gọi là "trường Lê", để phân biệt với trường cùng tên ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra, còn có một số ngôi trường khác cũng khá nổi bật là các trường THPT Giao Thủy, (trường chuẩn quốc gia năm 2003), trường THPT Xuân trường A, THPT Trần Hưng Đạo (trường chuẩn quốc gia năm 2009), THPT Nguyễn Khuyến (trường chuẩn quốc gia), THPT Hải Hậu A (trường chuẩn quốc gia năm 2003), THPT Tống Văn Trân (trường chuẩn quốc gia năm 2012), THPT Lý Tự Trọng, THCS Trần Đăng Ninh, Tiểu học Phạm Hồng Thái, THCS Nguyễn Hiền, THPT B Nghĩa Hưng, THPT Mỹ Tho - Ý Yên. Ngoài ra trong top 200 trường có kết quả cao nhất cả nước thì Nam Định có tới 17 trường, cứ trung bình mỗi trung tâm cấp huyện hay thành phố có 2 trường nằm trong top các trường dẫn đầu cả nước chiếm tỷ lệ xấp xỉ 50% các trường toàn tỉnh. Trong Top 100 trường Trung học phổ thông tốt nhất Việt Nam năm 2009, Nam Định có tới 7 trường. Nam Định có Trường Đại học Điều dưỡng được thành lập năm 2005 là trường Đại học đào tạo về Điều Dưỡng đầu tiên của cả nước (257 Hàn Thuyên, Thành phố Nam Định); ngoài ra còn có các trường ĐH khác như trường Đại học Sư phạm kỹ thuật Nam Định; trường Đại học Dân Lập Lương Thế Vinh; trường Đại học Kinh tế kỹ thuật công nghiệp; trường Cao đẳng Sư phạm Nam Định và 12 trường cao đẳng khác... Thành tựu giáo dục. Về giáo dục phổ thông, tỉnh Nam Định thường xếp vị trí thứ nhất trong các bảng thống kê về kết quả thi THPT Quốc gia, thi tốt nghiệp, tỷ lệ đỗ đại học... Về giáo dục chất lượng cao, thành tựu của tỉnh Nam Định có thể liệt kê sơ bộ theo các năm học dưới đây: Năm học 2020 - 2021: 1 HCĐ Olympic Toán học Quốc tế (Trần Nhật Minh) Năm học 2019 - 2020: 1 HCV Olympic Hoá học Quốc tế (Nguyễn Văn Hoàng) Phạm Minh Nguyệt (Nam Trực - Nam Định) tốt nghiệp Thủ Khoa học viện Nông Nghiệp Năm học 2018 - 2019 1 HCB Olympic Hóa học Quốc tế (Phạm Thanh Lâm) Năm học 2017 - 2018: 1 HCB Olympic Hóa học Quốc tế (Hoàng Thanh Tùng) 1 em dành học bổng toàn phần bậc đại học ở 12 trường đại học danh tiếng thế giới, trong đó có ĐH Stanford và ĐH Chicago ở Mỹ (Vũ Đức Tài) 1 em dành học bổng 4 tỷ đồng ở bậc đại học ở đại học ĐH Texas Christian ở Mỹ (Nguyễn Thị Thúy Quỳnh) Năm học 2016 - 2017: 1 em dành học bổng toàn phần bậc đại học ở học viện công nghệ hàng đầu thế giới, Massachusetts Institute of Technology, ở Mỹ (Đinh Thị Hương Thảo) Năm học 2015 - 2016: 1 HCV Olympic Vật Lý Quốc tế, 1 HCB Olympic Vật Lý châu Á (Đoàn Thị Anh Thư), 1 HCĐ Olympic Toán học Quốc tế (Vũ Đức Tài), 1 HCĐ Olympic Vật Lý Quốc tế (Phạm Ngọc Nam), 2 HCĐ Olympic Vật Lý châu Á (Phạm Ngọc Nam, Nguyễn Văn Quân), 1 Bằng khen Olympic Vật lý châu Á (Đỗ Thùy Trang) 1 HCB Olympic Hóa học Quốc tế (Nguyễn Thành Trung) , 1 HCB Olympic Hóa học Quốc tế (Nguyễn huy Hoang- truong Am) 1 thủ khoa Khối A1 toàn quốc năm 2016 (Trần Trung Dũng) Ngày 21/08/2016, Olympia 16 kết thúc, THPT chuyên Lê Hồng Phong (Nam Định) đã đạt giải á quân (Lâm Vũ Tuấn) Năm học 2014 - 2015: 1 HCV Olympic Vật Lý Quốc tế,1 HCB Olympic Vật Lý châu Á (Đinh Thị Hương Thảo) 1 HCĐ Olympic Sinh học quốc tế (Phạm Minh Đức) 1 thủ khoa Khối B toàn quốc năm 2015 (Nguyễn Hoàng Hải) 2013-2014:(nguồn: trang wiki trường Lê Hồng Phong Nam Định) 2012-2013: 2011-2012: 2010-2011: 2009 - 2010: 2008 - 2009: 2006 - 2007: 2005 - 2006: 2003 - 2004: 2002 - 2003: 2000 - 2001: 1999 - 2000: 1998 - 1999: 1997 - 1998: 1996 - 1997: 1994 - 1995: 1993 - 1994: Danh nhân. Nam Định là quê hương của nhiều chính khách và học giả nổi tiếng. Dưới đây là một số cá nhân tiêu biểu cho đất và người nơi đây: Tỉnh kết nghĩa. Mỹ Tho vốn là tên một tỉnh cũ ở miền Tây Nam Bộ (Đồng bằng sông Cửu Long) và thuộc Khu 8 (còn gọi là Khu Trung Nam bộ) trong Chiến tranh Việt Nam. Trong giai đoạn 1967-1968, lần lượt địa bàn tỉnh Mỹ Tho được chia ra thành ba đơn vị hành chính cấp tỉnh, cùng tồn tại độc lập, ngang hàng nhau là tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho. Trong đó, thành phố Mỹ Tho giữ vai trò là trung tâm chỉ đạo của toàn Khu 8 lúc bấy giờ. Tháng 2 năm 1976, ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau này được hợp nhất thành một tỉnh có tên gọi mới là tỉnh Tiền Giang cho đến ngày nay. Từ đó, Mỹ Tho chỉ còn là tên gọi của thành phố tỉnh lỵ trực thuộc tỉnh này: thành phố Mỹ Tho. Tháng 8 năm 1968, tại huyện Ý Yên thuộc tỉnh Nam Định ngày nay đã có một trường học mới được thành lập, lấy tên là Trường Cấp III Mỹ Tho và ngày nay là trường Trung học phổ thông Mỹ Tho - một mái trường mang tên của một tỉnh miền Nam kết nghĩa với tỉnh Nam Định. Hiện tại, thành phố Nam Định có chợ lớn thứ hai trong thành phố có tên gọi là chợ Mỹ Tho. Đầu năm 2014, tuyến đường D3 trong Khu đô thị mới Thống Nhất ở thành phố Nam Định cũng được đặt tên là đường Mỹ Tho. Tháng 8 năm 2013, chính quyền thành phố Mỹ Tho cũng ra quyết định thành lập trường Trung học cơ sở Nam Định. Xem thêm. Di sản tôn giáo, tín ngưỡng: Di tích lịch sử thời Trần: Di tích lịch sử thời Nguyễn: Di sản văn hóa khác:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Ninh Bình là một tỉnh thuộc Nam Đồng bằng Sông Hồng và nằm ở cửa ngõ cực Nam miền Bắc, Việt Nam. Năm 2021, Ninh Bình là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 44 về số dân, xếp thứ 21 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 29 về GRDP bình quân đầu người. Với 973.300 người dân, GRDP đạt 85.035 tỉ Đồng (tương ứng với 3,61 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 72,04 triệu đồng (tương ứng với 3.118 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 5,71%. Ninh Bình thuộc khu vực đồng bằng sông Hồng dù chỉ có 2 huyện là Yên Khánh và Kim Sơn có địa hình bằng phẳng. Quy hoạch xây dựng phát triển kinh tế xếp Ninh Bình vào vùng duyên hải Bắc Bộ. Vùng đất Ninh Bình xưa là kinh đô của Việt Nam giai đoạn 968–1010 với 3 triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý và cũng là địa bàn quan trọng về quân sự qua các thời kỳ lịch sử. Với vị trí đặc biệt về giao thông, địa hình, lịch sử văn hóa đồng thời sở hữu hai khu vực là di sản thế giới và khu dự trữ sinh quyển thế giới, Ninh Bình hiện là một trung tâm du lịch có tiềm năng phong phú và đa dạng. Ninh Bình là tỉnh đầu tiên ở đồng bằng sông Hồng có 2 thành phố trực thuộc (Ninh Bình, Tam Điệp). Địa lý. Vị trí địa lý. Ninh Bình nằm ở vị trí ranh giới 3 khu vực địa lý: Tây Bắc, châu thổ sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Tỉnh này cũng nằm giữa 3 vùng kinh tế: vùng Hà Nội, vùng duyên hải Bắc Bộ và vùng duyên hải miền Trung. Ninh Bình nằm ở trọng tâm của nửa phía Bắc Việt Nam, khu vực các tỉnh từ Thừa Thiên Huế trở ra, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Ninh Bình:. Trung tâm tỉnh là thành phố Ninh Bình cách thủ đô Hà Nội 93 km về phía Nam. Thành phố Tam Điệp cách Thủ đô Hà Nội 105 km. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Ở vị trí điểm mút của cạnh đáy tam giác châu thổ sông Hồng, Ninh Bình bao gồm cả ba loại địa hình. Vùng đồi núi và bán sơn địa ở phía Tây Bắc bao gồm các huyện Nho Quan, Gia Viễn, Hoa Lư, Tam Điệp. Đỉnh Mây Bạc thuộc rừng Cúc Phương với độ cao 648 m là đỉnh núi cao nhất Ninh Bình. Vùng đồng bằng ven biển ở phía Đông Nam thuộc 2 huyện Kim Sơn và Yên Khánh. Có nhiều hồ nước như tự nhiên như hồ Đồng Chương, hồ Một đến Bốn Yên Quang, hồ Yên Thắng, hồ Mùa Thu, hồ Đá Lải, hồ Đồng Thái... Xen giữa 2 vùng lớn là vùng chiêm trũng chuyển tiếp. Rừng ở Ninh Bình có đủ cả rừng sản xuất và rừng đặc dụng các loại. Có 4 khu rừng đặc dụng gồm rừng Cúc Phương, rừng môi trường Vân Long, rừng văn hóa lịch sử môi trường Hoa Lư và rừng phòng hộ ven biển Kim Sơn. Khu rừng đặc dụng Hoa Lư - Tràng An đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới thuộc quần thể danh thắng Tràng An. Ninh Bình có bờ biển dài 18 km và là tỉnh có chiều dài bờ biển ngắn nhất Việt Nam. Bờ biển Ninh Bình hàng năm được phù sa bồi đắp lấn ra trên 100m. Vùng ven biển và biển Ninh Bình đã được UNESCO công nhận là khu dự trữ sinh quyển thế giới. Hiện 2 đảo thuộc Ninh Bình là đảo Cồn Nổi và Cồn Mờ. Ninh Bình nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm: mùa hè nóng ẩm, mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10 là tỉnh duy nhất ở Bắc Bộ mùa mưa kết thúc muộn hơn cả vào tháng 10 (quy chuẩn tính tháng mùa mưa được tính bằng lượng mưa trung bình của các tháng có lượng mưa trung bình cao hơn tổng lượng mưa trung bình cả năm chia cho 12); mùa đông khô lạnh từ tháng 11 năm trước đến tháng 3 năm sau; tháng 4, tháng 10 là mùa xuân và mùa thu, tuy không rõ rệt như các vùng nằm phía trên vành đai cận nhiệt đới. Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.700-1.900 mm; Nhiệt độ trung bình 23,5 °C; Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.700 giờ; Độ ẩm tương đối trung bình: 80-85%. Hành chính. Tỉnh Ninh Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố và 6 huyện với 143 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 119 xã, 17 phường và 7 thị trấn. Lịch sử. Ninh Bình xưa cùng với một phần Thanh Hóa thuộc bộ Quân Ninh, nước Văn Lang. Tới cuối thời Hùng Vương thì bộ Quân Ninh sáp nhập hoàn toàn vào bộ Cửu Chân. Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất, địa phận bộ Quân Ninh cũ sau khi sáp nhập vào Cửu Chân được chia thành 2 huyện thuộc quận Cửu Chân là Vô Biên và Vô Công. Huyện Vô Biên nay là các huyện Vĩnh Lộc, một phần huyện Cẩm Thủy, huyện Thạch Thành và thị xã Bỉm Sơn, huyện Hà Trung, trị sở nằm ở khu vực thành nhà Hồ. Huyện Vô Công hay Vô Thiết tương ứng với các huyện Gia Viễn, Nho Quan, Yên Khánh, Hoa Lư nói cách khác là gần như toàn bộ tỉnh Ninh Bình ngày nay (trừ huyện Kim Sơn mới được khai hoang thời Nguyễn). Thời thuộc Hán, Ninh Bình thuộc quận Giao Chỉ, thời thuộc Đông Ngô về sau thuộc Giao Châu, thuộc Lương là châu Trường Yên. Năm 968, vua Đinh Tiên Hoàng dẹp xong loạn 12 sứ quân lên ngôi hoàng đế đóng đô tại Hoa Lư và đổi tên gọi Trường Châu thành Trường An. Năm Thuận Thiên thứ nhất (1010) Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, và Ninh Bình nằm trong phủ Trường An. Nhưng đến cuối đời Lý có lúc gọi là châu Đại Hoàng Giang. Đầu đời Trần đổi là lộ Trường Yên. Đời Trần Thuận Tông, năm Quang Thắng 10 (1397) đổi trấn Trường Yên làm trấn Thiên Quan. Thời thuộc Minh lấy lại tên cũ là châu Trường Yên thuộc phủ Kiến Bình. Đời Lê Thái Tổ lại gọi là trấn. Năm Quang Thuận 10 (1469) đời Lê Thánh Tông định bản đồ toàn quốc, chia trấn Trường Yên làm 2 phủ Trường Yên và Thiên Quan trực thuộc thừa tuyên Thanh Hóa. Đời Lê Trung hưng gọi là trấn Thanh Hoa ngoại. Đời Tây Sơn và đầu Nguyễn vẫn gọi là Thanh Hoa ngoại trấn, gồm 2 phủ: phủ Trường Yên (sau đổi là Yên Khánh) gồm 3 huyện: Yên Khang (sau đổi là Yên Khánh), Yên Mô, Gia Viễn, và phủ Thiên Quan (sau đổi là Nho Quan) gồm 3 huyện: Yên Hoá, Phụng Hoá, Lạc Thổ (sau đổi là Lạc Yên). Năm Gia Long 5 (1806) đổi Thanh Hoa ngoại trấn làm đạo Thanh Bình. Năm Minh Mệnh 3 (1822) đổi làm đạo Ninh Bình. Năm Minh Mệnh 10 (1829) lại đổi làm trấn, lập thêm 1 huyện mới Kim Sơn (cộng 7 huyện). Năm thứ 12 (1831) đổi làm tỉnh Ninh Bình, quan đầu tỉnh là tuần phủ, đặt dưới quyền của tổng đốc Hà Ninh (quản hạt cả vùng Hà Nội đến tận Ninh Bình). Cho đến đời Đồng Khánh không thay đổi. Đầu đời Thành Thái cắt huyện Lạc Yên về tỉnh Hoà Bình mới lập. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 12 tháng 8 năm 1991. Khi tách ra, tỉnh Ninh Bình có diện tích 1.386,77 km², dân số 787.877 người, gồm 2 thị xã Ninh Bình (tỉnh lị), Tam Điệp và 5 huyện: Gia Viễn, Hoa Lư, Hoàng Long, Kim Sơn, Tam Điệp. Ngày 23 tháng 11 năm 1993, huyện Hoàng Long đổi lại tên cũ là huyện Nho Quan. Ngày 4 tháng 7 năm 1994, huyện Tam Điệp đổi lại tên cũ là huyện Yên Mô và tái lập huyện Yên Khánh từ 10 xã của huyện Tam Điệp cũ và 9 xã của huyện Kim Sơn. Ngày 7 tháng 2 năm 2007, chuyển thị xã Ninh Bình thành thành phố Ninh Bình. Ngày 10 tháng 4 năm 2015, chuyển thị xã Tam Điệp thành thành phố Tam Điệp. Tỉnh Ninh Bình có 2 thành phố và 6 huyện như hiện nay. Về mặt quân sự, Ninh Bình cũng giữ một vị trí then chốt vì đèo Ba Dội nằm trong dãy Tam Điệp là một cửa giao thông hiểm yếu giữa Ninh Bình và Thanh Hóa, dùng đường bộ từ Thăng Long vào Thanh Hóa hay từ Đàng Trong ra Đàng Ngoài, đều phải vượt đèo này. Hiện tại, nơi đây là đại bản doanh của Quân đoàn 1 - Binh đoàn Quyết Thắng, là một trong bốn binh đoàn chủ lực của quân đội nhân dân Việt Nam. Các đơn vị quân đội khác đóng quân trên địa bàn Ninh Bình gồm có: Lữ đoàn 279 (Phường Nam Sơn, thành phố Tam Điệp); Lữ đoàn 241 (Quỳnh Lưu, Nho Quan); Trung đoàn 202 (Phú Lộc, Nho Quan); Kho J 102 (Thạch Bình, Nho Quan); Sư đoàn 350 (Bích Đào, thành phố Ninh Bình); Viện Quân y 5 (Phúc Thành, TP Ninh Bình); Đồn Biên phòng Kim Sơn và Đồn Biên phòng cửa khẩu cảng Ninh Bình (Kim Đông, Kim Sơn). Kinh tế. Ninh Bình có vị trí quan trọng của vùng cửa ngõ miền Bắc và vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Đây là nơi tiếp nối giao lưu kinh tế và văn hoá giữa khu vực châu thổ sông Hồng với Bắc Trung Bộ, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ với vùng rừng núi Tây Bắc. Thế mạnh kinh tế nổi bật của Ninh Bình là các ngành công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch. Năm 2015, Ninh Bình là địa phương đứng thứ 6 ở Việt Nam chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Quảng Ninh, Đồng Nai về số doanh nghiệp tư nhân lớn trong tốp 500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam với 11 doanh nghiệp là: Công ty Cổ phần Ô tô Hyundai Thành Công, Tập đoàn The Vissai, Công ty Cổ phần Xi măng Hướng Dương, DN TNXD Xuân Trường, Công ty TNHH ĐTXD và PT Xuân Thành, Công ty Cổ phần Xăng dầu-Dầu khí Ninh Bình, DNTN Nam Phương, Công ty TNHH Hoàng Hà, Tập đoàn ThaiGroup, Tập đoàn Công nghiệp Quang Trung, Tập đoàn Cường Thịnh Thi. Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2019: công nghiệp – xây dựng đạt 46,7%; dịch vụ đạt 41,8%; nông, lâm, thủy sản đạt 11,5%. Kinh tế Ninh Bình tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, GRDP đạt 10,09%. Từ năm 2020, tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Ninh Bình đạt trên 19.100 tỷ đồng, tăng 14,8% so với năm 2019.. Công nghiệp. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp năm 2018 đạt hơn 49,2 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2017, vượt gần 5,2% kế hoạch. Ninh Bình hiện phát triển rất mạnh các dự án công nghiệp sản xuất ô tô, sản xuất linh kiện điện tử. Dự án nhà máy sản xuất và lắp ráp ô tô công suất 40.000 xe/năm của Công ty Cổ phần Sản xuất Ô tô Hyundai Thành Công Việt Nam tại KCN Gián Khẩu sau thời gian đi vào hoạt động ổn định, đã đẩy mạnh hoạt động sản xuất, lắp ráp vượt công suất đề ra làm tăng đột biến giá trị sản xuất công nghiệp và thu ngân sách của Ninh Bình. Ninh Bình có tiềm năng và thế mạnh phát triển công nghiệp vật liệu xây dựng với số lượng nhà máy sản xuất xi măng nhiều trong đó nổi bật là các doanh nghiệp xi măng The Vissai, xi măng Hệ Dưỡng (công suất 3,6 triệu tấn/năm), xi măng Tam Điệp, xi măng Phú Sơn, xi măng Duyên Hà, xi măng Hướng Dương... Sản phẩm chủ lực của địa phương là xi măng, đá, thép, vôi, gạch... Ninh Bình hiện có 7 khu công nghiệp sau: Các dự án thuộc khu công nghiệp lớn như: Nhà máy sản xuất và lắp ráp Ô tô Thành Công, Công ty Phân lân Ninh Bình, Nhà máy Xi măng The Vissai, Nhà máy may xuất khẩu Nien Hsing, Nhà máy sản xuất gia công giày, dép xuất khẩu ADORA, Nhà máy Xi măng Tam Điệp; Nhà máy đạm Ninh Bình, Nhà máy kính tiết kiệm năng lượng chất lượng cao CFG của Công ty TNHH Công nghiệp Hạ Long... Nghề thủ công truyền thống địa phương có: thêu Văn Lâm, đá mỹ nghệ Ninh Vân ở Hoa Lư, dệt chiếu và làm hàng cói mỹ nghệ ở Kim Sơn, Yên Khánh..., đan lát mây tre ở Gia Viễn, Nho Quan, làng nghề mộc Phúc Lộc, Ninh Phong (Tp Ninh Bình), làng nghề trồng đào phai Tam Điệp. Nông nghiệp. Ninh Bình có lợi thế phát triển ngành nông nghiệp đa dạng nhiều thành phần. Các vùng chuyên canh nông nghiệp chính của tỉnh: vùng nông trường Đồng Giao chuyên trồng cây công nghiệp như cây dứa thơm, vùng Kim Sơn trồng cây cói làm chiếu, hàng mỹ nghệ, nuôi tôm sú, hải sản, khu vực làng hoa Ninh Phúc, Ninh Sơn trồng hoa và rau sạch. Lĩnh vực nuôi thủy sản phát triển khá ổn định, nhất là ở khu vực nuôi thả thủy sản nước ngọt. Diện tích nuôi thủy sản năm 2007 đạt 9.021 ha, tăng 27,7% so với năm 2004; trong đó diện tích nuôi thả vùng nước ngọt đạt 6.910 ha, nuôi thủy sản nước lợ 2.074 ha. Sản lượng thủy sản năm 2007 đạt 18.771 tấn. Trong đó sản lượng tôm sú đạt 1.050 tấn, cua biển đạt 1.280 tấn. Tổng giá trị thủy sản năm 2007 đạt 350 tỷ đồng, tăng 73,4 tỷ đồng so với năm 2004. Về hạ tầng, tỉnh đang đầu tư, nâng cấp, xây mới nhiều trạm bơm nước, kênh mương. Các tuyến đê quan trọng như: đê biển Bình Minh II; đê tả, hữu sông Hoàng Long; đê Đầm Cút, đê Năm Căn, hồ Yên Quang, âu Cầu Hội... được nâng cấp theo hướng kiên cố hoá. Thương mại - Dịch vụ. Ninh Bình có vị trí hội tụ giao thông liên vùng rất thuận lợi cho phát triển lưu thông hàng hóa với các địa phương khác trong cả nước. Về dịch vụ hạ tầng du lịch, Ninh Bình có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình du lịch: sinh thái - nghỉ dưỡng, văn hóa - lịch sử - tâm linh, du lịch mạo hiểm, thể thao. Ninh Bình đang có nhiều nỗ lực kêu gọi đầu tư vào lĩnh vực du lịch, dịch vụ. Tỉnh coi đây là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn. Tốc độ tăng giá trị sản xuất các ngành dịch vụ đạt 16%<br> Từ năm 2004, Sở Công thương Ninh Bình đã xây dựng quy hoạch mạng lưới chợ trên địa bàn tỉnh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2015. Năm 2008, toàn tỉnh có 107 chợ, trong đó hiện có Chợ Rồng ở thành phố Ninh Bình là chợ loại 1 và 5 chợ loại 2. Các chợ Rồng, chợ Đồng Giao, chợ Nam Dân, chợ Ngò đều được Bộ Công thương quy hoạch thành chợ đầu mối tổng hợp, 3 chợ đầu mối nông sản được đầu tư xây mới là chợ thủy sản Kim Đông, chợ rau quả Tam Điệp và chợ nông sản Nho Quan. Xã hội. Y tế. Từ năm 2010, ngành Y tế Ninh Bình hiện có 2 bệnh viện quân đội là Bệnh viện Quân y 5 của Quân khu 3 và bệnh viện Quân y 145 của Quân đoàn 1. 7 bệnh viện tuyến tỉnh đó là: Giáo dục và Đào tạo. Về giáo dục và đào tạo tỉnh có Trường Đại học Hoa Lư và 5 trường cao đẳng: Trường Cao đẳng nghề Cơ giới Ninh Bình; Trường Cao đẳng nghề LILAMA-1; Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình; Trường Cao đẳng Nghề số 13 và Trường Cao đẳng nghề Cơ điện Xây dựng Tam Điệp. Nhiều năm liền, kết quả thi tuyển sinh đại học, cao đẳng của học sinh Ninh Bình luôn thuộc tốp 10 tỉnh, thành phố dẫn đầu vể điểm bình quân các môn thi: xếp thứ 2/63 năm 2013; xếp thứ 4/63 năm 2014; xếp thứ 4/63 năm 2015; xếp thứ 4/63 năm 2016; xếp thứ 3/63 năm 2017; và xếp thứ 3/63 năm 2018; xếp thứ 2/63 năm 2019 và xếp thứ 3/63 năm 2020. Dân cư. Tỉnh Ninh Bình có diện tích:1.400 km², dân số là 982.487 người (theo điều tra dân số 1/4/2019), 28,1% dân số sống ở đô thị và 71,9% dân số sống ở nông thôn, mật độ dân số đạt 642 người/km². Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 71.031 người, nhiều nhất là Công giáo có 36.161 người, tiếp theo là Phật giáo có 35.968 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có năm người, Hồi giáo có ba người và 2 người theo đạo Cao Đài. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2020, dân số toàn tỉnh Ninh Bình đạt 993.920 người. Trong đó, dân số nam là 495.995 người và dân số nữ là 497.925 người. Văn hóa. Ninh Bình nằm ở vùng giao thoa giữa các khu vực: Tây Bắc, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ. Đặc điểm đó đã tạo ra một nền văn hóa Ninh Bình tương đối năng động, phát triển trên nền tảng văn minh châu thổ sông Hồng. Đây là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ rất sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động vật trên cạn ở núi Ba (Tam Điệp) và một số hang động khác của kỳ đồ đá cũ thuộc nền Văn hóa Tràng An; động Người Xưa (Cúc Phương) và một số hang động ở Tam Điệp, Nho Quan có di chỉ cư trú của con người thời văn hoá Hoà Bình. Sau thời kỳ văn hoá Hoà Bình, vùng đồng bằng ven biển Ninh Bình là nơi định cư của con người thời đại đồ đá mới Việt Nam. Di chỉ Đồng Vườn (Yên Mô) đã được định niên đại muộn hơn di chỉ Gò Trũng. Cư dân cổ di chỉ Đồng Vườn đã phát triển lên cư dân cổ di chỉ Mán Bạc (Yên Thành, Yên Mô) ở giai đoạn văn hoá đồ đồng từ cuối Phùng Nguyên đến đầu Đồng Đậu. Ninh Bình là địa bàn có nhiều di tích khảo cổ học thuộc các thời kỳ văn hóa Tràng An, Hòa Bình, Bắc Sơn, Đa Bút và Đông Sơn. Vùng đất Ninh Bình là kinh đô của Việt Nam thế kỷ X, mảnh đất gắn với sự nghiệp của 6 vị vua thuộc ba triều đại Đinh - Lê – Lý với các dấu ấn lịch sử: Thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội. Do ở vào vị trí chiến lược ra Bắc vào Nam, vùng đất này đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử oai hùng của dân tộc mà dấu tích lịch sử còn để lại trong các đình, chùa, đền, miếu, từng ngọn núi, con sông. Đây còn là vùng đất chiến lược để bảo vệ Thăng Long của triều đại Tây Sơn với phòng tuyến Tam Điệp, là căn cứ để nhà Trần 2 lần chiến thắng giặc Nguyên - Mông với hành cung Vũ Lâm, đất dựng nghiệp của nhà Hậu Trần với đế đô ở Yên Mô, các căn cứ quân sự khác như thành nhà Mạc, thành nhà Hồ hiện vẫn còn dấu tích ở Yên Mô... Thế kỷ XVI - XVII, đạo Công giáo được truyền vào Ninh Bình, dần dần hình thành trung tâm Công giáo Phát Diệm, nay là giáo phận Phát Diệm đặt tại Kim Sơn với 60% tổng số giáo dân toàn tỉnh. Bên cạnh văn hoá của cư dân Việt cổ, Ninh Bình còn có "văn hoá mới" của cư dân ven biển. Dấu ấn về biển tiến còn in đậm trên đất Ninh Bình. Những địa danh cửa biển như: Phúc Thành, Đại An, Con Mèo Yên Mô, cửa Càn, cửa biển Thần Phù cùng với các con đê lịch sử như đê Hồng Đức, đê Hồng Lĩnh, đê Đường Quan, đê Hồng Ân, đê Hoành Trực, đê Văn Hải, đê Bình Minh I, II, III, IV... Cho đến nay vùng đất Ninh Bình vẫn tiến ra biển mỗi năm gần 100 m. Ninh Bình là một tỉnh mở rộng không gian văn hoá Việt xuống biển Đông, đón nhận các luồng dân cư, các yếu tố văn hoá từ Bắc vào Nam, từ biển vào. Kinh tế biển đóng vai trò quan trọng nổi bật như nghề đánh bắt cá biển, nuôi tôm sú, tôm rảo, nuôi cua... Nếp sống của cư dân lấn biển mang tính chất động trong vùng văn hoá môi trường đất mở. Dãy núi đá vôi ngập nước tạo ra nhiều hang động kỳ thú như: Tam Cốc - Bích Động, động Vân Trình, động Tiên, động Thiên Hà, Tràng An, động Mã Tiên, động Hoa Sơn... Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động", Địch Lộng là "Nam thiên đệ tam động". Ở phía nam thành phố Ninh Bình có một quả núi giống hình một người thiếu nữ nằm ngửa nhìn trời gọi là núi Ngọc Mỹ Nhân. Một yếu tố khác vô cùng quan trọng, góp phần không nhỏ làm nên diện mạo đa dạng, phong phú của văn hoá Ninh Bình, đó là sự lưu lại dấu ấn văn hoá của các tao nhân mặc khách khi qua vùng sơn thanh thủy tú này. Các đế vương, công hầu, khanh tướng, danh nhân văn hoá lớn như Trương Hán Siêu, Trần Thái Tông, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương, Tản Đà, Xuân Quỳnh về đây, xếp gương, đề bút, sông núi hoá thành thi ca. Nhân cách bác học và phẩm cách văn hoá lớn của các danh nhân đó đã thấm đẫm vào tầng văn hoá địa phương, được nhân dân tiếp thụ, sáng tạo, làm giàu thêm sắc thái văn hoá Ninh Bình. Hệ thống các di tích lịch sử - văn hóa ở Ninh Bình gắn liền với tín ngưỡng của vùng đất sinh Vua, sinh Thánh, sinh Thần thông qua các đền thờ Vua (đặc biệt là các Vua Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Thái Tông, Quang Trung và Triệu Quang Phục với số lượng vài chục đền thờ mỗi vị); thờ Thánh (Nguyễn Minh Không và các tổ nghề, đặc biệt là tín ngưỡng thờ mẫu với nhân vật Cô Đôi Thượng Ngàn sinh ra ở Ninh Bình); thờ Thần (phổ biến là các vị thần Thiên Tôn, thần Cao Sơn và thần Quý Minh trong không gian văn hóa Hoa Lư tứ trấn). Ninh Bình là vùng đất phong phú các lễ hội văn hóa đặc sắc như Lễ hội Hoa Lư, lễ hội chùa Bái Đính, lễ hội đền Thái Vi, lễ hội Tràng An... Các lễ hội khác: Lễ hội Báo bản làng Nộn Khê, lễ hội Yên Cư, hội thôn Tập Minh, lễ hội động Hoa Lư, đền Thánh Nguyễn, đền Dâu, hội vật Yên Vệ, lễ hội đền Nguyễn Công Trứ... các công trình kiến trúc văn hóa như đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đền vua Lê Đại Hành, nhà thờ Phát Diệm, chùa Bái Đính, đền Thánh Nguyễn, làng chèo Phúc Trì, Nam Dân, Thượng Kiệm, những trung tâm hát chầu văn, xẩm, ca trù ở đền Dâu, phủ Đồi Ngang... Ninh Bình là đất tổ của nghệ thuật hát Chèo, là quê hương các làn điệu hát xẩm, ca trù và của nhiều làng nghề truyền thống như nghề điêu khắc đá Ninh Vân, nghề mộc Phúc Lộc, nghề thêu ren Văn Lâm, nghề nấu rượu và chiếu cói ở Kim Sơn... Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở Ninh Bình như: thịt dê núi Ninh Bình, rượu Lai Thành, dứa Tam Điệp, cá kho quả gáo, bánh đa nướng Phong An, chè Ba Trại, mắm tép Gia Viễn, bún mọc Kim Sơn, rượu cần Nho Quan, khoai lang Hoàng Long, trám Kỳ Phú, cáy Kim Sơn, bún tươi Yên Thịnh, nếp hạt cau Ninh Bình, thủy sản chợ Kim Đông, nem Yên Mạc, gà ri đồi Nho Quan, gỏi nhệch Kim Sơn, rau cần - rau rút Yên Hòa, mứt khoai mật mía làng Phượng, giò trứng Nộn Khê, miến lươn Ninh Bình, mía Kỳ Phú, chạo chân giò Kim Sơn, cá chuối đầm Vân Long, ốc núi, xôi trứng kiến Nho Quan, cơm cháy Ninh Bình, bánh dày bản Mường Kỳ Phú, cá lác ngoách Kim Sơn, mì bún khô Yên Ninh, cá rô Tổng Trường. Thơ ca, văn học. Trương Hán Siêu có thể coi là người có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp Ninh Bình qua hình ảnh di tích quốc gia đặc biệt núi Non Nước. Ông đặt tên núi là "Dục Thúy Sơn" và là người đầu tiên lưu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thưởng ngoạn, ngắm cảnh làm những bài thơ khắc vào hệ thống đá núi, hang động ở Ninh Bình. Các vua nhà Hậu Lê cũng đặt hành cung ở trên núi Dục Thúy Sơn để đến chơi thăm và vịnh thơ. Hiếm có ngọn núi nào có trên 30 bài thơ văn khắc vào núi như núi Thuý và còn đến hàng trăm bài thơ vịnh cảnh của các nhà thơ qua các triều đại: Trần Anh Tông, Phạm Sư Mạnh, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, Phạm Văn Nghị... Bài thơ "Dục Thúy Sơn khắc thạch" của Trương Hán Siêu nói về vẻ đẹp núi Dục Thúy ở thành phố Ninh Bình được khắc bên sườn núi, hãy còn bút tích. Các thắng cảnh nằm ở cửa ngõ Ninh Bình như Kẽm Trống và Đèo Ba Dội trên Quốc lộ 1; núi Non Nước, núi Ngọc Mỹ Nhân gần quốc lộ 10 đều rất nổi tiếng từ xa xưa trong thơ ca. Bài thơ "Dục Thuý sơn" của Nguyễn Trãi vừa lột tả vẻ đẹp của thiên nhiên Ninh Bình vừa thể hiện một tâm hồn đẹp và tinh tế về con người và đất nước của Nguyễn Trãi, đó là thái độ trân trọng tha thiết đối với những giá trị văn hóa dân tộc qua tình cảm mà ông dành cho Trương Hán Siêu và vùng đất cố đô: Lê Quý Đôn đã cho khắc một bài thơ ở phía tây núi Ngọc Mỹ Nhân khi ông đến thăm nơi đây:<br> Cao Bá Quát cũng có bài thơ Trên đường đi Ninh Bình (Ninh Bình đạo trung) khi chiêm ngưỡng cảnh đẹp non nước hữu tình: Nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng có cái nhìn rất mới về Ninh Bình:<br> Nữ sĩ Xuân Hương có 2 bài thơ là Kẽm Trống và Đèo Ba Dội nổi tiếng khi đến và chia tay Ninh Bình. Bài thơ Kẽm Trống mở đầu bằng cái nhìn rất cá tính của bà: Bài Đèo Ba Dội vừa mô tả cảnh đẹp vừa hàm chứa những ẩn ý: Thể thao. Từ năm 2005 tỉnh có một đội bóng chuyền hạng mạnh là Tràng An Ninh Bình, một đội bóng mạnh trong hệ thống thi đấu bóng chuyền Việt Nam, đoạt danh hiệu vô địch quốc gia các năm 2006, 2010, 2012 và đang là đương kim vô địch năm 2021. Cũng năm 2021, Ninh Bình có thêm Câu lạc bộ bóng chuyền Ninh Bình Doveco là đội bóng chuyền nữ thi đấu ở Giải vô địch bóng chuyền quốc gia Việt Nam hai năm liền 2021 và 2022 đều xếp hạng 4. Các môn thể thao thế mạnh khác của Ninh Bình là vật, cầu lông và bóng bàn. Một số vận động viên thể thao Ninh Bình tiêu biểu như Giang Việt Anh, Hà Văn Hiếu, Bùi Thị Ngà... Trước năm 2014, Ninh Bình cùng với Hà Nội, Hải Phòng là 3 địa phương ở phía bắc Việt Nam có đội bóng chuyên nghiệp tham gia giải bóng đá vô địch quốc gia. Câu lạc bộ bóng đá Xi măng The Vissai Ninh Bình lấy sân vận động Tràng An làm sân nhà. sân vận động Ninh Bình là sân vận động cấp 1. Tuy nhiên, từ sau vụ bán độ năm 2014, Câu lạc bộ này đã giải thể. Sân vận động Ninh Bình hiện là sân nhà của Câu lạc bộ bóng đá Công an Nhân dân,năm 2022. Năm 2023 là sân nhà của câu lạc bộ Phù Đổng. Du lịch. Quy hoạch du lịch Việt Nam đến năm 2030 xác định Ninh Bình là một trung tâm du lịch (Ninh Bình và phụ cận) với khu du lịch quốc gia là quần thể di sản thế giới Tràng An và 2 trọng điểm du lịch vườn quốc gia Cúc Phương và khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long. Ninh Bình cũng là nơi được đăng cai năm năm Du lịch quốc gia 2021 với chủ đề "Hoa Lư - cố đô ngàn năm". Tiềm năng. Ninh Bình có tiềm năng du lịch rất lớn, là nơi có tới 4 danh hiệu UNESCO với quần thể di sản thế giới Tràng An, ca trù, tín ngưỡng thờ Mẫu và khu dự trữ sinh quyển thế giới Bãi ngang - Cồn Nổi. Nơi đây sở hữu nhiều danh lam, thắng cảnh và di tích lịch sử văn hoá nổi tiếng như: Hiện nay, ngoài quần thể di sản thế giới Tràng An, Ninh Bình có các khu di sản đã và đang hoàn thiện hồ sơ đề nghị UNESCO công nhận là di sản thế giới: Ngoài ra, Vườn quốc gia Cúc Phương, hệ thống núi rừng Cố đô Hoa Lư, khu sinh thái Tràng An là những khu vực của Việt Nam có thể được UNESCO công nhận công viên địa chất toàn cầu. Khai thác. Năm 2017, ngành du lịch Ninh Bình đón 7 triệu lượt khách, tăng 9%; doanh thu ước đạt 2.450 tỷ đồng, tăng 41% so với năm 2016. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Ninh Bình cùng với Hà Nội và Quảng Ninh được xác định là các trung tâm du lịch của khu vực đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Ninh Bình đến năm 2030, thành phố Ninh Bình sẽ trở thành một thành phố du lịch; khu vực Khu bảo tồn thiên nhiên đất ngập nước Vân Long sẽ trở thành thị trấn Vân Long với vai trò là một đô thị du lịch ở phía bắc Ninh Bình khu vực Cồn Nổi sẽ trở thành thị trấn Cồn Nổi với vai trò là một đô thị du lịch phía nam Ninh Bình. Được tỉnh xác định là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn (Định hướng thu nhập du lịch thuần tuý >10%). Trong những năm gần đây, ngành Du lịch Ninh Bình đang khai thác hiệu quả những tiềm năng, thế mạnh góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của toàn tỉnh. Ninh Bình được xác định là một trung tâm du lịch của vùng duyên hải Bắc Bộ, sẽ trở thành thành phố du lịch trong tương lai. Đặc sản ẩm thực. Đặc sản Ninh Bình nổi tiếng gồm có các món ăn chế biến từ thịt dê núi Ninh Bình, Rượu Kim Sơn, nem chua (Yên Mạc - Yên Mô), miến lươn, cá rô Tổng Trường, dứa Đồng Giao và cơm cháy Ninh Bình, mứt khoai làng Phượng, bánh dày bản Mường (xã Kỳ Phú, Nho Quan). Đặc biệt phát triển mạnh ở các khu du lịch và dọc theo tuyến Quốc lộ 1. Trong các đặc sản Ninh Bình thì thịt dê núi Ninh Bình là nổi tiếng và độc đáo nhất. Thịt dê Ninh Bình ngon hơn các vùng khác vì: Dê ở đây nuôi trên núi đá vôi, ăn đa dạng các loại lá cây nên thịt săn chắc hơn so với dê thả đồi; Món ăn từ thịt dê được đi kèm với các loại rau thơm địa phương như lá đinh lăng, lá mơ, lá sung và thịt dê được địa phương xây dựng thành món ẩm thực đặc trưng, đậm đà hương vị sông núi quê hương, được kế thừa truyền thống với những bí quyết riêng, biến thịt dê thành món đặc sản nổi tiếng. Giao thông. Đường bộ. Ninh Bình là một điểm nút giao thông quan trọng, có 11 quốc lộ (trong đó có 7 quốc lộ khởi đầu và 4 quốc lộ đi qua) dàn đều trên tất cả các huyện, thành phố, thị xã trong tỉnh: Đường cao tốc. Ninh Bình cũng là địa bàn có 3 dự án đường cao tốc là: đường cao tốc Cao Bồ – Mai Sơn; Đường cao tốc Mai Sơn – Quốc lộ 45 và đường cao tốc Ninh Bình - Hải Phòng. Bến xe Ninh Bình nằm gần nút giao thông giữa Quốc lộ 1 và quốc lộ 10 ở thành phố Ninh Bình. Mạng lưới giao thông tỉnh lộ khá thuận tiện với những tuyến xe buýt nội tỉnh. Đường sắt. Về giao thông đường sắt Ninh Bình có trục đô thị Tam Điệp – Ninh Bình nằm trên tuyến đường sắt Bắc-Nam. Trên địa bàn tỉnh có các ga Ninh Bình, ga Cầu Yên, ga Ghềnh và ga Đồng Giao. Đường thủy. Về giao thông đường thủy Ninh Bình có hệ thống sông hồ dày đặc: sông Đáy là sông lớn nhất chảy vào giữa ranh giới Ninh Bình với Hà Nam, Nam Định. Hệ thống sông Hoàng Long chảy nội tỉnh cung cấp tưới tiêu cho các huyện phía Bắc. sông Vạc, Sông Càn với nhiều nhánh nhỏ ở các huyện phía Nam. Các sông nội tỉnh khác: sông Vân, sông Bôi, sông Lạng, sông Bến Đang và các hồ lớn như hồ Đồng Thái, hồ Yên Quang, hồ Yên Thắng, hồ Thường Xung đem lại nguồn lợi đáng kể về tưới tiêu, giao thông và khai thác thủy sản. Ninh Bình có cảng Ninh Phúc là cửa Khẩu quốc tế đường biển. 4 cảng chính do trung ương quản lý là cảng Ninh Bình, cảng Ninh Phúc, cảng ICD Phúc Lộc và cảng Cầu Yên. Cảng K3 (nhà máy nhiệt điện Ninh Bình) cũng đã được nâng cấp là cảng chuyên dụng. Các bến xếp dỡ hàng hoá, khu neo tránh tàu thuyền nằm trên các bờ sông và cửa sông. Cảng sông Ninh Bình có thể đạt công suất 9 triệu tấn/năm, chỉ đứng sau Hà Nội ở miền Bắc. Cảng Ninh Phúc là cảng sông đầu mối quốc gia. Ngoài ra có cảng Ninh Bình, Cảng xăng dầu dầu khí Ninh Bình, cảng Long Sơn, Cảng đạm Ninh Bình, Cảng Vissai, cảng Phúc Lộc, cảng tổng hợp Kim Sơn là những cảng tiếp nhận tàu biển và phương tiện thủy quốc tế... Hệ thống đường thủy gồm 22 tuyến sông trong đó Trung ương quản lý 4 tuyến (sông Đáy, sông Hoàng Long, sông Vạc và kênh nhà Lê) với tổng chiều dài gần 364,3 km. Hệ thống Cảng biển Ninh Bình đã được xây dựng phục vụ phát triển kinh tế của tỉnh và khu vực. Một số cầu có quy mô lớn như: cầu Ninh Bình, cầu Non Nước, cầu Gián Khẩu, cầu Nam Bình, cầu Trường Yên, cầu Kim Chính, cầu vượt biển ra Cồn Nổi. Đô thị. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống đô thị Ninh Bình đến năm 2030, tầm nhìn 2050, tỉnh Ninh Bình sẽ có 1 đô thị trung tâm loại I là thành phố Ninh Bình mở rộng khoảng 21.124 hecta, 1 đô thị loại II là Tam Điệp, 2 đô thị loại III là Nho Quan, Phát Diệm và 15 đô thị khác là: Me, Yên Ninh, Yên Thịnh, Gián Khẩu, Rịa, Ngã ba Anh Trỗi, Gia Lâm, Khánh Thành, Khánh Thiện, Vân Long, Bút, Lồng, Bình Minh, Kim Đông, Cồn Nổi. Quy mô với tổng diện tích quy hoạch được xác định là gần 1.390 hecta. Quy hoạch cũng xác định thành phố Ninh Bình sẽ trở thành thành phố trực thuộc Trung ương đến năm 2030 với dân số 1 triệu người. Danh nhân. Vùng đất Ninh Bình là quê hương của nhiều danh nhân đất Việt tiêu biểu như: Anh hùng dân tộc Đinh Bộ Lĩnh, Vua Lê Đại Hành, Danh nhân văn hóa Trương Hán Siêu, Quốc sư Nguyễn Minh Không, Trạng Bồng Vũ Duy Thanh, Anh hùng Lương Văn Tụy, Sử gia Ninh Tốn, Tể tướng Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Thượng thư Trịnh Tú, Thái sư Lưu Cơ... Ninh Bình là nơi gắn với đỉnh cao sự nghiệp của các danh nhân như Doanh điền Nguyễn Công Trứ, Bà tổ hát chèo Phạm Thị Trân, Vua Lý Thái Tông, nhà Hậu Trần, Vua Quang Trung... Ninh Bình cũng là nơi sinh ra những nhà cách mạng tiêu biểu như Thượng tướng Nguyễn Hữu An nguyên Tư lệnh Quân đoàn 2, nguyên Viện trưởng Học viện quân sự cấp cao, quê Trường Yên (Hoa Lư), Bí thư xứ ủy Nam Kỳ Tạ Uyên, cố Chủ tịch nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đại Quang, Đô đốc hải quân Thượng tướng Nguyễn Văn Hiến, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam... Hiện nay, Ninh Bình là quê hương của nhiều nhân vật tiêu biểu đang tại chức như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Ninh là tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam Theo quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía bắc vừa thuộc Vùng duyên hải Bắc Bộ. Đây là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam, có vịnh Hạ Long là di sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới. Vị trí. Quảng Ninh có vị trí ở địa đầu đông bắc Việt Nam, lãnh thổ trải theo hướng đông bắc - tây nam. Quảng Ninh nằm cách thủ đô Hà Nội 125 km về phía Đông Bắc. Quảng Ninh tiếp giáp: Các điểm cực của tỉnh Quảng Ninh:. Quảng Ninh là 1 trong số 7 tỉnh thành tại Việt Nam có đường biên giới với Trung Quốc, nhưng lại là tỉnh duy nhất có cả đường biên giới trên bộ và trên biển với nước này. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Quảng Ninh là tỉnh miền núi, trung du nằm ở vùng duyên hải, với hơn 80% đất đai là đồi núi. Trong đó, có hơn hai nghìn hòn đảo núi đá vôi nổi trên mặt biển, phần lớn chưa được đặt tên. Địa hình của tỉnh đa dạng có thể chia thành 3 vùng gồm có Vùng núi, Vùng trung du và đồng bằng ven biển, và Vùng biển và hải đảo. Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiên Yên qua Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn Đại Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có hai dãy núi chính: dãy Quảng Nam Châu (1.507 m) và Cao Xiêm (1.472 m) chiếm phần lớn diện tích tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, dãy Ngàn Chi (1.166 m) ở phía bắc huyện Tiên Yên. Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, phía bắc các thành phố Hạ Long, Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc thị xã Đông Triều. Vùng núi này là những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông Triều với đỉnh Yên Tử (1.068 m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094 m) trên đất Hạ Long. Cánh cung Đông Triều chạy theo hướng tây - đông ở phía nam và hướng đông bắc - tây nam ở phía bắc, được coi là xương sống của lãnh thổ Quảng Ninh, có vai trò quan trọng trong việc hình thành các yếu tố tự nhiên ở hai sườn bắc - nam. Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong hoá và xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền sông và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Quảng Yên, nam Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái. ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa tạo nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Quảng Yên (đảo Hà Nam), đông Quảng Yên, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Đầm Hà, đông nam Hải Hà, nam Móng Cái. Tuy có diện tích hẹp và bị chia cắt nhưng vùng trung du và đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao thông nên đang là những vùng dân cư trù phú của Quảng Ninh. Vùng biển và hải đảo của Quảng Ninh là một vùng địa hình độc đáo. Hơn hai nghìn hòn đảo chiếm hơn 2/3 số đảo cả nước (2078/ 2779), đảo trải dài theo đường ven biển hơn 250 km chia thành nhiều lớp và diện tích các đảo chiếm 11,5% diện tích đất tự nhiên. Có những đảo rất lớn như đảo Cái Bầu, Bản Sen, lại có đảo chỉ như một hòn non bộ. Có hai huyện hoàn toàn là đảo là huyện Vân Đồn và huyện Cô Tô. Trên vịnh Hạ Long và Bái Tử Long có hàng ngàn đảo đá vôi nguyên là vùng địa hình karst bị nước bào mòn tạo nên muôn nghìn hình dáng bên ngoài và trong lòng là những hang động kỳ thú. Vùng ven biển và hải đảo Quảng Ninh ngoài những bãi bồi phù sa còn những bãi cát trắng táp lên từ sóng biển. Có nơi thành mỏ cát trắng làm nguyên liệu cho công nghệ thủy tinh (Vân Hải), có nơi thành bãi tắm tuyệt vời (như Trà Cổ, Quan Lạn, Minh Châu, Ngọc Vừng...). Địa hình đáy biển Quảng Ninh, không bằng phẳng, độ sâu trung bình là 20 m. Có những lạch sâu là di tích các dòng chảy cổ và có những dải đá ngầm làm nơi sinh trưởng các rặng san hô rất đa dạng. Các dòng chảy hiện nay nối với các lạch sâu đáy biển còn tạo nên hàng loạt luồng lạch và hải cảng trên dải bờ biển khúc khuỷu kín gió nhờ những hành lang đảo che chắn, tạo nên một tiềm năng cảng biển và giao thông đường thủy rất lớn. Tài nguyên đất. Quảng Ninh có quỹ đất dồi dào (611.081,3 ha). Trong đó: 10% là đất nông nghiệp, đất có rừng chiếm 38%, 43,8% là diện tích chưa sử dụng tập trung ở vùng miền núi và ven biển, còn lại là đất chuyên dùng và đất ở. Với ưu thế của tỉnh miền núi, ven biển, khí hậu ẩm rất thuận lợi cho quá trình sinh trưởng phát triển các loài cây lấy gỗ, lấy nhựa như thông nhựa, thông mã vĩ, keo, bạch đàn... Đặc biệt, với đặc thù điều kiện lập địa trên diện tích đất đồi núi của tỉnh rất thích hợp với các loài cây gỗ quý, đặc sản, cây dược liệu, các loài cây mang tính bản địa.   Quảng Ninh có nhiều loại đất. Chiếm diện tích lớn nhất là đất feralit vàng đỏ và đất feralit đồng cỏ thứ sinh phát triển ở địa hình đồi núi thấp. Tài nguyên rừng. Tổng diện tích rừng và đất rừng là 243.833,2 ha, chiếm 38% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, trong đó rừng tự nhiên chiếm khoảng 80%, còn lại là rừng trồng, rừng đặc sản khoảng 100.000 ha, đất thành rừng khoảng 230.000 ha, là điều kiện để phát triển thành các vùng nông nghiệp, vùng cây đặc sản, cây ăn quả có quy mô lớn. Tài nguyên biển. Quảng Ninh có thế mạnh và tiềm năng to lớn để phát triển các ngành kinh tế biển, có chiều dài đường ven biển lớn thứ hai 250 km với 2.077 hòn đảo, chiếm 2/3 số đảo của cả nước, trong đó trên 1.000 đảo đã có tên; có ngư trường rộng lớn trên 6.100 km², là nơi sinh sống của vô vàn các loài sinh vật biển quý hiếm. Hầu hết các bãi cá chính có sản lượng cao, ổn định, đều phân bố gần bờ và quanh các đảo, rất thuận tiện cho việc khai thác. Ven biển Quảng Ninh có nhiều khu vực nước sâu, kín gió là lợi thế đặc biệt quan trọng thuận lợi cho việc xây dựng, phát triển hệ thống cảng biển đặc biệt là cảng nước sâu tiếp nhận được tàu có trọng tải lớn và cảng thủy nội địa, nhất là ở thành phố Hạ Long, thành phố Cẩm Phả, huyện Tiên Yên, thành phố Móng Cái và huyện Hải Hà đáp ứng cho việc giao lưu hàng hóa với các tỉnh trong vùng. Khí hậu. Quảng Ninh nằm ở vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm đặc trưng cho các tỉnh miền bắc, có nét riêng của một tỉnh vùng núi ven biển có một mùa hạ nóng ẩm mưa nhiều, một mùa đông lạnh khô, ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao trùm nhất. Do ảnh hưởng của vị trí địa lí và địa hình nên Quảng Ninh chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc và ảnh hưởng yếu của gió mùa Tây Nam so với các tỉnh phía bắc. Vì nằm trong vành đai nhiệt đới nên hàng năm Quảng Ninh có hai lần mặt trời qua thiên đỉnh, tiềm năng về bức xạ và nhiệt độ rất phong phú. Các quần đảo ở Cô Tô, Vân Đồn... có đặc trưng của khí hậu đại dương. Do ảnh hưởng bởi hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á nên khí hậu bị phân hoá thành hai mùa gồm có mùa hạ thì nóng ẩm với mùa mưa, còn mùa đông thì lạnh với mùa khô. Độ ẩm trung bình 82 – 85%. Mùa lạnh thường bắt đầu từ hạ tuần tháng 11 và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, trong khi đó mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng. Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm sau, mùa mưa nhiều bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10. Giữa hai mùa lạnh và mùa nóng, hai mùa khô và mùa mưa  là hai thời kỳ chuyển tiếp khí hậu, mỗi thời kỳ khoảng một tháng (tháng 4 và tháng 10). Ngoài ra, do tác động của biển, nên khí hậu của Quảng Ninh nhìn chung mát mẻ, ấm áp, thuận lợi đối với phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và nhiều hoạt động kinh tế khác. Sông ngòi, chế độ thủy văn và tài nguyên nước. Quảng Ninh có tất cả khoảng 30 sông, suối với chiều dài trên 10 km. Diện tích lưu vực thông thường không quá 300 km, trong đó có bốn con sông lớn là hạ lưu sông Bạch Đằng, sông Ka Long, sông Tiên Yên và sông Ba Chẽ. Mỗi sông hoặc đoạn sông thường có nhiều nhánh, các nhánh đa số đều vuông góc với đoạn sông chính. Tuy nhiên, hầu hết các sông suối đều ngắn, nhỏ và độ dốc lớn, khả năng điều tiết nước yếu và chịu ảnh hưởng mạnh của thủy triều. Đại bộ phận sông có dạng xoè hình cánh quạt, trừ sông Cầm, sông Ba Chẽ, sông Tiên Yên, sông Phố Cũ có dạng lông chim. Phù hợp với chế độ mùa mưa, chế độ dòng chảy của sông ngòi cũng có hai mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa cạn. Mùa lũ từ tháng 5 đến tháng 10, tập trung từ tháng 6 đến tháng 8; mùa cạn từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, cạn nhất vào tháng 3. Lưu lượng nước các sông ở đây có sự dao động rất lớn. Lưu lượng và lưu tốc rất khác biệt giữa các mùa. Vào mùa đông, các sông cạn nước, có chỗ trơ ghềnh đá nhưng mùa hạ lại ào ào thác lũ, nước dâng cao rất nhanh. Lưu lượng mùa khô 1,45 m/s, mùa mưa lên tới 1500 m/s, chênh nhau 1.000 lần. Sông Tiên Yên ở Bình Liêu lưu lượng nhỏ nhất là 1,45m³/s, lớn nhất lên tới 1500m³/s. Hầu hết các sông chảy qua khu vực địa hình miền núi có cấu tạo bằng các nham cứng nên lưu lượng phù sa không đáng kể. Nước ngập mặn xâm nhập vào vùng cửa sông khá xa. Lớp thực vật che phủ chiếm tỷ lệ thấp ở các lưu vực nên thường hay bị xói lở, bào mòn và rửa trôi làm tăng lượng phù sa và đất đá trôi xuống khi có lũ lớn do vậy nhiều nơi sông suối bị bồi lấp rất nhanh, nhất là ở những vùng có các hoạt động khai khoáng như ở các đoạn suối Vàng Danh, sông Mông Dương. Về phía biển Quảng Ninh giáp vịnh Bắc Bộ, một vịnh lớn nhưng kín lại có nhiều lớp đảo che chắn nên sóng gió không lớn như vùng biển Trung Bộ. Chế độ thủy triều ở đây là nhật triều điển hình, biên độ tới 3–4 m. Nét riêng biệt ở đây là hiện tượng sinh "con nước" và thủy triều lên cao nhất vào các buổi chiều các tháng mùa hạ, buổi sáng các tháng mùa đông những ngày có con nước cường. Trong vịnh Bắc Bộ có dòng hải lưu chảy theo phương bắc nam kéo theo nước lạnh lại có gió mùa đông bắc nên đây là vùng biển lạnh nhất nước ta. Nhiệt độ có khi xuống tới 13 °C. Lượng nước các sông khá phong phú, ước tính 8.777 tỷ m³ phát sinh trên toàn lưu vực. Dòng chảy lên tới 118 l/s/km² ở những nơi có mưa lớn. Vào mùa mưa (tháng 5 - tháng 9), chiếm 75-80% tổng lượng nước trong năm; mùa khô (tháng 10 - tháng 4), chiếm 20-25% tổng lượng nước trong năm. Theo kết quả thăm dò, trữ lượng nước ngầm tại vùng Cẩm Phả là 6.107 m³/ngày, vùng Hạ Long là 21.290 m³/ngày. Lượng nước ngầm tại hồ Yên Lập là 118 triệu m³, hồ Chúc Bài Sơn 11,5 triệu m³ và hồ Quất Đông 10 triệu m³. Quảng Ninh có từ 2.500 đến 3.000 ha mặt nước ao, hồ, đầm có điều kiện nuôi trồng thủy sản. Lịch sử. Tiền sử. Thời kỳ tiền sử ở Quảng Ninh sớm nhất được biết đến tại các địa điểm thuộc văn hóa Soi Nhụ. Vào thời kỳ của các văn hóa Hòa Bình, văn hóa Bắc Sơn từ khoảng 18.000 năm về trước lúc mà lần cuối cùng băng hà còn phát triển, mực nước Biển Đông hạ thấp tới độ sâu 110 - 120 mét dưới mực nước biển ngày nay. Khi đó vịnh Bắc Bộ (gồm cả vịnh Hạ Long) là một đồng bằng tam giác châu rộng lớn. Trên vùng đất khoảng vài nghìn km2 của Quảng Ninh và khu vực vịnh Hạ Long ngày nay là một đồng bằng cổ. Ở nơi này đã từng tồn tại một cộng đồng dân cư tiền sử lớn. Những người họ sống trong các hang động đá vôi trên một địa bàn độc lập so với các cư dân Hòa Bình - Bắc Sơn cùng thời. Họ đã sáng tạo ra một nền văn hóa tồn tại song song với hai nền văn hóa kia mà ngày nay chúng ta gọi đây là nền văn hóa Soi Nhụ, làm cơ sở để các loại hình văn hóa tiến bộ mới hình thành tại Cái Bèo, tiếp sau nền văn hóa Hạ Long nổi tiếng. Mặc dù các nhà khoa học gặp nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu nhưng với khối tư liệu thu được sau cuộc khai quật di chỉ Đầu Rằm thì có thể nói rằng từ tiền sử tới sơ sử Quảng Ninh là một quá trình phát triển liên tục, không hề có bất cứ một sự đứt đoạn nào. Việc phát hiện các di tích sơ sử tại Quảng Ninh cũng đã tạo khẳng định rằng vào thời Hùng Vương, Quảng Ninh đã là một bộ phận của nhà nước Văn Lang. Sơ sử. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng ngay từ thời Hùng Vương, Việt Nam đã được chia thành 15 bộ, trong đó có các bộ Ninh Hải, Lục Hải. Địa bàn của bộ Ninh Hải, Lục Hải thời đó không hoàn toàn trùng với địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện nay, ngoài Quảng Ninh thì tối thiểu hai bộ đó còn bao gồm một phần Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương, Hải Phòng và một phần Lưỡng Quảng ngày nay, nhưng khu vực trung tâm của Ninh Hải, Lục Hải chính là khu vực tỉnh Quảng Ninh bây giờ. Phong kiến. Thời phong kiến, khu vực Quảng Ninh từng trải qua nhiều lần đổi tên: Thời nhà Lý, khu vực Quảng Ninh được gọi với cái tên Hải Đông. Sử liệu về thời Lý - Trần còn lại quá ít ỏi nên chưa thể hiểu đầy đủ về quá trình biến đổi của đất Hải Đông. Tuy nhiên, về đại thể có thể biết được là năm 1023, sau khi dẹp yên cuộc nổi dậy của người Đại Nguyên Lịch (tên một dân tộc thiểu số ở vùng biển Việt Trung), nhà Lý đổi trấn Triều Dương thành châu Vinh An, xác định biên giới đông bắc của Đại Việt. Ít lâu sau, cả vùng Ninh Hải - Lục Châu cũ được đặt thành một phủ là phủ Hải Đông. Khoảng năm 1242, nhà Trần nâng Hải Đông lên thành lộ và đến cuối thế kỷ 14 thì đổi gọi là An Bang. Đông Triều bấy giờ còn là một châu của lộ Hải Dương. Cùng với sự phát triển của Đại Việt, cư dân An Bang cũng ngày càng tăng, ruộng đất làng xóm được mở rộng, các đơn vị hành chính như huyện Hoa Phong, Hoành Bồ, Yên Hưng, Đông Triều, các châu Tiên Yên, Vĩnh An, Vân Đồn, Vạn Ninh đã được hình thành. Tổ tiên nhà Trần, vào cuối đời Lý đã đến ở vùng An Sinh (thuộc Đông Triều) làm nghề đánh cá. Sau này khu vực An Phụ, An Dưỡng, An Sinh và An Bang được đặt thành thái ấp của An Sinh Vương Trần Liễu, anh của Trần Thái Tông. Nhà Trần tuy phát tích ở đất Thiên Trường (Nam Định) song vẫn nhớ về quê gốc Đông Triều nên lăng mộ các vua Trần đều được di dời về đây. Vùng thái ấp này biến thành khu mộ các vua nhà Trần. Vào đời Lê Anh Tông (1556 - 1573) vì kỵ húy nhà vua đổi gọi An Bang thành An Quảng. Đến thời nhà Tây Sơn, các trấn từ Sơn Nam Hạ và Bắc được đổi gọi là Bắc Thành. Phủ Kinh Môn với 7 huyện, trong đó có cả Đông Triều đã được sáp nhập vào An Quảng. Lúc này An Quảng trở thành một trấn lớn. Đến thời Nguyễn Ánh, sau 24 năm chinh chiến với nhà Tây Sơn, đến ngày 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801), ông đã thu phục được Kinh đô Phú Xuân và năm 1802 chính thức lên ngôi Hoàng đế. An Quảng được giữ nguyên là một ngoại trấn, với một phủ Hải Đông, ba huyện Hoành Bồ, Yên Quảng, Hoa Phong và ba châu Vạn Ninh, Tiên Yên và Vân Đồn. Năm Minh Mạng thứ 3, trấn An Quảng được đổi tên thành trấn Quảng Yên. Đến năm 1831, trấn Quảng Yên được đổi thành tỉnh do Tổng đốc Hải An (Hải Dương - An Quảng) kiêm quản. Năm 1836, phủ Hải Đông được đổi tên gọi là phủ Hải Ninh, châu Vân Đồn được gộp vào huyện Hoa Phong và được gọi là tổng Vân Hải. Sau đó, nhà Nguyễn tách huyện Hoành Bồ, huyện Hoa Phong và huyện Yên Hưng ra khỏi phủ Hải Đông lập thành phủ Sơn Định, cho tri huyện Hoành Bồ kiêm quản. Tỉnh Quảng Ninh có những địa danh gắn lịch sử như: Thời Pháp thuộc. Vào ngày 12-3-1883, sau khi đánh chiếm xong Hà Nội, 500 lính Pháp do đích thân Henri Rivière - tên tổng chỉ huy cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai cầm đầu - đã tiến hành đánh chiếm khu mỏ Quảng Ninh. Kể từ đó, Quảng Ninh đã cùng toàn thể dân tộc ta chịu chung ách thống trị dã man của thực dân Pháp. Biên giới giáp với Trung Quốc trước năm 1887 là sông Dương Hà (còn gọi là An Nam Giang) bao gồm cả mũi Bạch Long nhưng Công ước Pháp-Thanh 1887 nhận kinh tuyến đông 105 độ 43 phút Paris làm đường phân định thì phần đất này Pháp nhường cho nhà Thanh. Phần đất bị cắt gồmː đất thuộc tổng Hà Môn là mũi Bạch Long Vĩ (là vùng đất có xã An Lương, Thanh Lãng, Trường Bình (tức Đông Giang)), vạn Mễ Sơn, xã Vạn Vĩ, Mi Sơn, Vạn Xuân (vùng Tam Đảo quanh vịnh Vạn Xuân); cùng hơn bảy xã thuộc tổng Bát Tràng (là các xã: Bắc Nham, Thượng Lại, Cổ Hoằng, Hoằng Mông, Vụ Khê, Tuy Lai, và Nật Sơn) và hai xã của tổng Kiến Duyên (là Kiến Duyên, và Đồng Tông). Hiện nay có một số ý kiến cho rằng vùng đất của huyện Phòng Thành Cảng, tỉnh Quảng Tây, bao gồm khu vực Đông Hưng, Phòng Thành, Cảng Khẩu, Bạch Long, Trung Quốc là thuộc Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập và tuyên bố hủy bỏ mọi hiệp ước về Việt Nam của thực dân Pháp với các nước khác. Như vậy vùng Bạch Long - Trường Bình đúng ra phải được trả lại về Quảng Ninh nhưng việc này đã không được thực hiện. Rất nhiều người Kinh sống ở khu vực này tuyệt nhiên trở thành người mất quê hương và trở thành một trong 56 dân tộc của Trung Quốc, gọi là dân tộc Việt. Trong giai đoạn từ 1885 đến những năm đầu thế kỷ XX, các cuộc khởi nghĩa hưởng ứng phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp đã liên tiếp và rầm rộ nổi lên tại Quảng Ninh. Một số địa bàn như đảo Cái Bầu, đảo Cái Bàn, vùng rừng núi thị xã Đông Triều có tới hai, ba cuộc nổi dậy một lúc, có cuộc kéo dài gần chục năm. Nhìn chung, phong trào chống Pháp tại Quảng Ninh trong thời kỳ này là một phong trào dân tộc, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần dân tộc dưới ngọn cờ yêu nước. Năm 1899 thực dân Pháp lại tách một phần bắc tỉnh Quảng Yên mà lập tỉnh Hải Ninh. Thấy được tài nguyên khoáng sản than đá, thực dân Pháp tăng cường khai thác tại các khu Hồng Quảng, Mạo Khê, Vàng Danh, Cẩm Phả, Hà Tu. Họ thành lập Công ty than Bắc Kỳ thuộc Pháp (S.F.C.T) độc quyền khai thác và tiêu thụ than đá, ra sức vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công thuộc địa. Như vậy, Quảng Ninh trở thành một vùng điển hình của tội ác khai thác thuộc địa. Cùng với công nghiệp than, Quảng Ninh là một trong những nơi giai cấp công nhân Việt Nam hình thành sớm nhất, đồng thời đây cũng là nơi trở thành trường rèn luyện cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giác ngộ ý thức giai cấp cho giai cấp công nhân Việt Nam. Vốn xuất thân từ những người nông dân có truyền thống dân tộc lâu đời, mang trong lòng ngọn lửa căm thù sôi sục đối với quân xâm lược Pháp, cũng chính là bọn thực dân đang áp bức, đọa đày họ trong nhà máy, hầm mỏ, thợ mỏ Quảng Ninh ngay trong giai đoạn đầu đã rất nhạy bén với vấn đề dân tộc, sẵn sàng và tự nguyện tham gia vào các cuộc khởi nghĩa chung của dân tộc. Dần dần cùng với sự phát triển về số lượng, thông qua cuộc đấu tranh quyết liệt với kẻ thù, người thợ mỏ Quảng Ninh cũng ngày càng trưởng thành về chất lượng, sớm đi đến chủ nghĩa Mác-Lênin và tìm thấy ở đó "cẩm nang thần kỳ" trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và giai cấp. Quá trình đẩy mạnh khai thác của tư bản Pháp tại Quảng Ninh đã dẫn tới sự phân hóa sâu sắc xã hội, làm cho khu mỏ trở thành nơi phân chia rõ ràng giữa hai tầng lớp thống trị - bọn chủ mỏ thực dân và bè lũ tay sai của chúng với tầng lớp bị trị - đó là đội ngũ công nhân mỏ và đồng bào các dân tộc trên đất Quảng Ninh. Song song với quá trình phân hóa ấy là sự phát triển không ngừng của giai cấp công nhân mỏ Quảng Ninh. Đó chính là một quá trình chuyển hóa của giai cấp công nhân mỏ từ tự phát lên tự giác, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chưa có Đảng đến có một chính đảng của mình. Cuộc Tổng bãi công của hơn 30,000 thợ mỏ ngày 12 tháng 11 năm 1936 đòi tăng lương giảm giờ làm giành thắng lợi vẻ vang đã trở thành một trong những sự kiện lịch sử tiêu biểu nhất của phong trào cách mạng Việt Nam trong thời kỳ đấu tranh đòi quyền dân sinh dân chủ và độc lập dân tộc. Sau này ngày này trở thành ngày truyền thống của Công nhân vùng mỏ, gọi là Ngày vùng mỏ bất khuất. Trong thời kì Cách mạng tháng 8 năm 1945, khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Ninh hoàn toàn không dễ dàng, giặc Nhật còn ngoan cố chưa đầu hàng thì quân Tưởng tràn đến kéo theo bọn Việt gian phản động đã được nuôi dưỡng từ trước, bọn phản động người Hoa cũng nổi lên nắm quyền hành, hàng ngàn tên thổ phỉ hoành hành và sau đó quân Pháp đã quay lại chiếm ngay Cô Tô, Vạn Hoa... Do vị trí đặc biệt là vùng biên giới, vùng rừng núi, lại là vùng "vàng đen" – những yếu tố tạo nên những thuận lợi ở nhiều thời kỳ thì lúc này lại là tiền đề tạo nên những khó khăn chồng chất. Cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trở nên hết sức gay go, quyết liệt, phức tạp, thật sự là một cuộc giành giật và tốn không ít xương máu. Sau năm 1945. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Việt Nam giành độc lập, bước sang giai đoạn dân chủ hiện đại. Chính quyền nhân dân được thiết lập trên toàn bộ địa bàn tỉnh Quảng Yên. Gần một năm sau ngày tổng khởi nghĩa, Hải Ninh mới hoàn thành về cơ bản việc giành chính quyền trong tỉnh. Trừ hai huyện Hà Cối, Ba Chẽ và quần đảo Cô Tô lúc này còn bị tàn quân Pháp và bọn phỉ chiếm đóng, tất cả các huyện, thị xã còn lại trong tỉnh đã được giải phóng và có chính quyền cách mạng của nhân dân. Để thống nhất chỉ đạo kháng chiến, ngày 31 tháng 3 năm 1947, liên tỉnh Quảng Hồng được thành lập bao gồm tỉnh Quảng Yên, đặc khu Hòn Gai và các huyện Thủy Nguyên, Chí Linh, Nam Sách, Kinh Môn, Đông Triều. Tháng 8 năm 1947, phần lớn địa bàn hai huyện Sơn Động, Lục Ngạn thuộc tỉnh Bắc Giang được sáp nhập vào liên tỉnh Quảng Hồng. Ngày 16 tháng 12 năm 1948, Ủy ban kháng chiến hành chính Liên khu I đã quyết định tách tỉnh Quảng Hồng thành tỉnh Quảng Yên và Đặc khu Hòn Gai. Với sự phối hợp chặt chẽ giữa đấu tranh vũ trang với đấu tranh chính trị và binh vận, quân và dân Hải Ninh, Quảng Yên, Hòn Gai đã làm tan rã một mảng lớn lực lượng vũ trang của địch trên chiến trưòng Đông Bắc, góp phần đáng kể vào thắng lợi to lớn của chiến cuộc đông - xuân 1953 - 1954 mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ, góp phần đập tan ý chí xâm lược của thực dân Pháp, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, lập lại hòa bình ở Đông Dương. Ngày 22 tháng 2 năm 1955, theo sắc lệnh của Chủ tịch nước, khu Hồng Quảng gồm đặc khu Hồng Gai và tỉnh Quảng Yên (trừ các huyện Sơn Động, Kinh Môn, Nam Sách, Chí Linh nhập về Hải Dương và Bắc Giang) đã được thành lập. Khu ủy Hồng Quảng đã phát động phong trào đấu tranh chống địch vi phạm Hiệp định Giơ-ne-vơ, chuẩn bị tiếp quản vùng mỏ, đưa lực lượng vào thị xã Quảng Yên làm nhiệm vụ. Ngày 22 tháng 4 năm 1955, bộ đội ta tiếp quản các thị xã Quảng Yên, Cửa Ông, Cẩm Phả trong không khí tưng bừng náo nhiệt của nhân dân. Ngày 24 tháng 4, tên lính viễn chinh Pháp cuối cùng đã bước xuống khoang của chiếc tàu há mồm rời bến Bài Cháy. Tiếp theo đó, Đại đội 915 của khu đội Hồng Quảng đã tiến vào tiếp quản thắng lợi đảo Bạch Long Vĩ. Mảnh đất cuối cùng của khu Hồng Quảng đã được hoàn toàn giải phóng. Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân Quảng Ninh đã kết thúc thắng lợi. Ngày 25 tháng 4, tại thị xã Hòn Gai, quân dân Hồng Quảng mít tinh trọng thể mừng giải phóng. Để triển khai nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III, từ năm 1961 đến năm 1965, Đảng bộ khu Hồng Quảng và Đảng bộ tỉnh Hải Ninh đã trải qua hai kỳ đại hội. Đó là Đại hội đại biểu lần thứ V (kỳ II) từ ngày 16-1 đến ngày 2-2-1961 và lần thứ VI từ ngày 10-6 đến ngày 16-6-1963 của Đảng bộ Hải Ninh; Đại hội đại biểu lần thứ I (kỳ 10) từ ngày 31-1 đến ngày 9-2-1961 và Đại hội Đại biểu lần thứ II từ ngày 11-9 đến ngày 16-9-1963 của Đảng bộ Hồng Quảng. Ngày 30 tháng 10 năm 1963 với nền tảng là khu Hồng Quảng và tỉnh Hải Ninh, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập tỉnh Quảng Ninh, theo cách đặt của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tên tỉnh là ghép tên của hai tỉnh Quảng Yên và Hải Ninh cũ; thị xã Móng Cái chuyển thành huyện Móng Cái. Diện tích của toàn tỉnh Quảng Ninh là 8.239,243 km². Khi hợp nhất, tỉnh Quảng Ninh có 14 đơn vị hành chính gồm 3 thị xã: thị xã Hồng Gai (tỉnh lị), thị xã Cẩm Phả, thị xã Uông Bí và 11 huyện: Ba Chẽ, Bình Liêu, Cẩm Phả, Đầm Hà, Đình Lập, Đông Triều, Hà Cối, Hoành Bồ, Móng Cái, Tiên Yên, Yên Hưng. Từ ngày 1-1-1964, tỉnh Quảng Ninh đi vào hoạt động chính thức, tạo thành một thể liên hoàn cả vể chính trị, kinh tế, quân sự, phát huy được sức mạnh tổng hợp của vùng Đông Bắc rộng lớn của Tổ quốc. Đó là những dấu mốc rất quan trọng để giai cấp công nhân và nhân dân các dân tộc Quảng Ninh bước vào thời kỳ cách mạng mới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đang trên đà phát triển thì nhân dân ta lại phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ. Bị thua đau trong cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam, ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ đã cho máy bay và tàu chiến ném bom và bắn phá miền Bắc, trong đó có Quảng Ninh. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, quân và dân Quảng Ninh đã chuẩn bị sẵn sàng, kịp thời đập tan cuộc chiến tranh phá hoại của kẻ thù. Với khẩu hiệu "Tay cày tay súng", "Tay búa tay súng", "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược", nhân dân Quảng Ninh bất chấp bom đạn ác liệt, vừa sản xuất tốt, vừa chiến đấu giành thắng lợi, bảo vệ và ổn định đời sống nhân dân. Ngày 4 tháng 6 năm 1969, hợp nhất 2 huyện Đầm Hà và Hà Cối thành huyện Quảng Hà. Ngày 29 tháng 12 năm 1978, chuyển huyện Đình Lập về tỉnh Lạng Sơn vừa được tái lập quản lý. Ngày 18 tháng 1 năm 1979, huyện Móng Cái đổi tên thành huyện Hải Ninh. Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Chính phủ bàn hành Nghị định số 102/CP, thành phố Hạ Long được chính thức thành lập trên cơ sở thị xã Hồng Gai. Ngày 23 tháng 3 năm 1994, đổi tên huyện Cẩm Phả thành huyện Vân Đồn; tách quần đảo Cô Tô khỏi huyện Cẩm Phả để thành lập huyện Cô Tô. Ngày 20 tháng 7 năm 1998, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 52/1998/NĐ-CP, thành lập lại thị xã Móng Cái trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Hải Ninh. Ngày 29 tháng 8 năm 2001, huyện Quảng Hà được tách thành 2 huyện: Đầm Hà và Hải Hà (tức huyện Hà Cối trước đây). Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 03/NĐ-CP thành lập thành phố Móng Cái trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Móng Cái. Ngày 25 tháng 2 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP thành lập thành phố Uông Bí trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Uông Bí. Ngày 25 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP tái lập thị xã Quảng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Yên Hưng <ref name="100/NQ-CP">Nghị quyết số 100/NQ-CP của Chính phủ: Về việc thành lập thị xã Quảng Yên và thành lập các phường thuộc thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh</ref>. Ngày 21 tháng 2 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP thành lập thành phố Cẩm Phả thuộc trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Cẩm Phả.<ref name="04/NQ-CP"></ref> Ngày 11 tháng 3 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 891/NQ-UBTVQH13 thành lập thị xã Đông Triều trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Đông Triều. Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 837/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ninh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hoành Bồ vào thành phố Hạ Long. Tỉnh Quảng Ninh có 4 thành phố, 2 thị xã và 7 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Quảng Ninh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 4 thành phố, 2 thị xã và 7 huyện với 177 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 72 phường, 7 thị trấn và 98 xã. Quảng Ninh là một trong hai tỉnh có nhiều thành phố trực thuộc nhất Việt Nam cùng với tỉnh Bình Dương. Tỷ lệ đô thị hóa của tỉnh đến năm 2022 đạt 68,5% và là một trong 5 địa phương có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước. Kinh tế. Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với di sản thiên nhiên thế giới vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về giá trị thẩm mĩ và địa chất, địa mạo. Quảng Ninh hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quảng Ninh có nhiều khu kinh tế. Trung tâm thương mại Móng Cái là đầu mối giao thương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc và các nước trong khu vực. Từ năm 2017 tới 2022, Quảng Ninh là tỉnh liên tục 6 lần có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI đứng thứ 1 ở Việt Nam. Năm 2018, tốc độ tăng trưởng của tỉnh đạt 11,1%; thu nhập bình quân đầu người đạt 5110 USD (gấp hơn gần 2 lần bình quân chung cả nước); tiếp tục đứng trong nhóm 7 địa phương dẫn đầu cả nước về thu ngân sách với tổng thu ước đạt trên 40.500 tỷ đồng trong đó thu nội địa đạt 30.500 tỷ đồng đứng thứ 4 toàn quốc; thực hiện tiết kiệm triệt để nguồn chi thường xuyên, tăng chi cho đầu tư phát triển với tỷ trọng trên 64% tổng chi ngân sách; tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt trên 67.600 tỷ đồng. Lương bình quân của lao động trong tỉnh ở các ngành chủ lực như than, điện, cảng biển, cửa khẩu và du lịch đều ở mức cao. Công nghiệp khai khoáng. Là trung tâm lớn nhất Việt Nam về tài nguyên than đá, công nghiệp điện, cơ khí, xi măng, vật liệu xây dựng, Quảng Ninh có số lượng công nhân mỏ đông nhất cả nước, là thị trường đầy tiềm năng cho các nhà cung cấp, phân phối hàng hóa.   Là một tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản, về trữ lượng than trên toàn Việt Nam thì riêng Quảng Ninh đã chiếm tới 95%, đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng, cung cấp vật tư, nguyên liệu cho các ngành sản xuất trong nước và xuất khẩu, đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của tỉnh. Quảng Ninh còn là trung tâm nhiệt điện của cả nước với sản lượng nhiệt điện chiếm 15% và xi măng chiếm 14% của cả nước. Thương mại. Quảng Ninh là địa bàn có tiềm năng lớn để phát triển hoạt động thương mại dịch vụ, nhất là thương mại qua biên giới và thương mại qua đường biển. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế, ngành dịch vụ thương mại ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh. Tốc độ tăng trưởng của ngành dịch vụ thương mại đã đạt trung bình trên 13%/năm. Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) của tỉnh. Chỉ tính riêng năm 2017, giá trị tăng thêm của khu vực dịch vụ đã đạt 27.610 tỷ đồng, tăng 14,5% so với năm 2016. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ đạt trên 72.691 tỷ đồng, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Những năm gần đây, Quảng Ninh đang nỗ lực tạo bước phát triển đột phá để trở thành tỉnh đi đầu trong cả nước về đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển đổi phương thức phát triển từ "nâu" sang "xanh". Hàng loạt các dự án trọng điểm, các giải pháp sáng tạo trong điều hành đã và đang được triển khai tạo động lực quan trọng giúp Quảng Ninh bứt phá trong phát triển toàn diện và hình thành ngành dịch vụ chuyên nghiệp, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong cơ cấu kinh tế. Theo đó, thương mại nội địa đã có bước phát triển mạnh về chất và được mở rộng ở cả ba khu vực: Thành thị, nông thôn, miền núi. Hệ thống các chợ loại I, loại II, một số trung tâm thương mại, tài chính, ngân hàng phát triển mạnh. Theo thống kê của Sở Công Thương, đến nay toàn tỉnh có 133 chợ (trong đó: 22 chợ hạng 1, 23 chợ hạng 2 và 88 chợ hạng 3). Cơ bản các chợ hạng 1 đã được đầu tư xây dựng kiên cố, chợ hạng 2 có 20 chợ đã được đầu tư xây dựng kiên cố, chợ hạng 3 có 40 chợ đã được đầu tư xây dựng kiên cố. Tổng số điểm kinh doanh tại các chợ là 26.240 điểm, trong đó điểm kinh doanh của người Trung Quốc tại các chợ biên giới, chợ cửa khẩu là 1.043 điểm. Hoạt động kinh doanh của các chợ tương đối ổn định, hàng hóa đa dạng, phong phú. Công tác tuyên truyền cho các hộ kinh doanh được chú trọng nên thái độ phục vụ của các hộ kinh doanh có nhiều chuyển biến tích cực. Bên cạnh việc đầu tư nâng cấp các chợ truyền thống thì hệ thống các siêu thị, trung tâm thương mại trên địa bàn tỉnh đã được tăng cường. Để thu hút đầu tư vào lĩnh vực này, tỉnh đã tạo điều kiện tối đa về mặt bằng, về thủ tục hành chính và luôn đồng hành cùng nhà đầu tư trong suốt quá trình triển khai dự án. Tính đến thời điểm hiện tại, trên địa bàn tỉnh có 27 siêu thị (6 siêu thị hạng I, 4 siêu thị hạng II, 17 siêu thị hạng III; 16 siêu thị chuyên doanh và 11 siêu thị tổng hợp) và 5 trung tâm thương mại đang hoạt động. Cùng với đó, trên địa bàn tỉnh đã hình thành hệ thống hơn 30 trung tâm, cửa hàng, điểm giới thiệu sản phẩm OCOP và hầu hết sản phẩm OCOP của tỉnh đã được trưng bày, giới thiệu tại các địa điểm này. Nhiều sản phẩm OCOP của tỉnh không những được người tiêu dùng trong và ngoài tỉnh biết đến mà còn được du khách nước ngoài quan tâm, biết đến, như: Đồ gốm sứ Quang Vinh, ngọc trai Hạ Long, ghẹ lột Móng Cái... Xã hội. Dân cư. Năm 2019, dân số tỉnh Quảng Ninh đạt 1.324.800 người, với diện tích 6178,2 km² thì mật độ dân số là 214 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị là 853.700 người, chiếm 64,4% dân số toàn tỉnh. Quảng Ninh hiện là một trong số các địa phương có mức độ đô thị hóa cao nhất Việt Nam, vượt xa cả thủ đô Hà Nội. Tại Quảng Ninh, dân số nam đông hơn dân số nữ. Tỉnh này cũng là tỉnh có tỷ số giới tính giữa nam trên nữ cao nhất khi xét chung với vùng đồng bằng sông Hồng, với 103,5 nam trên mỗi 100 nữ. Tôn giáo. Quảng Ninh là một vùng đất có nền văn hoá lâu đời. Văn hoá Hạ Long đã được ghi vào lịch sử như một mốc tiến hoá của người Việt. Cũng như các địa phương khác, cư dân sống ở Quảng Ninh cũng có những tôn giáo, tín ngưỡng để tôn thờ: Đạo Phật đến với vùng đất này rất sớm. Trước khi vua Trần Thái Tông (1225-1258) đến với đạo Phật ở núi Yên Tử thì đã có nhiều các bậc chân tu nối tiếp tu hành ở đó. Vua Trần Nhân Tông (1279-1293) chọn Yên Tử là nơi xuất gia tu hành và lập nên dòng Thiền trúc Lâm ở Việt Nam. Thế kỷ XIV, khu Yên Tử và Quỳnh Lâm (Đông Triều) là trung tâm của Phật giáo Việt Nam, đào tạo tăng ni cho cả nước. Nhiều thế kỷ sau đó, Đạo Phật vẫn tiếp tục duy trì với hàng trăm ngôi chùa ở Quảng Ninh, trong đó có những ngôi chùa nổi tiếng như chùa Lôi Âm, chùa Long Tiên (Hạ Long), chùa Cái Bầu (Vân Đồn), Linh Khánh (Trà Cổ - Móng Cái), Ba Vàng (Uông Bí), Hồ Thiên (Đông Triều), Linh Quang (Quan Lạn)... Những người tôn thờ các tôn giáo khác cũng có nhưng không đông như tín đồ Đạo Phật. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Quảng Ninh có 6 tôn giáo khác nhau chiếm 89.455 người, trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 44.330 người (hiện có 27 nhà thờ Kitô giáo của 9 xứ thuộc 41 họ đạo nằm ở 8 huyện, thị xã, thành phố), Phật giáo có 44.278 người, Đạo Tin Lành có 552 người, Đạo Cao Đài có 87 người, Hồi Giáo có bảy người, ít nhất là Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có một người. Tín ngưỡng phổ biến nhất đối với cư dân sống ở Quảng Ninh là thờ cúng tổ tiên, thờ các vị tướng lĩnh nhà Trần có công với dân với nước, các vị Thành Hoàng, các vị thần (sơn thần, thủy thần), thờ các mẫu (Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải). Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương trong tỉnh như: hải sản Quảng Ninh, hải sản khô, miến rong Bình Liêu, bánh chưng cơm lông Hải Hà, bánh gật gù Tiên Yên, ba kích tím, nộm sứa Cô Tô, bánh ngải Bình Liêu, vải thiều Bình Khê, rượu mơ Yên Tử, chả mực giã tay Hạ Long, cam bản Sen, phở xào Bình Liêu, nem chua - chạo Quảng Yên, bánh tro Phong Cốc, măng trúc Yên Tử, sá sùng Quan Lạn, khâu nhục Tiên Yên, gà đen Bình Liêu, mật ong rừng, gỏi hải sản, na dai Đông Triều, giò lợn Móng Cái, chè Hà Cối, rượu ngán Hạ Long, bánh bạc đầu, hoa hồi Đồng Văn, xôi chả mực, củ cải khô Đầm Hà, dưa chua úp thảm Tiên Yên, bánh giầy Hà Nam, ruốc lỗ Hoành Bồ, canh hà Quảng Yên, chè lam Yên Tử, trứng vịt biển Đồng Rui, xôi ngũ sắc người Dao, trám đen Bình Liêu, bánh cuốn chả mực, nước mắm Quan Lạn, rươi Đông Triều, quế, bánh cooc mò Bình Liêu, cu kỳ Móng Cái, bún tươi Hiệp Hòa, cà ra Đồn Đạc, măng ớt Yên Tử, gà Tiên Yên, bánh tài lồng ệp, rượu chua Bằng Cả, ốc xào tương ớt, trà hoa vàng Ba Chẽ, cà sáy Tiên Yên. Nghệ thuật. Quảng Ninh là nơi sản sinh và nuôi dưỡng rất nhiều các tài năng nghệ thuật, đặc biệt là trong lĩnh vực âm nhạc. Có thể kể đến các nghệ sĩ thế hệ đầu như Nghệ sĩ ưu tú Dương Phú, Nghệ sĩ Nhân dân Lê Dung, Nghệ sĩ Nhân dân Quang Thọ, Nghệ sĩ ưu tú Đức Long và sau này là Hồ Quỳnh Hương, Ngọc Anh, Bích Phương, Kim Tiểu Phương, Masew, Hoàng Thái, Hà Hoài Thu, Hoàng Tùng, Tô Minh Thắng, Trang Nhung, Hồng Chinh, Đen Vâu, nhạc sĩ Huy Tuấn,Nhạc sĩ Đỗ Hòa An,Nhạc sĩ Vũ Việt Hồng, người mẫu Nguyễn Oanh, Nguyễn Hợp v.v.. Đoàn Chèo Quảng Ninh là đơn vị nghệ thuật chèo chuyên nghiệp thuộc chiếng chèo Đông. Chèo Quảng Ninh hiện được đưa vào khai thác du lịch. Giáo dục. Trên địa bàn tỉnh hiện có 660 cơ sở giáo dục từ mầm non đến đại học, trong đó: 218 trường mầm non, 179 trường tiểu học, 1 trường liên cấp mầm non - tiểu học, 186 trường trung học cơ sở, 59 trường có cấp trung học phổ thông, 13 trung tâm GDNN- GDTX cấp huyện, 1 trung tâm HN-GDTX tỉnh, 2 trường đại học, 1 phân hiệu đại học. Với hệ thống trường học như vậy, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Quảng Ninh góp phần đạt phổ cập giáo dục các cấp bậc học trong những năm tới. Cùng với đó, ngành giáo dục cũng đã triển khai thực hiện tốt các nhiệm vụ chuyên môn theo đúng kế hoạch, nhiệm vụ năm học, duy trì kết quả đã đạt được. Đáng chú ý, kết quả phổ cập giáo dục, xóa mù chữ được duy trì, giữ vững và nâng cao chất lượng. Năm 2017, toàn tỉnh có 100% đơn vị cấp xã đạt chuẩn phổ cập giáo dục, xóa mù chữ. Trong đó, phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi đạt chuẩn 100%; phổ cập giáo dục tiểu học đạt chuẩn mức độ 1 là 0,5%, mức độ 2 là 6%, mức độ 3 là 93,5%; phổ cập giáo dục THCS đạt chuẩn mức độ 1 là 9,7%, mức độ 2 là 31,7%, mức độ 3 là 58,6%. Tính đến ngày 15/6/2018, tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 80,87% (520/643 trường, trong đó: THPT có 37 trường; THCS có 144 trường; tiểu học có 161 trường; mầm non có 178 trường). Tỷ lệ phòng học kiên cố đạt 91,18%.. Quảng Ninh có 1 trường THPT Chuyên là THPT Chuyên Hạ Long, các trường có lớp chuyên khác bao gồm THPT Hòn Gai (Hạ Long) và THPT Trần Phú (Móng Cái). Tỉnh có nhiều học sinh giỏi tham dự nhiều kỳ thi và các cuộc thi của quốc gia và quốc tế, nổi bật là cuộc thi đường lên đỉnh Olympia với 3 thí sinh từng đạt vô địch năm 12, 18 và 21 là Đặng Thái Hoàng, Nguyễn Hoàng Cường và Nguyễn Hoàng Khánh. Y tế. Quảng Ninh có hệ thống cơ sở vật chất của ngành y tế được đầu tư đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh của người dân và các du khách trong và ngoài nước. Tính đến năm 2010, toàn tỉnh Quảng Ninh có 15 bệnh viện, 09 phòng khám đa khoa khu vực, 10 trung tâm y tế tuyến tỉnh, 14 trung tâm y tế tuyến huyện, 186 trạm y tế xã, phường. Trong đó, Đội ngũ bác sĩ, y sĩ rất chuyên nghiệp với 02 tiến sĩ y học, 53 thạc sĩ y học, 24 bác sĩ chuyên khoa II, 218 bác sĩ chuyên khoa I, 437 bác sĩ, 478 y sĩ, 109 kỹ thuật viên, 960 điều dưỡng viên, 225 nữ hộ sinh, 43 dược sĩ đại học, 99 dược sĩ trung học và 982 cán bộ chuyên môn khác. Năm 2015 đạt tỷ lệ 42,3 giường bệnh trên 10.000 dân, cao gần gấp 2 lần trung bình cả nước, đạt tỷ lệ 12,26 bác sĩ trên 10.000 dân, cao hơn trung bình cả nước gần 1,6 lần. Năng lực hệ thống y tế dự phòng Quảng Ninh được xếp vào top đầu toàn quốc. Các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, VSATTP, DS-KHHGĐ và phòng, chống HIV/AIDS được thực hiện đồng bộ hiệu quả. Tỉnh cơ bản đã hoàn thành mục tiêu 100% xã, phường, thị trấn đạt Bộ tiêu chí Quốc gia về y tế xã giai đoạn 2011-2020, về đích trước 5 năm so với quy định của Bộ Y tế. Các bệnh viện tuyến tỉnh, tuyến huyện đã thực hiện được nhiều kỹ thuật của tuyến trên, nhiều kỹ thuật khó, chuyên sâu: Du lịch. Quảng Ninh là một trong những trung tâm du lịch hàng đầu Việt Nam, giàu tiềm năng du lịch, sở hữu nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng. Hoạt động du lịch có bước tăng trưởng ấn tượng trong năm 2017 với gần 10 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế tăng mạnh với 4,3 triệu lượt. Tổng doanh thu du lịch ước đạt gần 18.000 tỷ đồng, đã góp phần tăng tỷ trọng dịch vụ lên 41,2% trong cơ cấu kinh tế. Đăng cai và tổ chức thành công Hội nghị Đối thoại chính sách cao cấp APEC về Du lịch bền vững tạo tiền đề tích cực, sẵn sàng tổ chức Năm Du lịch quốc gia 2018. Những lễ hội truyền thống của Quảng Ninh. Quảng Ninh có hàng trăm di sản văn hoá phi vật thể thuộc bảy loại hình: Lễ hội truyền thống (77 di sản), nghề thủ công truyền thống (25 di sản), nghệ thuật trình diễn dân gian (22 di sản), ngữ văn dân gian (14 di sản), tập quán xã hội (168 di sản), tiếng nói chữ viết (7 di sản), tri thức dân gian (50 di sản). Trong đó có 4 di sản đã được đưa vào danh mục Di sản văn hoá phi vật thể quốc gia, gồm: Nghi lễ then cổ của người Tày (Bình Liêu), hát nhà tơ - hát (múa) cửa đình, lễ hội đền Cửa Ông (Cẩm Phả) , lễ hội miếu Tiên Công (Quảng Yên). 1. TP. Hạ Long 2. TP. Cẩm Phả 3. TP. Móng Cái 4. TP. Uông Bí 5. TX. Đông Triều 6. TX. Quảng Yên 7. Huyện Vân Đồn 8. Huyện Hải Hà 9. Huyện Ba Chẽ 10. Huyện Bình Liêu 11. Huyện Đầm Hà 12. Huyện Tiên Yên Giao thông. Hệ thống giao thông của Quảng Ninh bao gồm giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển và cảng hàng không. Đường bộ. 1. Quốc lộ: Hệ thống đường bộ có 7 tuyến Quốc lộ dài 558,79 km gồm: 2. Tỉnh lộ: 16 tuyến, tổng chiều dài 409,93 km. 3. Cao tốc: 3 tuyến, bao gồm: 4. Bến xe, tuyến vận tải khách: Hiện có 16 bến xe khách đang hoạt động, các huyện Đầm Hà, Ba Chẽ và Cô Tô chưa có bến xe khách; trong đó có 6/15 bến xe đạt loại 3 trở lên, chỉ có 03 bến xe đạt loại 1 (bến xe Bãi Cháy, bến xe Móng Cái, bến xe Cửa Ông). Về cơ bản hệ thống bến xe khách trên địa bàn tỉnh đảm bảo nhu cầu đi lại của người dân. Tuy nhiên hiện nay không còn đủ quỹ đất để phát triển, mở rộng các bến xe, vị trí các bến xe hiện nay cũng không còn phù hợp với quy hoạch chung của các đô thị và định hướng phát triển mạng lưới các trục đối ngoại của tỉnh. Đường thủy. Theo số liệu thống kê trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh hiện có 213 cảng, bến gồm: 59 cảng và 103 bến thủy nội địa. Trong đó cảng hàng hóa chiếm 174; cảng bến khách chiếm 39. Cụ thể: Đường sắt. Tỉnh có một tuyến đường sắt cấp quốc gia đi qua dài 64,08 km kết nối từ ga Kép (Bắc Giang) đến Đông Triều, Uông Bí và Hạ Long. Dự án xây dựng tuyến Yên Viên - Phả Lại - Hạ Long - Cái Lân hiện nay đang tạm dừng, mới hoàn thành xây dựng đoạn tuyến từ ga Hạ Long tới cảng Cái Lân. Mật độ đường sắt của Quảng Ninh là 0,9 km/100 km. Tốc độ tối đa của tàu hỏa hiện đạt 54 km/h, thời gian đi từ Quảng Ninh đến Hà Nội hết khoảng 7 tiếng, chậm hơn nhiều so với đường bộ. Ngoài tuyến đường sắt quốc gia Kép - Hạ Long trên địa bàn còn có một số tuyến đường sắt chuyên dùng của ngành than phục vụ vận chuyển cho hai khu vực chính là vùng than Uông Bí và vùng Than Cẩm Phả: (1) Tuyến đường sắt Vàng Danh – Thành phố Uông Bí - Điền Công. (2) Tuyến đường sắt Cao Sơn - Mông Dương – Thành phố Cẩm Phả. (3) Tuyến đường sắt Cọc 6 – Cọc 4 – Cảng Cửa Ông (4) Tuyến đường sắt Thống Nhất – Cọc 4 Nhìn chung giao thông đường sắt Quảng Ninh chưa được khai thác tốt. Một phần do hệ thống hạ tầng đầu tư xây dựng đã lâu xuống cấp, yếu tố về hướng tuyến và dòng vận tải hành khách, hàng hóa chưa phù hợp với nhu cầu. Do trục liên kết và hướng thu hút dòng hành khách, hàng hóa lớn vẫn nằm trên trục Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, vì vậy khối lượng vận tải chính trên trục này vẫn do giao thông đường bộ đảm nhiệm. Đường hàng không. Cảng hàng không Quốc tế Vân Đồn nằm trên địa bàn xã Đoàn Kết, huyện Vân Đồn, cách trung tâm Hạ Long 90 km. Đây là sân bay phục vụ cho Đặc khu Vân Đồn trong tương lai, cho hành khách tham quan Quảng Ninh cũng như Vịnh Hạ Long. Liên kết ngoài. Cổng thông tin khởi nghiệp Quảng Ninh
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tiền Giang là một tỉnh ven biển thuộc đồng bằng sông Cửu Long, miền Nam, Việt Nam. Tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là Thành phố Mỹ Tho, nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 70 km về hướng Tây Nam và cách Thành phố Cần Thơ 90 km về hướng Đông Bắc theo đường Quốc lộ 1. Tiền Giang có đường bờ biển dài 32 km với địa hình tương đối bằng phẳng, đất phù sa trung tính, ít chua dọc sông Tiền,sông Vàm Cỏ và sông Soài Rạp. Phần dọc sông Tiền chiếm khoảng 53% diện tích toàn tỉnh, thích hợp cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi. Tiền Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch. Năm 2018, Tiền Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 14 về dân số, xếp thứ 21 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 32 về GRDP bình quân đầu người và đứng thứ 45 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.772.785 người dân, GRDP của tỉnh năm 2021 đạt 100.315 tỉ Đồng, GRDP bình quân đầu người đạt 56,4 triệu đồng (tương đương 2.405 USD). Địa lý. Tỉnh Tiền Giang nằm trong tọa độ địa lý 105°49'07" đến 106°48'06" kinh độ Đông và 10°12'20" đến 10°35'26" vĩ độ Bắc, có vị trí địa lý: Tiền Giang nằm trải dọc trên bờ bắc sông Tiền (một nhánh của sông Cửu Long) với chiều dài 120 km, kéo dài đến các cửa biển đổ vào Biển Đông. Nhờ vị trí thuận lợi, Tiền Giang đã trở thành trung tâm văn hóa chính trị của cả Đồng bằng sông Cửu Long, là địa bàn trung chuyển hết sức quan trọng gắn cả miền Tây Nam Bộ. Đồng thời giúp Tiền Giang trở thành một tỉnh có nền kinh tế phát triển hàng đầu trong khu vực Tây Nam Bộ và Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tiền Giang có khu vực giáp Biển Đông thuộc huyện Gò Công Đông và huyện Tân Phú Đông với bờ biển dài 32 km nằm kẹp giữa các cửa sông lớn là Xoài Rạp và cửa Tiểu, cửa Đại thuộc hệ thống sông Tiền. Vị trí này rất thuận lợi cho nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Thủy sản nước lợ gồm con giống và con non sinh sản và di chuyển vào sâu trong bờ, trữ lượng hàng năm ước tính về tôm, cua, cá, sò, nghêu... tại các vùng cửa sông là 156.000 tấn. Hải sản, tiềm năng hải sản khá dồi dào với trữ lượng hàng năm về sinh vật nổi lên đến 12.000 triệu tấn thực vật phiêu sinh, 5,96 triệu tấn động vật phiêu sinh, 4,7 triệu tấn sinh vật đáy và hơn 1 triệu tấn cá. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Tỉnh Tiền Giang có địa hình bằng phẳng, với độ dốc nhỏ hơn 1% và cao trình biến thiên từ 0 mét đến 1,6 mét so với mặt nước biển, phổ biến từ 0,8 mét đến 1,1 mét. Nhìn chung, toàn vùng không có hướng dốc rõ ràng, tuy nhiên có những khu vực có tiểu địa hình thấp trũng hay gò cao hơn so với địa hình chung. Trên địa bàn còn có rất nhiều giồng cát biển hình cánh cung có cao trình phổ biến từ 0,9 - 1,1 mét nổi hẳn lên trên các đồng bằng xung quanh. Thổ nhưỡng. Đất đai của tỉnh phần lớn là nhóm đất phù sa trung tính, ít chua dọc sông Tiền chiếm khoảng 53% diện tích toàn tỉnh, thuận lợi nguồn nước ngọt, từ lâu đã được đưa vào khai thác sử dụng, hình thành vùng lúa năng suất cao và vườn cây ăn trái chuyên canh của tỉnh; còn lại 19,4% là nhóm đất phèn và 14,6% là nhóm đất phù sa nhiễm mặn... Khí hậu. Tiền Giang mang tính chất nội chí tuyến - cận xích đạo và khí hậu nhiệt đới gió mùa nên nhiệt độ bình quân cao và nóng quanh năm. Nhiệt độ bình quân trong năm là 27C - 27,9C. Với 2 mùa rõ rệch là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình 1.210 - 1.424 mm/năm và phân bố ít dần từ bắc xuống nam, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Khoáng sản. Tiền Giang là tỉnh có nhiều trữ lượng về khoáng sản, các khoáng sản chủ yếu là than bùn, sét, trữ lượng cát trên sông, và trữ lượng nước ngầm...Trong đó, các mỏ than bùn bị phủ một lớp sét, mùn thực vật dày 0-0,7 mét, trung bình là 0,3 mét. Mỏ sét Tân Lập có nguồn gốc trầm tích hỗn hợp sông biển, tuổi Holocen, có lớp phủ dày 0,2 - 3 mét, phân bố trên diện tích 2 – 3 km với chiều dày 15 - 20m. Trữ lượng tương đương 6 triệu m. Các mỏ cát được xác định, phân lớp tập trung tại địa bàn các huyện Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành với 9 thân cát có trữ lượng lớn với chiều dài 2 – 17 km, rộng 300 - 800m, dày 2,5-6,9 mét, có chất lượng đáp ứng nhu cầu vật liệu san lấp. Nước dưới đất trên phạm vi tỉnh có 3 tầng chứa nước có triển vọng, có độ giàu nước từ lớn đến trung bình, có chất lượng tốt, đủ điều kiện khai thác với quy mô lớn và vừa gồm các phân vị Pliocen trên, Pliocen dưới và Miocen. Thủy văn. Tiền Giang có mạng lưới sông, rạch chằng chịt, bờ biển dài thuận lợi cho việc giao lưu trao đổi hàng hoá với các khu vực lân cận đồng thời là môi trường cho việc nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Trong đó, sông Tiền là nguồn cung cấp nước ngọt chính, chảy 115 km ngang qua lãnh thổ Tiền Giang. Sông Vàm Cỏ Tây là một sông không có nguồn, lượng dòng chảy trên sông chủ yếu là từ sông Tiền chuyển qua, là nơi nhận nước tiêu lũ từ Đồng Tháp Mười thoát ra và là một tuyến xâm nhập mặn chính từ biển vào. Hầu hết sông, rạch trên địa bàn tỉnh chịu ảnh hưởng chế độ bán nhật triều không đều. Đặc biệt vùng cửa sông có hoạt động thủy triều rất mạnh, biên độ triều tại các cửa sông từ 3,5 - 3,6m, tốc độ truyền triều 30 km/h, tốc độ độ chảy ngược trung bình 0,8 - 0,9 m/s, lớn nhất lên đến 1,2 m/s và tốc độ chảy xuôi đến 1,5 - 1,8 m/s. Rừng. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2021, tổng diện tích đất có rừng 2.426,8 ha; tỷ lệ che phủ rừng là 0,9%. Đất rừng thuộc địa bàn các huyện: Gò Công Đông (518,6 ha), Tân Phú Đông (846,8 ha), Tân Phước (1.061,4 ha). Diện tích rừng trồng lại là 2.363,5 ha. Danh sách cù lao trên sông của Tiền Giang. Từ tây sang đông, hướng thượng lưu chảy xuống hạ lưu sông Tiền có các cù lao: Danh sách cù lao ven biển của Tiền Giang. Nhiều cù lao ven biển đã trở thành bãi bồi. Hành chính. Tiền Giang có 11 đơn vị hành chính gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện với 172 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 8 thị trấn, 22 phường và 142 xã. Lịch sử. Phần lớn diện tích của tỉnh thuộc địa bàn tỉnh Mỹ Tho cũ. Tuy nhiên, cũng có thời kỳ toàn bộ diện tích tỉnh Tiền Giang ngày nay đều thuộc tỉnh Mỹ Tho, bao gồm cả vùng Gò Công. Tên gọi cũ của tỉnh trước năm 1976 là Định Tường. Tỉnh Định Tường thời Nhà Nguyễn. Năm Gia Long thứ 5 (1806), Nhà Nguyễn đổi tên huyện Kiến Khang thành huyện Kiến An thuộc trấn Định Tường, đến năm 1808 thăng huyện Kiến An thành phủ Kiến An với 3 huyện mới (trước là tổng) là: Kiến Hưng, Kiến Hòa, Kiến Đăng. Tỉnh Định Tường (chữ Hán: "定祥(省)") được thành lập năm Minh Mạng thứ 13 (1832) và là một trong 6 tỉnh của Nam Kỳ ("Nam Kỳ lục tỉnh"). Lập thêm huyện Tân Hòa thuộc phủ Kiến An, tách từ đất huyện Kiến Hòa. Năm 1833, tỉnh thành Định Tường (nay là thành phố Mỹ Tho tỉnh Tiền Giang) thất thủ vào tay Lê Văn Khôi, Nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp và lấy lại được thành. Năm Minh Mạng 19 (1838), Lập một phủ mới mang tên Kiến Tường, trích huyện Kiến Đăng thành 2 huyện Kiến Đăng và Kiến Phong cho vào phủ Kiến Tường. Năm Thiệu Trị thứ 1 (1841), Thiệu Trị cắt huyện Tân Hòa từ phủ Kiến An, nhập sang tỉnh Gia Định. Thời vua Tự Đức (1847-1862), tỉnh Định Tường gồm 2 phủ với 4 huyện: Kiến Hưng, Kiến Hòa (phủ Kiến An), Kiến Đăng, Kiến Phong (phủ Kiến Tường). Tỉnh thành Định Tường ban đầu là đồn Trấn Định ở thôn Tân Lý Tây giồng Kiên Định huyện Kiến Khang (tức thôn Tân Hiệp huyện Kiến Hưng, đến thời Gia Long thì chuyển đến thôn Mỹ Chánh huyện Kiến Hòa, năm Minh Mạng thứ 7, rời về địa phận 2 thôn Điều Hòa và Bình Biên huyện Kiến Hưng. Phủ Kiến An: lỵ sở nằm ở vị trí là đồn Trấn Định cũ tại thôn Tân Hiệp huyện Kiến Hưng, dựng năm 1833. Phủ Kiến Tường: lỵ sở ở thôn Mỹ Trà (Cao Lãnh) huyện Kiến Phong từ năm 1838. Theo thống kê đầy đủ, trước khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tỉnh Định Tường có tỉnh lỵ đặt tại Mỹ Tho, gồm 2 phủ trực thuộc như sau: Thời Pháp thuộc. Năm 1859, Pháp xâm chiếm thành Gia Định. Năm 1861, Pháp đánh chiếm Gia Định, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long. Thời Pháp thuộc (1862-1945), theo Hiệp ước Nhâm Tuất năm 1862, Định Tường cùng với Biên Hòa và Gia Định bị cắt nhượng cho Pháp đô hộ. Năm 1863, thực dân Pháp đặt viên chức cai trị, song vẫn giữ phân ranh hành chính cũ của tỉnh Định Tường. Năm 1869, sau 2 năm chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây (gồm Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên), Pháp còn giữ 6 tỉnh nhưng chia cắt lại các phủ huyện lệ thuộc. Như tỉnh Định Tường đổi là tỉnh Mỹ Tho và coi 4 hạt ("inspection"): Mỹ Tho (huyện Kiến Hưng cũ), Chợ Gạo (huyện Kiến Hòa cũ), Bến Tre (phủ Hoằng Trị trực thuộc tỉnh Vĩnh Long cũ), Cai Lậy (huyện Kiến Đăng cũ). Còn hạt Cần Lố (huyện Kiến Phong cũ) thì lại chuyển sang cho tỉnh Vĩnh Long cai quản. Từ năm 1872, thực dân Pháp bỏ hẳn cả hệ thống hành chính lục tỉnh và phủ huyện cũ. Nam Kỳ được chia thành 18 hạt và 2 thành phố (Sài Gòn, Chợ Lớn). Địa bàn tỉnh Định Tường chia ra cho 5 hạt: toàn hạt Mỹ Tho (nằm trên 3 huyện Kiến Hưng, Kiến Hòa, Kiến Đăng cũ), một nửa Đồng Tháp Mười cho hạt Tân An (lấy đất tổng Hưng Long của huyện Kiến Hưng cũ), nửa còn lại (huyện Kiến Phong cũ) chia nhau cho 3 hạt Châu Đốc, Long Xuyên và Sa Đéc. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, các hạt Thanh tra được thay bằng hạt Tham biện. Năm 1876, tỉnh Định Tường chính thức bị Pháp giải thể: Theo Nghị định của Toàn quyền Đông Dương vào ngày 20 tháng 12 năm 1899 thì kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi tất cả các hạt ở Nam Kỳ thành tỉnh. Địa bàn tỉnh Định Tường cũ chia ra thành 5 tỉnh giống như thời kỳ trước đây: tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Tân An, tỉnh Châu Đốc, tỉnh Long Xuyên và tỉnh Sa Đéc. Tình hình đó kéo dài cho đến năm 1956. Tỉnh Định Tường thời Việt Nam Cộng hòa. Tỉnh Định Tường được chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Ngô Đình Diệm để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Định Tường được thành lập trên phần đất tỉnh Mỹ Tho (trừ vùng nằm phía nam sông Tiền Giang là quận An Hóa thì đổi tên thành quận Bình Đại và nhập vào tỉnh Kiến Hòa) và tỉnh Gò Công cũ. Tỉnh lỵ tỉnh Định Tường đặt tại Mỹ Tho và vẫn giữ nguyên tên là "Mỹ Tho", về mặt hành chánh thuộc xã Điều Hòa, quận Châu Thành. Định Tường là một trong 22 tỉnh của Nam Phần lúc đó. Tỉnh Định Tường bắc giáp tỉnh Kiến Tường, đông bắc giáp tỉnh Long An, đông giáp tỉnh Gò Công, tây nam và nam giáp hai tỉnh Vĩnh Long và Kiến Hòa, tây giáp tỉnh và Kiến Phong, tây nam giáp tỉnh Sa Đéc khi tỉnh này được tái lập. Ranh giới phía nam của tỉnh Định Tường là sông Tiền Giang (đoạn này còn gọi là sông Mỹ Tho). Định Tường có diện tích khoảng 1.900 km². Dân số năm 1965 là 514.146 người. Ngày 24 tháng 4 năm 1957, chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định các đơn vị hành chính trực thuộc tỉnh. Tỉnh Định Tường có tỉnh lỵ đặt tại Mỹ Tho, bao gồm 7 quận ban đầu: Trong đó, các quận Bến Tranh, Cai Lậy, Cái Bè, Châu Thành và Chợ Gạo trước năm 1956 cùng thuộc tỉnh Mỹ Tho cũ. Riêng 2 quận Gò Công và Hòa Đồng lại thuộc tỉnh Gò Công cũ, đặc biệt quận Gò Công lúc bấy giờ chính là quận Châu Thành của tỉnh Gò Công trước đây. Ngày 5 tháng 12 năm 1957, dời quận lỵ quận Bến Tranh từ xã Lương Hòa Lạc đến xã Tân Hiệp. Ngày 8 tháng 11 năm 1960, quận Châu Thành đổi tên thành quận Long Định, đồng thời dời quận lỵ từ xã Điều Hòa tới xã Long Định. Ngày 9 tháng 8 năm 1961, tách đất quận Cái Bè lập quận mới Giáo Đức, quận lỵ tại xã An Hữu, gồm 2 tổng: Phong Phú với 5 xã; An Phú (mới lập) với 5 xã. Quận Cái Bè đổi tên thành quận Sùng Hiếu. Quận Cai Lậy đổi tên thành quận Khiêm Ích. Ngày 20 tháng 12 năm 1963, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập tỉnh Gò Công, tỉnh lỵ đặt tại Gò Công, gồm 2 quận: Châu Thành (đổi tên từ quận Gò Công) và Hòa Đồng với 4 tổng, 31 xã. Phần đất còn lại tương ứng với tỉnh Mỹ Tho trước năm 1956, tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên gọi tỉnh Định Tường cho vùng đất này đến năm 1975. Ngày 23 tháng 5 năm 1964 chia quận Long Định thành 2 quận: Châu Thành và Long Định. Quận Châu Thành, quận lỵ tại xã Trung An, có 2 tổng: tổng Thuận Trị với 6 xã; tổng Thuận Hòa (mới lập) với 6 xã. Quận Long Định, quận lỵ dời về xã Vĩnh Kim, có 2 tổng: tổng Thuận Bình với 7 xã; tổng Lợi Trường với 7 xã. Ngày 10 tháng 11 năm 1964, đổi lại tên quận Sùng Hiếu thành quận Cái Bè, quận Khiếm Ích thành quận Cai Lậy như cũ. Sau năm 1965 các tổng giải thể, các xã trực thuộc các quận. Ngày 24 tháng 3 năm 1969, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên quận Long Định (tỉnh Định Tường) thành quận Sầm Giang. Ngày 30 tháng 9 năm 1970, Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 114/SL-NV cải biến xã Điều Hòa thuộc quận Châu Thành thành thị xã Mỹ Tho, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Định Tường. Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Mỹ Tho, tỉnh Định Tường và tỉnh Gò Công là ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Ngày 12 tháng 7 năm 1974, lập quận mới Hậu Đức thuộc tỉnh Định Tường, quận lỵ tại Thiên Hộ, xã Hậu Mỹ trở thành một phần của quận Hậu Đức, do tách một phần đất của các quận Cái Bè, Giáo Đức, Cai Lậy cùng tỉnh Định Tường, quận Kiến Bình (tỉnh Kiến Tường) và của quận Mỹ An (tỉnh Kiến Phong). Các đơn vị hành chính của quận Hậu Mỹ chưa sắp xếp xong thì chính quyền Việt Nam Cộng hòa sụp đổ vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tuy nhiên chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tỉnh Định Tường và vẫn giữ tên cũ là tỉnh Mỹ Tho. Tháng 2 năm 1976, tỉnh Định Tường sáp nhập với tỉnh Gò Công và thị xã Mỹ Tho thành tỉnh Tiền Giang. Tỉnh Tiền Giang từ năm 1976 đến nay. Ngày 24 tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho để thành lập tỉnh mới có tên là tỉnh Tiền Giang (trừ huyện Bình Đại nằm phía nam sông Tiền Giang đã nhập vào tỉnh Bến Tre từ trước). Tỉnh Tiền Giang gồm thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công và 5 huyện: Cái Bè, Cai Lậy, Châu Thành, Chợ Gạo, Gò Công. Tỉnh lỵ là thành phố Mỹ Tho, vốn được Trung ương công nhận là đô thị loại 3 trực thuộc tỉnh Tiền Giang vào năm 1976. Ngày 26 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 77-CP về việc chuyển thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang thành thị trấn Gò Công thuộc huyện Gò Công cùng tỉnh. Ngày 13 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 155-CP về việc chia huyện Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang thành huyện Gò Công Đông và huyện Gò Công Tây. Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 37-HĐBT về việc thành lập thị xã Gò Công trực thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở một phần diện tích, dân số của huyện Gò Công Đông và huyện Gò Công Tây. Trước năm 1994, tỉnh Tiền Giang có 8 đơn vị hành chánh trực thuộc là: thành phố Mỹ Tho, thị xã Gò Công, huyện Cái Bè, huyện Cai Lậy, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, huyện Gò Công Đông, huyện Gò Công Tây. Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 68-CP về việc thành lập huyện Tân Phước thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của các huyện Cai Lậy và Châu Thành. Huyện Tân Phước có diện tích 32.991,44 hécta; nhân khẩu 42.031. Ngày 21 tháng 1 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/2008/NĐ-CP, về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây để mở rộng thị xã Gò Công và thành lập huyện Tân Phú Đông thuộc tỉnh Tiền Giang. Theo đó, thành lập huyện Tân Phú Đông bao gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Tân Thới, Tân Phú, Phú Thạnh, Tân Thạnh của huyện Gò Công Tây và toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của xã Phú Đông và xã Phú Tân của huyện Gò Công Đông. Huyện Tân Phú Đông có 6 đơn vị hành chính trực thuộc gồm các xã: Phú Đông, Phú Tân, Tân Thới, Tân Phú, Tân Thạnh và Phú Thạnh. Ngày 7 tháng 10 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 248/2005/QĐ-TTg<ref name="QUYẾT ĐỊNH 248/2005/QĐ-TTg"></ref> về việc công nhận thành phố Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang là đô thị loại II. Ngày 21 tháng 1 năm 2008, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 09/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây để mở rộng thị xã Gò Công và thành lập huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang. Theo đó, thành lập huyện Tân Phú Đông thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở điều chỉnh 8.632,88 ha diện tích tự nhiên và 33.296 nhân khẩu của huyện Gò Công Tây; 11.575,43 ha diện tích tự nhiên và 9.630 nhân khẩu của huyện Gò Công Đông. Ngày 29 tháng 6 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 28/NQ-CP<ref name="NGHỊ QUYẾT 28/NQ-CP"></ref> về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo để mở rộng địa giới hành chính thành phố Mỹ Tho; điều chỉnh địa giới hành chính xã, thành lập xã thuộc thành phố Mỹ Tho, huyện Châu Thành, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang. Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị quyết số 130/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Cai Lậy để thành lập thị xã Cai Lậy và huyện Cai Lậy còn lại; thành lập các phường thuộc thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang. Ngày 05 tháng 2 năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 242/QĐ-TTg<ref name="QUYẾT ĐỊNH 242/QĐ-TTg"></ref> về việc công nhận thành phố Mỹ Tho là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Tiền Giang. Tỉnh Tiền Giang có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện như hiện nay. Kinh tế. Trong 6 tháng đầu năm 2012, Tổng sản phẩm trên địa bàn ước tính đạt 8.232 tỷ đồng, tăng 9,3% so với cùng kỳ năm 2011. Tốc độ tăng trưởng kinh tế có chậm lại so với 2 năm trước liền kề. So với 6 tháng đầu năm 2011, Khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng trưởng 5,6%, trong đó nông nghiệp tăng 6,2%. Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng trưởng 13,1%, tăng cao hơn 6 tháng đầu năm 2011 là 0,9%, trong đó công nghiệp tăng 18,1%. Khu vực dịch vụ tăng trưởng 10,4%, tăng thấp hơn 6 tháng đầu năm 2011 là 0,8%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh chuyển dịch chậm, tăng tỷ trọng công nghiệp, xây dựng, dịch vụ và tỷ trọng nông nghiệp giảm. Khu vực nông lâm thủy sản chiếm 47,2%, khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 26,3%, khu vực dịch vụ chiếm 26,5%. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tổng thu ngân sách đạt 4.126 tỷ đồng, tăng 9,6% so cùng kỳ. Tính đến ngày 11 tháng 6 năm 2012, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn đạt 19.546 tỷ đồng, tăng 2.301 tỷ đồng so đầu năm và tăng 21,7% so cùng kỳ. Dư nợ cho vay là 16.039 tỷ đồng giảm 37 tỷ so đầu năm và tăng 6,1% so cùng kỳ, trong đó dư nợ ngắn hạn đạt 11.552 tỷ đồng, chiếm 72% trong tổng dư nợ cho vay. Nợ xấu 6 tháng qua có xu hướng tăng lên, tăng 421 tỷ đồng so đầu năm và chiếm 3,7% trong tổng dư nợ. Uớc đạt trong 6 tháng đầu năm 2012, Vốn đầu tư toàn xã hội thực hiện 6.208,8 tỷ đồng, đạt 34,8% kế hoạch, bằng 98,9% so cùng kỳ. Vốn khu vực Nhà nước 953,6 tỷ đồng, chiếm 15,2% trong tổng vốn đầu tư, khu vực ngoài Nhà nước 4.660,6 tỷ đồng, tăng 9,5%, khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 594,6 tỷ đồng, bằng 60,1% so cùng kỳ. Vốn đầu tư từ Ngân sách nhà nước do địa phương quản lý thực hiện 742,9 tỷ đồng, trong đó vốn ngân sách trung ương 88,6 tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng số, vốn ngân sách địa phương 731 tỷ đồng, chiếm 88,1%. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được 7 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 152,6 triệu USD. Sáu tháng đầu năm 2012, Tỉnh có 165 doanh nghiệp đăng ký thành lập với tổng vốn đăng ký là 393,9 tỷ đồng, giảm 27% về số doanh nghiệp và giảm 51,8% về lượng vốn đăng ký. Ngoài ra, còn có 90 doanh nghiệp đăng ký bổ sung vốn với tổng vốn bổ sung thêm là 1.495,2 tỷ đồng và 321 doanh nghiệp đăng ký bổ sung ngành nghề kinh doanh. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2011, trên địa bàn tỉnh có 4.112 doanh nghiệp, trong đó có 2.793 doanh nghiệp đang hoạt động, 207 doanh nghiệp đã đăng ký nhưng chưa hoạt động, 159 doanh nghiệp ngừng sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp chờ giải thể 121, doanh nghiệp không tìm thấy, không xác minh 166, doanh nghiệp thuộc đối tượng khác 666. Tổng số hợp tác xã hiện có trên địa bàn tỉnh là 104 hợp tác xã và 1 Liên hiệp hợp tác xã. Trong sáu tháng đầu năm 2012, Tổng mức hàng hóa bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội thực hiện được 15.438 tỷ đồng, đạt 46,5% kế hoạch năm và tăng 16,7% so cùng kỳ. Xuất khẩu hàng hóa không được thuận lợi, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt 360 triệu USD, đạt 41,9% kế hoạch. Hàng thủy sản xuất 60.476,8 tấn tăng 13,4%, về trị giá tương đương 159,8 triệu USD tăng 7,2% so cùng kỳ. Hàng rau quả xuất 3.345 tấn giảm 30,3%, về trị giá đạt 3,7 triệu USD chỉ bằng 64,6% so cùng kỳ. Xuất khẩu Gạo đạt được 89.592 tấn bằng 63,8% so cùng kỳ, về trị giá đạt 41,4 triệu USD giảm 35,7% so cùng kỳ (giảm 22,9 triệu USD). Hàng dệt may xuất được 5.341,8 ngàn sản phẩm giảm 8,5% so cùng kỳ, về trị giá tương đương 57 triệu USD tăng 10,7% so cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa đạt 125,3 triệu USD, đạt 36,9% kế hoạch và bằng 80,4% so cùng kỳ, gồm kinh tế nhà nước đạt 26,2 triệu USD, tăng 38%; kinh tế tư nhân đạt 40,2 triệu USD, bằng 58,8%, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 59 triệu USD, bằng 86% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải đạt 655,4 tỷ đồng, tăng 28,5% so cùng kỳ, trong đó vận tải hàng hóa đạt 394,3 tỷ đồng, tăng 32,2%, vận tải hành khách đạt 239,3 tỷ đồng, tăng 23,3%. Tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển đạt 5.805 nghìn tấn, tăng 17,8% so cùng kỳ, khối lượng hàng hóa luân chuyển đạt 552.206 nghìn tấn, tăng 24,6% so cùng kỳ. Doanh thu Bưu chính viễn thông đạt 538,2 tỷ đồng tăng 17,7% so 6 tháng đầu năm 2011. Chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,33% so với tháng 12 năm 2011, bình quân 1 tháng tăng 0,22%. Năm 2019, tăng trưởng kinh tế trên địa bàn tỉnh đạt 7,26%; khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng 3,17%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 12,19%; khu vực dịch vụ tăng 7,55%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 34.521 tỉ đồng, tăng 10,5%, đạt 100,1% so với kế hoạch đề ra. Tổng thu ngân sách đạt 11.260 tỉ đồng, đạt 121,01% so với kế hoạch. Tổng chi ngân sách đạt 16.508,4 tỉ đồng, đạt 145% so với kế hoạch, tăng 134,4% so với năm 2018. Mạng lưới viễn thông Tiền Giang đã được hiện đại hóa và triển khai đồng loạt trong toàn tỉnh, đảm bảo thông tin liên lạc được thông suốt trong nước và quốc tế. Dân số. Theo thống kê năm 2021, tỉnh Tiền Giang có diện tích 2.510,60 km², dân số là 1.772.785 người, mật độ dân số đạt 706 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 247.742 người, chiếm 14% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.516.443 người, chiếm 86% dân số. Dân số nam đạt 865.821 người, trong khi đó nữ đạt 898.364 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,54 ‰. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 chỉ đạt 15%. Xã hội. Giáo dục. Hệ thống giáo dục của tỉnh Tiền Giang bao gồm đầy đủ các cấp học như mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông. Đến 30 tháng 9 năm 2018 tỉnh Tiền Giang có 407 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 7 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Các trường Đại học, Cao đẳng tiêu biểu ở Tiền Giang gồm: Y tế. Tình hình cơ sở khám chữa bệnh và nhân lực y tế đến 30/11/2016 Tỉnh Tiền Giang như sau: + BV đa khoa tuyến tỉnh : 03 + BV chuyên khoa        : 05 + BV huyện                  : 03 - Giường bệnh viện (công lập)       : 2.585 - Giường ngoại trú                         : 40 - Giường bệnh viện (tư nhân)         : 30  (BV Anh Đức) - Giường y tế tư nhân                     : 380 - Giường bệnh phòng khám TTYT  : 432 - Giường bệnh PK trực thuộc TTYT: 246 - Giường bệnh Trạm Y tế xã            : 845 Tôn giáo. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 11 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Phật giáo đạt 736.700 người, Công giáo có 5.957 người, đạo Cao Đài có 53.679 người, đạo Tin Lành có 726 người, Phật giáo Hòa Hảo chiếm 3.367 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 543 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 431 người, Hồi giáo đạt 119 người. Còn lại các tôn giáo khác như Bửu Sơn Kỳ Hương có 26 người, Minh Sư Đạo và Minh Lý Đạo mỗi đạo 15 người. Giao thông vận tải. Trục đường bộ quan trọng nhất tỉnh là Quốc lộ 1, tỉnh lộ 865, tỉnh lộ 864, chạy theo hướng chủ yếu từ tây sang đông. Các trục tỉnh lộ có hướng bắc - nam và hướng khác là tỉnh lộ 861, 862, 863, 866, 866B, 867, 868, 869, 870, 870B, 871, 872, 873, 873B, 874, 874B, 875, 875B, 876, 877, 877B, 878, 878B, 878C, 879D. Tình hình trật tự an toàn giao thông trên địa bàn tỉnh còn nhiều phức tạp tập trung ở những nơi đông dân cư. Tính đến tháng 6 năm 2012, Giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh xảy ra 124 vụ tai nạn, so cùng kỳ giảm 16 vụ. Số người chết 131 người so cùng kỳ giảm 17 người. Số người bị thương 74 người, so cùng kỳ giảm 7 người. Vi phạm trật tự an toàn giao thông 76.413 vụ so cùng kỳ tăng 15.749 vụ. Đã xử lý tạm giữ phương tiện 10.340 vụ, tước giấy phép lái xe 3.737 vụ, phạt tiền 66.073 vụ với số tiền phạt 25.810 triệu đồng. Giao thông đường thủy xảy ra 3 vụ tai nạn, so cùng kỳ tăng 1 vụ. Thiệt hại tài sản 707 triệu đồng. Vi phạm giao thông đường thủy từ đầu năm đến nay 7.950 vụ so cùng kỳ giảm 1.341 vụ. Đã xử lý lập biên bản tạm giữ giấy tờ 1.427 vụ, phạt tiền 6.523 vụ với số tiền phạt 3.079 triệu đồng. Tiền Giang không có sân bay dân sự. Văn hóa - du lịch.. Tiền Giang là tỉnh có nhiều tiềm năng về du lịch. Hàng năm, lượng du khách đến Tiền Giang đều tăng. Trong năm 2009, lượng khách tham quan Tiền Giang vẫn đạt 866.400 lượt người. Thế mạnh của du lịch chủ yếu nhờ vào các di tích văn hóa lịch sử và sinh thái như di tích văn hóa Óc Eo, Gò Thành từ thế kỷ I đến thế kỷ VI sau công nguyên, các di tích lịch sử Trận Rạch Gầm – Xoài Mút, di tích Ấp Bắc, lũy Pháo Đài, và nhiều lăng mộ, đền chùa, nhà thờ như: Lăng Trương Định, Lăng Hoàng gia, Lăng Tứ Kiệt, chùa Vĩnh Tràng, chùa Bửu Lâm, chùa Sắc Tứ, chùa Linh Thứu, thiền viện Trúc Lâm Chánh Giác, nhà thờ chính tòa Mỹ Tho, nhà thờ Tin Lành Ấp Bắc, nhà thờ Thánh Giuse Lao Công, nhà thờ Nữ Vương Hòa Bình, nhà thờ Cái Bè,… các điểm du lịch sinh thái mới được khai thác như vườn cây ăn quả ở Cù lao Thới Sơn, Chợ nổi Cái Bè, Trại rắn Đồng Tâm, Khu bảo tồn sinh thái Đồng Tháp Mười, Biển Tân Thành, Giếng Nước Mỹ Tho, Bến Tắm Ngựa, Bờ kè sông Tiền, Quảng trường Mỹ Tho... Trong 6 tháng đầu năm 2012, số khách tham quan du lịch đạt 519.700 lượt khách, tăng 5,2% so cùng kỳ, trong đó khách quốc tế là 271.700 lượt khách, đạt 50,7% kế hoạch và giảm 1,5% so cùng kỳ. Tổng doanh thu du lịch thực hiện được 1.475,4 tỷ đồng, tăng 18,3% so cùng kỳ, trong đó doanh thu du lịch lữ hành chiếm 1,7%. Người nổi tiếng. Những nhân vật tiêu biểu. Tiền Giang là vùng đất xuất thân của rất nhiều nhân vật nổi tiếng tại Việt Nam, điển hình như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sách đỏ Việt Nam là danh sách các loài động vật, thực vật ở Việt Nam thuộc loại quý hiếm, đang bị giảm sút số lượng nghiêm trọng hoặc có nguy cơ tuyệt chủng. Đây là căn cứ khoa học quan trọng để Nhà nước ban hành những Nghị định và Chỉ thị về việc quản lý bảo vệ và những biện pháp cấp bách để bảo vệ và phát triển những loài động thực vật hoang dã ở Việt Nam. Dự án Sách đỏ Việt Nam được công bố lần đầu tiên năm 1992. Đây là công trình do Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam phối hợp với Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) thực hiện với sự tài trợ của Quỹ SIDA (Thụy Điển). Các tiêu chuẩn sử dụng trong Sách đỏ Việt Nam được xây dựng trên nền các tiêu chuẩn của Sách đỏ IUCN. Các phiên bản. Sách đỏ Việt Nam lần đầu tiên phần động vật được xuất bản năm 1992 với 365 loài nằm trong danh mục, phần thực vật được xuất bản năm 1996 với 356 loài nằm trong danh mục. Kết quả thực hiện Sách đỏ Việt Nam 2004 cho thấy tổng số loài động thực vật hoang dã đang bị đe dọa đã lên đến 857 loài, gồm 407 loài động vật và 450 loài thực vật, tức số loài đang bị đe dọa đã tăng đáng kể. Trong phần động vật, nếu như mức độ bị đe dọa cao nhất trong Sách đỏ Việt Nam 1992 chỉ ở hạng Nguy cấp thì năm 2004 đã có 6 loài bị coi là tuyệt chủng trên lãnh thổ Việt Nam. Số loài ở mức Nguy cấp là 149 loài, tăng rất nhiều so với 71 loài trong Sách đỏ Việt Nam 1992. Có 46 loài được xếp ở hạng Rất nguy cấp. Phiên bản mới nhất hiện nay là Sách đỏ Việt Nam 2007, được công bố vào ngày 26 tháng 6 năm 2008 , theo số liệu này hiện nay tại Việt Nam có 882 loài (418 loài động vật và 464 loại thực vật) đang bị đe dọa ngoài thiên nhiên, tăng 167 loài so với thời điểm năm 1992. Trong đó có 116 loài động vật được coi là "rất nguy cấp" và 45 loài thực vật "rất nguy cấp" (trong số 196 loài thực vật đang "nguy cấp"). Có 9 loài động vật trước kia chỉ nằm trong tình trạng de dọa nhưng nay xem như đã tuyệt chủng là tê giác 2 sừng, bò xám, heo vòi, cầy rái cá, cá chép gốc, cá chình Nhật, cá lợ thân thấp, cá sấu hoa cà, hươu sao và hoa lan hài . Ngoài Sách đỏ Việt Nam 2007, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam còn hoàn thành việc soạn thảo Danh lục đỏ Việt Nam 2007. Thứ hạng và tiêu chuẩn đánh giá. Sách đỏ Việt Nam 2007 sử dụng tiêu chuẩn IUCN 2.3 của Sách đỏ IUCN 1994. Tuyệt chủng - EX - Extinct. Một taxon được coi là tuyệt chủng khi không còn nghi ngờ là cá thể cuối cùng của taxon đó đã chết. Tuyệt chủng ngoài thiên nhiên - EW - Extinct in the wild. Một taxon được coi là tuyệt chủng ngoài thiên nhiên khi chỉ còn thấy trong điều kiện gây trồng, nuôi nhốt hoặc chỉ là một (hoặc nhiều) quần thể tự nhiên hóa đã trở lại bên ngoài vùng phân bố cũ. Rất nguy cấp - CR - Critically Endangered. Một taxon được coi là rất nguy cấp khi đang đứng trước một nguy cơ cực kỳ lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai trước mắt. Nguy cấp - EN - Endangered. Một taxon được coi là nguy cấp khi chưa phải là rất nguy cấp nhưng đang đứng trước một nguy cơ rất lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai gần. Sẽ nguy cấp - VU - Vulnerable. Một taxon được coi là sẽ nguy cấp khi chưa phải là nguy cấp hoặc rất nguy cấp nhưng đang đứng trước một nguy cơ lớn sẽ bị tuyệt chủng ngoài thiên nhiên trong một tương lai tương đối gần. Ít nguy cấp - LR - Lower risk. Một taxon được coi là ít nguy cấp khi không đáp ứng một tiêu chuẩn nào của các thứ hạng rất nguy cấp, nguy cấp hoặc sẽ nguy cấp. Thứ hạng này có thể phân thành 3 thứ hạng phụ. Phụ thuộc bảo tồn - cd. Bao gồm các taxon hiện là đối tượng của một chương trình bảo tồn liên tục, riêng biệt cho taxon đó hoặc nơi ở của nó; nếu chương trình này ngừng lại, sẽ dẫn tới taxon này bị chuyển sang một trong các thứ hạng trên trong khoảng thời gian 5 năm. Sắp bị đe dọa - nt. Bao gồm các taxon không được coi là phụ thuộc bảo tồn nhưng lại rất gần với sẽ nguy cấp. Ít lo ngại - lc. Bao gồm các taxon không được coi là phụ thuộc bảo tồn hoặc sắp bị đe dọa. Thiếu dẫn liệu - DD - Data deficient. Một taxon được coi là thiếu dẫn liệu khi chưa đủ thông tin để có thể đánh giá trực tiếp hoặc gián tiếp về nguy cơ truyệt chủng, căn cứ trên sự phân bố và tình trạng quần thể. Một taxon trong thứ hạng này có thể đã được nghiên cứu kỹ, đã được biết nhiều về sinh học, song vẫn thiếu các dẫn liệu thích hợp về sự phân bố và độ phong phú. Như vậy, taxon loại này không thuộc một thứ hạng đe dọa nào, cũng không tương ứng với thứ hạng LR. Không đánh giá - NE - Not evaluated. Một taxon được coi là không đánh giá khi chưa được đối chiếu với các tiêu chuẩn phân hạng. Các mức độ đe dọa. Delisted. Tương đương với mức độ ưu tiên thấp. (LC - Ít quan tâm) P4. Mức độ ưu tiên cho loài ít được biết đến, tương đương với NT - Gần bị đe dọa. P3. Mức độ ưu tiên cao hơn P4, tương đương với VU - Sắp nguy cấp. P2. Mức độ ưu tiên cao hơn P3, tương đương EN - Nguy cấp. P1. Mức độ ưu tiên cao nhất, tương đương với CR - Cực kỳ nguy cấp. R. Mức độ đe dọa và ưu tiên cao nhất, tương đương CR: PE - Cực kỳ nguy cấp: có nguy cơ tuyệt chủng. X. Tương đương EX - tuyệt chủng.
25
25_vườn_loài_khu_rừng
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bà Rịa – Vũng Tàu (viết tắt BRVT) là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, ở vị trí cửa ngõ ra Biển Đông của các tỉnh trong khu vực miền Đông Nam Bộ, Bà Rịa – Vũng Tàu kết nối với Thành phố Hồ Chí Minh và các địa phương khác bằng đường bộ, đường không và đường thủy. Vũng Tàu, thành phố du lịch biển và là trung tâm của hoạt động khai thác dầu mỏ phía Nam, đã từng là trung tâm hành chính của tỉnh. Từ ngày 2 tháng 5 năm 2012, tỉnh lỵ chuyển đến thành phố Bà Rịa. Đây cũng là tỉnh đầu tiên của Đông Nam Bộ có 2 thành phố trực thuộc tỉnh. Năm 2018, Bà Rịa – Vũng Tàu là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 38 về số dân, xếp thứ bảy về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ ba về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 47 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.112.900 người dân, GRDP đạt 149.574 tỷ đồng (tương ứng với 6,4961 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 134,4 triệu đồng (tương ứng với 5.837 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,20%, không tính về ngành dầu khí theo quy định của Tổng cục Thống kê (Việt Nam). Theo số liệu năm 2004 của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam, Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh đứng đầu cả nước về GDP bình quân đầu người (đạt 10.543 USD tính theo sức mua tương đương) và về chỉ số phát triển con người HDI (0,828). Tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa cao, 61.9%. Tự nhiên. Khí hậu. Bà Rịa – Vũng Tàu có khí hậu nhiệt đới gió mùa, phân thành hai mùa rõ rệt trong năm. Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, với gió mùa Tây Nam. Mùa khô diễn ra từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, với gió mùa Đông Bắc. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 27 °C, với mức thấp nhất khoảng 26,8 °C và mức cao nhất khoảng 28,6 °C. Bà Rịa – Vũng Tàu có lượng nắng rất lớn, trung bình hàng năm khoảng 2.400 giờ. Lượng mưa trung bình là 1.500 mm. Vùng này ít bị ảnh hưởng bởi cơn bão. Địa hình. Bà Rịa – Vũng Tàu có 7 đơn vị hành chính nằm trên đất liền và một đơn vị hành chính hải đảo là huyện Côn Đảo. Địa hình tỉnh có thể chia làm 4 vùng: bán đảo, hải đảo, vùng đồi núi bán trung du và vùng thung lũng đồng bằng ven biển. Bán đảo Vũng Tàu dài và hẹp, diện tích 82,86 km², độ cao trung bình 3–4 m so với mặt biển. Hải đảo bao gồm quần đảo Côn Lôn và đảo Long Sơn. Vùng đồi núi bán trung du nằm ở phía Bắc và Đông Bắc tỉnh phần lớn ở thị xã Phú Mỹ và các huyện Châu Đức, Xuyên Mộc. Ở vùng này có vùng thung lũng đồng bằng ven biển bao gồm một phần đất của thị xã Phú Mỹ và các huyện Long Điền, Bà Rịa, Đất Đỏ. Khu vực này có những đồng lúa nước, xen lẫn những vạt đôi thấp và rừng thưa có những bãi cát ven biển. Thềm lục địa rộng trên 100.000 km². Hành chính. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 8 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện với 82 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 29 phường, 6 thị trấn và 47 xã. Dân số. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh đạt 1.148.313 người, mật độ dân số đạt 556 người/km². Dân số nam đạt 576.228 người, trong khi đó nữ chỉ đạt 572.085 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 1‰ 60,8% dân số sống ở đô thị và 29,2% dân số sống ở nông thôn. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 28 dân tộc và người nước ngoài cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh đông nhất với 972.095 người, tiếp sau đó là người Hoa có 10.042 người, đông thứ ba là người Chơ Ro với 7.632 người, người Khơ Me có 2.878 người, người Tày có 1.352 người, cùng một số dân tộc ít người khác như người Nùng có 993 người, người Mường có 693 người, người Thái có 230 người, ít nhất là các dân tộc như người Xơ Đăng, người Hà Nhì, người Chu Ru, người Cờ Lao, mỗi dân tộc chỉ có một người, người nước ngoài thì có 59 người. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 13 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Công giáo có 270.996 người, Phật giáo có 220.336 người, Đạo Cao Đài có 23.600 người, các tôn giáo khác như Tin Lành có 4.077 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 1.424 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.168 người, Phật giáo hòa hảo có 468 người, Hồi giáo 169 người, Minh Sư Đạo có 12 người, Bahá'í có năm người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có bốn người, Bà-la-môn có ba người, còn lại là Minh Lý Đạo có hai người. Lịch sử. Năm 1658, chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đưa 2.000 quân đánh thành Mô Xoài của Chân Lạp (thuộc vùng đất Bà Rịa ngày nay). Lý do của cuộc chinh phạt này được chúa Nguyễn đưa ra là để bảo vệ những cư dân người Việt đã vào đây làm ăn sinh sống. Trận này, chúa Nguyễn bắt được vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân. Chân Lạp xin được làm chư hầu và triều cống hàng năm. Năm Giáp Tuất, Thái Tông thứ 27 (1674), Chúa Hiền lại sai Nguyễn Dương Lâm và Nguyễn Diên đem quân đánh lũy Bô Tâm của Chân Lạp ở xứ Mô Xoài mà về sau người Việt gọi là Lũy cũ Phước Tứ (vùng thị trấn Long Điền ngày nay). Tỉnh Bà Rịa được thành lập tháng 12 năm 1899 trên địa bàn phủ Phước Tuy của tỉnh Biên Hòa. Tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lập tỉnh Phước Tuy gồm địa bàn tỉnh Bà Rịa và quần đảo Trường Sa. Từ tháng 3 năm 1963 đến tháng 12 năm 1963 và từ tháng 11 năm 1966 đến tháng 10 năm 1967, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam sáp nhập tỉnh Bà Rịa với tỉnh Biên Hòa và tỉnh Long Khánh thành tỉnh Bà Biên. Từ tháng 2 năm 1976 sáp nhập vào tỉnh Đồng Nai. Từ ngày 30 tháng 5 năm 1979, thành lập Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo trên cơ sở sáp nhập thị xã Vũng Tàu, xã Long Sơn thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai và huyện Côn Đảo thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, thành lập tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu từ Đặc khu Vũng Tàu – Côn Đảo vừa giải thể và 3 huyện: Châu Thành, Long Đất và Xuyên Mộc thuộc tỉnh Đồng Nai. Đồng thời, thành lập thành phố Vũng Tàu và huyện Côn Đảo trên cơ sở đặc khu vừa giải thể. Khi mới thành lập, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu gồm thành phố Vũng Tàu (tỉnh lỵ) và 4 huyện: Châu Thành, Côn Đảo, Long Đất, Xuyên Mộc. Ngày 2 tháng 6 năm 1994, chia huyện Châu Thành thành thị xã Bà Rịa và 2 huyện: Châu Đức, Tân Thành. Ngày 9 tháng 12 năm 2003, chia huyện Long Đất thành 2 huyện Long Điền và Đất Đỏ. Ngày 2 tháng 5 năm 2012, tỉnh lỵ của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được chuyển từ thành phố Vũng Tàu về thị xã Bà Rịa (nay là thành phố Bà Rịa). Ngày 22 tháng 8 năm 2012, chuyển thị xã Bà Rịa thành thành phố Bà Rịa. Ngày 12 tháng 4 năm 2018, chuyển huyện Tân Thành thành thị xã Phú Mỹ. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 2 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện như hiện nay. Giáo dục & Y tế. Giáo dục. "Giáo dục phổ thông". Tính đến thời điểm ngày 8 tháng 9 năm 2015, trên địa bàn toàn tỉnh có 505 trường học ở cấp phổ thông trong đó có trung học phổ thông có 31 trường, trung học cơ sở có 92 trường, tiểu học có 184 trường, bên cạnh đó còn có 198 trường mẫu giáo. Hệ thống trường học này đã góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. "Giáo dục bậc đại học." Hiện nay trên địa bàn tỉnh có một trường đại học là Trường Đại học Bà Rịa – Vũng Tàu, được thành lập vào năm 2006 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đào tạo đa ngành. Năm 2019, Trường có tên trong bảng xếp hạng đại học thế giới Hiện nay Trường đào tạo 05 ngành trình độ thạc sĩ (Quản trị Kinh doanh, Lý luận và phương pháp dạy học bộ môn tiếng Anh, Đông phuơng học, Công nghệ thông tin, Kỹ thuật hóa học) 48 ngành/chuyên ngành trình độ đại học (trong đó có các ngành: Marketing, Tài chính – Ngân hàng, Kinh doanh quốc tế, Quản lý công nghiệp, Kế toán, Logistics và Quản lý chuỗi cung ứng, Quản lý vận tải, Luật, Luật kinh tế, Đông phương học, Ngôn ngữ Trung Quốc, Ngôn ngữ Anh, Tâm lý học, Quan hệ công chúng, Công nghệ thông tin, Công nghệ kỹ thuật điện, điện tử, Công nghệ kỹ thuật công trình xây dựng, Công nghệ kỹ thuật cơ khí, Công nghệ kỹ thuật ô tô, Công nghệ kỹ thuật hóa học, Công nghệ thực phẩm, Công nghệ sinh học, Thú y, Nông nghiệp, Quản trị dịch vụ du lịch và Lữ hành, Quản trị khách sạn, Quản trị nhà hàng và dịch vụ ăn uống, Điều dưỡng). Y tế. Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có 98 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 10 bệnh viện, 6 phòng khám đa khoa khu vực và 82 trạm y tế phường xã, với 1.445 giường bệnh và 480 bác sĩ, 363 y sĩ, 644 y tá và khoảng 261 nữ hộ sinh. Kinh tế. Bà Rịa – Vũng Tàu thuộc Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hoạt động kinh tế của tỉnh trước hết phải nói về tiềm năng dầu khí. Trên thềm lục địa Đông Nam Bộ, tỉ lệ các mũi khoan thăm dò, tìm kiếm gặp dầu khí khá cao, tại đây đã phát hiện các mỏ dầu có giá trị thương mại lớn như: Bạch Hổ (lớn nhất Việt Nam), Rồng, Đại Hùng, Rạng Đông. Đương nhiên xuất khẩu dầu đóng góp một phần quan trọng trong GDP của Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà Rịa – Vũng Tàu là nơi hội tụ nhiều tiềm năng để phát triển như: có 93% tổng trữ lượng dầu mỏ và 16% tổng trữ lượng khí thiên nhiên của cả nước, được nhà nước tập trung đầu tư xây dựng hệ thống cảng biển quốc gia và quốc tế hiện đại, nằm trong vùng trọng điểm của Chương trình du lịch quốc gia. Ngoài lĩnh vực khai thác dầu khí, Bà Rịa – Vũng Tàu còn là một trong những trung tâm năng lượng, công nghiệp nặng, du lịch, cảng biển của cả nước. Trung tâm điện lực Phú Mỹ và nhà máy điện Bà Rịa chiếm 40% tổng công suất điện năng của cả nước (trên 4.000 MW trên tổng số gần 10.000 MW của cả nước). Công nghiệp nặng có: sản xuất phân đạm (800.000 tấn/năm), sản xuất polyetylen (100.000 tấn/năm), sản xuất clinker, sản xuất thép (hiện tại tỉnh có hàng chục nhà máy lớn đang hoạt động gồm VinaKyoei, Pomina, Thép miền Nam (South Steel), Bluescopes, Thép Việt, Thép Tấm (Flat Steel), Nhà máy thép SMC và Posco Vietnam đang thi công nhà máy thép cán nguội. Tính đến nay trên địa bàn tỉnh đang có 301 dự án FDI với tổng vốn đăng ký 27 tỷ USD và 450 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký hơn 244.000 tỷ đồng. Năm 2019, tỉnh có tăng trưởng kinh tế khá, GRDP (trừ dầu khí) đạt 7,65%. Ngành công nghiệp đóng góp chủ yếu, sản xuất công nghiệp tăng 9,12%. Khai thác khoáng sản và chế biến tăng 9,8–9,9%. Dịch vụ cảng và logistics tăng 4,8%. Du lịch phát triển tốt, doanh thu lưu trú tăng 17,85%, khách nước ngoài tăng 17,92%. Bán lẻ tăng 13,98%, xuất khẩu (trừ dầu khí) tăng 14,02%. Nông nghiệp tăng 3,45%, ngư nghiệp tăng 4,21%... Khu công nghiệp. Ngoài ra, tỉnh đã quy hoạch 29 cụm công nghiệp tại các huyện, thành phố trong tỉnh và đang quy hoạch thêm các khu công nghiệp ở huyện Đất Đỏ. Đối ngoại. Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã xây dựng mối quan hệ hợp tác về nhiều mặt với nhiều tỉnh thành trong cả nước và quốc tế. Tính đến tháng 9 năm 2015, tỉnh đã ký xác lập quan hệ đối tác kết nghĩa với các địa phương sau đây: Văn hóa. Điều đặc biệt nhất của tỉnh là Bà Rịa – Vũng Tàu có 10 đền thờ cá voi, nhiều nhất ở miền Nam. Đương nhiên lễ hội Nghinh Ông, hay Tết của biển, là một sự kiện quan trọng trong đời sống văn hóa và tâm linh của dân chài nơi đây. Tỉnh có ngày lễ Dinh Cô (Long Hải) từ 10/2 đến 12/2 âm lịch để thờ cúng Mẫu – Nữ thần và kết hợp cúng thần biển. Bên cạnh đó vào ngày giỗ ông Trần 20 tháng 2 (âm lịch) và tết trùng cửu 9 tháng 9 (âm lịch) tại Nhà Lớn Long Sơn có tổ chức lễ hội long trọng thu hút hàng chục ngàn người từ các nơi về tham dự. Người nổi tiếng. Các danh nhân sinh ra và cư trú tại Bà Rịa – Vũng Tàu gồm:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tân Bình là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận Tân Bình có địa hình bằng phẳng, cao trung bình là 4–5 m, cao nhất là khu sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất khoảng 8 – 9 m, trên địa bàn còn có kênh rạch và còn có đất nông nghiệp. Địa lý. Quận Tân Bình thuộc nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý: Quận có diện tích 22,43 km², dân số năm 2019 là 474.792 người, mật độ dân số đạt 21.168 người/km². Hành chính. Quận Tân Bình được chia thành 15 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14 và 15. Lịch sử. Quận Tân Bình được chính quyền Việt Nam Cộng hòa thành lập vào năm 1957, là một quận thuộc tỉnh Gia Định lúc bấy giờ. Tuy nhiên, địa danh Tân Bình đã xuất hiện tại Nam Bộ cách đây hơn 300 năm, dưới thời chúa Nguyễn. Thời Việt Nam Cộng hòa. Ngày 29 tháng 4 năm 1957, chính phủ Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định 138-BNV/HC/NĐ ấn định địa giới tỉnh Gia Định gồm 6 quận (10 tổng, 61 xã), trong đó tăng thêm 2 quận là Bình Chánh và Tân Bình. Quận Tân Bình được thành lập trên cơ sở cắt tổng Dương Hòa Thượng (gồm bảy xã: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Hòa, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì và Vĩnh Lộc) ra khỏi quận Gò Vấp. Quận lỵ đặt tại xã Phú Nhuận. Ngày 29 tháng 2 năm 1960, sáp nhập xã Tân Hòa thuộc tổng Dương Hòa Thượng, quận Tân Bình, vào xã Vĩnh Lộc cùng tổng. Đến cuối năm 1962, quận Tân Bình chỉ có một tổng duy nhất là Dương Hòa Thượng. Từ năm 1962 chính quyền bỏ dần, đến năm 1965 bỏ hẳn cấp hành chính tổng, các xã trực tiếp thuộc quận. Ngày 11 tháng 12 năm 1965, lập xã Tân Phú thuộc quận Tân Bình, từ phần đất cắt ra của hai xã: Tân Sơn Nhì và Phú Thọ Hòa cùng quận. Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận Tân Bình có 07 xã trực thuộc: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Phú Thọ Hòa, Tân Phú, Tân Sơn Hòa, Tân Sơn Nhì và Vĩnh Lộc. Sau năm 1975. Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Theo nghị quyết ngày 9 tháng 5 năm 1975 của Ban Chấp hành Đảng bộ Đảng Lao động Việt Nam thành phố Sài Gòn - Gia Định, quận Tân Bình cũ bị giải thể. Các xã Vĩnh Lộc và Bình Hưng Hòa được giao cho huyện Bình Chánh quản lý (nay là các xã Vĩnh Lộc A, Vĩnh Lộc B, một phần xã Phạm Văn Hai của huyện Bình Chánh và các phường Bình Hưng Hòa, Bình Hưng Hòa A, Bình Hưng Hòa B của quận Bình Tân). Địa bàn 05 xã còn lại được chia thành 03 quận mới trực thuộc thành phố Sài Gòn - Gia Định trên cơ sở nâng cấp các xã cũ: quận Phú Nhuận (xã Phú Nhuận cũ), quận Tân Sơn Hòa (xã Tân Sơn Hòa cũ), quận Tân Sơn Nhì (bao gồm 3 xã: Tân Sơn Nhì, Tân Phú và Phú Thọ Hòa cũ). Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên quận Phú Nhuận, đồng thời giải thể các quận Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì để tái lập quận Tân Bình. Như vậy, quận Tân Bình được tái lập trên cơ sở sáp nhập quận Tân Sơn Hòa và Tân Sơn Nhì cũ, là quận có diện tích lớn nhất thành phố khi đó. Ngoài ra, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận Tân Bình có 28 phường, đánh số từ 1 đến 28. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận Tân Bình trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Ngáy 22 tháng 6 năm 1977, giải thể 2 phường: 27 và 28, địa bàn hai phường giải thể nhập vào các phường kế cận với số lượng phường trực thuộc còn 26. Ngày 27 tháng 8 năm 1988, theo Quyết định số 136-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải thể 26 phường hiện hữu để thay thế bằng 20 phường mới và đánh số từ 1 đến 20: Ngày 05 tháng 11 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 130/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính quận Tân Bình để thành lập quận Tân Phú và các phường trực thuộc, điều chỉnh địa giới hành chính một số phường thuộc quận Tân Bình. Nội dung như sau: Như vậy, sau khi chia tách và điều chỉnh hành chính vào cuối năm 2003, quận Tân Bình còn lại 2.238,22 ha diện tích tự nhiên và 417.897 nhân khẩu với 15 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 15 phường có số thứ tự từ 1 đến 15, giữ ổn định cho đến nay. Thông tin thêm về các phường. Riêng xã Tân Phú cũ ngày nay thuộc địa bàn quận Tân Phú. Đường phố. Các đường đặt tên chữ<br>Các đường đặt tên số<br>An Tôn<br>Âu Cơ<br>Ấp Bắc<br>Ba Gia<br>Ba Vân<br>Ba Vì<br>Bành Văn Trân<br>Bàu Bàng<br>Bàu Cát<br>Bảy Hiền<br>Bạch Đằng<br>Bắc Hải<br>Bế Văn Đàn<br>Bến Cát<br>Bình Giã<br>Bùi Thế Mỹ<br>Bùi Thị Xuân<br>Ca Văn Thỉnh<br>Cách Mạng Tháng Tám<br>Châu Vĩnh Tế<br>Chấn Hưng<br>Chử Đồng Tử<br>Cộng Hòa<br>Cống Lở<br>Cư Xá Tự Do<br>Cửu Long<br>Dân Trí<br>Duy Tân<br>Dương Vân Nga<br>Đại Nghĩa<br>Đặng Lộ<br>Đặng Minh Trứ<br>Đặng Thế Phong<br>Đặng Văn SâmĐất Thánh<br>Đinh Điền<br>Đông Hồ<br>Đông Sơn<br>Đồ Sơn<br>Đồng Đen<br>Đồng Nai<br>Đồng Xoài<br>Giải Phóng<br>Gò Cẩm Đệm<br>Hát Giang<br>Hà Bá Tường<br>Hậu Giang<br>Hiệp Nhất<br>Hồ Đắc Di<br>Hoàng Bật Đạt<br>Hoàng Hoa Thám<br>Hoàng Minh Giám<br>Hoàng Sa<br>Hoàng Văn Thụ<br>Hoàng Việt<br>Hồng Hà<br>Hồng Hạc<br>Hồng Lạc<br>Hưng Hóa<br>Huỳnh Lan Khanh<br>Huỳnh Tịnh Của<br>Huỳnh Văn Nghệ<br>Khuông Việt<br>Khai Trí<br>Lạc Long Quân<br>Lam Sơn<br>Lê Bình<br>Lê Duy Nhuận<br>Lê Lai<br>Lê Minh Xuân<br>Lê Ngân<br>Lê Tấn Quốc<br>Lê Trung NghĩaLê Văn Huân<br>Lê Văn Sỹ<br>Long Hưng<br>Lộc Hưng<br>Lộc Vinh<br>Lưu Nhân Chú<br>Lý Thường Kiệt<br>Mai Lão Bạng<br>Năm Châu<br>Nghĩa Hòa<br>Nghĩa Hưng<br>Nghĩa Phát<br>Ngô Bệ<br>Ngô Thị Thu Minh<br>Nguyễn Bá Tòng<br>Nguyễn Bá Tuyển<br>Nguyễn Bặc<br>Nguyễn Cảnh Dị<br>Nguyễn Chánh Sắt<br>Nguyễn Đình Khơi<br>Nguyễn Đức Thuận<br>Nguyễn Hiến Lê<br>Nguyễn Hồng Đào<br>Nguyễn Minh Hoàng<br>Nguyễn Phúc Chu<br>Nguyễn Quang Bích<br>Nguyễn Sỹ Sách<br>Nguyễn Thái Bình<br>Nguyễn Thanh Tuyền<br>Nguyễn Thị Nhỏ<br>Nguyễn Trọng Lội<br>Nguyễn Trọng Tuyển<br>Nguyễn Tư Giản<br>Nguyễn Tử Nha<br>Nguyễn Văn Công<br>Nguyễn Văn Mại<br>Nguyễn Văn Trỗi<br>Nguyễn Văn Vĩnh<br>Nguyễn Văn VỹNhất Chi Mai<br>Ni Sư Huỳnh Liên<br>Núi Thành<br>Phạm Cự Lượng<br>Phạm Phú Thứ<br>Phạm Văn Bạch<br>Phạm Văn Hai<br>Phan Bá Phiến<br>Phan Đình Giót<br>Phan Huy Ích<br>Phan Sào Nam<br>Phan Thúc Duyện<br>Phan Văn Sửu<br>Phổ Quang<br>Phú Hòa<br>Phú Lộc<br>Quách Văn Tuấn<br>Quảng Hiền<br>Sầm Sơn<br>Sơn Cang<br>Sơn Hưng<br>Sông Đáy<br>Sông Đà<br>Sông Nhuệ<br>Sông Thao<br>Sông Thương<br>Tái Thiết<br>Tản Viên<br>Tân Cảnh<br>Tân Châu<br>Tân Hải<br>Tân Khai<br>Tân Kỳ Tân Quý<br>Tân Phước<br>Tân Sơn<br>Tân Sơn Hòa<br>Tân Tạo<br>Tân Tiến<br>Tân ThànhTân Trang<br>Tân Trụ<br>Tân Xuân<br>Thái Thị Nhạn<br>Thành Mỹ<br>Thăng Long<br>Thân Nhân Trung<br>Thép Mới<br>Thích Minh Nguyệt<br>Thiên Phước<br>Thủ Khoa Huân<br>Tiền Giang<br>Tống Văn Hên<br>Trà Khúc<br>Trần Mai Ninh<br>Trần Tấn<br>Trần Thái Tông<br>Trần Thánh Tông<br>Trần Thị Trọng<br>Trần Triệu Luật<br>Trần Văn Danh<br>Trần Văn Hoàng<br>Trần Văn Quang<br>Trung Lang<br>Trương Công Định<br>Trương Hoàng Thanh<br>Trường Chinh<br>Trường Sa<br>Trường Sơn<br>Tứ Hải<br>Tự Cường<br>Tự Lập<br>Út Tịch<br>Văn Chung<br>Vân Côi<br>Võ Thành Trang<br>Xuân Diệu<br>Xuân Hồng<br>Yên Thế Hệ thống đường sắt đô thị. Tuyến số 2 "(Đang xây dựng)": (Quận 3) ← Ga Phạm Văn Hai - Ga Bảy Hiền - Ga Nguyễn Hồng Đào → Ga Bà Quẹo - Ga Phạm Văn Bạch - Ga Tân Bình Kinh tế. Quận Tân Bình là một trong những quận có nền kinh tế mạnh và tích cực có nhiều xu hướng phát triển cao và luôn đáp ứng đúng nhu cầu phát triển của các thành phần kinh tế cần thiết. Mỗi năm dịch vụ và giá trị sản xuất công nghiệp của quận đạt mức tăng trưởng 29,68%, vượt chỉ tiêu so với Nghị quyết Đại hội Đảng bộ quận đề xuất từ 20-25%. Tổng số tiền đầu tư của các doanh nghiệp lớn, nhỏ và tư nhân đặt tới 5.587 tỷ đồng.Từ nhiều năm qua,quận Tân Bình đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư lớn tham gia xây dựng các trung tâm thương mại và khu vui chơi lớn như Parkson Plaza, Trung tâm Thương mại - Văn hóa Lạc Hồng... Quận còn quan tâm đến một số hoạt động trang hoàng, chỉnh trang lại quận như nâng cấp các vỉa hè và trồng cây xanh. Quận còn thúc đẩy mạnh các dịch vụ du lịch để thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Đồng thời quận kiên quyết đấu tranh bài trừ các tệ nạn xã hội. Văn hóa. Quận còn có nhiều di tích lịch sử tôn giáo như: công viên Hoàng Văn Thụ, "chùa Viên Giác, chùa Phổ Quang, chùa Hải Ấn, chùa Hải Quảng, chùa Phước Thạnh, chùa Giác Lâm, chùa Ân Tông, chùa Bửu Lâm Tịnh Uyển..." Về dân tộc có dân tộc Kinh chiếm 93,33%; Hoa 6,38%; Khmer 0,11%; các dân tộc khác là Tày 0,05%, Thái 0,01%, Nùng 0,03%, Mường 0,02%, Chăm 0,02% và người nước ngoài... Về tôn giáo Phật giáo chiếm 19,62%, Công giáo 22,9%, Tin lành 0,37%, Cao đài 0,4%, Hòa Hảo 0,01; Hồi giáo 0,02%, không có đạo chiếm 56,68%. Toàn quận có 140 cơ sở tôn giáo trong đó, Phật giáo 74, Công giáo 60, Tin lành 4, Cao đài 2.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Điện Bàn là một thị xã đồng bằng ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Địa lý. Thị xã Điện Bàn nằm ở phía bắc của tỉnh Quảng Nam, cách thành phố Tam Kỳ khoảng 45 km, cách trung tâm thành phố Đà Nẵng khoảng 25 km, cách thành phố Hội An khoảng 10 km và có vị trí địa lý: Thị xã Điện Bàn có diện tích 214,28 km², dân số năm 2019 là 226.564 người, trong đó: dân số thành thị là 94.395 người, chiếm 42% và dân số nông thôn là 132.169 người, chiếm 58%, mật độ dân số đạt 1.057 người/km². Lịch sử. Theo sách Đại Nam nhất thống chí thì vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Thường Thị của vua Hùng. Từ năm 214 đến năm 205 TCN, thời nhà Tần, thuộc Tượng Quận. Từ năm 206 TCN đến năm 192 TCN, thời nhà Hán, thuộc quận Tượng Lâm và từ năm 192 đến năm 1306 thuộc vương quốc Chăm Pa. Sau cuộc hôn nhân huyền thoại của công chúa Trần Huyền Trân vào năm 1306, vua Chăm là Chế Mân đã dâng hai châu Ô và Lý cho nhà Trần để làm sính lễ. Năm 1307, hai châu Ô và Lý được đổi thành Thuận Châu, Hóa Châu. Vùng đất Điện Bàn thuộc phần đất phía nam của Hóa Châu. Năm 1435, địa danh Điện Bàn được Nguyễn Trãi ghi vào "Dư địa chí" gồm 95 xã thuộc phủ Triệu Phong của lộ Thuận Hóa. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thành lập đạo thừa tuyên Quảng Nam. Năm 1520, vua Lê Chiêu Tông đổi thành trấn Quảng Nam. Điện Bàn bấy giờ là một huyện thuộc phủ Triệu Phong của trấn Thuận Hóa. Năm 1602, Nguyễn Hoàng đổi thành dinh Quảng Nam và năm 1604, tách huyện Điện Bàn ra khỏi trấn Thuận Hóa, thăng lên thành phủ và nhập về Quảng Nam. Dinh trấn Quảng Nam đóng tại xã Thanh Chiêm, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn (nay thuộc phường Điện Phương), do các công tử của Chúa Nguyễn lần lượt đến trấn thủ. Năm 1803, vua Gia Long lập dinh Quảng Nam gồm 2 phủ: Thăng Hoa và Điện Bàn. Phủ Điện Bàn gồm 2 huyện: Diên Phước và Hòa Vang. Năm 1806, dinh Quảng Nam đổi thành trực lệ Quảng Nam dinh thuộc Kinh Sư. Năm 1827, vua Minh Mạng cho đổi thành trấn Quảng Nam. Năm 1832, đổi trấn Quảng Nam thành tỉnh Quảng Nam. Năm 1833, tỉnh đường Quảng Nam được xây dựng tại làng La Qua (thành Vĩnh Điện). Năm 1899, Điện Bàn có thêm huyện Đại Lộc. Sang đầu thế kỷ XX, khi huyện, phủ thành những đơn vị hành chính riêng thì huyện Điện Bàn hôm nay chính là phần đất của huyện Diên Phước trước đây. Sau năm 1975, huyện Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 15 xã: Điện An, Điện Dương, Điện Hòa, Điện Hồng, Điện Minh, Điện Nam, Điện Ngọc, Điện Phong, Điện Phước, Điện Phương, Điện Quang, Điện Thắng, Điện Thọ, Điện Tiến và Điện Trung. Ngày 23 tháng 9 năm 1981, thành lập thị trấn Vĩnh Điện (thị trấn huyện lỵ huyện Điện Bàn) trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Điện Minh. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam vừa tái lập. Ngày 7 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 85/2005/NĐ-CP. Theo đó: Ngày 10 tháng 3 năm 2014, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 222/QĐ-BXD công nhận thị trấn Vĩnh Điện mở rộng là đô thị loại IV trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Cuối năm 2014, huyện Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính gồm thị trấn Vĩnh Điện và 19 xã: Điện An, Điện Dương, Điện Hòa, Điện Hồng, Điện Minh, Điện Nam Bắc, Điện Nam Đông, Điện Nam Trung, Điện Ngọc, Điện Phong, Điện Phước, Điện Phương, Điện Quang, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Nam, Điện Thắng Trung, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Trung. Ngày 11 tháng 3 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 889/NQ-UBTVQH13. Theo đó: Sau khi thành lập, thị xã Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 7 phường và 13 xã. Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 727/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập 5 phường: Điện Minh, Điện Phương, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Nam, Điện Thắng Trung thuộc thị xã Điện Bàn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của 5 xã có tên tương ứng. Thị xã Điện Bàn có 12 phường và 8 xã như hiện nay. Hành chính. Thị xã Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 12 phường: Điện An, Điện Dương, Điện Minh, Điện Nam Bắc, Điện Nam Đông, Điện Nam Trung, Điện Ngọc, Điện Phương, Điện Thắng Bắc, Điện Thắng Nam, Điện Thắng Trung, Vĩnh Điện và 8 xã: Điện Hòa, Điện Hồng, Điện Phong, Điện Phước, Điện Quang, Điện Thọ, Điện Tiến, Điện Trung. Kinh tế. Điện Bàn là thị xã của tỉnh Quảng Nam, với khu vực phường Vĩnh Điện (trung tâm thị xã) sầm uất, với khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc. Trong những năm trở lại đây, kinh tế - xã hội Điện Bàn đã có những bước phát triển mạnh và vững chắc. Vì vậy, việc xây dựng Điện Bàn trở thành một trong những trung tâm kinh tế - văn hóa lớn với các chức năng cơ bản là một trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và dịch vụ của Bắc Quảng Nam; trung tâm văn hóa - thể thao, giáo dục – đào tạo của khu vực là tất yếu khách quan nhằm tranh thủ thời cơ và khai thác lợi thế vốn có của huyện. Thị xã Điện Bàn có nhiều làng nghề nổi tiếng. Xã Điện Phương có nghề đúc đồng Phước Kiều, gỗ mỹ nghệ truyền thống Nguyễn Văn Tiếp, bánh tráng Phú Triêm... Nghề trồng dâu nuôi tằm cùng với việc trồng thuốc lá ở các xã thuộc khu vực Gò Nổi vì đất bồi rất phì nhiêu do lũ lụt đem đến. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong thời kỳ 2007-2009, Điện Bàn đã phát triển khá cao ở ngành công nghiệp và dịch vụ, làm cơ cấu kinh tế chuyển đổi nhanh theo hướng công nghiệp-dịch vụ-nông nghiệp (74-17-9%). Tổng vốn đầu tư xã hội trên địa bàn bình quân hằng năm lên đến hàng ngàn tỷ đồng phục vụ công tác giải phóng mặt bằng và tái định cư. Riêng vốn ngân sách thị xã đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2006- 2009 đã là 255 tỷ đồng. Nhiều khu đô thị mới như: Điện Nam - Điện Ngọc, Khu công nghiệp Điện Nam - Điện Ngọc, phường Vĩnh Điện (trung tâm thị xã) và các khu dân cư... được đầu tư đúng mức. Đặc biệt Điện Bàn đã phát triển được 10 cụm công nghiệp, thương mại và dịch vụ (cụm công nghiệp Trảng Nhật 1 và 2, Cẩm Sơn, An Lưu, Thương Tín 1 và 2, Nam Dương, Bồ Mưng, Vân Ly, Bích Bắc). Hiện nay, hạ tầng kỹ thuật tại các cụm công nghiệp Trảng Nhật 2, An Lưu... cơ bản hoàn thành. Tính đến nay, đã có 50 doanh nghiệp đăng ký và hoạt động sản xuất kinh doanh với tổng mức vốn đầu tư hơn 650 tỷ đồng, trong đó 30 đơn vị đã đi vào sản xuất giải quyết được hơn 3.000 lao động tại địa phương có công ăn việc làm ổn định. Cùng với tuyến đường ĐT603A đã hoàn thành, các khu du lịch ven biển Điện Dương-Điện Ngọc, khu du lịch sinh thái Bồ Bồ, bãi tắm Hà My đã có 15 dự án đầu tư du lịch với tổng vốn đăng ký đầu tư là 550 tỷ đồng và 1.132 triệu USD. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực của thị xã còn thấp, lao động được đào tạo nghề chiếm tỷ lệ nhỏ trong các doanh nghiệp. Đặc biệt là môi trường tự nhiên ngày càng ô nhiễm bởi rác thải từ các khu công nghiệp, du lịch, dân cư chưa được giải quyết triệt để. Cùng với đó là nạn khai thác trái phép cát lòng sông và tàn phá rừng đầu nguồn; tình trạng sạt lở, cuốn trôi, bồi cát tại khu vực ven sông làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất và đời sống nhân dân các xã Điện Hồng, Điện Phước, Điện Thọ, Điện Quang, Điện Trung, Điện Phong... Kinh tế hộ sản xuất nhỏ, manh mún, không thích ứng được với sự cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường... Trong xu thế phát triển chung, tuy có nhiều khó khăn thách thức nhưng với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn lực, kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội thuận lợi, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn được giữ vững, vì vậy Điện Bàn vẫn tiếp tục giữ vai trò động lực của khu vực Bắc Quảng Nam. Hiện nay thị xã Điện Bàn đang triển khai xây dựng khu đô thị Điện Nam - Điện Ngọc nằm trên địa bàn các phường Điện Nam Bắc, Điện Nam Trung, Điện Nam Đông, Điện Ngọc. Du lịch. Thị xã Điện Bàn còn có tháp Bằng An, một di tích văn hóa Chăm là tháp chăm duy nhất còn lại của Việt Nam có thân hình bát giác, được xem như là một Linga khổng lồ. Bãi biển Hà My phường Điện Dương, đã được xây dựng và phát triển nhanh chóng. Đây được xem là khu du lịch phát triển nhất của thị xã Điện Bàn hiện nay. Điện Phương nổi tiếng các làng nghề truyền thống như đúc đồng, gốm, gỗ mỹ nghệ Nguyễn Văn Tiếp, dệt chiếu, mỳ Quảng Phú Chiêm, bê thui Cầu Mống, khu du lịch Bồ Bồ... Hạ tầng. Hiện nay, trên địa bàn thị xã Điện Bàn đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị Hera Complex Riverside, khu đô thị Hội An Green Village, khu đô thị Gaia City, khu đô thị Vĩnh Điện Center House, khu đô thị Bách Đạt, khu đô thị Mỹ Gia Nam Đà Nẵng, khu đô thị Coco Gardenia, khu đô thị Coco Garden City, khu đô thị Sakura Central Park, khu đô thị Điện Dương New City, khu đô thị số 4 Điện Bàn, khu đô thị Ngọc Dương Riverside, khu đô thị Dương Ngọc, khu đô thị The Vista, khu đô thị An Cư, khu đô thị Coco Center House, khu đô thị Thái Dương 2, khu đô thị Coco Riverside City, khu đô thị An Thịnh, khu đô thị Sentosa Riverside, khu đô thị An Phú Quý, khu đô thị Green City, khu đô thị Vision City, khu đô thị Ngân Câu - Ngân GIang, khu đô thị Phố Chợ Điện Ngọc, khu đô thị Điện Nam - Điện Ngọc...
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Duy Xuyên là một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam, Việt Nam. Địa lý. Huyện Duy Xuyên nằm ở phía bắc của tỉnh Quảng Nam, có vị trí địa lý: Huyện Duy Xuyên có diện tích 297,85 km², dân số năm 2019 là 126.686 người, mật độ dân số đạt 425 người/km². Huyện ly là thị trấn Nam Phước nằm cạnh đường quốc lộ 1, cách thành phố Hội An khoảng 3 km về hướng tây. Huyện cũng là nơi có đường sắt Bắc Nam chạy qua. Hành chính. Huyện Duy Xuyên có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nam Phước (huyện lỵ) và 13 xã: Duy Châu, Duy Hải, Duy Hòa, Duy Nghĩa, Duy Phú, Duy Phước, Duy Sơn, Duy Tân, Duy Thành, Duy Thu, Duy Trinh, Duy Trung, Duy Vinh. Lịch sử. Sau năm 1975, huyện Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, bao gồm 11 xã: Duy An, Duy Châu, Duy Hòa, Duy Nghĩa, Duy Phước, Duy Sơn, Duy Tân, Duy Thành, Duy Trinh, Duy Trung và Duy Vinh. Ngày 21 tháng 3 năm 1986, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 27-HĐBT. Theo đó: Ngày 29 tháng 8 năm 1994, hợp nhất thị trấn Duy Xuyên và xã Duy An thành thị trấn Nam Phước. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, huyện Duy Xuyên thuộc tỉnh Quảng Nam vừa tái lập, bao gồm 1 thị trấn và 13 xã như hiện nay. Kinh tế - xã hội. Huyện còn có khu công nghiệp Tây An đang được xúc tiến các thủ tục đầu tư xây dựng. Về nông nghiệp, Duy Xuyên nổi tiếng với nghề tơ tằm, tại khối phố Châu Hiệp, thị trấn Nam Phước và xã Duy Trinh. Duy Xuyên nổi tiếng đất Quảng là miền đất học, với ngôi trường mang tên Phan Bội Châu, trường Trung hoc Phổ thông Sào Nam, ngôi trường được nhận danh hiệu anh hùng lao động. Trường đứng đầu tỉnh về chất lượng giáo dục với 50% học sinh xếp loại học lục khá giỏi, tỉ lệ đỗ vào các trường đại học và cao đẳng trên cả nước khoảng 80%/năm, nhiều thí sinh của trường còn là thủ khoa của các trường đại học cao đẳng trong các kì tuyển sinh. Văn hóa. Duy Xuyên nổi tiếng với di sản thế giới Thánh địa Mỹ Sơn của người Chăm. Ngoài ra, Duy Xuyên còn có kinh thành Trà Kiệu, có thủy điện Duy Sơn, đập Vĩnh Trinh.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.592756
Địa lý & Hành chính
null
null
Thanh Khê là một quận nội thành thuộc thành phố Đà Nẵng, Việt Nam. Đây là địa phương có nhiều lợi thế trong phát triển thương mại, dịch vụ, giao thông vận tải và kinh tế biển, với chiều dài bờ biển khoảng 4,287 km trải dài trên 4 phường giáp vịnh Đà Nẵng ở phía bắc là Thanh Khê Tây, Thanh Khê Đông, Xuân Hà, Tam Thuận, có điều kiện thuận lợi trong việc nuôi trồng, khai thác và chế biển hải sản. Địa lý. Thanh Khê là quận nội thành nằm ở khu vực trung tâm thành phố Đà Nẵng, có vị trí địa lý: Đây là quận có diện tích nhỏ nhất thành phố Đà Nẵng. Lịch sử. Từ thời nhà Đường đến Nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, quận Thanh Khê thuộc đất của nước Chiêm. Thời nhà Lý, nhà Trần, Nhà Hồ, được gọi là xứ Thanh Khê thuộc Nam Ô châu cũng có sự gằng co qua lại giữa Chiêm và Việt trong thời gian này. Thời nhà Hậu Lê, địa phương có tên xứ Thanh Khê thuộc thừa tuyên Quảng Nam đạo. Thời nhà Nguyễn, được gọi là xứ Thanh Khê thuộc Tourane. Tháng 10 năm 1955, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập thị xã Đà Nẵng, trong đó quận II (tương ứng với địa bàn quận Thanh Khê ngày nay) gồm 10 khu phố: Thạc Gián, Hà Khê, An Khê, Phú Lộc, Phục Đán, Chính Trạch, Xuân Đán, Tam Tòa, Thanh Khê, Xuân Hòa. Ngày 6 tháng 1 năm 1973, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa giải thể 10 khu phố thuộc quận II và chia lại thành 5 phường: Chính Gián, Thạc Gián, An Khê, Thanh Lộc Đán, Hà Tam Xuân. Tháng 2 năm 1976, hai tỉnh Quảng Nam, Quảng Tín và thị xã Đà Nẵng thời Việt Nam Cộng hòa sáp nhập thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Lúc này, 3 quận I, II, III của thị xã Đà Nẵng cũ tạm thời trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228-CP. Theo đó, sáp nhập 3 quận I, II, III thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành một đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Thành phố Đà Nẵng có địa giới hành chính bao gồm thành phố Đà Nẵng cũ và hai huyện Hòa Vang, Hoàng Sa. Ngày 23 tháng 1 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 07/1997/NĐ-CP<ref name="07/1997/NĐ-CP"></ref>. Theo đó, thành lập quận Thanh Khê trên cơ sở khu vực II thuộc thành phố Đà Nẵng cũ với 8 phường trực thuộc, bao gồm: An Khê, Thanh Lộc Đán, Xuân Hà, Tam Thuận, Chính Gián, Thạc Gián, Tân Chính và Vĩnh Trung. Sau khi thành lập, quận có 928 ha diện tích tự nhiên và 146.241 người. Ngày 5 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 102/2005/NĐ-CP. Theo đó: Quận Thanh Khê có 10 phường trực thuộc như hiện nay. Hành chính. Quận Thanh Khê có 10 phường: An Khê, Chính Gián, Hòa Khê, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thanh Khê Đông, Thanh Khê Tây, Vĩnh Trung và Xuân Hà. Kinh tế - xã hội. Quận Thanh Khê nằm ở vị trí tiếp nối các đầu mối giao thông quan trọng của thành phố Đà Nẵng, nối liền 2 đầu Bắc và Nam, đi các tỉnh miền Trung, Tây nguyên và quốc tế bằng đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không. Nhà ga Đà Nẵng được thành lập năm 1905 khi đường sắt Đà Nẵng - Đông Hà thông suốt, tiếp sau đó là Đà Nẵng - Sài Gòn làm xong ngày 02 tháng 9 năm 1936. Sân bay Đà Nẵng làm xong năm 1928 và trải qua nhiều lần nâng cấp, mở rộng để trở thành sân bay quốc tế, một trong 2 sân bay lớn nhất miền Nam và lớn thứ 3 trong cả nước. Ngay từ những năm trước đây, khi Đà Nẵng từng bước phát triển, một số phường của quận Thanh Khê như Vĩnh Trung, Thạc Gián, Tân Chính, Chính Gián cùng các phường thuộc quận Hải Châu đã tạo thành khu trung tâm của thành phố. Ngày nay, khi Đà Nẵng phát triển và mở rộng về hướng tây thì vị trí trung tâm càng thể hiện rõ hơn. Quận Thanh Khê có quá trình hình thành lâu đời. Từ năm 1945 đến nay do yêu cầu phát triển đô thị và phục vụ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ nên trải qua nhiều lần tách, nhập để phù hợp với từng giai đoạn cánh mạng. Với sự lãnh đạo tài tình của đồng chí Nguyễn Văn Tĩnh, Thanh Khê trở thành quận hành chính tiểu biểu cả nước. Giáo dục. Một số trường Đại học, Cao đẳng đóng trên địa bàn quận Thanh Khê như: • Đại học Thể dục Thể thao Đà Nẵng. • Đại học Duy Tân (trường Kinh tế). • Cao đẳng Thương mại Đà Nẵng. • Cao đẳng Hoa Sen. Y tế. Một số bệnh viện đóng trên địa bàn quận Thanh Khê như: • Bệnh viện Đa khoa Hoàn Mỹ Đà Nẵng. • Bệnh viện Đa khoa Bình Dân. • Bệnh viện Da liễu.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.886996
Địa lý & Hành chính
null
null
Tuyệt chủng trong tự nhiên ("Extinct in the Wild, EW") hoặc "tuyệt chủng ngoài thiên nhiên, tuyệt chủng trong môi trường hoang dã" là một trạng thái bảo tồn của sinh vật được quy định trong Sách đỏ IUCN. Một loài hoặc dưới loài bị coi là tuyệt chủng trong tự nhiên khi không ghi nhận được cá thể nào qua các cuộc khảo sát kỹ lưỡng ở sinh cảnh đã biết và hoặc sinh cảnh dự đoán, vào những thời gian thích hợp (theo ngày, mùa năm) xuyên suốt vùng phân bố lịch sử của loài. Các khảo sát nên vượt khung thời gian thích hợp cho vòng sống và dạng sống của đơn vị phân loại đó. Các cá thể của loài này có thể chỉ còn được tìm thấy với số lượng rất ít trong sinh cảnh nhân tạo và phụ thuộc hoàn toàn vào chăm sóc của con người (còn tồn tại rất ít trong môi trường nuôi nhốt). Các loài đã tuyệt chủng trong tự nhiên có thể kể đến: bạch dương szaferi của Ba Lan, côca echinodendron của Cuba, đại kích mayurnathanii ở Ấn Độ, xoài casturi và xoài rubropetala ở Indonesia, bàng acuminata ở Brasil, cá "Stenodus leucichthys"...Hổ Hoa Nam Hình ảnh. Một số loài bị xem là tuyệt chủng trong thiên nhiên:
25
25_vườn_loài_khu_rừng
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Loài cực kỳ nguy cấp, hay Loài rất nguy cấp (tiếng Anh: "Critically Endangered", viết tắt "CR"), là những loài được phân loại bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) phải đối mặt với nguy cơ cao về tuyệt chủng trong tự nhiên. Tính đến năm 2021, có 8.404 loài được coi là Cực kỳ nguy cấp trong tổng số 120.372 loài hiện được đánh giá bởi IUCN. Sách Đỏ của IUCN cung cấp cho công chúng thông tin về tình trạng bảo tồn của các loài động vật, nấm và thực vật. Nó chia các loài khác nhau thành bảy danh mục bảo tồn khác nhau dựa trên phạm vi môi trường sống, quy mô quần thể, môi trường sống, các mối đe dọa, v.v. Mỗi danh mục đại diện cho một mức độ nguy cơ tuyệt chủng toàn cầu khác nhau. Các loài được coi là Cực kỳ nguy cấp được xếp vào danh mục "bị đe dọa". Vì Sách đỏ IUCN không xem xét một loài là tuyệt chủng trong tự nhiên cho đến khi có các cuộc điều tra mở rộng nên nhiều loài có khả năng là tuyệt chủng vẫn nằm trong danh sách loài Cực kỳ nguy cấp. IUCN duy trì danh sách "có thể đã tuyệt chủng" CR (PE) và "có thể đã tuyệt chủng trong tự nhiên" CR (PEW) theo cách đánh giá của BirdLife International để phân loại đơn vị phân loại. Tiêu chí cho các loài Cực kỳ nguy cấp. Để được xác định là loài Cực kỳ nguy cấp trong Sách Đỏ, một loài phải đáp ứng "bất kỳ" tiêu chí nào sau đây (A – E) ("3G/10Y" biểu thị ba thế hệ hoặc mười năm — tùy theo thời gian nào dài hơn — trên tối đa 100 năm; "MI" biểu thị cá thể trưởng thành): Nguyên nhân. Cuộc khủng hoảng tuyệt chủng hiện nay đang chứng kiến tốc độ tuyệt chủng diễn ra với tốc độ nhanh hơn tốc độ tuyệt chủng tự nhiên. Nguyên nhân phần lớn được ghi nhận là do tác động của con người đối với biến đổi khí hậu và mất đa dạng sinh học. Điều này cùng với các lực lượng tự nhiên có thể tạo ra căng thẳng cho các loài hoặc khiến một quần thể động vật bị tuyệt chủng. Một trong những lý do quan trọng nhất khiến động vật và thực vật trở nên rất nguy cấp là do mất môi trường sống. Các loài dựa vào môi trường sống của chúng để có các nguồn tài nguyên cần thiết cho sự tồn tại của mình. Nếu môi trường sống bị phá hủy, quần thể sẽ bị suy giảm về số lượng. Các nguyên nhân gây mất môi trường sống bao gồm ô nhiễm, đô thị hóa và nông nghiệp. Một lý do khác khiến động thực vật trở nên nguy cấp là do sự du nhập của các loài xâm lấn. Các loài xâm lấn cạnh tranh với sinh vật bản địa bằng cách xâm nhập và khai thác một môi trường sống mới để lấy tài nguyên thiên nhiên, cuối cùng chiếm lấy môi trường sống đó. Điều này có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của các loài bản địa hoặc khiến chúng trở nên nguy cấp. Thực vật và động vật cũng có thể bị tuyệt chủng do dịch bệnh. Việc mang bệnh vào một môi trường sống mới có thể khiến bệnh lây lan giữa các loài bản địa. Do không quen hoặc có ít đề kháng với bệnh, các loài bản địa có thể chết đi.
25
25_vườn_loài_khu_rừng
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Trị là một tỉnh ven biển nằm ở gần cực nam khu vực Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Năm 2018, Quảng Trị là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 57 về số dân, xếp thứ 55 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 37 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 51 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 630,6 nghìn dân, GRDP đạt 27.494 tỉ Đồng (tương ứng với 1,1940 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 43,6 triệu đồng (tương ứng với 1.894 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,12%. Tỉnh Quảng Trị từng có Khu phi quân sự vĩ tuyến 17, là giới tuyến chia cắt miền Bắc Việt Nam Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa, do đó cũng là một chiến trường ác liệt nhất trong suốt 21 năm của cuộc Chiến tranh Việt Nam (1954 - 1975). Lịch sử. Trong cổ sử. Từ thời Hùng Vương - An Dương Vương, vùng Quảng Trị ngày nay được cho là thuộc lãnh địa bộ Việt Thường của Nhà nước Văn Lang - Âu Lạc. Đầu Nhà Hán thuộc (từ năm 111 trước Công Nguyên đến năm 192), Quảng Trị thuộc đất quận Nhật Nam. Cuối thế kỷ 2, nhân triều đình nhà Hán sụp đổ, Trung Quốc rơi vào tình trạng loạn lạc, cát cứ, một chính quyền bản xứ của quận Nhật Nam và xứ Tượng Lâm đã được hình thành, lập nên vương quốc Lâm Ấp. Lãnh thổ của Lâm Ấp được phỏng đoán tương ứng với vùng từ đèo Hải Vân đến đèo Ngang ngày nay, tức bao gồm cả vùng Quảng Trị. Thời Lý. Tuy mãi đến thế kỷ 10 mới giành lại được độc lập, nhưng các chính quyền của nhà nước Đại Việt nhanh chóng phát triển về mọi mặt và luôn tìm cách phát triển lãnh thổ để giành lấy không gian sinh tồn trước sự uy hiếp của Trung Quốc ở phía Bắc và Chăm Pa (hậu thân của Lâm Ấp) ở phía Nam. Sự phát triển nhanh chóng của Đại Việt là mối lo ngại cho Chăm Pa cũng như tham vọng của nhà Tống. Để loại trừ mọi uy hiếp ở phía Nam và phá tan âm mưu của nhà Tống câu kết với Chăm Pa đánh phá Đại Việt, năm 1069 vua Lý Thánh Tông thân chinh thống lĩnh 5 vạn quân cùng Lý Thường Kiệt đi tiên phong đánh thẳng vào kinh đô Chà Bàn, bắt được vua Chăm Pa là Rudravarman III (sử Việt chép tên là Chế Củ) đưa về Thăng Long. Để chuộc tội, Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố Chính, Địa Lý và Ma Linh cho Đại Việt. Vua Lý Thánh Tông nhận 3 châu đó rồi tha cho Chế Củ về nước. Ông cho đổi châu Địa Lý thành châu Lâm Bình, châu Ma Linh thành châu Minh Linh. Địa bàn của châu Minh Linh được phỏng đoán tương ứng với vùng đất từ Cửa Việt trở ra phía bắc Quảng Trị ngày nay, gồm các huyện Gio Linh, Cam Lộ, Đakrông, một phần đất của thành phố Đông Hà, các huyện Hướng Hóa và Vĩnh Linh hiện nay. Thời Trần. Một trong những sự kiện lịch sử đáng nhớ của Quảng Trị xảy ra vào thời nhà Trần. Năm 1306, vua Chăm Pa là Jaya Sinhavarman III (sử Việt chép là Chế Mân) dâng biểu cầu hôn lên vua Trần Anh Tông xin cưới Công chúa Huyền Trân và dâng 2 châu Ô và Lý (Rí) làm vật sính lễ. Vua Trần bằng lòng gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân và nhận hai châu Ô, Rí. Năm 1309, nhà Trần đổi châu Ô thành Thuận Châu, châu Rí thành Hóa Châu. Địa bàn Thuận Châu tương ứng với vùng đất từ sông Hiếu - Cửa Việt trở vào phía Nam Quảng Trị ngày nay, trong đó có các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, thị xã Quảng Trị và một phần đất thành phố Đông Hà hiện nay. Thời kỳ Nam tiến. Từ đó cho đến khi người Việt hoàn thành công cuộc Nam tiến, dù có vài lần Chăm Pa chiếm lại được quyền kiểm soát, nhưng chung quy người Việt vẫn làm chủ được vùng này. Đặc biệt từ sau năm 1558, khi Nguyễn Hoàng được vua Lê Anh Tông sai vào trấn thủ Thuận Hóa, đóng Dinh Cát ở Ái Tử, các chúa Nguyễn đã áp dụng những chính sách di dân cũng như cho phép người nước ngoài nhập cư vào Đàng Trong, đặc biệt là người Hoa, nhằm làm tăng nhanh dân số cũng như tiềm lực kinh tế để làm cơ sở tranh hùng với các chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Thời nhà Nguyễn. Trong suốt gần 300 năm, vùng đất Quảng Trị tồn tại với tên gọi Cựu dinh thuộc vào trấn Thuận Hóa. Mãi đến sau khi Gia Long lên ngôi năm 1802, đã đặt lại Cựu dinh thành dinh Quảng Trị, bao gồm các huyện Hải Lăng, Đặng Xương (tên cũ là Vũ Xương), Minh Linh và đạo Cam Lộ. Năm 1806, Quảng Trị trở thành dinh trực lệ kinh sư Huế. Năm 1822, đặt châu Hướng Hóa lệ thuộc đạo Cam Lộ. Đến năm 1827, dinh Quảng Trị nâng lên thành trấn Quảng Trị. Năm 1832, trấn Quảng Trị đổi thành tỉnh Quảng Trị. Năm 1853, tỉnh Quảng Trị hợp nhất với phủ Thừa Thiên thành đạo Quảng Trị. Tới năm 1876, tỉnh Quảng Trị được tái lập. Thời Pháp thuộc. Sau khi nắm được quyền kiểm soát Đông Dương, ngày 3 tháng 5 năm 1890, Toàn quyền Đông Dương Jules Georges Piquet ra Nghị định hợp Quảng Trị với tỉnh Quảng Bình thành tỉnh Bình Trị. Ngày 23 tháng 1 năm 1896, Toàn quyền Paul Armand Rousseau ra Nghị định rút Quảng Trị ra khỏi địa hạt thuộc quyền Công sứ Đồng Hới, cùng Thừa Thiên dưới quyền Công sứ Trung Kỳ, đặt một phó Công sứ đại diện cho Khâm sứ ở Quảng Trị. Đến năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer ra Nghị định tách Quảng Trị ra khỏi Thừa Thiên lập thành một tỉnh riêng biệt gồm 4 phủ: Triệu Phong (Thuận Xương cũ), Hải Lăng, Vĩnh Linh (Chiêu Linh cũ) Cam Lộ và huyện Gio Linh. Công sứ đầu tiên là Quillet (1900 - 1902). Ngày 17 tháng 2 năm 1906, thời viên công sứ Pháp là Valentin (1903 - 1907), Toàn quyền Paul Beau ra Nghị định thành lập thị xã Quảng Trị và đặt làm tỉnh lỵ. Việt Nam Cộng hòa. Sau Hiệp định Genève, 1954, sông Bến Hải được chọn làm giới tuyến quân sự tạm thời, tỉnh Quảng Trị tạm thời chia làm hai vùng: Vùng bờ nam sông Bến Hải là tỉnh Quảng Trị, gồm các huyện: Hải Lăng, Triệu Phong, Cam Lộ, Gio Linh, Hướng Hóa, xã Vĩnh Liêm và một phần của xã Vĩnh Sơn (Vĩnh Linh), thị xã Quảng Trị, do chính quyền Việt Nam Cộng hòa quản lý; hơn 3/4 địa bàn và dân cư của huyện Vĩnh Linh ở phía Bắc vĩ tuyến 17 (sông Bến Hải) do Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quản lý, được thành lập đặc khu. Đặc khu Vĩnh Linh tương đương đơn vị hành chính cấp tỉnh, trực thuộc Trung ương. Sau 1975. Bình Trị Thiên. Sau khi Sài Gòn thất thủ, tỉnh Quảng Trị và đặc khu Vĩnh Linh được Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản. Từ tháng 3 năm 1976, thực hiện Quyết định của Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Quảng Trị cùng hai tỉnh Quảng Bình, Thừa Thiên và đặc khu Vĩnh Linh hợp nhất thành tỉnh mới là Bình Trị Thiên. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 3 huyện Vĩnh Linh, Gio Linh và Cam Lộ thành huyện Bến Hải; hợp nhất 2 huyện Triệu Phong và Hải Lăng thành huyện Triệu Hải. Tái lập tỉnh. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (khóa VIII, kỳ họp thứ 5) quyết định chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế. Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Quảng Trị được tái lập, gồm thị xã Đông Hà (tỉnh lị) và 3 huyện: Bến Hải, Hướng Hóa, Triệu Hải. Từ năm 1990, có sự thay đổi về địa giới và tên gọi một số huyện, thị xã như sau: chia lại uyện Bến Hải thành 2 huyện: Vĩnh Linh, Gio Linh; chia lại huyện Triệu Hải 2 huyện: Hải Lăng, Triệu Phong và thị xã Quảng Trị. Ngày 19 tháng 10 năm 1991, tái lập lập huyện Cam Lộ từ một số xã của thị xã Đông Hà. Ngày 17 tháng 12 năm 1996, huyện Đakrông được thành lập trên cơ sở tách 10 xã thuộc huyện Hướng Hóa và 3 xã thuộc huyện Triệu Phong. Ngày 1 tháng 10 năm 2004, thành lập huyện đảo Cồn Cỏ trên cơ sở đảo Cồn Cỏ thuộc xã Vĩnh Quang, huyện Vĩnh Linh. Ngày 11 tháng 8 năm 2009, chuyển thị xã Đông Hà thành thành phố Đông Hà. Địa lý. Vị trí địa lý. Quảng Trị là một tỉnh nằm ở dải đất miền Trung Việt Nam, nơi chuyển tiếp giữa hai miền địa lý Bắc - Nam. Tọa độ địa lý tỉnh Quảng Trị ở vào vị trí từ 16°18' đến 17°10' vĩ độ Bắc, 106°32' đến 107°34' kinh độ Đông. Nằm cách thủ đô Hà Nội 593 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 178 km về phía Bắc. Có vị trí địa lý: Với tọa độ địa lý này, Quảng Trị được tạo nên bởi một không gian lãnh thổ mang sắc thái khí hậu nhiệt đới ẩm, điển hình của vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu và chịu ảnh hưởng rất lớn của biển Đông. Các điểm cực của tỉnh Quảng Trị:. Chiều ngang trung bình của tỉnh 63,9 km, (chiều ngang rộng nhất 75,4 km, chiều ngang hẹp nhất 52,5 km). Tuy với một diện tích không rộng, người không đông nhưng do nằm ở vị trí chiến lược quan trọng nên Quảng Trị đã và đang giữ vai trò trọng yếu trong việc bảo vệ và khai thác Biển Đông, giao lưu giữa hai miền Bắc - Nam của đất nước cũng như lưu thông thuận lợi với các nước phía tây bán đảo Đông Dương, các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và thế giới qua cửa khẩu Lao Bảo - hành lang quốc lộ số 9 ra cảng Cửa Việt. Điều kiện tự nhiên. Dãy núi Trường Sơn khu vực thuộc tỉnh Quảng Trị có độ cao trung bình thấp nhất. Là tỉnh có diện tích đất bazan lớn nhất khu vực Bắc Trung Bộ với hơn 15.000ha rải rác nhiều nơi nhưng tập trung chủ yếu ở hai huyện Vĩnh Linh và Gio Linh. Loại đất này rất thích hợp với trồng các loại cây công nghiệp. Địa hình. Quảng Trị nằm trong vùng đứt gãy của dãy Trường Sơn. Địa hình đa dạng bao gồm núi, đồi, đồng bằng, cồn cát và bãi biển chạy theo hướng tây bắc - đông nam. Quảng Trị có nhiều sông ngòi với 7 hệ thống sông chính là sông Thạch Hãn, sông Bến Hải, sông Hiếu, sông Ô Lâu, sông Bến Đá, sông Xê Pôn và sông Sê Păng Hiêng. Sông ở các huyện miền núi có khả năng xây dựng thủy điện vừa và nhỏ. Nhìn đại thể, địa hình núi, đồi và đồng bằng Quảng Trị chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và trùng với phương của đường bờ biển. Sự trùng hợp này được thấy rõ trên dường phân thủy giữa Trường Sơn Đông và Trường Sơn Tây. Ở Quảng Bình, các đỉnh cao nhất đều nằm ở giữa đường biên giới Việt - Lào nhưng ở Quảng Trị, các đỉnh cao lại nằm sâu trong lãnh thổ Việt Nam. Các sông lớn như Sê Păng Hiêng, Sê Pôn... đều bắt nguồn từ Việt Nam chảy qua Lào.Tuy nhiên nếu xem xét địa hình ở quy mô nhỏ hơn, từng dãy núi, từng dải đồi thì địa hình lại có hướng song song với các thung lũng sông lớn như Cam Lộ, Thạch Hãn, Bến Hải... "Địa hình núi cao." Phân bố ở phía Tây từ dãy Trường Sơn đến miền đồi bát úp, chiếm diện tích lớn nhất, có độ cao từ 250–2000 m, độ dốc 20-300. Địa hình phân cắt mạnh, độ dốc lớn, quá trình xâm thực và rửa trôi mạnh. Các khối núi điển hình là Động Voi Mẹp, Động Sa Mui, Động Châu, Động Vàng. Địa hình vùng núi có thể phát triển trồng rừng, trồng cây lâu năm và chăn nuôi đại gia súc. Tuy nhiên phần lớn địa hình bị chia cắt mạnh, sông suối, đèo dốc nên đi lại khó khăn, làm hạn chế trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, mạng lưới điện... cũng như tổ chức đời sống xã hội và sản xuất. Tuy nhiên có tiềm năng thủy điện nhỏ khá phong phú. "- Địa hình gò đồi, núi thấp."Là phần chuyển tiếp từ địa hình núi cao đến địa hình đồng bằng, chạy dài dọc theo tỉnh. Có độ cao từ 50-250m, một vài nơi có độ cao trên 500 m. Địa hình gò đồi, núi thấp (vùng gò đồi trung du) tạo nên các dải thoải, lượn sóng, độ phân cắt từ sâu đến trung bình. Khối bazan Gio Linh - Cam Lộ có độ cao xấp xỉ 100 – 250 m dạng bán bình nguyên, lượn sóng thoải, vỏ phong hóa dày, khối bazan Vĩnh Linh nằm sát ven biển, có độ cao tuyệt đối từ 50-100m. Địa hình gò đồi, núi thấp thích hợp cho trồng cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, cây ăn quả lâu năm. "- Địa hình đồng bằng."Là những vùng đất được bồi đắp phù sa từ hệ thống các sông, địa hình tương đối bằng phẳng, có độ cao tuyệt đối từ 25–30 m. Bao gồm đồng bằng Triệu Phong được bồi tụ từ phù sa sông Thạch Hãn khá màu mỡ; đồng bằng Hải Lăng, đồng bằng sông Bến Hải tương đối phì nhiêu. Đây là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, nhất là sản xuất lúa ở các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Gio Linh, Vĩnh Linh. "- Địa hình ven biển."Chủ yếu là các cồn cát, đụn cát phân bố dọc ven biển. Địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc phân bố dân cư. Một số khu vực có địa hình phân hóa thành các bồn trũng cục bộ dễ bị ngập úng khi có mưa lớn hoặc một số khu vực chỉ là các cồn cát khô hạn, sản xuất chưa thuận lợi, làm cho đời sống dân cư thiếu ổn định. Khí hậu. Quảng Trị nằm ở phía Nam của Bắc Trung Bộ, trọn vẹn trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa, là vùng chuyển tiếp giữa hai miền khí hậu là cận nhiệt đới gió mùa và nhiệt đới gió mùa. Ở vùng này khí hậu khắc nghiệt, chịu hậu quả nặng nề của gió tây nam khô nóng, bão, mưa lớn, khí hậu biến động mạnh, thời tiết diễn biến thất thường, vì vậy trong sản xuất và đời sống người dân gặp không ít khó khăn. Độ ẩm: Quảng Trị có độ ẩm tương đối, trung bình năm khoảng 80-85%. Giữa hai miền Đông và Tây Trường Sơn chế độ ẩm cũng phân hóa theo thời gian. Tháng có độ ẩm thấp nhất là từ tháng 5 đến đầu tháng 8 vì đây là các tháng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của gió phơn Tây Nam khô nóng và ít mưa, độ ẩm thấp nhất có khi xuống đến 22%; trong những tháng mùa mưa, độ ẩm tương đối trung bình thường trên 85%, có khi lên đến 88-90%. Gió: Tỉnh Quảng Trị chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính là gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc. Đặc biệt gió Tây Nam khô nóng ở Quảng Trị là hiện tượng rất điển hình, được đánh giá là dữ dội nhất ở nước ta. Trung bình mỗi năm có khoảng 45 ngày. Trong các đợt gió Tây Nam khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới 40 - 42 °C. Gió Tây Nam khô nóng làm ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động kinh tế - xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp. Do nằm trọn vẹn trong nội chí tuyến Bắc bán cầu, hàng năm có hai lần mặt trời đi qua thiên đỉnh (tháng 5 và tháng 8), nền bức xạ cao (cực đại vào tháng 5, cực tiểu vào tháng 12). Tổng lượng cán cân bức xạ cả năm ở Quảng Trị dao động trong khoảng 70-80 Kcalo/cm² năm), những tháng mùa hè gấp 2-3 lần những tháng mùa đông. Tổng số giờ nắng trung bình năm ở Quảng Trị dao động từ 1.800 - 2.000 giờ. Số giờ nắng nhất vào tháng 7 (240-250 giờ). Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 24,5 - 25,2 °C, tháng 7 cao nhất còn tháng 1 thấp nhất. Nhiệt độ tối cao trong năm vào các tháng nóng, ở vùng đồng bằng trên 40 °C và ở vùng núi thấp 34-35 °C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm có thể xuống tới 8-10 °C ở vùng đồng bằng và 3-5 °C ở vùng núi cao. Gió phơn tây nam khô nóng, thường gọi là "gió Lào", thường xuất hiện vào tháng 3-9 và gay gắt nhất tháng 4-5 đến tháng 8. Hàng năm có 40-60 ngày khô nóng. Mùa mưa diễn ra từ cuối tháng 8 đến tháng 12, với lượng mưa trong thời gian này chiếm trên 80% tổng lượng mưa cả năm. Lượng mưa trong khoảng đầu mùa mưa (tháng 8 - 11) chủ yếu là từ các cơn bão, áp thấp và vùng xoáy thấp nhiệt đới. Lượng mưa nửa cuối mùa mưa chủ yếu từ các đợt gió mùa Đông Bắc gây ra kiểu thời tiết lạnh và ẩm. Các tháng mưa kéo dài, lớn là tháng 9-11 (có thể đạt khoảng 600 mm). Tháng ít mưa nhất là tháng 2-7 (thấp nhất là 40mm/tháng). Tổng lượng mưa cả năm dao động khoảng 2.000–2.700 mm, số ngày mưa 130-180 ngày. Độ ẩm tương đối trung bình, tháng ẩm 85-90%, độ ẩm thấp nhất tháng khô có thể xuống dưới 50%, có. Thành phố Đông Hà vào mùa hè bị khô cạn hơn cả, vùng Khe Sanh (Hướng Hóa) có khí hậu quanh năm ẩm. Mùa bão ở Quảng Trị diễn ra từ tháng 7 đến tháng 11, trong đó tháng 9-10 nhiều bão nhất. Theo số liệu thống kê trong 98 năm có 75 cơn bão đổ bộ vào khu vực Bình Trị Thiên, bình quân 0,8 cơn bão/năm ảnh hưởng trực tiếp đến Quảng Trị, có năm không có bão, nhưng lại có năm liên tiếp 2-3 cơn bão đổ bộ trực tiếp. Ảnh hưởng tai hại nhất là bão gây ra gió xoáy giật kèm theo mưa to dài ngày (2-5 ngày)gây ra lũ lụt nghiêm trọng. Tỷ lệ mưa do bão và áp thấp nhiệt đới ngây ra chiếm tới 40-50% tổng lượng mưa trong các tháng 7-10. Lượng mưa do một cơn bão gây ra khoảng 300–400 mm, có khi lên tới 1.000 mm. Tài nguyên khoáng sản. Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Quảng Trị khá phong phú và đa dạng, đặc biệt là khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng và làm vật liệu xây dựng. Đây là điều kiện để tỉnh có thể phát triển mạnh công nghiệp xi măng và VLXD. Theo tài liệu hiện có, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 130 mỏ và điểm khoáng sản, trong đó có 86 điểm, mỏ vật liệu xây dựng và nguyên liệu sản xuất xi măng với các loại chủ yếu như đá vôi, đá sét và các chất phụ gia (như đá bazan, quặng sắt), sét gạch ngói, cát cuội sỏi, cát thủy tinh, cao lanh... Ngoài ra còn có các điểm, mỏ khoáng sản khác như vàng, titan, than bùn... - "Đá vôi xi măng". Có tổng trữ lượng trên 3 tỷ tấn, tập trung chủ yếu ở các mỏ: Tân Lâm, Cam Thành (Cam Lộ), Tà Rùng, Hướng Lập (Hướng Hóa); sét ximăng ở Cam Tuyền, Tà Rùng, phụ gia xi măng khác ở Cùa, Tây Gio Linh... - "Đá xây dựng, ốp lát".Toàn tỉnh có 10 điểm, mỏ đá xây dựng, trữ lượng khoảng 500 triệu m3; phân bố chủ yếu dọc Quốc lộ 9 và đường Hồ Chí Minh trở về phía Tây, có điều kiện giao thông khá thuận lợi. Đá ốp lát có 4 điểm là đá granit Chân Vân, đá hoa Khe Ngài, granodiorit Đakrông và gabro Cồn Tiên. "- Sét gạch ngói."Hiện có 18 điểm, mỏ với trữ lượng khoảng gần 82 triệu m3, phân bố ở nhiều nơi nhưng tập trung chủ yếu ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng. "- Cát, cuội, sỏi xây dựng." Có 16 mỏ và điểm, trữ lượng dự báo khoảng 3,9 triệu m3, tập trung ở phần thượng nguồn các sông, nằm ở những vùng có giao thông thuận lợi cho việc khai thác. "- Cát thủy tinh." Dự báo trữ lượng khoảng 125 triệu m3, chất lượng tốt, phân bố chủ yếu ở Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng nhưng tập trung ở khu vực Cửa Việt; có khả năng chế biến silicát, sản xuất thủy tinh và kính xây dựng. "- Cao lanh."Đã phát hiện được 03 điểm cao lanh là Tà Long, A Pey (Đăkrông) và La Vang (Hải Lăng) chất lượng khá tốt, đang tiếp tục thăm dò, thử nghiệm để đưa vào khai thác. "- Than bùn."Phân bố tập trung ở Hải Lăng và Gio Linh với tổng trữ lượng gần 400 ngàn tấn cho phép khai thác làm nguyên liệu sản xuất phân vi sinh với khối lượng khá lớn. "- Ti tan."Phân bố dọc ven biển nhưng tập trung chủ yếu ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Hải Lăng, có trữ lượng trên 500.000 tấn, có thể khai thác với khối lượng khoảng 10 - 20 nghìn tấn/năm để chế biến xuất khẩu. "- Nước khoáng."Phân bố ở Cam Lộ, Đakrông cho phép phát triển công nghiệp sản xuất nước khoáng, phát triển các dịch vụ nghỉ dưỡng, chữa bệnh. "- Vàng". Phân bố ở Vĩnh Ô (Vĩnh Linh), Tà Long, A Vao (Đakrông) với trữ lượng khoảng 20 tấn, trong đó điểm mỏ vàng góc A Vao đã được thăm dò có thể tổ chức khai thác với quy mô công nghiệp. Dân số. Tính đến ngày 1/4/2019, dân số của tỉnh là 632.375 người. Toàn tỉnh có 136.743 hộ gia đình, bình quân 4,4 nhân khẩu/hộ. Dân số thành thị có 195.413 người, chiếm 30,9%. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên tăng 0,55; dân số cơ học tăng không đáng kể. Bình quân mỗi năm dân số trung bình toàn tỉnh tăng thêm khoảng 5.000-6.000 người. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng Bắc Trung Bộ với gần 700.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 33%. Trong cơ cấu dân số phân theo giới tính, nữ chiếm 50,4%, nam chiếm 49,6%; phân theo độ tuổi, từ 0-59 tuổi chiếm khoảng 90,9%, chỉ tiêu này cho thấy đây là cơ cấu dân số trẻ, riêng dân số dưới 15 tuổi chiếm 37,9%, đây là lực lượng lao động dự trữ dồi dào của tỉnh. Mật độ dân số toàn tỉnh là 126,7 người/km2,thuộc loại thấp so với các tỉnh, thành khác trong cả nước. Dân cư phân bố không đều giữa các vùng lãnh thổ, tập trung đông ở các thành phố, thị xã, các huyện đồng bằng như thị xã Quảng Trị: 308 người/km2, thành phố Đông Hà: 1.157 người/km2, trong khi đó huyện Đakrông chỉ có 29 người/km2, Hướng Hoá 64 người/km2. Sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng các công trình hạ tầng giao thông, điện, nước, thủy lợi, trường học, trạm y tế... phục vụ sản xuất và dân sinh ở những vùng có địa hình núi cao, chia cắt, thưa dân. Cộng đồng các dân tộc tỉnh Quảng Trị gồm 3 dân tộc chính: Kinh, Vân Kiều và Pa Cô. Tỉ lệ các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 9% tổng dân số. Mỗi dân tộc đều có lịch sử lâu đời và có truyền thống văn hóa phong phú, đặc sắc, đặc biệt là văn hóa dân gian. Đồng bào các dân tộc thiểu số Vân Kiều và Pa Cô sinh sống chủ yếu ở các huyện miền núi phía Tây của tỉnh như: Hướng Hóa, Đakrông. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 86.363 người, nhiều nhất là Phật giáo có 52.881 người, tiếp theo là Công giáo có 25.720 người, đạo Tin Lành có 7.750 người. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có năm người, đạo Cao Đài và tôn giáo Baha'i mỗi tôn giáo có hai người, Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo và Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi tôn giáo chỉ có một người. Hành chính. Quảng Trị hiện bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 125 đơn vị hành chính cấp xã (bao gồm 101 xã, 13 phường và 11 thị trấn). Danh sách các đơn vị hành chính Kinh tế. Giao thông. Quảng Trị có điều kiện giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thủy. Qua địa phận Quảng Trị có các tuyến giao thông huyết mạch như Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh (nhánh Đông và nhánh Tây), tuyến đường sắt Bắc - Nam chạy dọc qua tỉnh, và Quốc lộ 9 gắn với đường xuyên Á cho phép Quảng Trị có thể giao lưu kinh tế với các tỉnh trong vùng và cả nước. Cảng Cửa Việt là một trong những cảng biển có thể phục vụ cho vận chuyển hàng hóa trong vùng và trung chuyển hàng hóa qua đường Xuyên Á. Cách không xa trung tâm tỉnh lỵ Đông Hà có sân bay Phú Bài - Thừa Thiên Huế (khoảng 80 km) và sân bay quốc tế Đà Nẵng (khoảng 150 km). Tỉnh có đường sắt Bắc Nam, đường Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh chạy qua. Đặc biệt có đường 9 nối với đường liên Á qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo sang Lào. Dự án sân bay Quảng Trị ở Gio Linh, cách Đông Hà 7 km về phía bắc đang được chuẩn bị thủ tục triển khai đầu tư. Cảng biển Mỹ Thủy, Đại lộ Đông Tây bảy làn xe nối từ cảng Mỹ Thủy qua cửa khẩu Lao Bảo, có tổng vốn đầu tư khoảng 150 triệu USD. Biển số xe cơ giới trong tỉnh: Du lịch. Trong những năm Chiến tranh Việt Nam, Quảng Trị là một trong những nơi bị thả bom nhiều nhất. Ngày nay Quảng Trị là nơi có nhiều địa danh, di tích lịch sử và có nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn khá phong phú, phân bố rộng khắp trên các địa bàn trong tỉnh và gần các trục giao thông chính nên rất thuận lợi cho khai thác: Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở Quảng Trị: hải sản, bánh tét gù Đại An Khê, cháo cá vạc giường Hải Lăng, gỏi tép nhảy Bàu Trạng, bánh khoái, rượu Kim Long, bún hến Mai Xá, bánh beng Pa Cô- Vân Kiều, lòng thả, bột lọc Mỹ Chánh, bánh ít lá gai, ớt dầm Câu Nhi, xà lách xoong Gio An, rượu sim, chuối lùn Tà Rụt, cheo cá mát Pa Cô- Vân Kiều, mứt gừng Mỹ Chánh, canh ám làng Lam, cháo bột vịt Đông Hà, rượu cần miền Tây, nước mắm Mỹ Thủy, cá hấp Cửa Tùng, chả nem chợ Sãi, bánh tày, cao chè vằng Định Sơn, cơm lam người Pa Cô- Vân Kiều, bắp hầm, bánh bột lọc Quảng Trị, bánh bèo Phù Lưu, rượu búng báng, lạc, bún sòng Cẩm Thạch, ốc Cồn Cỏ, nước mắm Gia Đẳng, lợn Vân Pa, cà phê Hướng Hóa, mắm đam Trà Trì, bún tươi Triệu Sơn, cá mát sông Đăk Krông, mít thấu Quảng Trị, rượu men lá Ba Nang, hồ tiêu Vĩnh Linh, bánh đúc rau câu, gà cùa Cam Lộ, bánh canh cá lóc Diên Sanh, bún nghệ, bánh ướt Phương Lang, gà kho củ nén.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Yên Bái là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Yên Bái, Việt Nam. Địa lý. Thành phố Yên Bái nằm bên sông Hồng, cách Hà Nội 154 km về phía tây bắc. Thành phố có vị trí địa lý: Thành phố rộng 108,15 km², dân số năm 2019 là 100.631 người, mật độ dân số đạt 930 người/km². Dân cư của thành phố Yên Bái mang đặc trưng của cư dân thành thị vùng cao. Những năm đầu thế kỷ XX dân cư của thị xã Yên Bái thưa thớt. Người Kinh chiếm hầu như đa số, họ tập trung ở Bách Lẫm, Giới Phiên và thị xã Yên Bái với mật độ dân số là trên 10 người/km². Tuy nhiên, khi thực dân Pháp mở tuyến đường sắt Hải Phòng - Hà Nội - Lào Cai và do chính sách tiểu đồn điền nên các luồng cư dân theo đường sông Hồng lên ngày một gia tăng, vì vậy dân số ở thị xã được tăng khá nhanh. Họ từ mạn Phú Thọ, Nam Định, Hà Nam, Hà Đông, Thái Bình lên sinh sống tại các vùng Bách Lẫm, Nam Cường. Trong dòng người nhập cư này phải kể thêm một số người từ các tỉnh miền xuôi lên đây khai thác lâm sản, buôn bán rồi ở lại luôn. Ở vị trí nằm trên các tuyến đường giao thông huyết mạch thủy, bộ nên thành phố Yên Bái trở thành một trong những đầu mối thông thương quan trọng giữa miền ngược và miền xuôi. Đạo Phật, đạo Thiên Chúa đã thâm nhập vào đây từ rất sớm chứng tỏ đây là một vùng đất mở để đón nhận những khả năng và tiềm thức mới để thúc đẩy sinh hoạt và đời sống cộng đồng. Lịch sử. Thành phố Yên Bái trong suốt chiều dài lịch sử đã trải qua nhiều lần thay đổi về địa danh và địa giới hành chính. Thời các Vua Hùng, mảnh đất này nằm trong bộ Tân Hưng, thời phong kiến Bắc thuộc nằm trong vùng đất Tượng Quận, Giao Chỉ rồi Phong Châu. Đến thế kỷ XI (thời nhà Lý) thuộc Châu Đăng. Thế kỷ XV (đời Lê Thánh Tông) nằm trong lộ Quy Hoá thuộc tỉnh Hưng Hoá. Cuối thế kỷ XVI là một làng nhỏ bé trong tổng Bách Lẫm, phủ Quy Hoá thuộc tỉnh Hưng Hoá. Ngày 15 tháng 4 năm 1888, thực dân Pháp phân chia các địa bàn từ Thanh Hóa trở ra Bắc thành 14 quân khu. Địa bàn thành phố Yên Bái ngày nay thuộc Quân khu Yên Bái. Sau một thời gian, toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan đã ra Nghị định bãi bỏ các quân khu để thiết lập các đạo quan binh hoàn toàn nằm trong chế độ quân quản. Dưới đạo quan binh là các tiểu quân khu. Ngày 9 tháng 9 năm 1891, toàn quyền Đông Dương quy định đạo lỵ quan binh Yên Bái đặt tại xóm Đồng Thị, xóm Gò Cau tại làng Yên Bái, tổng Bách Lẫm huyện Trấn Yên. Đứng đầu đạo quan binh là một viên trung tá. Ngày 11 tháng 4 năm 1900, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Yên Bái, tỉnh lỵ được đặt tại làng Yên Bái thuộc tổng Bách Lẫm, huyện Trấn Yên. Thị xã Yên Bái được hình thành là trung tâm của tỉnh nằm ở chân đồn Cao - khu vực quân sự của thực dân Pháp (phường Nguyễn Phúc ngày nay) với diện tích chưa đầy 2 km². Năm 1905, một số làng thuộc tổng Bách Lẫm được đưa vào thị xã. Thị xã Yên Bái lúc đầu chỉ là một phố thuộc phủ Trấn Yên rồi dần dần hình thành 4 khu phố nhỏ là phố Hội Bình, Yên Lạc, Yên Hòa, Yên Thái (khu vực phường Hồng Hà ngày nay). Tháng 7 năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc, thị xã Yên Bái được tái lập và mở rộng. Ngày 7 tháng 4 năm 1956 theo Nghị định số 72/TTg của Thủ tướng Chính phủ đã quyết định tái lập thị xã Yên Bái. Đồng thời, thôn Lò Vôi thuộc xã Minh Bảo và xóm nhà thờ thuộc xã Nam Cường, huyện Trấn Yên được sáp nhập vào thị xã Yên Bái. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, ba tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ (trừ 2 huyện Bắc Yên và Phù Yên nhập vào tỉnh Sơn La) và Lào Cai hợp nhất thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, thị xã Lào Cai ban đầu được chọn làm tỉnh lỵ tỉnh Hoàng Liên Sơn. Năm 1978, tỉnh lỵ Hoàng Liên Sơn chuyển về thị xã Yên Bái, bao gồm 4 phường: Hồng Hà, Minh Tân, Nguyễn Thái Học và Yên Thịnh. Ngày 16 tháng 1 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 15-CP về việc phân vạch địa giới hành chính của một số xã thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn. Theo đó, sáp nhập các xã Tuy Lộc, Nam Cường, Tân Thịnh và Minh Bảo của huyện Trấn Yên vào thị xã Yên Bái. Ngày 6 tháng 6 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 101-HĐBT về việc phân vạch địa giới hành chính một số phường thuộc thành phố Yên Bái. Theo đó: Từ đó, thị xã Yên Bái có 7 phường và 4 xã trực thuộc. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Yên Bái được tái lập, thị xã Yên Bái trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Yên Bái. Năm 2001, thị xã Yên Bái được công nhận là đô thị loại III. Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 05/2002/NĐ-CP<ref name="05/2002/NĐ-CP">Nghị định 05/2002/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Yên Bái thuộc tỉnh Yên Bái</ref> về việc thành lập thành phố Yên Bái trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Yên Bái. Ngày 4 tháng 8 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 87/2008/NĐ-CP sáp nhập 6 xã: Văn Phú, Văn Tiến, Hợp Minh, Giới Phiên, Phúc Lộc, Âu Lâu thuộc huyện Trấn Yên vào thành phố Yên Bái.<ref name="87/2008/NĐ-CP">Nghị định 87/2008/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Trấn Yên để mở rộng thành phố Yên Bái và huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái</ref> Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết 122/NQ-CP về việc thành lập 2 phường: Nam Cường và Hợp Minh trên cơ sở 2 xã có tên tương ứng. Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập xã Phúc Lộc vào xã Giới Phiên và sáp nhập xã Văn Tiến vào xã Văn Phú. Thành phố Yên Bái có 9 phường và 6 xã như hiện nay. Hành chính. Thành phố Yên Bái có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: Đồng Tâm, Hồng Hà, Hợp Minh, Minh Tân, Nam Cường, Nguyễn Phúc, Nguyễn Thái Học, Yên Ninh, Yên Thịnh và 6 xã: Âu Lâu, Giới Phiên, Minh Bảo, Tân Thịnh, Tuy Lộc, Văn Phú. Giao thông. Các tuyến đường chính của thành phố Yên Bái: Âu Cơ, Lê Trực, Trần Phú, Nguyễn Tất Thành, Đinh Tiên Hoàng, Nguyễn Văn Cừ, Điện Biên, Quang Trung, Yên Ninh, Lý Thường Kiệt, Cao Thắng, Lê Chân, Thành Công, Lê Hồng Phong, Hòa Bình, Đại lộ Nguyễn Thái Học, Hoàng Hoa Thám, Trần Hưng Đạo, Hòa Bình, Nguyễn Du, Ngô Minh Loan, Kim Đồng, Trương Quyền, Nguyễn Phúc. Các cây cầu tại thành phố Yên Bái: cầu Văn Phú, cầu Bách Lẫm, cầu Yên Bái và cầu Tuần Quán.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.938263
Địa lý & Hành chính
null
null
Sông Ba (phần thượng lưu gọi là Ea Pa, Ia Pa hay Krông Pa, phần hạ lưu gọi là sông Đà Rằng) là con sông lớn nhất vùng ven biển miền Trung, chảy qua 3 tỉnh miền Trung Việt Nam là Kon Tum, Gia Lai và Phú Yên với diện tích lưu vực 13.900 km². Khái quát. Sông dài 388 km, bắt nguồn từ dãy núi Ngọc Rô, tây bắc tỉnh Kon Tum, từ độ cao 1.549 mét, chảy theo hướng Bắc-Nam qua các huyện Kon Plông của tỉnh Kon Tum, Kbang, Đắk Pơ, An Khê, Kông Chro, Ia Pa, Ayun Pa của tỉnh Gia Lai, chuyển sang hướng Tây Bắc-Đông Nam qua huyện Krông Pa (Gia Lai) rồi đi vào địa phận Phú Yên theo hướng Tây-Đông làm thành ranh giới tự nhiên giữa Sơn Hòa và Sông Hinh, giữa Sơn Hòa và Tây Hòa, giữa Tây Hòa và Phú Hòa, giữa thị xã Đông Hòa và thành phố Tuy Hòa rồi đổ ra biển Đông ở cửa biển Đà Diễn, phía Nam thành phố Tuy Hòa. Vùng hạ lưu của sông có tên Đà Rằng, từ này là từ đọc trại của Ea Drăng xuất phát từ tiếng Chăm cổ có nghĩa là "con sông lau sậy". Lưu vực của hệ thống sông Ba rộng 13.900 km² bao gồm cả phần phía Đông Bắc của Đắk Lắk. Sông Ba cung cấp nước quanh năm cho đồng bằng Tuy Hòa, với diện tích hơn 20.000 ha, vựa lúa lớn nhất Duyên hải Nam Trung Bộ. Dọc theo sông Ba có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch sử. Cầu Đà Rằng qua sông này tại Tuy Hòa dài 1.512 m là cầu dài nhất Phú Yên. Phụ lưu. Các phụ lưu quan trọng nhất của sông Ba là sông Ayun (hợp lưu với Ba ở ranh giới giữa thị xã Ayun Pa và huyện Ia Pa), sông Krông Năng (hợp lưu với Ba ở ranh giới giữa Gia Lai và Phú Yên) và sông Hinh (hợp lưu huyện Sông Hinh): Lịch sử. Vùng hạ lưu sông Ba từ nhiều nghìn năm trước đã có nhiều bộ tộc cư ngụ. Di tích của các nền văn minh đồ đá từng tồn tại nơi đây vẫn còn được lưu giữ, điển hình là chiếc đàn đá Tuy An. Từ thế kỷ 1, tại đây dần hình thành các quốc gia như Lâm Ấp, Chiêm Thành. Có bằng chứng khảo cổ học, đào được khi xây dựng công trình thủy nông Đồng Cam tại đây, cho thấy cửa biển Đà Diễn, thời kỳ từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 15, đã từng là trung tâm thương mại quốc tế sầm uất. Các hiện vật đào được gồm nhiều loại tiền cổ, khối lượng đến một tấn, gồm tiền Đại Việt thời Hồng Đức, tiền "Khai nguyên thông bảo" nhà Đường, tiền Triều Tiên... Thời Chăm có thành Hồ (ở Hòa Định ngày nay), một kinh thành, quân thành lớn. Cảng giao thương cũ ở xã Hòa An Đến năm 1471, vua Lê Thánh Tông đã hành quân vào đây trừng phạt vua Chiêm Thành vì tội quấy nhiễu vùng Hóa Châu, bắc đèo Hải Vân (Huế, và một phần Quảng Trị ngày nay). Lê Thánh Tông đã khắc lên một tảng đá lớn trên núi Thạch Bi (còn gọi là núi Đá Bia), thuộc hạ lưu sông Ba, làm mốc ranh giới Đại Việt. Đây cũng là một dấu mốc lịch sử trong quá trình Nam tiến của người Việt. Tuy đã đánh mốc như vậy, phải hơn 100 năm sau, đến năm 1578, đô chỉ huy sứ Lương Văn Chánh, vâng mệnh chúa Nguyễn Hoàng, mới đem lưu dân từ Thanh Hóa, Nghệ An và Thuận Quảng vào khai khẩn, lập xóm làng tại vùng đồng bằng Tuy Hòa. Các công trình thủy điện thủy lợi. Thủy điện An Khê & Kanak. Thủy điện An Khê & Kanak nằm tại Sông Ba, huyện Kbang và thị xã An Khê, tỉnh Gia Lai; huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam. Đập Đồng Cam. Ở hạ lưu sông Ba có công trình thủy nông Đồng Cam, đảm bảo ổn định tưới tiêu cho toàn bộ đồng bằng Tuy Hòa (tưới 20.000ha). Công trình này được xây dựng bởi người Pháp từ thập niên 1920. Các kỹ sư tham gia xây dựng công trình gồm người Pháp, Việt và Lào; trong đó có Trần Đăng Khoa, bộ trưởng đầu tiên của Bộ Thủy lợi Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và Hoàng thân Souphanouvong, cựu chủ tịch nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào. Thủy điện Sông Ba Hạ. Thủy điện Sông Ba Hạ được quy hoạch trên địa bàn 15 xã miền núi thuộc hai huyện Sông Hinh (tỉnh Phú Yên) và huyện Krông Pa (tỉnh Gia Lai). Nhà máy thủy điện sông Ba Hạ có hai tổ máy với công suất 220 MW, sản lượng điện trung bình 825 triệu Kwh/năm, khởi công tháng 4/2004 hoàn thành tháng 11/2009 . Hồ Ayun. Hồ Ayun hạ bắt đầu khai thác từ năm 1995, dung tích hữu ích là 201 triệu m3, tưới cho khoảng 8.000 ha, năm 2001 bổ sung thêm công trình thủy điện với công suất lắp máy là 2,7 MW. Hồ sông Hinh. Hồ sông Hinh với dung tích hữu ích là 323 triệu m3 nước phát điện năm 1999 khánh thành năm 2001 với công suất lắp máy 70 MW, tưới trực tiếp 4.500 ha, bổ sung nước cho đập Đồng Cam. Môi trường. Ô nhiễm từ các nhà máy. Theo báo Tiền Phong, một đoạn sông Ba dài khoảng 500m chảy qua làng Tờ Mật (xã Đông, huyện Kbang, Gia Lai) đỏ lòm, đặc quánh bùn thiếc do nhà máy tuyển quặng Kbang của Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai xả ra. Xuống dưới một đoạn là huyện Đak Pơ, thị xã An Khê, huyện Kông Chro, dòng sông bốc mùi hôi thối nồng nặc do các nhà máy mía đường, gỗ… xả nước, dòng sông lúc này như con lạch nhỏ màu nước gạo chở theo đầy rác. Mất nước vì nhà máy thủy điện. Khi Thủy điện An Khê - Kanak bắt đầu tích nước, nhiều đoạn của sông Ba kiệt nước, chỉ còn trơ lại đá, cá chết nổi trắng sông. Khoảng 30 km cuối dòng chảy qua thị xã Ayun Pa, huyện Ia Pa, huyện Krông Pa (Gia Lai), nơi đâu cũng bắt gặp những đàn bò đang gặm cỏ trên cánh đồng mọc giữa dòng. Hạn hán 2016. Theo báo cáo về tình hình nắng hạn mới nhất của UBND tỉnh Gia Lai, toàn tỉnh đã có hàng chục ngàn hécta cây trồng bị thiếu nước tưới, ước thiệt hại hàng trăm tỷ đồng. Các địa phương phụ thuộc nguồn nước sông Ba là Kbang, Đak Pơ, An Khê, Kông Chro, Ia Pa, Ayun Pa, Krông Pa có khoảng 5.000 hộ dân thiếu nước sinh hoạt, hàng chục ngàn người thiếu đói. Ảnh hưởng về đời sống, văn hóa. Tiến sĩ Nguyễn Thị Kim Vân, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Gia Lai, nhiều năm nghiên cứu về văn hóa Tây nguyên, cho ý kiến: "Đời sống người dân Tây Nguyên nói chung và tỉnh Gia Lai nói riêng gắn liền với nguồn nước. Khi nguồn nước bị ô nhiễm và cạn kiệt, người dân buộc phải tìm cách thích nghi mới. Muốn hay không, nhiều tập quán đẹp trong truyền thống văn hóa của họ sẽ dần biến mất. Cứu sông chính là cứu những truyền thống văn hóa, những làng nghề đánh cá và cuộc sống của hàng triệu cư dân địa phương".
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thành Hưng Hóa xưa là lỵ sở của đạo thừa tuyên Hưng Hóa, sau đổi là trấn Hưng Hóa (thời Lê Trung hưng), rồi tỉnh Hưng Hóa (thời nhà Nguyễn). Thành nằm ở ven bờ đầm Dị Nậu thuộc thị trấn Hưng Hóa, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ ngày nay. Lịch sử. Tháng 6 âm lịch Năm Quang Thuận thứ bảy (1466) triều Hậu Lê, vua Lê Thánh Tông chia nước Đại Việt thành 13 đạo thừa tuyên thì Hưng Hóa là một trong 13 đơn vị hành chính đó. Những đạo còn lại từ nam ra bắc là Thuận Hóa, Nghệ An, Thanh Hóa, Thiên Trường, Nam Sách, Quốc Oai, Bắc Giang, An Bang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, và phủ Trung Đô. Sang thời nhà Nguyễn, phân chia hành chính thay đổi và đạo thừa tuyên Hưng Hóa chuyển thành tỉnh Hưng Hóa. Thành Hưng Hóa được dùng làm tỉnh lỵ, đặt các dinh phủ của quan sở tại. Ngày 10 tháng 4 năm 1884 (tức 15 tháng 3 âm lịch), tại khu vực thành Hưng Hóa đã diễn ra cuộc giao tranh quyết liệt giữa quân Pháp và liên quân Việt Nam dưới sự chỉ huy của Hoàng Kế Viêm, Nguyễn Quang Bích cùng với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc. Sách "Việt Nam sử lược" của Trần Trọng Kim viết: Ngày 19 tháng 4 lực lượng chính quy của Pháp rút về Hà Nội, chỉ để lại một số ít đóng đồn tại Hưng Hóa. Ngày 1 tháng 5 năm 1895, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập thị xã Hưng Hóa.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.890596
Địa lý & Hành chính
null
null
Quận 6 một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận có Chợ Bình Tây (thường gọi là Chợ Lớn), đây được xem một khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam. Địa lý. Quận 6 thuộc nội thành của Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý: Quận có diện tích 7,14 km², dân số năm 2019 là 233.561 người, mật độ dân số đạt 32.712 người/km². Hành chính. Quận 6 có 14 phường trực thuộc, bao gồm: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14. Lịch sử. Địa giới hành chính quận 6 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn. Thời Pháp thuộc. Năm 1874, Pháp đổi tên hạt Tham biện thành Địa hạt. Năm 1876, Pháp xoá bỏ lục tỉnh mà phân chia thành bốn khu vực mang tính quân sự, trong đó vùng quận 6 thuộc khu vực Sài Gòn. Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là "Địa phương") Sài Gòn - Chợ Lớn ("Région Saigon - Cholon" ou "Région de Saigon - Cholon"). Ngày 22 tháng 9 năm 1941, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập thêm quận 6. Quận 6 khi đó thuộc khu vực thành phố Sài Gòn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới quận 4 của Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Lúc này, Quận 6 thuộc Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Thời Việt Nam Cộng hòa. Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, quận 6 lại thuộc Đô thành Sài Gòn. Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, quận 6 (quận Sáu) trùng với một phần địa giới của quận 5 cũ. Năm 1959, quận Sáu có 07 phường: Bình Tây, Bình Tiên, Chợ, Phú Lâm, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hoà. Năm 1969 tách đất của hai quận: Năm, Sáu để lập mới quận 11 (quận Mười Một) với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế quận Sáu còn 04 phường. Năm 1972, lập thêm phường Bình Phú tại quận Sáu (quận này có 05 phường). Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, quận 6 (quận Sáu) gồm 05 phường: Bình Phú, Bình Tây, Bình Tiên, Chợ Lớn, Phú Lâm. Từ năm 1975 đến nay. Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Lúc này, quận 6 (quận Sáu) thuộc thành phố Sài Gòn - Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976. Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban Nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên quận 6 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 6 bao gồm 20 phường và đánh số từ 1 đến 20. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 6 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 17 tháng 2 năm 1979, theo Quyết định số 52-CP của Hội đồng Chính phủ về việc giải thể 3 phường: 3, 11 và 15, địa bàn 3 phường giải thể nhập vào các phường kế cận với số lượng phường trực thuộc còn 17: Ngày 14 tháng 2 năm 1987, theo Quyết định số 33-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải thể 17 phường hiện hữu để thay thế bằng 14 phường mới và đánh số từ 1 đến 14 với sự phân chia đơn vị hành chính và giữ ổn định cho đến ngày nay: Đường phố. Các đường đặt tên số<br>Bà Hom<br>Bà Ký<br>Bà Lài<br>Bãi Sậy<br>Bến Phú Lâm<br>Bình Phú<br>Bình Tây<br>Bình TiênBửu Đình<br>Cao Văn Lầu<br>Chợ Lớn<br>Chu Văn An<br>Đặng Nguyên Cẩn<br>Gia Phú<br>Hậu Giang<br>Hoàng Lê Kha<br>Hồng Bàng<br>Hùng VươngKinh Dương Vương<br>Lê Quang Sung<br>Lê Tấn Kế<br>Lê Trực<br>Lê Tuấn Mậu<br>Lò Gốm<br>Kênh Tân Hóa<br>Lý Chiêu Hoàng<br>Mai Xuân Thưởng<br>Minh PhụngNgô Nhân Tịnh<br>Nguyễn Đình Chi<br>Nguyễn Hữu Thận<br>Nguyễn Phạm Tuân<br>Nguyễn Thị Nhỏ<br>Nguyễn Văn Luông<br>Nguyễn Xuân Phụng<br>Phạm Đình Hổ<br>Phạm Phú Thứ<br>Phạm Văn Chí<br>Phan Văn KhỏeTân Hóa<br>Tân Hòa Đông<br>Tháp Mười<br>Trang Tử<br>Trần Bình<br>Trần Trung Lập<br>Trần Văn Kiểu<br>Vành Đai<br>Văn Thân<br>Võ Văn Kiệt
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quận 5 là một quận nội thành thuộc Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam. Quận 5 cùng với Quận 6 còn được gọi chung là Chợ Lớn, khu trung tâm thương mại lớn nhất của người Hoa ở Việt Nam. Địa lý. Quận 5 nằm ở trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý: Quận có diện tích 4,27 km², dân số năm 2019 là 159.073 người, mật độ dân số đạt 37.254 người/km². Hành chính. Quận 5 có 14 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13 và 14. Lịch sử. Địa giới hành chính Quận 5 trước và sau năm 1959 đều khác nhau hoàn toàn. Thời phong kiến. Lịch sử Quận 5 ngày nay gắn liền với sự hình thành, phát triển của khu vực Chợ Lớn và lịch sử hơn 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1623, chúa Nguyễn Phúc Nguyên (chúa Sãi) cho thành lập đồn thu thuế Brai Konor (đồn Sài Gòn) tại Quận 5. Như vậy địa danh Sài Gòn nghĩa hẹp là để chỉ Quận 5. Năm 1820, vùng đất này thuộc huyện Tân Long, phủ Tân Bình, trấn Phiên An. Năm 1836 thuộc huyện Tân Long, tỉnh Gia Định. Sau thuộc thành phố Chợ Lớn, tỉnh Chợ Lớn. Thời Pháp thuộc. Ngày 27 tháng 4 năm 1931, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh hợp nhất thành phố Sài Gòn và thành phố Chợ Lớn thành một đơn vị hành chính mới gọi là Khu (một số tài liệu gọi là "Địa phương") Sài Gòn - Chợ Lớn ("Région Saigon - Cholon" ou "Région de Saigon - Cholon"). Ngày 31 tháng 8 năm 1933, Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành lập thêm quận 5. Quận 5 khi đó thuộc khu vực thành phố Chợ Lớn cũ trước năm 1931, ngày nay thuộc địa giới Quận 6, Quận 8 và Quận 11 của Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 30 tháng 6 năm 1951, Thủ tướng chính quyền Quốc gia Việt Nam ký sắc lệnh số 311-cab/SG đổi tên Khu Sài Gòn - Chợ Lớn thành Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Lúc này, Quận 5 thuộc Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn. Thời Việt Nam Cộng hòa. Theo sắc lệnh số 143/NV ngày 22 tháng 10 năm 1956 của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn đổi tên thành Đô thành Sài Gòn. Khi đó, Quận 5 lại thuộc Đô thành Sài Gòn. Ngày 27 tháng 3 năm 1959, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 110-NV về việc phân chia sáu quận đang có thành tám quận mới: Nhứt, Nhì, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy và Tám (trừ ba quận: Nhứt, Nhì, Ba giữ nguyên, các quận còn lại đều đổi tên và thay đổi địa giới hành chính). Lúc này, Quận 5 (Quận Năm) trùng với địa giới Quận 7 và phần địa giới thuộc Quận 4 cũ, phía bắc Kênh Tàu Hủ. Năm 1959, Quận Năm có 06 phường: An Đông, Chợ Quán, Trung ương, Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phú Thọ. Năm 1962, Quận Năm giải thể phường Trung ương; lập mới năm phường: Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức và Trang Tử. Như thế lúc này quận có 10 phường. Năm 1969, tách đất của ba quận: Ba, Năm và Sáu, để lập mới quận Mười với 04 phường (Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương, Phan Thanh Giản, Chí Hòa) và quận Mười Một với 04 phường (Phú Thọ, Bình Thới, Cầu Tre, Phú Thọ Hòa). Như thế Quận Năm còn 07 phường. Năm 1974, lập thêm phường Nguyễn Trãi tại Quận Năm, lúc này Quận có 08 phường. Cho đến ngày 29 tháng 4 năm 1975, Quận 5 (Quận Năm) gồm 08 phường: An Đông, Chợ Quán, Đồng Khánh, Hồng Bàng, Khổng Tử, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Trãi, Trang Tử. Từ năm 1975 đến nay. Sau khi Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tiếp quản Đô thành Sài Gòn và các vùng lân cận vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, ngày 3 tháng 5 năm 1975 thành phố Sài Gòn - Gia Định được thành lập. Lúc này, Quận 5 (Quận Năm) thuộc Thành phố Sài Gòn - Gia Định cho đến tháng 7 năm 1976. Đồng thời, có những điều chỉnh do phường hiện hữu có diện tích quá nhỏ hoặc tương đối ít dân cư, trong đó sáp nhập Phường Hồng Bàng vào Phường Nguyễn Trãi và sáp nhập Phường Khổng Tử vào Phường Trang Tử. Như thế lúc này còn 06 phường. Ngày 20 tháng 5 năm 1976, tổ chức hành chánh thành phố Sài Gòn - Gia Định được sắp xếp lần hai (theo quyết định số 301/UB ngày 20 tháng 5 năm 1976 của Ủy ban nhân dân Cách mạng thành phố Sài Gòn - Gia Định). Theo đó, vẫn giữ nguyên Quận 5 cũ có từ trước đó. Lúc này, các phường cũ đều giải thể, lập các phường mới có diện tích, dân số nhỏ hơn và mang tên số. Quận 5 bao gồm 24 phường và đánh số từ 1 đến 24. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá VI, kỳ họp thứ 1 chính thức đổi tên thành phố Sài Gòn - Gia Định thành Thành phố Hồ Chí Minh. Quận 5 trở thành quận trực thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 26 tháng 4 năm 1986, theo Quyết định số 51-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng về việc giải thể 24 phường hiện hữu để thay thế bằng 15 phường mới và đánh số từ 1 đến 15: Ngày 9 tháng 12 năm 2020, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1111/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2021). Theo đó, sáp nhập Phường 15 vào Phường 12. Quận 5 có 14 phường như hiện nay. Quận 5 nằm trong danh sách các quận của Thành phố Hồ Chí Minh dưới 7 km2, dân số dưới 300.000 người, phải sáp nhập trước năm 2025. Xã hội. Y tế. Quận 5 là nơi tọa lạc của các bệnh viện lớn và nổi tiếng như Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đại học Y Dược và rất nhiều bệnh viện lớn nhỏ khác như: Giáo dục. Quận 5 là nơi tọa lạc của các trường trung học nổi tiếng như Trường Phổ thông Năng khiếu, THPT chuyên Lê Hồng Phong, cũng như các trường đại học lớn. Các trường Đại học: Văn hóa - du lịch. Món ăn đặc trưng. 1. Vịt quay, đặc biệt là vịt quay Bắc Kinh. 2. Bánh bao nhiều màu sắc, bánh bao Cả Cần 3. Dimsum, há cảo, sủi cảo, hoành thánh 4. Gà hấp muối mỡ (gà Lão Mã) 5. Hủ tiếu sa tế nai 6. Mỳ xào Phúc Kiến (xào tôm, xào hải sản, xào bò...) xào giòn, xào mềm, mỳ vịt tiềm. 7. Đậu phụ thối 8. Chân gà hấp tàu xì 9. Phật nhảy tường 10. Các loại chè: chè mè đen, chè trứng hồng trà, chè đu đủ tiềm, chè ỷ, đậu hũ hạnh nhân, quy linh cao, bo bo sữa Hồng Kông... Di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật. Di tích cấp quốc gia: Di tích cấp Thành phố: Du lịch. Các hoạt động du lịch đặc trưng ở Quận 5 là xem biểu diễn Lân sư rồng, biểu diễn võ thuật như múa kiếm, đao, thương... ca múa hát, thắp đèn trời, treo đèn lồng, đố đèn, đấu giá đèn lồng, dán câu đối, thả cá, đi lễ chùa, đi mua sắm quần áo, đồ gia dụng, đi ăn uống, đi massage thư giãn, viết thư pháp/vẽ tranh/triển lãm tranh, thi đánh cờ... Quận 5 thu hút du lịch nhất là vào các đêm trăng rằm, đặc biệt là Tết Nguyên Tiêu. Một số địa điểm nổi tiếng thu hút du khách trong và ngoài nước: Giao thông. Đường phố. An Bình<br>An Dương Vương<br>An Điềm<br>Bà Triệu<br>Bãi Sậy<br>Bạch Vân<br>Bùi Hữu Nghĩa<br>Cao Đạt<br>Châu Văn Liêm<br>Chiêu Anh Các<br>Dương Tử Giang<br>Đào Tấn<br>Đặng Thái Thân<br>Đỗ Ngọc Thạnh<br>Đỗ Văn Sửu<br>Gia Phú<br>Gò Công<br>Hà Tôn Quyền<br>Hàm Tử<br>Hải Thượng Lãn Ông<br>Học Lạc<br>Hồng Bàng<br>Hùng Vương<br>Huỳnh Mẫn ĐạtKim Biên<br>Ký Hòa<br>Lão Tử<br>Lê Hồng Phong<br>Lê Quang Định<br>Lê Quang Sung<br>Lương Nhữ Học<br>Lưu Xuân Tín<br>Lý Thường Kiệt<br>Mạc Cửu<br>Mạc Thiên Tích<br>Nghĩa Thục<br>Ngô Gia Tự<br>Ngô Nhân Tịnh<br>Ngô Quyền<br>Nguyễn An Khương<br>Nguyễn Án<br>Nguyễn Biểu<br>Nguyễn Duy Dương<br>Nguyễn Kim<br>Nguyễn Thi<br>Nguyễn Thị Nhỏ<br>Nguyễn Thời Trung<br>Nguyễn TrãiNguyễn Tri Phương<br>Nguyễn Văn Cừ<br>Nguyễn Văn Đừng<br>Nhiêu Tâm<br>Phan Huy Chú<br>Phan Phú Tiên<br>Phan Văn Khỏe<br>Phan Văn Trị<br>Phạm Bân<br>Phạm Đôn<br>Phạm Hữu Chí<br>Phó Cơ Điều<br>Phú Định<br>Phú Giáo<br>Phú Hữu<br>Phù Đổng Thiên Vương<br>Phùng Hưng<br>Phước Hưng<br>Sư Vạn Hạnh<br>Tản Đà<br>Tạ Uyên<br>Tân Hàng<br>Tân Hưng<br>Tân ThànhThuận Kiều<br>Tống Duy Tân<br>Trang Tử<br>Trần Bình Trọng<br>Trần Chánh Chiếu<br>Trần Điện<br>Trần Hòa<br>Trần Hưng Đạo<br>Trần Phú<br>Trần Tuấn Khải<br>Trần Tướng Công<br>Trần Xuân Hòa<br>Triệu Quang Phục<br>Trịnh Hoài Đức<br>Vạn Kiếp<br>Vạn Tượng<br>Võ Trường Toản<br>Võ Văn Kiệt<br>Vũ Chí Hiếu<br>Xóm Chỉ<br>Xóm Vôi<br>Yết Kiêu Dự án "Bảo tồn và cải tạo khu phố cổ Chợ Lớn" rộng 68 hecta, trải dài trên Quận 5 và Quận 6 đang được thảo luận và lấy ý kiến nhân dân. Tên đường của quận 5 trước năm 1975. <br>Bến Hàm Tử, Lê Quang Liêm nay là đường Võ Văn Kiệt<br>Đại lộ Đồng Khánh nay là đường Trần Hưng Đạo B<br>Đại lộ Nguyễn Hoàng nay là đường Trần Phú<br>Đại lộ Thành Thái nay là đường An Dương Vương<br>Đại lộ Pétrus Ký nay là đường Lê Hồng Phong<br>Đường Nguyễn Huỳnh Đức nay là đường Trần Tuấn Khải<br>Đường Bùi Duy Thanh nay là đường Nguyễn Văn Đừng<br>Đường Châu Văn Tiếp nay là đường Trần Xuân Hòa<br>Đường Ngô Quyền, Triệu Đà nay là đường Ngô Quyền<br>Đại lộ Nguyễn Văn Thoại nay là đường Lý Thường Kiệt<br>Đại lộ Trần Hoàng Quân nay là đại lộ Nguyễn Chí Thanh<br><br>Đại lộ Tổng Đốc Phương nay là đường Châu Văn Liêm<br>Đại lộ Khổng Tử, Trần Thanh Cần nay là đường Hải Thượng Lãn Ông<br>Đường Nguyễn Văn Thạch nay là đường Nguyễn Thi<br>Đường Lý Thành Nguyên nay là đường Đỗ Ngọc Thạnh<br>Đại lộ Tôn Thọ Tường nay là đường Tạ Uyên<br>Bến Dương Công Trừng nay là đường Nguyễn Thị Nhỏ<br>Đường Mạnh Tử nay là đường Dương Tử Giang<br>Đại lộ Minh Mạng nay là đường Ngô Gia Tự<br>Bến Nguyễn Văn Thành nay là đường Phan Văn Khỏe
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.872563
Địa lý & Hành chính
null
null
Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam. Tỉnh Hòa Bình có diện tích lớn thứ 29 trong 63 tỉnh thành của Việt Nam và là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 49 về số dân (năm 2018). Năm 2018, xếp thứ 47 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 30 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 20 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 846,1 nghìn dân, GRDP đạt 40.867 tỉ Đồng (tương ứng với 1,7749 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 48,3 triệu đồng (tương ứng với 2.098 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,36%. Hòa Bình có vị trí ở phía nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 20°19' - 21°08' vĩ độ Bắc, 104°48' - 105°40' kinh độ Đông, tỉnh lỵ là thành phố Hòa Bình nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội 73 km. Địa lý. Cũng giống như Ninh Bình và Thanh Hóa, tỉnh Hòa Bình nằm giáp ranh giữa ba khu vực: Tây Bắc Bộ, đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung Bộ của Việt Nam. Tỉnh Hòa Bình có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Hòa Bình: Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là 4.662.5 km², chiếm 1,41% tổng diện tích tự nhiên của Việt Nam. Hòa Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp với phía tây đồng bằng sông Hồng, Hòa Bình có địa hình núi trung bình, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn và theo hướng tây bắc - đông nam, phân chia thành 2 vùng: vùng núi cao nằm về phía tây bắc có độ cao trung bình từ 600 – 700 m, địa hình hiểm trở, diện tích 212.740 ha, chiếm 44,8% diện tích toàn vùng; vùng núi thấp nằm ở phía đông nam, diện tích 262.202 ha, chiếm 55,2% diện tích toàn tỉnh, địa hình gồm các dải núi thấp, ít bị chia cắt, độ dốc trung bình từ 20 – 250, độ cao trung bình từ 100 – 200 m. Bên cạnh đó, hệ thống sông ngòi trên địa bàn tỉnh phân bố tương đối đồng đều với các sông lớn như sông Đà, sông Mã, sông Bưởi, sông Lạng, sông Bùi... Hòa Bình có khí hậu cận nhiệt đới ẩm, mùa đông phi nhiệt đới khô lạnh, ít mưa; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng năm trên 23 °C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27 - 29 °C, ngược lại tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5 - 16,5 °C. Hành chính. Tỉnh Hòa Bình có 10 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 151 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 12 phường, 10 thị trấn và 129 xã. Lịch sử. Tỉnh Hòa Bình được thành lập ngày 22 tháng 6 năm 1886 theo nghị định của Kinh lược Bắc Kỳ với tên gọi là tỉnh Mường, tách phần đất có người Mường cư trú từ các tỉnh Hưng Hóa, Sơn Tây và Ninh Bình. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Chợ Bờ (thuộc châu Đà Bắc) nên cũng còn gọi là tỉnh Chợ Bờ. Ngày 29 tháng 11 năm 1886, Tổng sứ Trung - Bắc Kỳ ra quyết định chuyển tỉnh lỵ về Phương Lâm (trước đó thuộc huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây). Theo Nghị định ngày 27/12/1888, tỉnh lỵ lại chuyển về Chợ Bờ, do Phó công sứ Moulié (1888 - 1890) cầm đầu. Ban đầu tỉnh gồm cả Mộc Châu, Yên Châu và Phù Yên Châu (tháng 7 năm 1888, cắt 3 châu này để nhập vào Đạo Quan binh thứ tư, sau thuộc Sơn La), cùng với vùng có dân tộc Mường thuộc hai châu Thanh Sơn và Yên Lập (tháng 10 năm 1888, cắt 2 châu này về tỉnh Hưng Hóa). Sau cuộc tấn công bất ngờ của nghĩa quân Đốc Ngữ vào Chợ Bờ đêm 29 rạng ngày 30 tháng 1 năm 1891, phó công sứ Pháp Rougery (người thay thế J. Morel cuối năm 1890) bị giết chết ở sở tại. Sau khi De Goy lên làm Công sứ Hoà Bình ít lâu (thay thế Rougery), ngày 18 tháng 3 năm 1891, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuyển tỉnh lỵ tỉnh Mường về làng Vĩnh Diệu, xã Hòa Bình (nằm ở tả ngạn sông Đà, đối diện với Phương Lâm) và đổi tên tỉnh thành Hòa Bình, nhưng vẫn duy trì nhiệm sở ở Chợ Bờ. Đến ngày 5 tháng 9 năm 1896, tỉnh lỵ chính thức được chuyển về xã Hòa Bình, do Ganella làm Công sứ Hoà Bình (1891 - 1899). Tỉnh Hòa Bình khi đó có 6 châu: Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Lương Sơn, Mai Châu (châu Mai) và Đà Bắc. Ngày 24 tháng 10 năm 1908, thời Regnier làm Công sứ (1908 - 1910), châu Lạc Thủy chuyển sang tỉnh Hà Nam, và đến ngày 1 tháng 12 năm 1924, một số xã của Lạc Thủy được nhập vào phủ Nho Quan thuộc tỉnh Ninh Bình - Công sứ Hoà Bình lúc ấy là Collet (1924 - 1925) Năm 1939, hợp nhất châu Mai (tức Mai Châu) và châu Đà Bắc thành châu Mai Đà. Trong kháng chiến chống Pháp, Hòa Bình có 4 huyện: Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Mai Đà, riêng huyện Lạc Thủy vẫn thuộc tỉnh Hà Nam, sau này mới trả về Hòa Bình. Ba huyện của Hòa Bình (Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn) thuộc Liên khu 3, trong khi huyện Mai Đà lại thuộc Liên khu Việt Bắc từ tháng 11 năm 1949 cho đến ngày 9 tháng 8 năm 1950 mới trả về Liên khu 3. Ngày 21 tháng 9 năm 1956, huyện Mai Đà chia thành 2 huyện: Đà Bắc ở phía bắc sông Đà và Mai Châu ở phía nam sông Đà. Ngày 15 tháng 10 năm 1957, huyện Lạc Sơn chia thành 2 huyện: Lạc Sơn và Tân Lạc. Ngày 17 tháng 4 năm 1959, huyện Lương Sơn chia thành 2 huyện: Lương Sơn và Kim Bôi. Ngày 17 tháng 8 năm 1964, huyện Lạc Thủy chia thành 2 huyện: Lạc Thủy và Yên Thủy. Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Hòa Bình hợp nhất với tỉnh Hà Tây thành tỉnh Hà Sơn Bình. Theo Nghị quyết của Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 9 ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Hà Sơn Bình tách ra thành 2 tỉnh Hòa Bình và Hà Tây. Khi đó tỉnh có diện tích là 4.697 km², với dân số 670.000 người, gồm thị xã Hòa Bình và 9 huyện: Đà Bắc, Mai Châu, Lương Sơn, Kỳ Sơn, Lạc Sơn, Lạc Thủy, Kim Bôi, Tân Lạc, Yên Thủy. Ngày 12 tháng 12 năm 2001, huyện Kỳ Sơn chia thành 2 huyện: Kỳ Sơn và Cao Phong. Tỉnh Hòa Bình có 11 đơn vị hành chính cấp huyện. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, chuyển thị xã Hòa Bình thành thành phố Hòa Bình. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, 4 xã: Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung thuộc huyện Lương Sơn được sáp nhập vào thành phố Hà Nội (nay thuộc các huyện Thạch Thất và Quốc Oai). Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của huyện Kỳ Sơn vào thành phố Hòa Bình. Tỉnh Hòa Bình có 1 thành phố và 9 huyện như hiện nay. Dân cư. Hòa Bình hiện có 854.131 dân (tính đến ngày 1/4/2019). Theo thống kê dân số toàn quốc năm 1999, trên địa bàn tỉnh có 6 dân tộc sinh sống, đông nhất là người Mường chiếm 63,3%; người Kinh chiếm 27,73%; người Thái chiếm 3,9%; người Dao chiếm 1,7%; người Tày chiếm 2,7%; người Mông chiếm 0,52%; ngoài ra còn có người Hoa sống rải rác ở các địa phương trong tỉnh. Người Hoa trước đây sống tập trung ở Ngọc Lương, Yên Thủy; nhưng sau năm 1979 còn lại một số gia đình và hiện nay sống phân tán ở các xã Yên Trị, Ngọc Lương và Phú Lai huyện Yên Thủy. Ngoài ra, còn có một số người thuộc các dân tộc khác chủ yếu do kết hôn với người Hòa Bình công tác ở các tỉnh miền núi khác. 15,7% dân số sống ở đô thị và 84,3% dân số sống ở nông thôn. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đặt 33,42%. Hòa Bình là một trong chín tỉnh của Việt Nam mà trong đó có người Việt (Kinh) không chiếm đa số, đồng thời tỉnh này cũng được coi là thủ phủ của người Mường, vì phần lớn người dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu ở đây. Người Mường xét về phương diện văn hóa - xã hội là dân tộc gần gũi với người Kinh nhất. Địa bàn cư trú của người Mường ở khắp các địa phương trong tỉnh, sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác. Người Kinh, sống ở khắp nơi trong tỉnh. Những người Kinh sống ở Hòa Bình đầu tiên đã lên tới 4-5 đời; nhưng đa số di cư tới Hòa Bình từ những năm 1960 của thế kỉ trước, thuộc phong trào khai hoang từ các tỉnh đồng bằng lân cận (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây...). Trong những năm gần đây, sự giao lưu về kinh tế và văn hóa mở rộng, nhiều người Kinh từ khắp các tỉnh thành đều tìm kiếm cơ hội làm ăn và sinh sống ở Hòa Bình. Người Thái, chủ yếu sống tập trung ở huyện Mai Châu. Tuy sống gần với người Mường lâu đời và đã bị ảnh hưởng nhiều về phong tục, lối sống (đặc biệt là trang phục), nhưng vẫn giữ được những nét văn hóa độc đáo. Đây là vốn quý để phát triển du lịch công động và bảo lưu vốn văn hóa truyền thống. Hiện nay, khu du lịch Bản Lác là một trong những điểm du lịch hấp dẫn du khách trong và ngoài nước hàng đầu ở Hòa Bình. Người Tày, chủ tập trung ở huyện Đà Bắc, sống xen kẽ với người Mường, người Dao. Người Tày có tập quán và nhiều nét văn hóa gần giống với người Thái, đặc biệt là ngôn ngữ. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh trang phục thì người Tày ở Đà Bắc giống người Thái trắng thuộc các huyện Phù Yên, Bắc Yên (tỉnh Sơn La). Người Dao sống thành cộng đồng ở các huyện Đà Bắc, Lương Sơn, Kim Bôi, Cao Phong và thành phố Hòa Bình. Người H'mông sống tập trung ở xã Hang Kia và Pà Cò của huyện Mai Châu. Trước đây hai dân tộc này sống du canh du cư, nhưng từ những năm 70-80 đã chuyển sang chế độ đinh canh, định cư và đã đạt được những thành tựu đáng kể về phương diện kinh tế - xã hội. Với sự đa dạng về sắc tộc như vậy và đặc biệt gần với đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ khoảng từ 80 tới 100 km, kết hợp với các điều kiện địa hình, phong cảnh của tỉnh; thì đây là tiềm năng lớn để phát triển du lịch. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 7 tôn giáo khác nhau đạt 35.836 người, nhiều nhất là Công giáo có 27.660 người, tiếp theo là Phật giáo có 2.120 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 25 người, đạo Tin Lành có 23 người, Phật giáo Hòa Hảo có năm người, đạo Cao Đài có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương. Văn hóa du lịch. Văn hóa. Hòa Bình là mảnh đất mà các nhà khoa học đã chứng minh có người Việt cổ sinh sống. Nơi đây đọng lại nhiều dấu ấn của một nền văn hóa rực rỡ qua việc tìm thấy 47 chiếc trống đồng cổ trong đó có trống đồng sông Đà và Miếu Môn (địa danh nay thuộc Hà Nội giáp ranh Hòa Bình) thuộc loại đẹp và cổ. Trên địa bàn tỉnh cơ bản có bảy thành phần dân tộc sinh sống. Các dân tộc vừa giữ gìn bản sắc văn hóa riêng của mình, vừa bảo tồn tính đa dạng của văn hóa các dân tộc khác trong cộng đồng. Người Tày Thái sinh sống trong tỉnh có nhiều nét giống nhau trong phong tục và sinh hoạt. Dân tộc Mường có nền văn học dân gian phong phú như: hát ví Mường với nhạc trống đồng, nhạc cồng, trường ca Đẻ đất đẻ nước... Dân tộc Thái có làn điệu dân ca Thái tính cộng đồng cao. Số ít người Mông trong tỉnh có múa khèn, múa ô... Sản phẩm rượu cần trong các dịp lễ tết, hội hè tiếp khách quý của người Mường, người Thái là nét văn hóa độc đáo không thể thiếu trong bản sắc của con người sinh sống trên mảnh đất miền hạ sông Đà. Ẩm thực. Hòa Bình là tỉnh chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng sông Hồng và vùng núi Tây Bắc, Việt Bắc, vùng Bắc Trung Bộ. Là nơi có nhiều dân tộc sinh sống nên đặc sản, ẩm thực của tỉnh rất phong phú: cơm lam Hòa Bình, cam Cao Phong, lợn mán thui luộc, chè san tuyết Pà Cò, rượu Đù Địn, bánh uôi, mận Hang Kia, gà đồi Hương Nhượng, khoai sọ Phúc Sạn, rau rừng đồ, quýt đường Ôn Châu, rượu cần Mường, tiết canh Hòa Bình, ong rừng xáo măng Mai Châu, su su Lũng Vân, rau sắn nấu chua, rượu cần, hạt dổi Lạc Sơn, cá nướng sông Đà, sâu Lạc Sơn, canh loóng chuối, mía tím Hòa Bình, quất hồng bì Kỳ Sơn, dê núi, bánh dày Hang Kia, chả rau đáu, hạt dổi Chí Đạo, khoai lang Ba Khan, măng đắng Hòa Bình, mật ong Tự Do, lợn rừng xiên nướng bản Lác, canh rau đắng Lạc Sơn, bí đao Kim Bôi, chả cuốn lá bưởi, rượu Mai Hạ, nậm pịa Mai Châu, nhãn Sơn Thủy, quả lặc lè, vịt bầu Bến, cá ngần sông Đà, mật ong Lạc Sỹ, quýt Nam Sơn, thịt trâu lá lồm, dưa bở Mỵ Hòa, thịt lợn muối chua, rau sắng, gà chạy bộ Thung Nai, ốc núi Hòa Bình, củ dong Cao Sơn, xôi nếp nương Mai Châu, gà ri Lạc Thủy, tỏi tía Thành Sơn, gà nấu măng chua hạt dổi, bưởi đỏ Tân Lạc. Giao thông. Đường bộ. Các đường giao thông quan trọng trên địa bàn tỉnh như: Các tuyến đường chính này nối với hệ thống đư­ờng nối liền các huyện, xã trong tỉnh với thị xã và với các huyện, tỉnh bạn rất thuận lợi cho giao lư­u kinh tế - xã hội. Đường thủy. Hệ thống sông ngòi thủy văn: Hòa Bình có mạng lưới sông suối phân bổ tương đối dày và đều khắp ở các huyện. Sông Đà là sông lớn nhất chảy qua tỉnh có lưu vực 15.000 km² chảy qua các huyện Mai Châu, Đà Bắc, Tân Lạc và thành phố Hòa Bình với tổng chiều dài là 151 km. Hồ sông Đà có dung tích 9,5 tỷ m3 nước nối liền với Sơn La, phần hạ l­ưu chảy qua Phú Thọ, Hà Tây thông với sông Hồng, đ­ược điều tiết n­ước bởi hồ sông Đà, tại đây có thể phát triển vận tải thủy thuận lợi, có hiệu quả; sông Bưởi bắt nguồn từ xã Phú Cường, huyện Tân Lạc, dài 55 km; sông Bôi bắt nguồn từ xã Thượng Tiến, huyện Kim Bôi, dài 125 km; sông Bùi bắt nguồn từ xã Lâm Sơn huyện Lương Sơn, dài 32 km; sông Lạng bắt nguồn từ xã Bảo Hiệu huyện Yên Thủy, dài 30 km. Kinh tế. Sức hấp dẫn du khách của Hòa Bình, một vùng đất đa dân tộc, là giá trị nhân văn đa dạng, phong phú của cộng đồng cư dân. Phong cảnh du lịch Hòa Bình. Địa hình đồi núi trùng điệp với các động thác Bờ, Hang Rết, động Hoa Tiên, vùng rừng nhiệt đới nguyên sinh Pù Noọc mở ra những tuyến du lịch mạo hiểm leo núi, đi bộ, săn bắn, tắm suối. Sức người và thiên nhiên đã tạo cho Hòa Bình một vùng hồ sông Đà thơ mộng cho phép phát triển du lịch vùng lòng hồ và ven hồ có đầy đủ vịnh, đảo và bán đảo mà ở đó động thực vật quý hiếm được bảo tồn. Thấp thoáng các bản Mường, bản Dao, bản Tày rải rác ven hồ, ven thung lũng tạo nên bức tranh sơn thủy hữu tình. Hòa Bình là một tỉnh có khá nhiều những suối nước khoáng nóng, những thung lũng hoang sơ huyền bí. Tiêu biểu nổi bật như: Những hang động thiên tạo đa dạng hình thù có đỉnh Phù Bua bốn mùa mây phủ. Có bản Nanh, bản Nưa của người Mường, người Dao và xen kẽ một số gia đình người Thái, với những mái nhà sàn cổ. Thủy điện. Hòa Bình cũng là nơi đặt Nhà máy Thủy điện Hòa Bình công suất thiết kế đạt 1.920 megawatt, được xây dựng tại hồ Hòa Bình, trên dòng sông Đà. Nhà máy Thủy điện Hòa Bình là một trong các nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và khu vực Đông Nam Á. Đây là một công trình do Liên Xô viện trợ cho Việt Nam. Công trình khởi công ngày 6 tháng 11 năm 1979, khánh thành ngày 20 tháng 12 năm 1994. Ngoài tác dụng phát điện, nhà máy này còn có chức năng ngăn lũ cho sông Hồng, cung cấp nước tưới tiêu và cải thiện giao thông đường thủy. Nông nghiệp. Nhiều vùng sản xuất hàng hóa chuyên canh nguyên liệu tập trung được phát triển và nhân rộng như: vùng cam huyện Cao Phong; vùng mía tím huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Cao phong; vùng gỗ, luồng nguyên liệu ở huyện Đà Bắc, Mai Châu; vùng lạc, đậu ở huyện Lạc Sơn, Yên Thủy; vùng cây dưa hấu ở huyện Lạc Thủy, Kim Bôi; vùng cây dược liệu ở Tân Lạc, Lạc Sơn; vùng chè ở huyện Lương Sơn, Mai Châu, Đà Bắc. Đá thủ công mỹ nghệ. Làng nghề đá thủ công mỹ nghệ Sỏi, huyện Lạc Thủy là cái nôi của những sản phẩm đồ đá nổi tiếng như bàn ghế đá, lavabo đá (chậu rửa đá), tượng đá... Với nguồn nguyên liệu đá sẵn có, cùng bàn tay điêu luyện lành nghề của những nghệ nhân hàng chục năm trong nghề các sản phẩm luôn được đánh giá cao. Làng Sỏi bao bọc những cụm KCN Phú Thành I, II và là nơi có nhiều công ty toạ lạc mang đến sự phát triển vượt bậc cho địa phương nói riêng và toàn tỉnh nói chung. Hiện nay các sản phẩm đá mỹ nghệ đã được xuất khẩu sang một số nước khu vực Đông Nam Á (Singapo, Úc), Trung Đông (israel) bởi công ty TNHH Đá Tự Nhiên Thiên An - Đơn vị cực kỳ uy tín trong lĩnh vực chế biến và khai thác đá thiên nhiên.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sơn La là một tỉnh miền núi, vùng cao, nằm ở vùng Tây Bắc Việt Nam. Năm 2018, Sơn La là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 31 về số dân, xếp thứ 40 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 49 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 63 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.242.700 người dân, GRDP đạt 47.223 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0509 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38 triệu đồng (tương ứng với 1.650 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 5,59%. Sơn La cũng là tỉnh có diện tích lớn nhất Bắc Bộ. Lịch sử. Vào thời nhà Lý, thế kỷ 11-12, vùng trung tâm tỉnh Sơn La ngày nay (gồm thành phố Sơn La, các huyện Mường La, Thuận Châu (Mường Muổi), Mai Sơn...) là khu vực lãnh thổ định cư của một vương quốc được ghi nhận trong Đại Việt sủ ký toàn thư tên là Ngưu Hống. Ngày 24 tháng 5 năm 1886, thành lập châu Sơn La (thuộc phủ Gia Hưng, tỉnh Hưng Hoá), tách từ tỉnh Hưng Hóa thành cấp tương đương với tỉnh. Thiếu tá De Chateaurochet làm Phó công sứ Sơn La. Kế nhiệm là Moulié (11/1886). Ngày 9 tháng 9 năm 1891, thuộc Đạo Quan binh 4. Ngày 27 tháng 2 năm 1892, thành lập tiểu quân khu Vạn Bú gồm 2 phủ và 8 châu, do thiếu tá Pennequin làm chỉ huy trưởng. Kế nhiệm ông là Đại uý Diguet (1893 - 1895) và thiếu tá Norminot (1895). Ngày 10 tháng 10 năm 1895, thành lập tỉnh Vạn Bú, tỉnh lỵ ở Vạn Bú (tức Tạ Bú). Lúc này M.Caillat lên thay thiếu tá Norminot làm Công sứ Pháp ở tỉnh Vạn Bú. Ngày 23 tháng 8 năm 1904, đổi tên thành tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ chuyển về nơi ngày nay là thành phố Sơn La. Công sứ Pháp đầu tiên là Jean G. Monpeyrat, lên cầm quyền thay công sứ Sévénier từ năm 1902 đến năm 1909. Kế nhiệm ông là các công sứ Pháp như Hernandez (1909 - 1911), Fillion, Bonnermain, Louis Rene, Pierre Grossin, Nempont, Romanetti, Saint Poulof (1928 - 1933), Cousseau, Gabon, Robert. Năm 1907, công sứ Monpeyrat cho xây dựng nhà tù Sơn La. Năm 1917, công sứ Pháp Laumet mở trường dạy chữ quốc ngữ và chữ Pháp. Năm 1933, công sứ Gabriel M. de Saint-Poulof (cầm quyền thay Romanetti từ năm 1928) bị đầu độc chết trong cuộc chiến đấu đòi vượt ngục của tù nhân ở Sơn La. Năm 1939, công sứ Cousseau lên thay. Năm 1944, Robert thay ông ta làm công sứ Sơn La và cai trị đến tận năm 1945. Sau năm 1946, tỉnh Sơn La cùng với hai tỉnh Lai Châu và Phong Thổ (do Pháp lập ra) lập thành "Xứ Thái tự trị"nằm dưới sự chỉ đạo của Pháp. Bạc Cầm Quý làm tỉnh trưởng Sơn La. Từ nằm 1948 đến 1953, thuộc Liên khu Việt Bắc. Lúc này tỉnh Sơn La có 6 huyện: Mường La, Thuận Châu, Phù Yên, Mai Sơn, Yên Châu, Mộc Châu. Từ năn 1953 đến 1955, Sơn La thuộc Khu Tây Bắc. Từ năm 1955 đến 1962, bỏ cấp tỉnh, thuộc Khu tự trị Thái Mèo. Từ năm 1962 đến 1975, tái lập tỉnh, thuộc Khu tự trị Tây Bắc (đổi tên từ Khu tự trị Thái Mèo), có 7 huyện: thêm huyện Quỳnh Nhai và Sông Mã, còn huyện Phù Yên chuyển sang tỉnh Nghĩa Lộ mới thành lập. Đến cuối năm 1975, tỉnh Sơn La có tỉnh lị là thị xã Sơn La và 7 huyện: Mai Sơn, Mộc Châu, Mường La, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Thuận Châu, Yên Châu. Sau khi giải thể Khu tự trị Tây Bắc, tỉnh Sơn La nhập thêm 2 huyện của tỉnh Nghĩa Lộ vừa giải thể là Phù Yên và Bắc Yên. Từ đó, tỉnh Sơn La có tỉnh lị là thị xã Sơn La và 9 huyện: Bắc Yên, Mai Sơn, Mộc Châu, Mường La, Phù Yên, Quỳnh Nhai, Sông Mã, Thuận Châu, Yên Châu. Ngày 2 tháng 12 năm 2003, chia huyện Sông Mã thành 2 huyện: Sông Mã và Sốp Cộp. Ngày 3 tháng 9 năm 2008, chuyển thị xã Sơn La thành thành phố Sơn La. Ngày 10 tháng 6 năm 2013, chia huyện Mộc Châu thành 2 huyện: Mộc Châu và Vân Hồ. Tỉnh Sơn La có 1 thành phố và 11 huyện như hiện nay. Địa lý. Vị trí và lãnh thổ. Tỉnh Sơn La có diện tích 14.174,5 km² chiếm 4,27% tổng diện tích Việt Nam, đứng thứ 3 trong số 63 tỉnh thành phố. Toạ độ địa lý: 20o37' - 22o02' vĩ độ Bắc và 103o11’ - 105o02' kinh độ Đông. Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Sơn La, nằm cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 302 km, có vị trí địa lý: Sơn La có đường biên giới quốc gia dài 250 km, chiều dài giáp ranh với các tỉnh khác là 628 km. Địa hình. Sơn La nằm cách Hà Nội 302 km trên trục Quốc lộ 6 Hà Nội - Sơn La - Điện Biên, Sơn La là một tỉnh nằm sâu trong nội địa. Tỉnh này có 3 cửa khẩu với Lào là cửa khẩu quốc tế Chiềng Khương, Cửa khẩu Lóng Sập và Nà Cài. Sơn La có độ cao trung bình 600 - 700m so với mặt biển, địa hình chia cắt sâu và mạnh, 97% diện tích tự nhiên thuộc lưu vực sông Đà, sông Mã, có 2 cao nguyên là Cao nguyên Mộc Châu và Cao nguyên Sơn La, địa hình tương đối bằng phẳng. Cùng với các tỉnh Hòa Bình, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La là mái nhà của khu vực Bắc Bộ. Địa hình phần lớn là đồi núi, trong đó các đồi núi cao tập trung ở các huyện Sốp Cộp, Thuận Châu, Bắc Yên... Sơn La có dòng sông Mã, sông Đà đi qua, phù sa từ hai con sông này đã bồi nên những thung lũng, 2 dòng sông này còn gây ra tình trạng xâm thực, sức nước mạnh khoét sâu vào các ngọn đồi, làm sụp những phần đất cao và mở rộng thung lũng ra. Phía Đông là các cao nguyên rộng lớn như cao nguyên Mộc Châu, đây là nơi có đồng cỏ lớn, là nơi chăn nuôi gia súc phù hợp. Địa hình bị chia cắt mạnh, sông suối nhiều, lắm thác ghềnh, nên đây là nơi có nguồn thủy điện dồi dào, nhà máy thủy điện Sơn La được xây dựng ở đây là nhà máy lớn nhất Đông Nam Á hiện tại. Phía Bắc và Đông là những dãy núi cao vắt ngang chắn lại các lối giao thông, vì thế đã tạo ra các đèo như đèo Pha Đin, đèo Tà Xùa, đèo Chiềng Đông, đèo Cón, đèo Lũng Lô... Khí hậu. Sơn La có khí hậu cận nhiệt đới ẩm vùng núi, mùa đông phi nhiệt đới lạnh khô, mùa hè nóng ẩm, mưa nhiều. Do địa hình bị chia cắt sâu và mạnh nên hình thành nhiều tiểu vùng khí hậu, cho phép phát triển một nền sản xuất nông - lâm nghiệp phong phú. Vùng cao nguyên Mộc Châu phù hợp với cây trồng và vật nuôi vùng ôn đới. Vùng dọc sông Đà phù hợp với cây rừng nhiệt đới xanh quanh năm. Thống kê nhiệt độ trung bình năm của Sơn La có xu hướng tăng trong 20 năm lại đây với mức tăng 0,5 °C - 0,6 °C, nhiệt độ trung bình năm của Thành phố Sơn La hiện ở mức 21,1 °C, Yên Châu 23 °C; lượng mưa trung bình năm có xu hướng giảm (thành phố hiện ở mức 1.402 mm, Mộc Châu 1.563 mm); độ ẩm không khí trung bình năm cũng giảm. Mùa mưa kết thúc khá sớm vào khoảng đầu tháng 9 và bắt đầu một mùa khô kéo dài khốc liệt đến tận cuối tháng 4 năm sau gây ra tình trạng khô hạn và thiếu nước, gió tây khô nóng vào những tháng cuối mùa khô đầu mùa mưa (tháng 4-6) là yếu tố gây ảnh hưởng tới sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Sương muối, mưa đá, lũ quét là yếu tố bất lợi. Dân số. Theo kết quả điều tra dân số ngày 1/4/2019, tỉnh Sơn La có 1.248.415 người, tổng số hộ là 289,516 hộ, nam có 632,598 người, nữ có 615,917 người. Sơn La là tỉnh đông dân nhất vùng Tây Bắc Bộ. 16.6% dân số sống ở thành thị và 83,4% dân số sống ở nông thôn. Sơn La có tổng cộng 39 dân tộc anh em, trong đó người Thái là nhiều nhất với 669,265 người, người Kinh 203,008 người, người Mông 200,480 người. Hành chính. Tỉnh Sơn La có 12 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 11 huyện; 204 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 188 xã, 7 phường và 9 thị trấn. Văn hóa, du lịch. Sơn La là tỉnh có nhiều dân tộc cư trú nên có sự đa dạng về văn hoá truyền thống, đời sống, tập tục. Sơn La có nhiều lễ hội của các dân tộc, mỗi lễ hội đều có nét đặc sắc riêng như Tết cơm mới của người Khơ Mú, Lễ hội hoa ban, Lễ hội Pang Cẩu Nỏ của dân tộc Khơ Mú, Xinh Mun; Lễ hội dâng hoa măng của người La Ha; Lễ cầu phúc của người Mường; Lễ hội xên bản, cầu mưa của người Thái, Lễ mừng măng mọc của nhiều dân tộc vùng Tây Bắc... Sơn La còn có các di tích như Nhà tù Sơn La, bảo tàng Sơn La ở thành phố Sơn La, chùa Chiền Viện ở Mộc Châu... Bên cạnh đó thiên nhiên còn tạo hóa cho Sơn La nhiều khu du lịch, khu danh thắng đẹp rất thích hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng, dã ngoại và khám phá như: Suối nước nóng Bản Mòng (Hua La), danh thắng Yên Châu, các hang Thẩm Tát, Thẩm Ké... ở Chiềng An, Bản Hìn, cao nguyên Mộc Châu, khám phá chinh phục các đỉnh núi ở Bắc Yên... Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương trong tỉnh: táo mèo Bắc Yên, bánh dày Mông, rượu chuối Yên Châu, nộm da trâu, pa tỉnh tộp, măng trúc muối ớt Háng Đồng, nhót xanh chấm chéo, mận Phiêng Khoài, canh mọ, rượu thóc men lá Hang Chú, thảo quả Bắc Yên, mẳm cá, long nhãn Chiềng Khoong, cà rừng, cá ngần sông Đà, cam Phù Yên, hoa gừng, rượu hoẵng Mộc Châu, tỏi Chiềng Đông, thịt thối, trám, pa giảng, khoai sọ Cụ Cang, bọ xít rang, chè Mộc Châu, mắc ten, nậm pịa, quýt Chiềng Cọ, canh bon, tỏi tía Phù Yên, thịt trâu gác bếp, gỏi cá Thái, na dai Mai Sơn, ốc đá suối Bàng, nộm hoa ban, gà đen Mông, vịt Chiềng Mai, ớt ngâm Na Viên, mơ Mộc Châu, rau thối, thịt chua người Dao, dưa mèo, gân bò xé Mường Tấc, hạt dổi, mắc khén, thịt dơi Chiềng Khoi, nhãn Sông Mã, xôi sắn, cháo mắc nhung, nếp tan Mường Và, đào Mộc Châu, mẳm hén, bánh gai Hát Lót, măng, xôi ngũ sắc, cá tép dầu Quỳnh Nhai, xoài tròn Yên Châu, đọt song mây, rượu cần Thái, núc nác, xôi trám, mận hậu Mộc Châu, hoa đu đủ đực, bê chao Mộc Châu, chẳm chéo, cốm Mường Tấc, rêu đá, khoai sọ Thuận Châu, chè Tà Xùa. Chè Tà Xùa Chè Tà Xùa là loại búp trắng cánh vàng xuất xứ từ xã vùng cao Tà Xùa (Bắc Yên). Chè được bà con dân tộc Mèo sao tẩm trực tiếp. Nước chè vị đắng chát khi mới nhấp nhưng lại ngọt dần. Chè Tà Xùa kén nước, tốt nhất là pha bằng nước suối vùng này, nếu dưới xuôi phải là nước khoáng đun sôi mới ngon. Thịt dơi Chiềng Khoi Tại bản người Thái, bản Hiêm, Chiềng Khoi (Yên Châu) có một hang đá là hang Dơi. Đây là hang rộng, nhiều ngách rất nhiều Dơi. Từ xưa, người Thái nơi đây đã bắt Dơi về chế biến các món ăn như: Hăm pịch kia, Lám kia... Đây là món được coi là quý hiếm để biếu cha mẹ. Theo dân gian người Thái trẻ em ăn thịt Dơi thì chóng lớn, nhanh nhẹn, người già ăn thì khỏe mạnh, kéo dài tuổi thọ. Sơn tra Sơn tra ở đây có vị đậm đà hương thơm đặc trưng. Càng lên cao, khí hậu lạnh táo mèo sơn tra càng vàng tươi, thơm hơn và có vị chua ngọt. Sơn tra tiếng dân tộc Mông gọi là Tu Di. Mùa sơn tra ra hoa, màu trắng thấp thoáng giữa khu rừng trên những dãy núi cao càng làm vẻ đẹp nơi đây thêm thi vị. Rêu Sông Mã Người Thái ở đây chế biến rêu từ những tảng đá ngầm ở thượng nguồn sông Mã (thuộc huyện Sông Mã) thành món nướng, món xào ăn vừa thơm, vừa ngọt mát. Tháng giêng, sông Mã chỉ như một con suối hiền hòa, nước mát rượi, tinh khiết, xanh trong đó cũng là bắt đầu mùa rêu, một loại đặc sản của người Thái. Kinh tế. Sơn La là một tỉnh thuộc Trung du và miền núi phía Bắc, rất khó khăn về mặt kinh tế. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) năm 2018 ước tính tăng 5,59% so với năm 2017, trong đó 6 tháng đầu năm tăng 5,62%, mức tăng trưởng năm nay tuy không đạt mục tiêu tăng trưởng 8,5% đề ra nhưng trong bối cảnh kinh tế địa phương gặp nhiều khó khăn do thời tiết và biến đổi khí hậu thì đạt được mức tăng trưởng trên cũng đã khẳng định tính đúng đắn, kịp thời, hiệu quả của các biện pháp, giải pháp được Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh chỉ đạo quyết liệt các cấp, các ngành, các địa phương cùng thực hiện. Trong mức tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp, thủy sản tăng 6,18%, đóng góp 1,40 điểm phần trăm vào tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp, xây dựng tăng 4,33%, đóng góp 1,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,33%, đóng góp 2,40 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 5,67%, đóng góp 0,35 điểm phần trăm. Trong khu vực công nghiệp và xây dựng, ngành công nghiệp tăng 3,67% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,97 điểm phần trăm vào mức tăng chung, trong đó sản xuất và phân phối điện đạt mức tăng 2,53%, đóng góp 0,57 điểm phần trăm; ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 9,87%, đóng góp 0,32 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và hoạt động xử lý rác thải, nước thải giảm 1,69%, làm giảm 0,005 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 34,66%, làm tăng 0,08 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung. Ngành xây dựng tăng trưởng khá với tốc độ 6,95%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm vào mức tăng chung. Trong khu vực dịch vụ, các ngành vẫn giữ mức tăng ổn định so với cùng kỳ năm trước đóng góp tích cực vào tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Ngành giáo dục và đào tạo chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt mức tăng 5,52% so với năm 2017, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành bán buôn và bán lẻ, sửa chữa ô tô, mô tô, xe máy năm nay có mức tăng trưởng khá cao 7,62%, đóng góp 0,43 điểm phần trăm; hoạt động của Đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội tăng 6,02%, đóng góp 0,33 điểm phần trăm; hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,27%, đóng góp 0,19 điểm phần trăm... Về cơ cấu kinh tế năm nay, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 22,28%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 33,44%; khu vực dịch vụ chiếm 38,11%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,17% (cơ cấu tương ứng của năm 2017 là 21,88%; 34,59%; 37,36%; 6,17%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, giảm tỷ trọng khu vực nông, lâm nghiệp thủy sản, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng và dịch vụ. Giao thông. Sơn La là một trong những tỉnh có hệ thống giao thông chưa đồng bộ, thiếu sót: đường bộ, đường thủy và đường hàng không. Trên toàn tỉnh có 4 tuyến đường bộ của Việt Nam: Quốc lộ 6 (AH13) mở rộng, Quốc lộ 37, Quốc lộ 43, Quốc lộ 279, Quốc lộ 32B và đường tỉnh lộ, huyện lộ. Đường thủy của Sơn La còn hạn chế chủ yếu dọc sông Đà bởi cảng Tà Hộc tại huyện Mai Sơn. Đường hàng không của tỉnh Sơn La hiện tại đã ngừng hoạt động từ năm 2004 với sân bay Nà Sản đặt tại huyện Mai Sơn, cách thành phố Sơn La khoảng 20 km. Sân bay Nà Sản hiện đang trong quá trình trùng tu và nâng cấp, dự kiến sẽ hoàn thành trước năm 2020. Mục tiêu quy hoạch đến năm 2020 là sân bay nội địa cấp 4C theo quy định Tổ chức Hàng không dân dụng quốc tế (ICAO) với mức khai thác ban đầu đạt 0,9 triệu hành khách/năm. Vận tải công cộng, đến năm 2019, Sơn La đã phát triển mạng lưới xe buýt tư nhân gồm 6 tuyến kết nối Thành phố Sơn La đi các huyện lân cận. Ngã ba Cò Nòi - Thống Nhất - 19/5 - thị trấn Hát Lót - sân bay Nà Sản - Chiềng Mung - Bệnh viện Đa khoa Sơn La khu vực Tây Bắc - ngã tư Quốc lộ 4G - Đại học Tây Bắc - Vincom Center Plaza Sơn La - Bệnh viện Đa khoa Sơn La - Bản Cá
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.499465
Địa lý & Hành chính
null
null
Wiener Linien GmbH & Co KG (viết tắt "WL", tên gốc Wiener Stadtwerke-Verkehrsbetriebe (tiếng Việt: "Nhà máy phục vụ giao thông Wien") là một công ty giao thông của thành phố Viên và một phần của "Tổng công ty cổ phần các nhà máy phục vụ công cộng Wien". Về công ty. "Công ty Wiener Linien" hiện giờ (2007) có 7772 nhân viên, khoảng 400 người ít hơn so với năm trước. Năm 2007 793 triệu khách được chở, vì vậy từ những năm 1970 số khách được tăng lên và số khách hàng hơn số năm 2005 khoảng 50 triệu. Số người có vé năm tăng lên đến 334577 người, khoảng một phần ba là người đã nghỉ hưu. 24 phần trăm là sinh viên. Tiền lãi 2994 được tăng lên một ít đến 345,2 triệu Euro. Ở Wien 36 phần trăm đường đi được đi qua những phương tiện giao thông công cộng, so với Châu Âu đó là số cao nhất. "Công ty Wiener Linien GmbH", một phần của "Wiener Linien GmbH & Co KG", là chủ của "Công ty cổ phần tàu địa phương Wien" (tiếng Đức: "Aktiengesellschaft der Wiener Lokalbahnen"). Hệ thống đường xe (2007). Độ dài của đường xe là độ tổng dài của độ dài mỗi đường xe, lúc khi có nhiều xe tàu điện đi cùng trên một đường cùng nhau số lượng của mỗi xe sẽ cũng được tính. Còn độ dài của đường dùng nói ra là bao nhiêu đường được dùng, tức là không có lần tính nhiền lần. Số khách của tàu điện ngầm đang được tăng lên rất nhiều và hệ thống được xây thêm, nhưng số khách của tàu điện lại ít đi chút và độ dài của đường xe cũng ít đi lại trong những năm cuối cùng (trước năm 2004 là 231,4 km, sau đó là 227,3 km). Độ dài hệ thống xe buýt đang cũng được tăng lên, và đướng xe buýt chủ yếu xây đến ngoài thành phố. Có đường xe buýt có công ty khác quản lý. Số thường của những đường xe ban ngày chạy trong thời gian thừ 5 đến 0 giờ 30 phút. Lúc thời gian đi làm nhiều đường xe đi trong khoảng cách 2 đến 5 phút, lúc tiếng ban đêm tàu điện ngầm đi trong khoảng cách 7,5 phút, tàu điện và xe buýt trong khoảng cách 10 đến 15 phút. Trong thời gian 0:30 đến 5 giờ đường xe ban đêm chạy trong khoảng cách 15 đến 30 phút. Theo giá cả "công ty Wiener Linien" kết hợp với "Verkehrsbund Ost-Region" (tắt "VOR", tiếng Việt: "Liên minh giao thông khu vục phía đông"). Hệ thống của "Wiener Linien" hoàn toàn nằm ở trong khu vục chúng tâm (Khu vực 100). Tàu điện ngầm. Tên "Tàu điện ngầm Wien" ("Wiener U-Bahn") có từ năm 1976, lúc khi một phần của "Tàu thành phố Wien" ("Wiener Stadtbahn") thành một đường tàu điện ngầm và lúc khi tàu U4 bắt đầu đi. 4 đường tàu được xây tiếp theo trong những bậc mở rộng khách nhau, và trong những bậc đó đường tàu đã được và đang được mở rộng. Tên của đường tàu Hệ thống tàu điện ngầm Wien hiện giờ có 5 đường tàu (U1 đến U4 và U6), độ dài la 69,5 km và có 84 bến tàu. Tàu điện. "Tàu điện Wien" có từ năm 1865, lúc khi tàu ngựa đầu tiên bắt đầu đi. Những thời kỳ tiếp theo hệ thống lớn rất nhanh. Sau thời gian chiến tranh nhiều đường xe bỏ đi để thay cho giao thông ôtô hoạc tại vì không làm ăn được tốt thay cho xe buýt. Cả lúc xây tàu điện ngầm đường xe nào chạy cùng đường của tàu điện ngầm được bỏ đi. Nhưng hệ thống tàu điện của thành phố Wien vẫn là một trong những hệ thống lớn nhất thế giới. Hiện nay 31 đường xe đi trên một hệ thống đường dài 227,3 km. Cuối cùng trong những năm tiếp theo sẽ lại có đường xe được bỏ đi tại vì công trình mở rộng của tàu điện ngầm. Hiện giờ đang có dự án mở rộng hệ thống tàu điện và xây đường xe mới. Xe buýt. Hiện nay có 42 đường xe ban ngày và 27 đường xe ban đêm dùng khoảng 500 xe buýt để chạy trên một hệ thống dài khoảng 360 km. Hàng năm có khoảng 120 triệu khách. Mỗi đường xe có một số kèm theo với chữ A, để biết đây không phải tàu điện ngầm. Còn lại có cả những đường xe công ty khác quản lý, đa số là "Công ty Dr. Richard", và trên đường xe đó vé của "Wiener Linien" được dùng. Những xe buýt đó có chữ B nếu khi hoàn toàn tự do và không được thuê.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.436842
Địa lý & Hành chính
null
null
Bão Katrina là cơn bão thứ 11 được đặt tên và bão cuồng phong thứ năm của mùa bão Bắc Đại Tây Dương 2005. Katrina là cơn bão gây thiệt hại vật chất lớn nhất, và thiệt hại nhân mạng nhiều thứ 5 trong lịch sử nước Mỹ. Bên cạnh đó, Katrina còn là xoáy thuận nhiệt đới mạnh thứ ba từng đổ bộ vào quốc gia này, sau hai cơn bão Labor Day 1935 và Camile năm 1969. Tổng cộng đã có ít nhất 1.833 người thiệt mạng, khiến Katrina trở thành cơn bão chết chóc nhất tại Hoa Kỳ kể từ bão Okeechobee 1928. Tổng thiệt hại vật chất ước tính lên tới 108 tỉ USD (2005 USD), gần gấp 4 lần cơn bão Andrew năm 1992. Sau này, bão Ike năm 2008 và Sandy 2012 cũng đã gây nhiều tổn thất hơn Andrew, nhưng cả hai đều còn kém xa Katrina. Bão Katrina có nguồn gốc từ sự tương tác giữa một sóng đông và những tàn dư của áp thấp nhiệt đới Ten trên vùng Bahamas vào ngày 23 tháng 8. Sang sáng sớm ngày hôm sau, áp thấp nhiệt đới mới hình thành đã mạnh lên thành bão nhiệt đới Katrina. Hệ thống di chuyển chủ yếu về phía Tây hướng đến Florida và mạnh lên thành một cơn bão cuồng phong chỉ sau hai giờ trước khi nó đổ bộ lên thành phố Hallandale Beach và Aventura trong ngày 25. Sau khi suy yếu trong một khoảng thời gian rất ngắn, vào ngày 26 tháng 8, Katrina tiến vào vịnh Mexico và bắt đầu tăng cường mạnh mẽ. Cơn bão đã mạnh lên đạt đến cấp 5 trong thang bão Saffir-Simpson trên vùng nước ấm ngoài khơi vịnh Mexico, nhưng sau đó nó đã suy yếu xuống thành bão cấp 3 khi nó đổ bộ lần thứ hai lên vùng Đông Nam Louisiana trong ngày 29 tháng 8. Katrina đã tàn phá nặng nề vùng duyên hải vịnh Mexico từ Trung Florida cho đến Texas, phần lớn thiệt hại là do sóng biển dâng. Tổn thất nhân mạng nghiêm trọng nhất là tại New Orleans, Louisiana, đây là những nơi đã xảy ra ngập lụt khi mà hệ thống đê bị tàn phá thảm khốc, tại rất nhiều địa điểm hàng giờ sau khi cơn bão đi vào trong đất liền. Cuối cùng 80% thành phố và những khu vực rộng xung quanh đã bị ngập, và tình trạng này vẫn còn duy trì trong nhiều tuần. Thiệt hại vật chất lớn nhất xảy ra tại các vùng ven biển, như những thị trấn bên bờ biển Mississippi; hơn 90% các khu vực này cũng đã bị ngập. Tàu thuyền, xe cộ và nhà cửa bị đẩy vào trong đất liền; nước biển thì đã lấn sâu 10–19 km (6-12 dặm) từ đường bờ biển. Sự thất bại của hệ thống bảo vệ bão tại New Orleans được xem là thảm họa công trình dân dụng tồi tệ nhất trong lịch sử nước Mỹ và nó đã thúc đẩy một vụ kiện chống lại Công binh Lục quân Hoa Kỳ (USACE), những nhà thiết kế và xây dựng hệ thống đê bắt buộc bởi Đạo luật Kiểm soát Lũ lụt 1965. Trách nhiệm cho sự thất bại và lũ lụt được gán thẳng cho Lục quân vào tháng 1 năm 2008 bởi luật sư Stanwood Duval, tòa án địa phương Hoa Kỳ, nhưng cơ quan liên bang không chịu trách nhiệm về tài chính vì quyền miễn tố trong Đạo luật Kiểm soát Lũ lụt 1928. Đã có một cuộc điều tra về những phản ứng từ liên bang, tiểu bang và các chính quyền địa phương, dẫn đến sự từ chức của giám đốc Cơ quan Quản lý Khẩn cấp Liên bang (FEMA) Michael D. Brown và giám đốc Sở Cảnh sát New Orleans (NOPD) Eddie Compass. Ngoài ra còn rất nhiều những quan chức chính phủ đã bị chỉ trích vì những phản ứng của họ, đặc biệt là Thị trưởng New Orleans Ray Nagin, Thống đốc Louisiana Kathleen Blanco, và Tổng thống George W. Bush. Một vài cơ quan bao gồm Tuần duyên Hoa Kỳ (USCG), Trung tâm Bão Quốc gia (NHC), và Cơ quan Thời tiết Quốc gia đã được ngợi khen. Họ cung cấp những dự báo theo dõi chính xác về cơn bão với những khoảng thời gian đầy đủ và hợp lý. Lịch sử khí tượng. Bão Katrina phát triển từ áp thấp nhiệt đới 12L trên vùng Đông Nam Bahamas vào ngày 23 tháng 8 năm 2005, kết quả từ sự tương tác giữa một sóng đông và những tàn dư của áp thấp nhiệt đới Ten. Hệ thống dần mạnh lên thành bão nhiệt đới Katrina vào sáng sớm ngày 24 tháng 8. Cơn bão di chuyển hướng đến Florida, và đạt cấp độ bão cuồng phong chỉ hai giờ trước khi nó đổ bộ vào địa điểm giữa Hallandale Beach và Aventura trong sáng sớm ngày 25 tháng 8. Katrina suy yếu trên đất liền, nhưng đã mạnh trở lại thành bão cuồng phong chỉ một giờ sau khi đi vào vịnh Mexico, và nó tiếp tục mạnh thêm trên vùng nước ngoài khơi. Vào ngày 27 tháng 8, Katrina đạt cấp độ 3 trong thang bão Saffir-Simpson, trở thành cơn bão lớn thứ ba của mùa bão. Sau đó, một chu trình thay thế thành mắt bão làm gián đoạn quá trình tăng cường độ, nhưng đã giúp cơn bão tăng kích thước lên gần gấp đôi. Trên vịnh Mexico, Katrina tăng cường mạnh mẽ, từ bão cấp 3 lên thành bão cấp 5 chỉ trong vòng 9 tiếng. Nguyên nhân giúp Katrina mạnh lên rất nhanh là nhờ nhiệt độ nước biển trên bề mặt của dòng lặp trong vịnh ấm bất thường. Trong sáng sớm ngày 28 tháng 8 Katrina mạnh lên thành bão cấp 5 và đạt đỉnh vào thời điểm 18.00 UTC cùng ngày, với vận tốc gió duy trì liên tục trong một phút tối đa 175 dặm/giờ (280 km/giờ) và áp suất trung tâm tối thiểu 902 mbar (26,6 inHg). Trị số áp suất đo được này giúp Katrina trở thành cơn bão Đại Tây Dương mạnh thứ tư từng được ghi nhận trong lịch sử vào thời điểm đó; đồng thời là cơn bão mạnh nhất từng ghi nhận được trên vịnh Mexico. Tuy nhiên, vị trí thứ 4 đã bị đẩy lùi xuống thứ 6 bởi bão Rita và bão Wilma sau này trong mùa bão; và kỷ lục bão mạnh nhất trên vịnh Mexico cũng bị phá vỡ bởi Rita. Tiếp theo Katrina suy yếu và đổ bộ lên địa điểm gần Buras-Triumph, Louisiana vào thời điểm 1110 UTC ngày 29 tháng 8 với cường độ bão cấp 3 cùng vận tốc gió 125 dặm/giờ (200 km/giờ). Tại thời điểm đổ bộ, trường gió bão cuồng phong (≥ 75 dặm/giờ) trải rộng 120 dặm (190 km) từ tâm bão ra phía ngoài, áp suất tối thiểu khi đó là 920 mbar (27 inHg). Sau khi di chuyển qua vùng Đông Nam Louisiana và eo Breton, cơn bão đổ bộ lần thứ ba gần biên giới Louisiana–Mississippi với vận tốc gió 120 dặm/giờ (190 km/giờ), vẫn ở cường độ bão cấp 3. Katrina đã duy trì cường độ ổn định khi tiến vào Mississippi, cuối cùng suy yếu thành bão nhiệt đới trên khu vực gần Meridian, Mississippi khi đã đi sâu được 150 dặm (240 km) vào trong đất liền. Katrina tiếp tục giảm cấp xuống còn áp thấp nhiệt đới trên khu vực gần Clarksville, Tennessee, nhưng những tàn dư của nó có thể nhận ra lần cuối cùng trên vùng Đông Ngũ Đại Hồ trong ngày 31 tháng 8, thời điểm mà nó bị hấp thụ bởi một front lạnh. Kết quả tạo ra một cơn bão ngoại nhiệt đới di chuyển nhanh chóng theo hướng Đông Bắc và tác động đến vùng miền Đông Canada. Chuẩn bị. Chính quyền Liên bang. Lực lượng Tuần duyên Hoa Kỳ đã bắt đầu định vị trước một vòng tròn xung quanh khu vực tác động dự kiến và huy động hơn 400 quân nhân dự bị. Vào ngày 27 tháng 8, họ sơ tán tất cả nhân viên ra khỏi vùng New Orleans trước khi có lệnh di tản bắt buộc. Những đội bay từ Trung tâm Huấn luyện Hàng không lưu động cũng tổ chức những chiếc máy bay cứu hộ từ Texas đến Florida. Tất cả máy bay đều hướng đến vịnh Mexico vào chiều ngày 29 tháng 8. Những phi đội bay, nhiều người trong số họ đã mất nhà cửa trong cơn bão, bắt đầu những hoạt động cứu trợ bất kể ngày đêm tại New Orleans, và dọc theo vùng duyên hải Mississippi và Alabama. Tổng thống Hoa Kỳ George W. Bush đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp tại các khu vực Louisiana, Alabama và Mississippi trong ngày 27 tháng 8. "Trong ngày Chủ nhật, 28 tháng 8, Tổng thống Bush đã trao đổi với Thống đốc Blanco và khuyến khích bà đề ra lệnh di tản bắt buộc tại New Orleans." Tuy nhiên, trong lời dẫn chứng của cựu giám đốc Cơ quan Quản lý Tình trạng Khẩn cấp Liên bang Michael Brown trước tiểu ban Hạ viện trong ngày 29 tháng 9, dân biểu Stephen Buyer đã tra vấn tại sao trong tuyên bố tình trạng khẩn cấp của Tổng thống Bush vào ngày 27 lại không bao gồm các quận (hạt) duyên hải Orleans, Jefferson và Plaquemines. Trên thực tế tuyên bố không bao gồm bất kỳ quận ven biển Louisiana nào, trong khi các quận ven biển được tuyên bố cho vùng Mississippi và Alabama. Brown trần tình rằng đó là vì Thống đốc Louisiana Blanco đã không đưa các quận vào yêu cầu viện trợ ban đầu của bà, một quyết định khiến ông cảm thấy sốc. Sau khi lắng nghe, Blanco đưa ra bản sao chép bức thư của mình, trong đó trình bày rằng bà đã yêu cầu trợ giúp cho "tất cả các quận Đông Nam bao gồm thành phố New Orleans" cũng như tên của 14 quận đặc biệt được dự kiến sẽ hứng chịu tổn thất lớn; có Jefferson, Orleans và Plaquemines. Ảnh hưởng. Nam Florida. 12 người bị thiệt mạng tại Nam Florida, bao gồm ba người ở Quận Broward, một ở Quận Miami-Dade, và bốn ở thành phố Miami. Hơn một triệu người bị cúp điện, và chi phí thiệt hại từ 1 đến 2 tỷ đô la Mỹ. Đông Nam Louisiana. Thành phố New Orleans phải ra lệnh sơ tán lần đầu tiên trong lịch sử, vì 70% diện tích của thành phố nằm dưới mực nước biển, và sóng cồn dự kiến đạt độ cao kỷ lục là 8 mét trên mức thủy triều thông thường. Thiết bị đo sóng trên biển ghi nhận sóng đạt đến 11 mét trước khi nó ngừng hoạt động. Các kế hoạch để giảm thảm họa đã hoạt động hết công suất tại những khu vực bị ảnh hưởng. Một số chuyên gia phỏng đoán khoảng một triệu người đã mất nhà vì bão tố. State Farm Insurance và những công ty bảo hiểm khác ước lượng chi phí thiệt hại bảo hiểm đã lên đến 25 tỷ đô la. May mắn cho phần nhiều của New Orleans, cơn bão này không thảm họa đến độ như các nhà khí tượng học dự báo, tại vì bão Katrina quay phải vào đúng lúc và quanh mắt bão vượt qua New Orleans cách 16–24 km. Dù là các phóng viên cho rằng sóng bão vượt qua bờ đê, nó lên chậm và ổn định, cho nên phần nhiều của hệ thống bờ đê giữ thẳng, nhưng mà nhiều máy bơm nước bị cúp điện, và một đê của Hồ Pontchartrain bị bể, làm 80% của thành phố New Orleans lụt, có chỗ bị lụt gần 8 mét, nhất là vào vùng đông của thành phố. Hai quận Jefferson và Plaquemines phải tuyên bố thiết quân luật. Các khu vực khác. Miền nam của tiểu bang Mississippi bị tàn phá kinh khủng. Hai thành phố Gulfport và Biloxi bị mưa và sóng lụt, và những sòng bạc trên nước đã bị mang khỏi nước biển và lên đất liền. Phần nhiều của những người bị thiệt mạng ở Biloxi. Ở Mobile, Alabama, Vịnh Mobile đổ nước vào phố sâu 60–90 cm. Hơn 110.000 người bị cúp điện ở Alabama, và có người báo cáo có bão táp gần Brewton, Alabama. Miền tây của tiểu bang Georgia bị mưa lụt, gió thổi, và vài bão táp ở ba quận Polk, Heard, và Carroll. Tại tiểu bang Tennessee, gần 75.000 người bị cúp điện vào hai khu vực Memphis và Nashville. Khu vực Hopkinsville đã bị mưa lụt dữ. Nhiều căn nhà bị lụt và một trường trung học bị sụp xuống một phần ở Quận Christian. Tại Quận Warren ở tiểu bang Ohio, Katrina có thể đã gây ra một lốc xoáy EF0, làm gãy vài cây cối. Số người bị thiệt mạng. Bảng bên phải liệt kê số người bị thiệt mạng đã được xác nhận tại những khu vực bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, số tử thương được ước lượng có thể nhiều hơn, nhất là ở New Orleans, nhưng các giới chức đã quan tâm đến việc cứu những người đang sống, thay vì đếm những người bị thiệt mạng. Vào ngày 31 tháng 8, thị trưởng New Orleans Ray Nagin cho rằng số người bị thiệt mạng do bão chắc tới hàng ngàn. Liên kết ngoài. Tiếng Anh: Tin tức địa phương. Những cung cấp ("stream") trên Internet chiếu tin tức từ những đài TV địa phương: "Những địa chỉ bắt đầu với "codice_7" liên kết thẳng đến cung cấp, được liệt kê ở đây để cho những người không dùng Microsoft Windows. Những người dùng Linux có thể sử dụng trình nhạc mplayer để coi những cung cấp này. Phần nhiều được Akamai truyền lại cho mọi người."
17
17_bão_cơn_đới_nhiệt
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bắc Giang là một tỉnh trung du thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Đây là tỉnh nằm trong quy hoạch vùng thủ đô Hà Nội. Bắc Giang chiếm phần lớn diện tích của vùng Kinh Bắc xưa và có nền văn hoá phong phú, đặc trưng của Kinh Bắc, là một trong những cái nôi của Dân ca Quan họ với 23 làng quan họ cổ được UNESCO công nhận. Tỉnh lỵ là thành phố Bắc Giang, cách trung tâm thủ đô Hà Nội 50 km. Năm 2022, dân số của Bắc Giang ước đạt 1,891 triệu người, là tỉnh đông dân nhất và có quy mô kinh tế đứng đầu vùng Trung du và miền núi phía Bắc.Bắc Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân, xếp thứ 13/63 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ước tính 2022 GRDP đạt gần 155.900 tỉ Đồng( GRDP bình quân đầu người đạt 3.400 USD). Năm 2022 Bắc Giang có tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 19,3 % xếp thứ 02 toàn quốc Địa lý. Bắc Giang là một tỉnh thuộc vùng đông bắc Bắc Bộ, có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Bắc Giang:. Bắc Giang có diện tích tự nhiên 3.825,75 km², chiếm 1,2% diện tích tự nhiên của Việt Nam. Theo tài liệu năm 2000, trong tổng diện tích tự nhiên của Bắc Giang, đất nông nghiệp chiếm 32,4%; đất lâm nghiệp có rừng chiếm 28,9%; còn lại là đồi núi, sông suối chưa sử dụng và các loại đất khác. Bắc Giang có địa hình trung du và là vùng chuyển tiếp giữa vùng núi phía bắc với châu thổ sông Hồng ở phía nam. Tuy phần lớn diện tích tự nhiên của tỉnh là núi đồi nhưng nhìn chung địa hình không bị chia cắt nhiều. Phía bắc và phía đông nam của tỉnh là vùng rừng núi cao từ 300m - 900 m. Vùng đồi núi thấp và đồng bằng trung du nằm kẹp giữa hai dãy núi hình cánh cung là cánh cung Đông Triều phía ở phía đông nam và và cánh cung Bắc Sơn ở phía tây - bắc. Cánh cung Đông Triều với dãy núi Yên Tử, cao trung bình 300–900 m so với mặt biển, trong đó đỉnh cao nhất là 1.068 m. Tại vùng núi phía đông bắc tỉnh, giáp với Quảng Ninh có khu rừng nguyên sinh Khe Rỗ rộng 7153 ha với hệ động vật và thực vật phong phú, bao gồm 236 loài cây thân gỗ, 255 loài cây dược liệu, 37 loài thú, 73 loài chim và 18 loài bò sát. Trên địa bàn Bắc Giang có 374 km sông suối, trong đó ba sông lớn là sông Lục Nam, sông Thương và sông Cầu. Sông Lục Nam chảy qua vùng núi đá vôi nên quanh năm nước trong xanh. Sông Thương bắt nguồn từ hai vùng có địa hình và địa chất khác nhau nên nước chảy đôi dòng: bên đục, bên trong. Ngoài sông suối, Bắc Giang còn có nhiều hồ, đầm, trong đó có hồ Cấm Sơn và Khuôn Thần. Hồ Cấm Sơn nằm ở khu vực giáp tỉnh Lạng Sơn, dài 30 km, nơi rộng nhất 7 km và chỗ hẹp nhất 200m. Hồ Cấm Sơn có diện tích mặt nước 2.600 ha, vào mùa mưa có thể lên tới 3.000 ha. Hồ Khuôn Thần có diện tích mặt nước 240 ha và lòng hồ có 5 đồi đảo được phủ kín bởi rừng thông 20 tuổi. Người ta có thể dạo chơi trên hồ Khuôn Thần bằng thuyền đạp chân hoặc thuyền gắn máy, vừa cùng người Sán Chỉ, Cao Lan, Nùng bản địa hát soong hao, vừa thưởng thức những sản phẩm độc đáo của địa phương như hạt dẻ, mật ong và rượu tắc kè. Dân cư. Theo điều tra dân số tính đến 0h ngày 01 tháng 4 năm 2019, dân số Bắc Giang có 1.803.950 người, với mật độ dân số 463 người/km², gấp 1,5 lần mật độ dân số bình quân của cả nước. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là 23,9%. Tỉnh Bắc Giang là tỉnh đông dân thứ 12 cả nước và đông dân nhất vùng trung du và miền núi phía Bắc với 1,80 triệu dân. Trên địa bàn Bắc Giang có 6 dân tộc cùng sinh sống, trong đó đông nhất là người Kinh, chiếm 88,1% dân số toàn tỉnh, tiếp đến là người Nùng chiếm 4,5%; người Tày 2,6%; người Sán Chay và người Sán Dìu, mỗi dân tộc 1,6%; người Hoa 1,2%; người Dao 0,5%. Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,95% dân số, nữ giới khoảng 50,05% dân số. Số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 62,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề chiếm 28%; số hộ nghèo chiếm 7.2%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 8 tôn giáo khác nhau đạt 38.913 người, nhiều nhất là Công giáo có 36.269 người, tiếp theo là Phật giáo có 2.607 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 16 người, Hồi giáo có 10 người, Phật giáo Hòa Hảo có năm người, đạo Cao Đài có ba người, Minh Lý đạo có hai người và 1 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương. Lịch sử. Thời vua Hùng dựng nước Văn Lang liên bộ lạc, Bắc Giang thuộc bộ Võ Ninh. Đời Lý - Trần gọi là lộ Bắc Giang. Đời Lê, đây là phủ Bắc Hà, năm 1822 đổi là phủ Thiên Phúc, đến đời Tự Đức là phủ Đa Phúc. Từ ngày 5 tháng 11 năm 1889 đến ngày 9 tháng 9 năm 1891 đã tồn tại tỉnh Lục Nam. Tỉnh Lục Nam gồm các huyện Bảo Lộc, Phượng Nhỡn, Lục Nam, Hữu Lũng (tách từ phủ Lạng Giang, tỉnh Bắc Ninh, ở bên tả ngạn sông Thương) và huyện Yên Bái (tách từ tỉnh Lạng Sơn). Năm 1891 sau khi trả hai huyện Bảo Lộc và Phượng Nhỡn cho tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Lục Nam bị xóa bỏ để nhập vào Đạo Quan binh I. Tỉnh Bắc Giang được thành lập ngày 10 tháng 10 năm 1895, tách từ tỉnh Bắc Ninh, bao gồm phủ Lạng Giang, phủ Đa Phúc và các huyện Kim Anh, Yên Dũng, Phượng Nhỡn, Việt Yên, Hiệp Hòa, Yên Thế và một số tổng nằm ở phía nam sông Lục Nam. Tỉnh lỵ là Phủ Lạng Thương (nay là thành phố Bắc Giang). Năm 1896, phủ Đa Phúc và huyện Kim Anh được trả lại cho tỉnh Bắc Ninh. Năm 1950, tỉnh Bắc Giang thuộc Liên khu Việt Bắc (1949-1956) và gồm 7 huyện: Hiệp Hoà, Lục Ngạn, Yên Thế, Lạng Giang, Việt Yên, Yên Dũng, Hữu Lũng. Ngày 22 tháng 2 năm 1955, huyện Sơn Động từ tỉnh Quảng Yên trả về tỉnh Bắc Giang. Ngày 1 tháng 7 năm 1956, khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc, huyện Hữu Lũng sáp nhập vào tỉnh Lạng Sơn thuộc Khu tự trị Việt Bắc. Đồng thời, huyện Phú Bình thuộc tỉnh Thái Nguyên được nhập vào tỉnh Bắc Giang, nhưng đến ngày 15 tháng 6 năm 1957 lại trả về tỉnh Thái Nguyên. Ngày 21 tháng 1 năm 1957, thành lập huyện Lục Nam từ một số xã của các huyện Yên Dũng, Lạng Giang, Lục Ngạn, Sơn Động và 3 xã của huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Ngày 6 tháng 11 năm 1957, chia huyện Yên Thế thành 2 huyện: Yên Thế và Tân Yên. Năm 1959, đổi tên thị xã Phủ Lạng Thương thành thị xã Bắc Giang. Ngày 27 tháng 10 năm 1962, Bắc Giang nhập với Bắc Ninh thành tỉnh Hà Bắc và đến ngày 1 tháng 1 năm 1997 lại tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Bắc Giang có tỉnh lị là thị xã Bắc Giang và 9 huyện: Hiệp Hòa, Lạng Giang, Lục Nam, Lục Ngạn, Sơn Động, Tân Yên, Việt Yên, Yên Dũng, Yên Thế. Ngày 03 tháng 5 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 130-HĐBT về điều chỉnh địa giới các huyện Tiên Sơn, Quế Võ, Việt Yên, Lạng Giang và hai thị xã Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc. Ngày 7 tháng 6 năm 2005, chuyển thị xã Bắc Giang thành thành phố Bắc Giang. Tỉnh Bắc Giang có 1 thành phố và 9 huyện như ngày nay. Văn hóa. Văn hóa Bắc Giang có các điểm đặc trưng sau: Người dân Bắc Giang tự hào là cái nôi của quan họ cổ với 23 làng ven sông Cầu, tồn tại như một sự kết duyên song song với quan họ ở Bắc Ninh. Đất quan họ Bắc Giang còn là nơi có tục kết chạ từ lâu đời đến nay vẫn tồn tại trong cuộc sống cộng đồng, có đóng góp tích cực làm đẹp thêm đời sống xã hội. Bắc Giang có chùa Vĩnh Nghiêm (Yên Dũng) - cái nôi đào tạo Phật pháp thiền phái Trúc Lâm; chùa Bổ Đà (Việt Yên) phản ánh tính chất cổ kính gần với phật giáo Ấn Độ, đình Lỗ Hạnh (Hiệp Hòa) được dựng vào cuối thế kỷ XVI từng được mệnh danh là "Đệ nhất Kinh Bắc". Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trên địa bàn Bắc Giang cách đây khoảng hai vạn năm có người thời đại đồ đá khai phá, sinh sống ở đây. Điều đó được thể hiện qua các di chỉ Bố Hạ (Yên Thế), Chũ, Cầu Cát (Lục Ngạn), Khe Táu, An Châu (Sơn Động). Thời gian tiếp theo các nhà khảo cổ cũng tìm thấy con người thời đại đồ đá mới sinh sống trên vùng đất này qua di chỉ Mai Sưu (Lục Nam), thời đại đồ đồng qua di chỉ Đông Lâm (Hiệp Hòa). Ở Bắc Giang có lễ hội vật cầu nước ở làng Vân (Việt Yên), lế hội đình Cầu Vồng (Tân Yên, lễ hội làng Thổ Hà (Việt Yên), lễ hội Yên Thế (Yên Thế) và lễ hội chùa Tiên Lục (Lạng Giang) được đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Hành chính. Tỉnh Bắc Giang có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 9 huyện với 209 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 phường, 17 thị trấn và 182 xã. Kinh tế. Nằm trên tuyến hành lang kinh tế Nam Ninh (Trung Quốc) - Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng, liền kề vùng kinh tế trọng điểm phía bắc, Bắc Giang rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các nước trong khu vực. Bắc Giang đã quy hoạch và triển khai 6 khu công nghiệp diện tích 1462 ha, 38 cụm công nghiệp với tổng diện tích hơn 1208 ha, trong đó có 5 khu công nghiệp đang thu hút các nhà đầu tư thứ cấp. Mới đây vào ngày 23/2/2021 chính phủ cho phép thành lập thêm 3 KCN ở Yên Dũng, Lục Nam,Lạng Giang và mở rộng 3 KCN Quang Châu, Hòa Phú, Việt Hàn với tổng diện tích hơn 1.100 ha Các khu công nghiệp hầu hết tập trung ở các huyện Việt Yên, Yên Dũng, Hiệp Hòa...Được quy hoạch liền kề nhau, nằm dọc theo đường quốc lộ 1A Hà Nội - Lạng Sơn, gần với các đô thị lớn, thuận lợi cả về đường bộ, đường sông, đường sắt và đường hàng không và các cảng sông, cảng biển. Cách thủ đô Hà Nội khoảng 40–50 km, Sân bay quốc tế Nội Bài 50 km; Cảng Hải Phòng khoảng 110 km và cách cửa khẩu Hữu Nghị Quan 120 km, có hệ thống hạ tầng tương đối hoàn chỉnh; thuận lợi cả về hệ thống cung cấp điện, nước, bưu chính viễn thông. Các khu công nghiệp đó là: 3 KHU CÔNG NGHIỆP MỚI Ngoài các khu công nghiệp trên, hiện nay tỉnh Bắc Giang dự kiến quy hoạch một số khu, cụm công nghiệp khác, tập trung ở các huyện Yên Dũng, Việt Yên, Hiệp Hoà và Lạng Giang... Mục tiêu đến 2030 tỉnh có 27 KCN điện tích khoảng 9000 ha và 69 CCN diện tích gần 3000 ha. Bắc Giang đang nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; ưu tiên đầu tư kết cấu hạ tầng các khu, cụm công nghiệp; quan tâm đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp và đặc biệt chú trọng cải cách thủ tục hành chính theo hướng đảm bảo công khai, minh bạch với cơ chế "một cửa liên thông", nhà đầu tư chỉ cần đến một địa chỉ là Ban quản lý các Khu công nghiệp hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư là được cấp giấy chứng nhận đầu tư, mã số thuế và con dấu. Tính đến tháng 1/2021 Bắc Giang đã thu hút được 1304 dự án đầu tư trong nước với số vốn đăng ký 91.505 tỷ đồng và 472 dự án FDI với số vốn đăng ký hơn 7,7 tỷ USD. Bắc Giang đang trở thành một trong những trung tâm công nghiệp lớn của miền Bắc và cả nước. Kinh tế - xã hội. NĂM 2020 NĂM 2021 MỤC TIÊU 2021-2025 Văn hóa. Ẩm thực. Danh sách đặc sản và ẩm thực ở Bắc Giang còn bao gồm nhiều món như bánh đúc Đồng Quan, khoai sọ Lục Nam, chè kho Mỹ Độ, mì gạo Châu Sơn, rượu men lá Kiên Thành, cua da Yên Dũng, rau cần Hoàng Lương, gạo thơm Yên Dũng, củ đậu Lục Nam, gỏi cá mè Lý Viên, vải thiều Lục Ngạn, mì gạo Kế và bánh đa nướng Kế. Nghệ thuật chèo ở Bắc Giang. Bắc Giang là vùng đất thuộc tứ chiếng chèo gốc, một trong những cái nôi của các làn điệu chèo cổ. Trong bảy vị tổ chèo từ thời Đinh đến thời Lý được Lương Thế Vinh chép trong "Hý phường phả lục" gồm Phạm Thị Trân, Đào Văn Só, Đặng Hồng Lân, Đào Hoa, Từ Đạo Hạnh, Sái Ất, Chính Vịnh Càn thì có hai vị ở chiếng chèo xứ Bắc là Đào Hoa ở lộ Bắc Giang và Sái Ất ở phủ Từ Sơn. Bắc Giang là đất chèo có tiếng xứ Bắc. Ngoài đặc điểm chung, chèo Bắc Giang còn có nét riêng khi mang âm hưởng đậm nét của vùng trung du miền núi, từ phong cách biểu diễn đến lời ca đều khỏe khoắn và mộc mạc hơn. Những năm 80 của thế kỷ trước, khi sáng tác làn điệu chèo, các nhạc sĩ thường sử dụng chất liệu dân ca quan họ và gần đây còn khai thác dân ca dân tộc thiểu số như hát then, hát ví. Bắc Giang có trên 500 lễ hội truyền thống, được coi là đất diễn cho các chiếu Chèo phát triển phong phú như: làng Đồng Quan (Yên Dũng); làng Then (Lạng Giang); làng Hoàng Mai (Việt Yên); làng Bắc Lý (Hiệp Hòa)... Yên Dũng có làng Đồng Quan, xã Đồng Sơn là làng có truyền thống hát chèo từ xa xưa, đến nay đội chèo có 18 người cả diễn viên và nhạc công do bà Khổng Thị Tiêu phụ trách; Đội chèo làng Đồng Nhân, xã Đồng Phúc vốn là làng chèo truyền thống, có 14 người do ông Nguyễn Khánh Dư làm đội trưởng. Làng chèo Dốc Sở xã Đồng Sơn có 13 người do ông Nguyễn Văn Dương làm đội trưởng; Làng chèo Tân Ninh xã Tư Mại, đây là làng chèo cổ, có 20 người do ông Lưu Xuân Đức phụ trách. Từ năm 2004 huyện Yên Dũng còn thành lập các câu lạc bộ chèo như: Câu lạc bộ “Chiếu chèo quê” do ông Nguyễn Văn Đán làm chủ nhiệm, CLB có 24 người tập hợp từ các xã trong huyện. CLB Đồng Tiến Đức có 50 người là hội viên, CLB thôn Đồng Nhân xã Đồng Phúc do ông Nguyễn Văn Toàn làm chủ nhiệm. Hầu hết các đội chèo và CLB đều duy trì và phát triển đội ngũ nhạc công của dàn nhạc dân tộc. Huyện Yên Dũng là nơi có những làng chèo truyền thống như: Tân Độ (xã Tân Liễu); Đồng Nhân (xã Đồng Phúc); Tân Ninh, Bắc Am (xã Tư Mại)... Từ năm 2005 đến nay, Yên Dũng đã thành lập được 6 CLB chèo, khôi phục 6 làng chèo truyền thống, thu hút hàng trăm người tham gia. Không chỉ có các CLB hoạt động ở thôn, xã, Yên Dũng còn thành lập mô hình cấp huyện với gần 20 thành viên thường xuyên hoạt động tại CLB chèo Yên Dũng. Năm 2007, huyện Yên Dũng đã tổ chức Liên hoan Tiếng hát chèo lần thứ nhất. Tham gia hội diễn có 21 câu lạc bộ của 21 làng, với hàng trăm diễn viên và nhạc công không chuyên. Huyện Việt Yên: Có các làng chèo cổ và nay còn một số đội được duy trì ở mức độ hát và dựng các tiểu phẩm mới như: Hoàng Mai (xã Hoàng Ninh); làng Mỏ Thổ (xã Minh Đức); Làng Trung Đồng (xã Vân Trung); làng Kiểu (xã Bích Sơn), làng Vân (xã Vân Hà)... Huyện Tân Yên: Làng Dương Lâm (xã An Dương), đội chèo xã Ngọc Châu; làng Hạ (xã Cao Thượng), riêng làng Hạ vẫn là làng chèo truyền thống, đến nay vẫn duy trì và hoạt động. Đội chèo có 30 người cả diễn viên và nhạc công do ông Trọng Nguyên làm đội trưởng. Huyện Lạng Giang: Làng An Lạc (xã Quang Thịnh) do ông Khải làm đội trưởng; làng Then (xã Thái Đào) do ông Nguyễn Văn Khoa làm đội trưởng (đội có 20 người vừa hát chèo, sử dụng nhạc cụ dân tộc, vừa có dàn nhạc viôlông); làng Liên Sơn (xã Tân Dĩnh) do bà Ngô Thị Liên 70 tuổi làm đội trưởng; và làng Chuông Vàng (xã Tân Hưng). Ở Lạng Giang còn duy trì hát chèo là chủ yếu, ít dựng các trích đoạn truyền thống. Tuy vậy còn giữ được dàn nhạc dân tộc khá phong phú.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Trong địa mạo học, một col là một điểm thấp nhất trên một sườn núi giữa hai đỉnh . Nó cũng có thể được gọi là một gap . Đặc biệt gồ ghề và cấm cols trong địa hình thường được gọi là rãnh . Chúng thường không phù hợp khi đi qua núi, nhưng đôi khi bị cắt ngang bởi các con đường hoặc con đường của người leo núi. Thuật ngữ col có xu hướng được liên kết nhiều hơn với núi hơn là các dãy đồi. Chiều cao của một đỉnh trên col cao nhất của nó (được gọi là phần lồi địa hình ) thực sự là thước đo cho sự nổi bật về địa hình của một ngọn núi. Cols nằm trên dòng nước đầu nguồn giữa hai ngọn núi, thường trên một sườn núi hoặc arête nổi bật. Ví dụ, col cao nhất ở Áo, "Obere Glocknerscharte" ("Upper Glockner Col", 3.766   m   (AA) ), nằm giữa Kleinglockner ( 3.783   m   trên mực nước biển (AA) ) và Großglockner ( 3.798   m   trên mực nước biển (AA) ), tạo cho Kleinglockner sự nổi bật tối thiểu là 17   mét. Phần lớn các col không được đặt tên và không bao giờ được chuyển tiếp hoặc chỉ được giao cắt trong quá trình vượt qua một đường sườn núi. Nhiều đỉnh núi đôi được phân tách bằng col nổi bật. Sự khác biệt với các tên khác cho các quãng nghỉ trong các rặng núi như yên xe, khe gió hoặc rãnh không được xác định rõ ràng và có thể thay đổi từ nơi này sang nơi khác.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.985513
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Tĩnh là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc khu vực Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Năm 2018, Hà Tĩnh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 25 về số dân, xếp thứ 33 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 27 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ nhất về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,2 triệu người, số liệu kinh tế - xã hội thống kê GRDP đạt 63.236 tỉ Đồng (tương ứng với 2,83 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 49,50 triệu đồng (tương ứng với 2.150 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 20,8%. Trước đây, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là một miền đất có cùng tên chung là Hoan Châu (trước thời Nhà Lý), Nghệ An châu (thời Lý, Trần), xứ Nghệ (năm 1490, đời vua Lê Thánh Tông), rồi trấn Nghệ An. Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành hai tỉnh: Nghệ An (bắc sông Lam) và Hà Tĩnh (nam sông Lam). Năm 1976, Hà Tĩnh sáp nhập với Nghệ An, lấy tên là Nghệ Tĩnh. Năm 1991, Quốc hội Việt Nam khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Nghệ Tĩnh, tái lập tỉnh Nghệ An và tỉnh Hà Tĩnh. Địa lý. Vị trí. Hà Tĩnh trải dài từ 17°54’ đến 18°37’ vĩ Bắc và từ 106°30’ đến 105°07’ kinh Đông. Nằm cách thủ đô Hà Nội 345 km về phía nam. Có vị trí địa lý: Địa hình. Phía đông dãy Trường Sơn với địa hình hẹp, dốc và nghiêng từ tây sang đông, độ dốc trung bình 1,2%, có nơi lên đến 1,8%. Lãnh thổ chạy dài theo hướng tây bắc - đông nam và bị chia cắt mạnh bởi các sông suối nhỏ của dãy Trường Sơn với nhiều dạng địa hình chuyển tiếp, xen kẻ lẫn nhau. Sườn Đông của dãy Trường Sơn nằm ở phía tây, có độ cao trung bình 1500 mét, đỉnh Rào Cọ 2.235 mét, phía dưới là vùng đồi thấp giống bát úp, tiếp nữa là dải đồng bằng nhỏ hẹp chạy ra biển có độ cao trung bình 5 mét và sau cùng là dãy cát ven biển bị nhiều cửa lạch chia cắt. Tỉnh Hà Tĩnh được chia làm bốn loại địa hình cơ bản gồm: Khí hậu. Hà Tĩnh nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, mưa nhiều. Ngoài ra, Hà Tĩnh còn chịu ảnh hưởng của khí hậu chuyển tiếp giữa miền Bắc và miền Nam, vì những cơn gió lạnh từ miền Bắc đổ vào và thời tiết ấm áp của miền Nam nữa. Với đặc trưng khí hậu nhiệt đới điển hình của miền Nam và có một mùa đông giá lạnh của miền Bắc; nên thời tiết, khí hậu rất khắc nghiệt. Nhiệt độ trung bình 24 °C-24,8 °C. Hàng năm, Hà Tĩnh có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa hè: Tài nguyên thiên nhiên. Hà Tĩnh hiện có 276.003 ha rừng, gồm 199.847 ha rừng tự nhiên và 76.156 ha rừng trồng, với độ che phủ của rừng đạt 45 %. Rừng tự nhiên thường gặp là kiểu rừng nhiệt đới, vùng núi cao có thể gặp các loại rừng lá kim á nhiệt đới. Rừng trồng phần lớn là thông nhựa. Hà Tĩnh có thảm thực vật rừng đa dạng với hơn 86 họ và 500 loài cây gỗ, gồm nhiều loại gỗ quý như lim xanh, sến, táu, đinh, gụ, pơmu... và nhiều loài thú quý hiếm như hổ, báo, hươu đen, dê sừng thẳng, trĩ, gà lôi và các loài bò sát khác. Hà Tĩnh có bờ biển dài 137 km với nhiều cửa sông lớn với khoảng 267 loài cá, thuộc 90 họ, trong đó có 60 loài có giá trị kinh tế cao, 20 loài tôm, nhuyễn thể như sò, mực... Về khoáng sản, tỉnh có trữ lượng khoáng sản nằm rải rác ở hầu khắp các huyện gồm than đá, sắt, thiếc, phosphorit, than bùn, cao lanh, cát thủy tinh, thạch anh. Hà Tĩnh có nhiều sông nhỏ chảy qua, con sông lớn nhất là sông La và sông Lam, ngoài ra có sông Ngàn Phố, Ngàn Sâu, sông Ngàn Trươi, Rào Cái. Tổng chiều dài các con sông khoảng 400 km, tổng sức chứa 13 tỷ m³. Còn hồ Kẻ Gỗ, hồ Sông Rác, hồ Cửa Thờ Trại Tiểu, đập Đồng Quốc Cổ Đạm... ước khoảng 600 triệu m³. Hành chính. Tỉnh Hà Tĩnh có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 10 huyện với 216 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 21 phường, 13 thị trấn, và 182 xã. Lịch sử. Trước thời các vua Hùng dựng nước, Hà Tĩnh cùng với Nghệ An là nước Việt Thường. Đến thời Hùng Vương, theo "Đại Việt sử ký toàn thư", Hà Tĩnh thuộc bộ Cửu Đức Thời nhà Hán (Bắc thuộc), đất Hà Tĩnh ngày nay thuộc huyện Hàm Hoan thuộc quận Cửu Chân Sau khi Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán xâm lược, vùng đất Hà Tĩnh thuộc Cửu Đức Thời nhà Đinh, nhà Tiền Lê: gọi là Hoan Châu, vùng địa đầu phía nam của nước Đại Cồ Việt, tiếp giáp với nước Chiêm Thành và nước Ai Lao. Thời Lý-Trần, từ năm 1030, bắt đầu gọi là châu Nghệ An. Vào đầu thời kỳ này (đầu thời nhà Lý), đất Hà Tĩnh (phía Bắc đèo Ngang) vẫn là vùng đất biên cương của Đại Việt với Chiêm Thành. Thời nhà Hậu Lê, từ năm Hồng Đức thứ 20 (1490) vua Lê Thánh Tông đặt ra thừa tuyên Nghệ An, nhưng vùng đất Nghệ An - Hà Tĩnh ngày nay cũng còn được gọi là xứ Nghệ An, phần đất thuộc tỉnh Hà Tĩnh ngày nay là đất thuộc 2 phủ Đức Quang (tức phủ Đức Thọ sau này) và phủ Hà Hoa (sau còn gọi là phủ Hà Thanh). Phủ Hà Hoa gồm 2 huyện: Thạch Hà và Kỳ Hoa (tức Kỳ Anh và Hoa Xuyên sau này). Phủ Đức Quang gồm 6 huyện: Thiên Lộc (tức Can Lộc), La Sơn (tức Đức Thọ ngày nay), Hương Sơn, Nghi Xuân, Chân Phúc (tức Nghi Lộc Nghệ An), Thanh Chương (Nghệ An). Thời Tây Sơn, vùng đất Nghệ An - Hà Tĩnh được gọi chung là Nghĩa An trấn Năm Gia Long nguyên niên (1802) lại đặt làm Nghệ An trấn. Năm 1831, vua Minh Mạng chia trấn Nghệ An thành 2 tỉnh: Nghệ An (phía Bắc sông Lam); Hà Tĩnh (phía nam sông Lam). Tỉnh Hà Tĩnh được thành lập với 2 phủ Đức Thọ và Hà Hoa của trấn Nghệ An trước đó. Năm Minh Mạng 17 (1838) lập thêm huyện Hoa Xuyên thuộc phủ Hà Hoa (Hoa Xuyên tức là Cẩm Xuyên ngày nay). Năm Minh Mạng 21 (1840), 2 huyện (trước của vương quốc Viêng Chăn bị diệt vong bởi Xiêm La và đất châu Trịnh Cao) là: Cam Cát (tức Khamkheuth tỉnh Borikhamxay) và Cam Môn (tức vùng các huyện Hương Khê, Vũ Quang và phia Đông Bắc tỉnh Khammuane ngày nay), từng nhập vào phủ Trấn Định (tức Ngọc Ma) thuộc xứ Nghệ của Đại Nam, đến lúc đó Minh Mạng cho nhập vào phủ Đức Thọ của tỉnh Hà Tĩnh. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), đổi phủ Hà Hoa thành phủ Hà Thanh (do kỵ húy), đồng thời Thiệu Trị lấy cả ba phủ Trấn Định, Trấn Tĩnh, Lạc Biên (trước thuộc Nghệ An) nhập vào tỉnh Hà Tĩnh. Năm Tự Đức thứ 6 (năm 1853) đổi tỉnh Hà Tĩnh làm đạo, hợp vào Nghệ An thành An Tĩnh. Năm Tự Đức thứ 29 (năm 1876) lại đặt tỉnh Hà Tĩnh như cũ. Thời Pháp thuộc, tỉnh Hà Tĩnh thuộc xứ Trung Kỳ nằm trong Liên bang Đông Dương của Pháp. Các phủ huyện là đất (các tỉnh Khammuane, Borikhamxay) thuộc Lào ngày nay (tức là đất các phủ Trấn Định, Trấn Tĩnh, Lạc Biên) bị cắt về xứ Lào thuộc Pháp, và từ đó không thuộc Việt Nam nữa. Sau năm 1945, tỉnh Hà Tĩnh thuộc vùng Trung Bộ Việt Nam. Sau năm 1954, Hà Tĩnh thuộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau năm 1975, giai đoạn 1976-1991, 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh nhập làm một tỉnh và được gọi là tỉnh Nghệ Tĩnh. Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tỉnh Nghệ Tĩnh lại tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay. Khi tách ra, tỉnh Hà Tĩnh có 9 đơn vị hành chính gồm thị xã Hà Tĩnh và 8 huyện: Cẩm Xuyên, Can Lộc, Đức Thọ, Hương Khê, Hương Sơn, Kỳ Anh, Nghi Xuân, Thạch Hà. Ngày 2 tháng 3 năm 1992, thành lập thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở tách thị trấn Hồng Lĩnh; 2 xã Đức Thuận và Trung Lương; một phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ cùng với 2 xã Đậu Liêu và Thuận Lộc thuộc huyện Can Lộc. Ngày 4 tháng 8 năm 2000, thành lập huyện Vũ Quang trên cơ sở tách 6 xã: Đức Lĩnh, Đức Giang, Đức Liên, Ân Phú, Đức Hương, Đức Bồng thuộc huyện Đức Thọ, 5 xã: Hương Thọ, Hương Minh, Hương Đại, Hương Điền, Hương Quang, Hương Trạch, thuộc huyện Hương Khê và xã Sơn Thọ thuộc huyện Hương Sơn. Ngày 7 tháng 2 năm 2007, thành lập huyện Lộc Hà trên cơ sở tách 7 xã: Ích Hậu, Hồng Lộc, Phù Lưu, Bình Lộc, Tân Lộc, An Lộc, Thịnh Lộc thuộc huyện Can Lộc và 6 xã: Thạch Kim, Thạch Bằng, Thạch Châu, Mai Phụ, Hộ Độ, Thạch Mỹ thuộc huyện Thạch Hà. Ngày 28 tháng 5 năm 2007, chuyển thị xã Hà Tĩnh thành thành phố Hà Tĩnh. Ngày 10 tháng 4 năm 2015, thành lập thị xã Kỳ Anh trên cơ sở tách thị trấn Kỳ Anh và 11 xã thuộc huyện Kỳ Anh. Từ đó, tỉnh Hà Tĩnh có 1 thành phố, 2 thị xã và 10 huyện. Dân cư. Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh đạt 1.288.866 người, mật độ dân số đạt 205 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 251.968 người, chiếm 19,5% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.036.898 người, chiếm 80,5%. Dân số nam đạt 640.709 người, trong khi đó nữ đạt 648.157 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0.49 ‰. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là hơn 38,45%. Theo thống kê của Tổng cục Thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn toàn tỉnh có 31 dân tộc cùng 1 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh là đông nhất với 1.224.869 người, xếp ở vị trí thứ hai là người Mường với 549 người, người Thái đứng ở vị trí thứ 3 với 500 người, thứ 4 là người Lào với 433 người. Ngoài ra, Tỉnh còn có một số dân tộc ít người khác gồm: Tày, Khmer, Hoa, Nùng, H'Mông, Dao, Gia Rai, Ê Đê, Ba Na, Sán Chay, Chăm, Cơ Ho, Xơ Đăng, Sán Dìu, Hrê, Raglay, Mnông, Thổ, Khơ Mú, Tà Ôi, Mạ, Giẻ - Triêng, La Chí, Chứt, Lô Lô, Cơ Lao, Cống. Tôn giáo. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Hà Tĩnh có 8 Tôn giáo khác nhau chiếm 150.383 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo có 149.273 người, thứ 2 là Phật giáo có 1.069 người và các tôn giáo khác là Phật giáo Hòa Hảo 7 người, Hồi giáo Việt Nam 6 người, Minh Lý Đạo 4 người, Tin Lành 18 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa 1 người, Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương 5 người. Riêng đạo Công giáo, Hà Tĩnh là một trong 15 tỉnh, thành phố có số lượng tín đồ đạo Công giáo đông nhất toàn quốc, hiện nay có 6 giáo hạt, 58 giáo xứ, 231 họ đạo, 3 tu viện thuộc dòng Mến Thánh giá Vinh, ngoài ra còn  một số cơ sở, nhóm nữ tu Dòng Mến Thánh giá, Dòng Bác ái. Hiện nay (2019), toàn tỉnh có 56 linh mục và hơn 150 nữ tu ở các cơ sở dòng, nhóm nữ tu, có 149.273 giáo dân, chiếm 11,5% dân số, có 131/262 xã, phường, thị trấn có đông giáo dân và có 461 khu dân cư vùng giáo, trong đó 114 vùng giáo toàn vùng. Kinh tế. Kinh tế Hà Tĩnh chủ yếu nông, lâm, ngư nghiệp và thủ công nghiệp. Phần lớn diện tích đất canh tác là trồng lúa, còn lại chủ yếu là cây công nghiệp thương phẩm và hoa màu. Ngành trồng cây ăn quả đang được đầu tư, ngoài ra còn có trồng cây công nghiệp lâu năm chiếm tỉ trọng thấp. Diện tích rừng (đặc biệt là rừng tự nhiên) có diện tích lớn đang là động lực phát triển mạnh ngành lâm nghiệp. Các sản phẩm lâm nghiệp có giá trị là các loại gỗ, lâm sản quý, dược liệu... Ngành nuôi trồng thủy, hải sản đang được đầu tư phát triển nâng cao giá trị. Tỉnh còn có các cảng nước sâu và cửa biển giúp phát triển mạnh ngư nghiệp. Nền công nghiệp chiếm tỉ trọng không lớn nhưng đang phát triển mạnh. Công nghiệp tập trung ở các ngành chế biến nông, lâm, thủy, hải sản, khai thác khoáng sản, sản xuất vật liệu xây dựng, luyện kim, điện lực, cơ khí. Các ngành công nghiệp chế biến thường phân bố rải rác, quy mô không lớn. Các con sông ở Hà Tĩnh hiện đang phát triển và vận hành các nhà máy thủy điện nhỏ và vừa. Ngành dịch vụ chưa phát triển mạnh. Ngành này của tỉnh tập trung chủ yếu vào phát triển du lịch nhờ các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, đặc biệt là du lịch biển. Hà Tĩnh có Khu kinh tế Vũng Áng được xem là khu kinh tế ven biển trọng điểm quốc gia, với sản phẩm công nghiệp chủ lực là thép (22,5 triệu tấn), nhiệt điện (7000 MW) và dịch vụ cảng nước sâu với 59 cầu cảng cho tàu từ 5 vạn đến 30 vạn tấn cập bến. Văn hóa. Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu cũ (bao gồm cả Nghệ An và Hà Tĩnh) từ thời nhà Hậu Lê. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng - sông Lam. Hai tỉnh này có cùng phương ngữ- tiếng Nghệ, cùng kho tàng văn hóa dân gian, cùng ca câu hò ví dặm, cùng uống chung dòng nước sông Lam. Hà Tĩnh là một vùng đất nằm trên dải đất miền Trung, phía nam sông Lam, thiên nhiên không mấy ưu đãi, nhưng lại được coi là nơi "địa linh nhân kiệt". Nhiều làng quê ở Hà Tĩnh nổi tiếng văn chương, khoa bảng. Núi Hồng Lĩnh, sông Ngàn Phố, sông Ngàn Sâu và sông La, sông Lam là nguồn cảm hứng cho các thế hệ thi nhân, nhạc sĩ. Núi Hồng Lĩnh là một trong số các địa danh được khắc vào Bách khoa thư cửu đỉnh hiện đang đặt tại cố đô Huế. Phía đông Hồng Lĩnh là làng Tiên Điền của đại thi hào Nguyễn Du, tác giả của "Truyện Kiều". Phía tây nam núi Hồng lĩnh là làng "Bát cảnh Trường Lưu" của dòng họ Nguyễn Huy. Hai làng văn hiến ở hai sườn đông và tây núi Hồng Lĩnh ấy đã tạo nên một Hồng Sơn văn phái với những tác phẩm tiêu biểu như "Hoa tiên" (của Nguyễn Huy Tự), "Mai Đình mộng ký" (của Nguyễn Huy Hổ), "Truyện Kiều". Làng Thu Hoạch, Trường Lưu, Tiên Điền, Uy Viễn, Đông Thái, Yên Hội, Gôi Mỹ, Thần Đầu, Trung Lễ, Bùi Xá, Ích Hậu, Trung Lương, Ân Phú... nổi danh về truyền thống học tập, khoa bảng và văn chương Hà Tĩnh còn có nhiều làng văn nghệ nổi tiếng trong vùng như: làng hát ca trù Cổ Đạm, chèo Kiều Xuân Liên, hát ví phường vải Trương Lưu, hò ví dặm Đan Du, Phong Phú... Nhiều làng nền nếp, phong lưu có nhiều lễ hội, hương ước, phong tục như: Kim Chùy, Hội Thống, Đan Trường, Kim Đôi, Phù Lưu Thượng... Các làng truyền thống với những giọng hò nổi tiếng quanh núi Hồng Lĩnh, ven dòng sông Lam, sông La, sông Ngàn Sâu, sông Ngàn Phố đã để lại nhiều thơ văn và trước tác. Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực địa phương ở Hà Tĩnh như: hải sản, bánh cu đơ, nhút mít Hương Sơn, vỏ bánh ram, bánh mướt ram, bưởi Phúc Trạch, bánh đa Việt Xuyên, hồng Yên Du, mật ong rừng Vũ Quang, chè, hến sông La, mật mía Thọ Điền, nấm tràm Kỳ Anh, bánh bèo, măng, bánh ong Hương Sơn, mực nhảy Vũng Áng, cá trích nướng, nước mắm, bánh đa kê Nghi Xuân, nham chuối, bún bò Đò Trai, bánh đa chợ Cầu, dê núi Hương Sơn, bánh đa nem Thạch Hưng, bún Phương Giai, cháo canh, hồng Đông Lộ, rượu nếp Can Lộc, cam bù Hương Sơn, moi Hà Tĩnh, lạc, bánh lá Phù Lưu, quýt Kỳ Thượng, bánh ngào, cam Khe Mây, ruốc rươi cáy Nghi Xuân, trám đen Hương Sơn, bánh đúc đỏ chợ Gôi, nhung hươu Hương Sơn, bún tươi Đại Lự, bánh gai Đức Thọ, bánh vo Cẩm Xuyên. Giao thông. Hà Tĩnh là tuyến giao thông huyết mạch, có đường Quốc lộ 1 đi qua với chiều dài 127,3 km (xếp thứ 3 trong các tỉnh có Quốc lộ 1 đi qua), 87 km đường Hồ Chí Minh và tuyến đường sắt Bắc Nam chạy dọc theo hướng Bắc Nam với chiều dài 70 km. Ngoài ra, tỉnh còn có đường Quốc lộ 8A chạy sang Lào qua cửa khẩu Quốc tế Cầu Treo với chiều dài 85 km, Quốc lộ 12C dài 55 km đi từ cảng Vũng Áng qua Quảng Bình đến cửa khẩu Cha Lo sang Lào và Đông Bắc Thái Lan. Hà Tĩnh còn có 137 km bờ biển với nhiều cảng và cửa sông lớn.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bạc Liêu là một tỉnh thuộc duyên hải thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trên bán đảo Cà Mau, miền đất cực nam của Việt Nam. Tỉnh Bạc Liêu được thành lập ngày 20 tháng 12 năm 1899 và chính thức là đơn vị hành chính từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bạc Liêu bị giải thể nhập vào tỉnh Ba Xuyên. Ngày 8 tháng 9 năm 1964, tỉnh Bạc Liêu được tái lập. Tháng 2 năm 1976, tỉnh Bạc Liêu lại bị giải thể, nhập vào tỉnh Minh Hải. Theo Nghị quyết của Quốc hội ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Bạc Liêu lại được tái lập từ ngày 1 tháng 1 năm 1997 và là một trong các đơn vị hành chính cấp tỉnh của Việt Nam cho đến nay. Năm 2018, Bạc Liêu là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 46 về số dân, xếp thứ 48 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 39 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 20 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với dân số 892.930 người, GRDP đạt 37.719 tỉ Đồng (tương ứng với 1,6382 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 42,05 triệu đồng (tương ứng với 1.826 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,36%. Bạc Liêu có nhiều dân tộc khác nhau sinh sống như người Hoa, người Việt, người Khmer, người Chăm... Người Bạc Liêu có phong cách phóng khoáng, đặc trưng của vùng Nam Bộ. Bạc Liêu có Công tử Bạc Liêu lừng danh một thuở giàu có và chịu chơi, ngoài ra vùng đất này còn gắn liền với tên tuổi của nhạc sĩ Cao Văn Lầu và bài Dạ cổ hoài lang đặt nền móng cho sự phát triển của nền cổ nhạc Nam Bộ. Bạc Liêu được nhiều người biết đến bởi nghề làm muối, muối Bạc Liêu xưa nay vốn nổi tiếng về chất lượng do không có vị đắng, chát và ít lẫn tạp chất. Thời Pháp, Mỹ, hoạt động kinh doanh muối Bạc Liêu rất rộng lớn, chiếm cứ toàn vùng Nam Bộ, ra tới tận Phan Thiết miền Trung và đặc biệt giao lưu xuất khẩu theo đường sông Cửu Long qua Campuchia, hiện nay nghề làm muối tuy không còn thịnh như trước nhưng Bạc Liêu vẫn là vùng sản xuất muối lớn nhất miền Tây. Nguồn gốc tên gọi. Tỉnh Bạc Liêu từ khi thành hình đã lấy tên của con rạch Bạc Liêu (có giả thuyết cho rằng do Poanh Liêu mà ra, tức là nơi có Đạo quân Lào trú đóng thời xưa). Tên gọi "Bạc Liêu", đọc giọng Triều Châu là "Pô Léo", có nghĩa là xóm nghèo, làm nghề hạ bạc, tức nghề chài lưới, đánh cá, đi biển. Pô phát âm theo tiếng Hán Việt là "Bạc" và Léo phát âm là "Liêu". Ý kiến khác lại cho rằng "Pô" là "bót" hay "đồn", còn "Liêu" có nghĩa là "Lào" (Ai Lao) theo tiếng Khmer, vì trước khi người Hoa kiều đến sinh sống, nơi đó có một đồn binh của người Lào. Còn đối với người Pháp, họ căn cứ vào tên Pô Léo theo tiếng Triều Châu nên họ gọi vùng đất này là Phêcheri - chaume có nghĩa là "đánh cá và cỏ tranh". Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng tên gọi Bạc Liêu xuất phát từ tiếng Khmer Po Loenh, nghĩa là cây đa cao. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Bạc Liêu nằm trên bán đảo Cà Mau, thuộc Đồng bằng sông Cửu Long, với diện tích đất tự nhiên là 2.669  km², chiếm gần 0,8% diện tích cả nước và đứng thứ 7 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý: Tọa độ địa lý của tỉnh Bạc Liêu: Vùng biển thuộc quyền quản lý của tỉnh Bạc Liêu rộng hơn 40.000 km² là một vùng biển giàu tiềm năng, nguồn lợi hải sản rất phong phú và đa dạng. Bạc Liêu nằm ở vị trí trung chuyển trên tuyến đường giao thông huyết mạch quan trọng của cả nước (Quốc lộ 1), cách thành phố Cần Thơ khoảng 110 km và Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 280 km về phía Bắc; hiện nay còn có các tuyến đường mới như Nam Sông Hậu, Ngã Bảy (tỉnh Hậu Giang) đến thành phố Cà Mau (Quản Lộ - Phụng Hiệp) đi qua địa phận tỉnh Bạc Liêu. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho Bạc Liêu trong sự giao lưu, phát triển kinh tế xã hội. Điều kiện tự nhiên. I. Địa hình Bạc Liêu có địa hình khá bằng phẳng, không có đồi, núi chính và thấp vì lẽ đó cũng không có các chấn động địa chất lớn. Địa hình chủ yếu là đồng bằng, sông rạch và kênh đào chằng chịt. Độ cao khoảng từ 0,8 đến 1,5m so với mặt biển. Hướng nghiêng đia hình từ đông bắc xuống tây nam, độ nghiêng trung bình từ 1 đến 1,5 cm/km. Trong vùng có nhiều ô trũng như: các huyện Hồng Dân, Phước Long và thị xã Giá Rai thuộc vùng trũng của trung tâm bán đảo Cà Mau. Các giồng cat ven biển tạo hướng nghiêng từ biển vào trong nội đồng. Trên địa bàn tỉnh có nhiều kênh rạch lớn như: Quản Lộ - Phụng Hiệp, kênh Cạnh Điền, kênh Phó Sinh, kênh Giá Rai chia cắt địa hình của tỉnh. Thềm lục địa mở rộng, biển nông và bãi biển thoải từ 30 đến 70, dòng biển Đông Bắc ổn định, có vai trò quan trọng trong bồi tụ, mỗi năm mở rộng thêm ra biển hơn 30m tạo nên các bãi bồi. Bãi bồi mở tới đâu thì rừng ngập mặn tiến ra tới đó. Tuy nhiên, đoạn từ Ấp Gò Cát (xã Điền Hải) tới thị trấn Gành Hào (huyện Đông Hải) lại đang diễn ra quá trình sạc lở cửa sông và bờ biển lại rất mạnh, khoảng 10m/năm. Con người tác động rất đáng kể đến địa hình hiện tại của tỉnh. Hàng trăm cây số kênh mương, đường sá với hàng triệu mét khối đất đào đắp, việc cải tạo những vùng đất phèn qua nhiều làm thế hệ đã làm thay đổi nhiều bề mặt địa hình của tỉnh. Từ vùng hoang hóa trở thành vùng nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản có giá trị kinh tế. II. Khí hậu Bạc Liêu nằm ở vĩ độ thấp, trong khu vực gió mùa nên khí hậu Bạc Liêu mang tính chất cận xích đạo gió mùa (nhiệt đới gió mùa) rất điển hình, với nền nhiệt cai và ổn định, biên nhiệt dao độngtrong năm nhỏ, lượng mưa lớn, mưa theo mùa và thất thường. "1. Nhiệt độ" Do góc nhập xạ quanh năm lớn nên tổng lượng bức xạ Mặt Trời lớn. Nhiệt độ trung bình năm dao dộng trong khoảng 26 - 270C. Tháng nóng nhất là tháng 5 nhiệt độ 35 - 360C và có khi lên tới 370C, có nhiệt độ trung bình trên 290C và tháng thấp nhất là tháng 1 nhiệt độ 200C và có khi từ 18 - 200C, có nhiệt độ trung dưới 250C. Biên độ nhiệt năm trung bình khoảng 3,60C. Bạc Liêu có bờ biển khá dài, ven biển và trong đất liền nên có tiềm năng lớn về phát triển điện mặt trời. "2. Lượng mưa" Bạc Liêu có lượng mưa vào loại trung bình so với khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Lượng mưa trung bình năm khoảng trên 1700 mm/năm. Mưa tập trung chủ yếu vào mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11), chiếm khoảng hơn 93% tổng lượng mưa cả năm. Mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa không đáng kể. Mưa không đều giữa các địa phương trong tỉnh, lượng mưa giảm dần từ tây sang đông, giảm dần từ nội địa ra biển. Khu vực giáp các tỉnh Cà Mau, Kiên Giang, vùng tây: thị xã Giá Rai và các huyện Phước Long, Hồng Dân có lượng mưa trung bình khoảng 2000 mm/năm. Khu vực từ thị xã Giá Rai đến huyện Hòa Bình có lượng mưa trung bình khoảng từ 1800 đến 2000 mm/năm, khu vực đông bắc: huyện Vĩnh Lợi có lượng mưa trung bình khoảng từ 1600 đến 1800 mm/năm. Riêng vùng ven biển từ xã Hiệp Thành (thành phố Bạc Liêu) đến thị trấn Gành Hào (huyện Đông Hải) lượng mưa thường ít hơn, khoảng 1600 mm/năm. Lượng mưa không đều theo các năm, có năm mưa nhiều, có năm mưa ít. Mưa thường diễn ra theo từng đợt, một đợt mưa có thể kéo dài từ 7 ngày tới 20 ngày, trường hợp cá biệt có thể tới hơn 1 tháng. Giữa hai đợt mưa có một đợt khoảng thời gian không mưa hoặc ít mưa, khoảng thời gian này có thể kéo dài hàng tuần, cá biệt có thể kéo dài hàng tháng gây hạn hán ngay trong mùa mưa, đó là "hạn bà chằng". Phần lớn các địa phương trong tỉnh nằm trong khu vực có "hạn bà chằng". Do đó, sản xuất nông nghiệp ở Bạc Liêu từ trồng lúa đến nuôi trồng thủy hải sản cần chú ý tới đặc điểm này. Bên cạnh đó, đầu và cuối mùa mưa thường xuất hiện hiện tượng giông sét rất nguy hiểm, đe dọa đến tính mạng của nhân dân. "3. Gió" Nằm trong khu vực gió mùa nên Bạc Liêu có hai mùa gió: - Gió mùa mùa hạ: Thổi từ cuối tháng 4 đến tháng 10, hướng gió chủ yếu là Tây và Tây Nam mang theo lượng mưa lớn cho vùng. Bạc Liêu ít chịu ảnh hưởng của bão và áp thấp nhiệt đới. Vào mùa này, đôi khi có hiện tượng giông sét và vòi rồng, có gió giật mạnh gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất và đời sống nhân dân. - Gió mùa mùa đông: Hoạt động từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Hướng gió chính là hướng Đông, ngoài ra có gió thổi theo hướng Đông Bắc (thường vào tháng 11 và tháng 12), Đông Nam (thổi vào tháng 2, 3, 4) và hướng Đông Bắc (thổi xen kẽ với gió Đông và Đông Bắc trong tháng 11 và tháng 12). Những tháng chuyển tiếp từ chế độ gió mùa mùa hạ qua gió mùa đông thường xuất hiện gió Đông và Tây. Bạc Liêu có bờ biển khá dài, ven biển gió thổi mạnh nên có tiềm năng lớn về phát triển điện gió. III. Sông ngòi và nước ngầm "1. Sông ngòi" Hệ thống sông rạch ở Bạc Liêu chủ yếu là kênh đào, với mật độ cao, phân bố đều, có vai trò quan trọng trong tưới tiêu, thâm canh, tăng vụ, đặc biệt là rửa phèn, rửa mặn cho đất. Do ảnh hưởng của biển nên hầu hết các hệ thống sông rạch của tỉnh có vai trò như những lạch truyền triều. Chế độ nước của các dòng sông phụ thuộc vào chế độ triều và chế độ mưa. Đây là điều kiện thuận lợi để Bạc Liêu phát triển nuôi trồng thủy hải sản, làm muối và mở rộng diện tích rừng ngập mặn. Tuy nhiên, ảnh hưởng của thủy triều cũng làm cho nhiều vùng đất đang bị mặn hóa, triều cường đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân vùng phía Nam Quốc lộ 1. "2. Nước ngầm" Đây là nguồn nước rất quan trọng cung cấp nước ngọt sinh hoạt và sản xuất của tỉnh, có 3 tầng nước: tầng Plêitôxin, Plêiôxen và Miôxen. Tuy trữ lượng nước ngầm khá phong phú, song việc khai thác, sử dụng cũng cần tiết kiệm và tránh gây ô nhiễm môi trường. Hệ thống sông ngòi tại Bạc Liêu chia làm hai nhóm: IV. Thổ nhưỡng "Đất ở Bạc Liêu gồm:" - Đất phèn hoạt động: diện tích 93.265 ha, chiếm 38,6%. Phân bố ở các huyện Hồng Dân, Phước Long và thị xã Giá Rai. Đất này được cải tạo thông qua chương trình "ngọt hóa", một phần đang chuyển đổi để phát triển nông nghiệp với hệ thống canh tác mới: lúa - tôm, lúa - cá. - Đất mặn: đất phù sa được tích tụ trong môi trường nước mặn, có diện tích là 80.863 ha, chiếm 33,6%. Phân bố dọc bờ biển và khu vực phía Nam Quốc lộ 1. Chia làm 4 nhóm phụ: mặn nhiều, mặn trung bình, mặn ít và đất rừng ngập mặn. - Đất phèn tiềm tàng: hình thành những vùng đất trẻ, còn bị nhiễm mặn, khả năng thoát nước kém. Diện tích khoảng 55.584 ha, chiếm 23,1%. Phân bố ở một số xã phía tây huyện Đông Hải và một số xã tây bắc huyện Hồng Dân, đang được khai thác nuôi trồng thủy sản và trồng cây công nghiệp như mía, khóm, tràm, bạch đàn, trúc. - Đất bãi bồi và đất khác: diện tích hơn 10.000 ha, chiếm 4,5%. Phân bố ở vùng ven biển của thành phố Bạc Liêu, các huyện Hoà Bình, Đông Hải và ven kênh rạch các huyện, thị xã trong nội địa. Phần lớn còn hoang hóa. - Đất cát giồng: diện tích 447 ha, chiếm 0,2%. Phân bố ở ven biển các xã Vĩnh Trạch Đông, Hiệp Thành (thành phố Bạc Liêu) và xã Vĩnh Hậu (huyện Hoà Bình). Nhãn là loại cây ăn trái có mặt hàng trăm năm, là cây trồng chính trên đất này và còn là vùng chuyên canh rau, củ, hoa màu của tỉnh. Tổng diện tích đất tự nhiên của tỉnh là 258.247 ha. Trong đó, đất nông nghiệp có 98.309 ha; đất nuôi trồng thủy sản và đất muối có 120.714 ha; đất lâm nghiệp có rừng 4.832 ha; đất chuyên dùng 11.323 ha; đất ở 4.176 ha, còn lại là đất chưa sử dụng. Đất có khả năng trồng lúa, cây lâu năm, màu và cây công nghiệp hàng năm là 98.295 ha, chiếm 38,1% tổng diện tích đất; đất có khả năng trồng rừng, nuôi tôm, làm muối 125.546 ha, chiếm 48,62%. Phần lớn đất đai của Bạc Liêu là đất phù sa bồi đắp lâu năm và ổn định, thích hợp với việc phát triển nền nông nghiệp toàn diện. V. Sinh vật "1. Tài nguyên rừng" Diện tích rừng và đất rừng 4.657 ha, chiếm 1,87% diện tích đất tự nhiên, trong đó chủ yếu là rừng phòng hộ. Rừng Bạc Liêu là rừng ngập mặn, có năng suất sinh học cao, có giá trị lớn về phòng hộ và môi trường các loại cây ở đây chủ yếu là cây mấy (còn gọi là cây mắm), tràm, cây đước. Bạc Liêu thuộc hệ sinh thái rừng ngập mặn các rừng chủ yến như rừng tràm, chà là, giá, cóc, lâm vồ... Bên dưới là thảm thực vật gồm cỏ và các loài dây leo. Rừng Bạc Liêu có 104 loài thực vật. "2. Động vật" Động vật trên cạn có nhiều loài, số lượng lớn. Chim là động vật có số lượng lớn nhất. Các loài chim như cồng cộc, bồ nông, cò trắng, cờ đen, diệc, chim cuốc, bìm bịp... Cư trú và sinh sản tại các cánh rừng ngập mặn hoặc những vạc rừng trồng phân tán trong khu dân cư. Bò sát có 12 loài như trăn, rắn, kì đà, kì nhông, tắc kè, thằn lằn, rắn mối... Một số loài sống dưới đất, làm hang và sinh sản ở các gò đất cao, một số loài sống trên cây. Một số loài quý hiếm như rắn hổ mang, cò quắm trắng có trong sách đỏ Việt Nam. Tuy nhiên, có nhiều loài có hại như chuột và côn trùng phát triển nhanh, phá hoại mùa màng, làm giảm năng suất cây trồng, vật nuôi. Động vật dưới nước rất phong phú, thủy sản nước mặn như cá: hồng, thu, chim... Nguồn thủy sản nước ngọt gồm 14 loài cá đồng, ưu thế là cá: lóc, trê, rô, thát lát, ltôm càng... Thủy sản nước lợ gồm cá: keo, đối, tôm, cua, sò... Biển Động vật biển bao gồm 661 loài cá, 319 giống thuộc 138 họ. Trong đó nhiều loại có trữ lượng và giá trị cao như tôm, cá hồng, cá gộc, cá sao, cá thu, cá chim, cá đường… Tôm biển có 33 loài khác nhau, có thể đánh bắt hơn 10.000 tấn/năm. Trữ lượng cá đáy và cá nổi hơn 100.000 tấn/năm, có thể trở thành nơi xuất, nhập khẩu trực tiếp. Bạc Liêu có bờ biển dài 56 km. Biển Bạc Liêu có nhiều loài tôm, cá, ốc, sò huyết. Hàng năm, sản lượng khai thác đạt gần 100 nghìn tấn cá, tôm. Trong đó, sản lượng tôm gần 10 nghìn tấn. Hành chính. Hiện nay, tỉnh Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện, trong đó có 64 đơn vị hành chính cấp xã, gồm có 10 phường, 5 thị trấn và 49 xã (bao gồm 512 khóm, ấp). Theo quyết định Quy hoạch số 241/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong giai đoạn 2021 – 2030: thành phố Bạc Liêu sẽ từ đô thị loại II tiến lên đô thị loại I; thị xã Giá Rai từ đô thị loại IV lên đô thị loại III; các đô thị loại V như Gành Hào (huyện Đông Hải), Hòa Bình (huyện Hòa Bình), Phước Long (huyện Phước Long), Châu Hưng (huyện Vĩnh Lợi), Ngan Dừa (huyện Hồng Dân) sẽ lên đô thị loại IV. Lịch sử. Bạc Liêu từng là vùng đất có một vị trí quan trọng trong chiến lược khai thác và xây dựng vùng Đồng bằng sông Cửu Long của người Pháp, được người Pháp lên kế hoạch xây dựng thành trung tâm hành chính của miền Tây, đồng thời đầu tư nhiều tiền của xây cất dinh thự và công sở tại đây. Bạc Liêu cũng là vùng đất có nhiều người Hoa sinh sống qua câu ca dao: Thời phong kiến. Năm 1680, Mạc Cửu với vai trò là một di thần nhà Minh ở Trung Quốc đến vùng Mang Khảm chiêu tập một số lưu dân người Việt, người Hoa cư trú ở Mang Khảm, Phú Quốc, Rạch Giá, Long Xuyên (Cà Mau), Luống Cày (Lũng Kỳ), Hương Úc (tức Vũng Thơm hay Kompong som), Cần Bột (Kampốt) lập ra những thôn xóm đầu tiên trên vùng đất Bạc Liêu. Năm 1708, Mạc Cửu dâng vùng đất Mang Khảm cho chúa Nguyễn Phúc Chu. Chúa Nguyễn Phúc Chu đặt tên toàn bộ thôn xóm vùng này là trấn Hà Tiên, lúc này Mạc Cửu được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, với tước Cửu Ngọc Hầu. Mạc Cửu lập dinh trại đồn trú tại Phương Thành, dân cư ngày càng đông đúc hơn. Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát thu nhập thêm vùng đất Ba Thắc, lập ra Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Sóc Trăng, Bạc Liêu). Toàn bộ vùng đất phương Nam thuộc về chúa Nguyễn. Đến năm 1777, Trấn Giang, Trấn Di được bãi bỏ. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi. Năm 1808, trấn Gia Định đổi là thành Gia Định cai quản 5 trấn là Phiên An, Biên Hoà, Định Tường, Vĩnh Thanh (tức Vĩnh Long), Hà Tiên Năm 1832, vua Minh Mạng bỏ thành Gia Định, chia Nam Kỳ thành lục tỉnh là Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên, bao gồm đất từ Hà Tiên đến Cà Mau. Phần đất tỉnh An Giang, tính từ Châu Đốc đến Sóc Trăng và Bạc Liêu tính đến cửa biển Gành Hào. Thời vua Tự Đức, vùng này thuộc phủ Ba Xuyên, rồi sau đó lại tách ra lập thành huyện Phong Thạnh trực thuộc phủ Ba Xuyên, tỉnh An Giang. Thời Pháp thuộc. Ngày 5 tháng 1 năm 1867, thực dân Pháp chiếm Nam Kỳ Lục tỉnh. Đầu thời Pháp thuộc, phủ Ba Xuyên đổi thành hạt thanh tra Ba Xuyên. Ngày 15 tháng 7 năm 1867, Pháp đổi hạt Ba Xuyên thành hạt thanh tra Sóc Trăng. Đến ngày 5 tháng 6 năm 1876, Nam Kỳ được Pháp chia thành 24 khu tham biện (inspection) do các viên thanh tra hành chính (inspecteur) đảm nhiệm. Năm 1877, Nam Kỳ được Pháp điều chỉnh lại còn 20 khu tham biện. Đến ngày 18 tháng 12 năm 1882, Pháp cắt 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy của đại lý (Dlégation) Cà Mau thuộc địa hạt Rạch Giá (Arrondissement de Rach Gia) và 2 tổng Thạnh Hoà, Thạnh Hưng của đại lý Châu Thành thuộc địa hạt Sóc Trăng và thành lập địa hạt Bạc Liêu (Arrondissement de Bạc Liêu). Địa hạt Bạc Liêu là địa hạt thứ 21 của Nam Kỳ, lúc đầu có 2 đại lý là Vĩnh Lợi và Vĩnh Châu. Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ký sắc lệnh bỏ xưng danh địa hạt, đổi thành tỉnh, đại lý đổi thành quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, sắc lệnh trên được áp dụng cho toàn Nam Kỳ, trong đó có hạt tham biện Bạc Liêu đổi thành tỉnh Bạc Liêu. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu đặt tại làng Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi. Chủ tỉnh Bạc Liêu đầu tiên là Eugene Chabrier (1897 - 1903) Tỉnh Bạc Liêu ban đầu chỉ có 2 quận: Vĩnh Lợi và Cà Mau. Năm 1903, lập đại lý hành chánh Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu, gồm 3 tổng: Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy; Nguyễn Tấn Đức làm quan cai trị đầu tiên của Cà mau. Năm 1904, cắt một phần đất của quận Vĩnh Lợi để lập thêm quận Vĩnh Châu. Ngày 16 tháng 5 năm 1911, Toàn quyền Đông Dương quyết định nâng đại lý hành chánh Cà Mau lên thành quận Cà Mau trực thuộc tỉnh Bạc Liêu, do đốc phủ sứ Trần Quang Phước làm chủ quận đầu tiên. Năm 1918, cắt thêm phần đất thuộc quận Cà Mau và tỉnh lỵ thành lập thêm quận Giá Rai. Tỉnh Bạc Liêu có tổng diện tích là 705.000 mẫu tây. Ngày 5 tháng 10 năm 1918, thực dân Pháp chia địa bàn tỉnh Bạc Liêu thành 4 quận trực thuộc: Ngày 6 tháng 4 năm 1923, thời viên chủ tỉnh Bạc Liêu là Adrien Petit, tách các làng Tân Lợi, Tân Lộc, Thới Bình của tổng Long Thủy lập tổng mới Long Thới thuộc quận Cà Mau (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1924). Ngày 18 tháng 12 năm 1928, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập các thị xã Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá và Mỹ Tho trực thuộc các tỉnh cùng tên gọi. Các thị xã này đều có Ủy ban thị xã, thị trưởng do chủ tỉnh (lúc này là L. le Strat) bổ nhiệm và có ngân sách riêng. Thị xã Bạc Liêu lúc đó được thành lập trên phần đất làng Vĩnh Lợi. Ngày 24 tháng 9 năm 1938, giải thể quận Vĩnh Châu, nhập vào địa bàn quận Vĩnh Lợi; đồng thời tách tổng Quảng Xuyên khỏi quận Cà Mau lập quận mới có tên là quận Quảng Xuyên. Ngày 14 tháng 9 năm 1942, lập cơ sở hành chính Tân An thuộc quận Cà Mau. Ngày 5 tháng 4 năm 1944, lập quận Thới Bình bao gồm tổng Thới Bình. Ngày 6 tháng 10 năm 1944, đổi tên quận Thới Bình thành quận Cà Mau Bắc, đổi tên quận Quảng Xuyên thành quận Cà Mau Nam. Sau đó lại hợp nhất 2 quận Cà Mau Bắc và Cà Mau Nam thành một quận có tên là quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu. Năm 1947, chính quyền thực dân Pháp cũng giao quận Phước Long (trước đó thuộc tỉnh Rạch Giá) cho tỉnh Bạc Liêu quản lý. Giai đoạn 1945-1954. Sau năm 1945, chính quyền kháng chiến của Việt Nam đã nhiều lần thay đổi sắp xếp hành chính của tỉnh Bạc Liêu. Năm 1947, quận Hồng Dân (trước đó có tên là quận Phước Long) thuộc tỉnh Rạch Giá giao hai làng Vĩnh Hưng, Vĩnh Phú về quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu. Năm 1948, tỉnh Bạc Liêu giao quận Vĩnh Châu và làng Hưng Hội về tỉnh Sóc Trăng, đồng thời thành lập thêm quận mới lấy tên là quận Ngọc Hiển. Ngày 13 tháng 11 năm 1948, cắt 2 làng Vĩnh Trạch, Vĩnh Lợi để thành lập thị xã Bạc Liêu. Cùng thời điểm này, tỉnh Sóc Trăng giao làng Châu Thới về Bạc Liêu. Làng Châu Thới hợp nhất với làng Long Thạnh thành làng Thạnh Thới. Năm 1951, thành lập thêm huyện Trần Văn Thời, gồm các xã: Khánh Bình Đông, Khánh Bình Tây, Trần Hợi, Hưng Mỹ, Khánh An, Khánh Lâm. Năm 1952, tỉnh Bạc Liêu tiếp nhận hai huyện An Biên, Hồng Dân của tỉnh Rạch Giá. Sau Hiệp định Genève, tháng 10 năm 1954 huyện Vĩnh Châu được đưa về tỉnh Bạc Liêu, huyện An Biên và huyện Hồng Dân đưa về tỉnh Rạch Giá. Huyện Vĩnh Lợi và thị xã Bạc Liêu được tái lập. Giai đoạn 1954-1975. Việt Nam Cộng hòa. Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Bạc Liêu như thời Pháp thuộc. Ngày 15 tháng 2 năm 1955, Thủ hiến Nam Việt của chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) quyết định tạm sáp nhập vùng Chắc Băng và quận An Biên thuộc tỉnh Rạch Giá vào tỉnh Sóc Trăng. Ngày 24 tháng 5 năm 1955, quyết định sáp nhập ba quận An Biên, Phước Long và Chắc Băng để thành lập đặc khu An Phước thuộc tỉnh Sóc Trăng, nhưng không lâu sau lại cho giải thể đặc khu này. Sau đó, quận An Biên và vùng Chắc Băng lại trở về thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ. Ngày 9 tháng 3 năm 1956, theo Sắc lệnh 32/VN, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lấy phần lớn diện tích đất của tỉnh Bạc Liêu bao gồm quận Cà Mau và 4 xã của quận Giá Rai là Định Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây để thành lập tỉnh Cà Mau; tỉnh lỵ ban đầu cũng có tên là Cà Mau. Tỉnh Bạc Liêu còn lại 4 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 143-NV để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này vùng đất tỉnh Bạc Liêu cũ thời Pháp thuộc có sự thay đổi hành chính như sau: Ngày 13 tháng 1 năm 1958, theo Nghị định số 9-BNV/NC/NP của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, quận Vĩnh Châu bị giải thể để sáp nhập vào quận Vĩnh Lợi. Tuy nhiên, đến ngày 5 tháng 12 năm 1960, tái lập quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Ba Xuyên. Ngày 21 tháng 12 năm 1961, quận Phước Long được chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao về cho tỉnh Chương Thiện mới được thành lập. Ngày 18 tháng 4 năm 1963, thành lập mới quận Kiến Thiện thuộc tỉnh Chương Thiện trên cơ sở tách một phần đất đai của các quận Phước Long và Long Mỹ cùng tỉnh. Bạc Liêu hồi thời Pháp thuộc rất sung túc, dân cư đông đảo, là xứ ăn xài, lắm khách hào hoa phong nhã, chợ búa mua bán phồn thịnh, nền kinh tế dồi dào. Cho đến khi chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chánh, tỉnh Bạc Liêu bị sáp nhập vào tỉnh Ba Xuyên (Sóc Trăng cũ) trước kia thịnh vượng đông đảo bao nhiêu, bây giờ lại hóa ra u trệ bấy nhiêu. Vì bỗng dưng bị thu hẹp lại thành một quận là quận Vĩnh Lợi, trọn 9 năm châu thành Bạc Liêu lâm vào cảnh vắng vẻ, nền kinh tế bị sụp đổ, du khách có dịp đi ngang qua cảm tưởng cho là một tỉnh bị chiến tranh tàn phá. Suốt 9 năm dưới thời chính quyền Đệ nhất Cộng hòa của Tổng thống Ngô Đình Diệm, Bạc Liêu từ một tỉnh phát triển mạnh ngày nào dưới thời Pháp thuộc bị thu hình lại thành một quận lỵ nhỏ nhoi (tức quận Vĩnh Lợi). Thời Pháp thuộc, Cà Mau chỉ là một quận lỵ nhỏ thì lúc này, Bạc Liêu lại trở thành quận lỵ Vĩnh Lợi nhỏ hơn nhiều tỉnh lỵ Quản Long (tức Cà Mau cũ). Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 254/NV quy định kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện được chia thành 5 tổng, 17 xã với diện tích là 238.000 mẫu tây và dân số 257.154 người (trong đó, dân số thị xã Bạc Liêu là 40.000 người). Riêng quận Kiến Thiện vẫn thuộc tỉnh Chương Thiện cho đến năm 1975. Tỉnh lỵ tỉnh Bạc Liêu có tên là "Vĩnh Lợi", do lấy theo tên xã Vĩnh Lợi thuộc quận Vĩnh Lợi là nơi đặt tỉnh lỵ. Tỉnh Bạc Liêu gồm 4 quận: Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long cho đến năm 1975. Ngày 11 tháng 7 năm 1968, tách một phần nhỏ đất đai của xã Hưng Hội, quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu giao về cho quận Hòa Tú mới được thành lập trực thuộc tỉnh Ba Xuyên; còn quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu nhận thêm xã Châu Thới vốn trước đó thuộc quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên. Ngày 11 tháng 3 năm 1970, quận Vĩnh Lợi thuộc tỉnh Bạc Liêu nhận thêm một phần đất đai trước đó thuộc xã Châu Hưng, quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên và cũng nhận lại phần đất đai trước đó thuộc xã Hưng Hội nhưng từng bị cắt chuyển về thuộc quận Hòa Tú thuộc tỉnh Ba Xuyên; đồng thời nửa phía bắc xã Châu Thới thuộc quận Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu cũng lại sáp nhập vào xã Châu Hưng thuộc quận Thạnh Trị, tỉnh Ba Xuyên. Bên cạnh đó, dải đất rộng 1.500 m chạy dọc sông Mỹ Thanh thuộc các xã Khánh Hòa và Vĩnh Phước của quận Vĩnh Châu thuộc tỉnh Bạc Liêu cũng giao về cho quận Hòa Tú thuộc tỉnh Ba Xuyên. Chính quyền Cách mạng. Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu giao về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, thành huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu. Năm 1962, huyện Giá Rai sáp nhập vào tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định giải thể huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu để tái lập huyện Vĩnh Lợi và huyện Vĩnh Châu. Ngày 7 tháng 3 năm 1972, nhập xã Vĩnh Hưng của huyện Giá Rai vào huyện Vĩnh Lợi. Trong giai đoạn 1964–1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý, ngoại trừ huyện Giá Rai thuộc tỉnh Cà Mau. Tháng 11 năm 1973, Khu ủy Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng cho đến đầu năm 1976. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Bạc Liêu cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu được tiến hành hợp nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 1976 với tên gọi ban đầu là tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu. Tỉnh Minh Hải giai đoạn 1976-1996. Ngày 10 tháng 3 năm 1976, Ban đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ đổi tên tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên thành thị xã Minh Hải và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Minh Hải. Tuy nhiên, đến năm 1984, thị xã Minh Hải được đổi về tên cũ là thị xã Bạc Liêu và tỉnh lỵ cũng được dời về thị xã Cà Mau. Tỉnh Bạc Liêu từ năm 1997 đến nay. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, kỳ họp thứ 10, Quốc hội khoá IX, ra Nghị quyết chia và điều chỉnh địa giới một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau. Tỉnh Bạc Liêu lúc này có 4 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Bạc Liêu (tỉnh lỵ) và 3 huyện: Giá Rai, Hồng Dân, Vĩnh Lợi. Ngày 25 tháng 9 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2000/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Hồng Dân để tái lập huyện Phước Long. Ngày 24 tháng 12 năm 2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 98/2001/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Giá Rai để thành lập huyện Đông Hải. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 96/2005/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Vĩnh Lợi để thành lập huyện Hòa Bình. Từ đó, tỉnh Bạc Liêu có 7 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm thị xã Bạc Liêu và 6 huyện: Đông Hải, Giá Rai, Hòa Bình, Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi. Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/NQ-CP về việc thành lập thành phố Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bạc Liêu. Ngày 16 tháng 4 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 537/QĐ-TTg công nhận thành phố Bạc Liêu là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Bạc Liêu. Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 930/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập thị xã Giá Rai trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Giá Rai. Tỉnh Bạc Liêu có 1 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện như hiện nay. Kinh tế. Tỉnh Bạc Liêu định hướng phát triển kinh tế với 5 trụ cột gồm: nông nghiệp, mà trọng tâm là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất tôm, lúa gạo; năng lượng tái tạo gồm điện gió, điện mặt trời và điện khí; phát triển du lịch; phát triển thương mại - dịch vụ, giáo dục, y tế chất lượng cao; phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh. Tình hình kinh tế tỉnh Bạc Liêu năm 2020: Tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) ước tính tăng 4,08% so với năm 2019. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,52%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 7,71%; khu vực dịch vụ tăng 2,79%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,21%. Tổng sản phẩm (GRDP) bình quân đầu người ước tính đạt 54,37 triệu đồng. Cơ cấu nền kinh tế năm 2020 tiếp tục chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 42,57%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 19,20%; khu vực dịch vụ chiếm 33,15%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,08% trong tổng cơ cấu chung của toàn ngành kinh tế. Thu, chi ngân sách và bảo hiểm: Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu ước đạt 11.150,65 tỷ đồng, giảm 1,58% so với cùng kỳ. Tổng chi ngân sách trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đạt 10.882,34 tỷ đồng, tăng 18,08% so với cùng kỳ. Một số khoản chi lớn bao gồm: Chi sự nghiệp kinh tế 783,70 tỷ đồng; chi sự nghiệp giáo dục - đào tạo đạt 1.499,80 tỷ đồng; chi sự nghiệp y tế là 583,25 tỷ đồng... Tổng số thu bảo hiểm năm 2020 đạt 1.294 tỷ đồng, tăng 4,08% so với năm 2019, trong đó: Thu bảo hiểm xã hội đạt 606 tỷ đồng, tăng 5,97%; bảo hiểm y tế là 649 tỷ đồng, tăng 2,39%; bảo hiểm thất nghiệp là 39 tỷ đồng, tăng 4% so cùng kỳ. Tổng số chi bảo hiểm năm 2020 là 1.480 tỷ đồng, bằng 94,22% so cùng kỳ, trong đó chi bảo hiểm xã hội là 603 tỷ đồng, tăng 11,67%; chi bảo hiểm y tế 813 tỷ đồng, bằng 82,39%; chi bảo hiểm thất nghiệp 64 tỷ đồng, tăng 45,45% so cùng kỳ. Đầu tư–xây dựng: Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội tỉnh Bạc Liêu theo giá hiện hành đạt 27.542,31 tỷ đồng, tăng 17,83% so với năm 2019, bao gồm: Vốn khu vực Nhà nước đạt 3.768,42 tỷ đồng (chiếm 13,68% tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội), tăng 10,74% so cùng kỳ; khu vực ngoài Nhà nước đạt 23.614,10 tỷ đồng (chiếm 85,74%), tăng 18,71%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 159,79 tỷ đồng (chiếm 0,58%), tăng 101,38% so năm trước. Về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài: Năm 2020, tỉnh có 1 dự án vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mới được triển khai với tổng vốn đầu tư đăng kí 4 tỷ USD. Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ: Năm 2020, trong điều kiện giá một số mặt hàng thiết yếu tăng trở lại, nhưng với sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ngành có liên quan nhằm thực hiện đồng bộ các biện pháp từ sản xuất, tiêu dùng, điều hòa cung cầu, bình ổn giá cả... nên lạm phát đã được kiểm soát trong giới hạn cho phép. CPI bình quân năm 2020 tăng 6,12% so với bình quân năm 2019. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 12/2020 tăng 3,54% so cùng kỳ và tăng 0,45% so tháng trước. Chỉ số giá vàng tháng 12 năm 2020 tăng 29,35% so với cùng kỳ năm trước; bình quân năm 2020 tăng 26,55% so với bình quân năm 2019. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12 năm 2020 tăng 0,01% so với tháng 12 năm 2019; bình quân năm 2020 tăng 0,16% so với bình quân năm 2019. Doanh nghiệp, hợp tác xã và cơ sở kinh doanh cá thể phi nông nghiệp: Số doanh nghiệp thực tế hoạt động tại thời điểm 31/12/2019 trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu là 1.858 doanh nghiệp, tăng 20,10% so với năm 2018 (tương đương tăng 311 doanh nghiệp), trong đó: Doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm 99,46%/tổng số doanh nghiệp, với 1.848 doanh nghiệp, tăng 20,47%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 06 doanh nghiệp, giảm 14,29%; số lượng doanh nghiệp Nhà nước với 04 doanh nghiệp, giảm 33,33% so với năm 2018. Lao động làm việc trong toàn bộ khu vực doanh nghiệp có 34.132 người, tăng 7,68% so với cùng thời điểm năm 2018, trong đó: Lao động ở khu vực doanh nghiệp ngoài Nhà nước là 31.311 người, tăng 9,73%; lao động khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là 2.455 người, bằng 93,38%; lao động làm việc trong khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ có 366 người, bằng 68,54% so cùng kỳ. Năm 2019, toàn tỉnh có 84 HTX hoạt động trên địa bàn, tăng 9,09% so với năm 2018 (tăng 07 hợp tác xã). Số lao động làm việc trong hợp tác xã là 4.637 người, tăng 17,69% so với cùng kỳ. Số cơ sở kinh doanh cá thể phi nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2020 trên địa bàn tỉnh gồm có 56.917 cơ sở, bằng 96,77% so với năm 2019 (giảm 1.898 cơ sở). Nông, lâm nghiệp và thủy sản: Sản lượng lương thực có hạt của toàn tỉnh năm 2020 đạt 1.172,18 nghìn tấn, tăng 2,05% so cùng kỳ (tương đương tăng 23,55 nghìn tấn). Trong đó, sản lượng lúa đạt 1.171,13 nghìn tấn, tăng 2,05% (tương đương tăng 23,50 nghìn tấn): Sản lượng lúa Đông xuân đạt 364,18 nghìn tấn; lúa Hè thu 585,38 nghìn tấn; lúa Mùa (thu đông) đạt 221,57 nghìn tấn. Sản lượng ngô (bắp) là 1.048 tấn, tăng 4,9% so với cùng kỳ. Năm 2020, diện tích trồng rừng mới tập trung của toàn tỉnh Bạc Liêu đạt 1,57 ha, bằng 2,37% so với cùng kỳ. Toàn bộ diện tích rừng mới là rừng phòng hộ. Sản lượng gỗ khai thác đạt 4.320 m³, tăng 2,49% so với cùng kỳ. Năm 2020, sản lượng thủy sản đạt 380,75 nghìn tấn, tăng 5,74% so với năm 2019. Sản lượng thủy sản nuôi trồng đạt 257,68 nghìn tấn, tăng 6,54%; sản lượng thủy sản khai thác 123,07 nghìn tấn, tăng 4,11%. Trong năm, tỉnh tiếp tục tổ chức thực hiện Đề án "Tái cơ cấu ngành thủy sản tỉnh Bạc Liêu đến năm 2020, định hướng 2030 theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững". Với mục tiêu đưa "Bạc Liêu trở thành trung tâm công nghiệp tôm của cả nước" theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bạc Liêu đã triển khai xây dựng "Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu". Hiện dự án đã hoàn thành gần 90% hạ tầng kỹ thuật giai đoạn I và đã tuyển chọn được 09 doanh nghiệp đầu tư vào khu. Công nghiệp: Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2020 tăng 4,11% so với năm 2019. Trong đó: Chỉ số ngành khai khoáng (khai thác muối) tăng 11,17%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,13%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, hơi nước và điều hòa không khí, chỉ số bằng 92,85% và cuối cùng là ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý xử lý rác thải tăng 12,61% so cùng kỳ. Năm 2020, một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu có sản lượng tăng cao so với năm trước như: Thủy sản đông lạnh xuất khẩu đạt 97.146 tấn, tăng 9,80%; muối Iốt 10.152 tấn, tăng 5,09%; điện thương phẩm, sản lượng 1.101,40 triệu kwh, tăng 5,21%; nước thương phẩm 19.285,89 nghìn m³, tăng 80,49%; bia các loại 31,98 triệu lít, bằng 66,03% so cùng kỳ... Thương mại và dịch vụ, vận tải: Năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đạt 63.838,64 tỷ đồng, tăng 3,69% so với năm trước. Doanh thu du lịch lữ hành năm 2020 tỉnh Bạc Liêu đạt 4,64 tỷ đồng, tăng 87,05% so với cùng kỳ. Số lượt khách nghỉ qua đêm có 620,81 nghìn lượt người, bằng 87,51% so với cùng kỳ năm trước; khách trong ngày 2.400,15 nghìn lượt khách, bằng 91,15%; khách du lịch do các cơ sở lưu trú phục vụ có 3.020,97 nghìn lượt khách, bằng 90,38% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách trong năm 2020 đạt 128,22 triệu hành khách, tăng 4,67% so với cùng kỳ; luân chuyển đạt 3.006,29 triệu hành khách/km, tăng 4,32% so với cùng kỳ. Vận chuyển hàng hóa trong năm 2020 đạt 17,33 triệu tấn, tăng 5,44% so với năm trước; luân chuyển 821,91 triệu tấn/km, tăng 4,75% so với cùng kỳ. Năm 2018 là năm tỉnh Bạc Liêu gặt hái được nhiều thành công trên hầ hết các lĩnh vực kinh tế - xã hội: Trong 20 chỉ tiêu chủ yếu, có 19 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch. Trong đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,36%, cao nhất từ đầu nhiệm kỳ đến nay và liên tục năm sau tăng cao hơn năm trước (năm 2016 tăng trưởng 5,38%, năm 2017 tăng trưởng 6,5%). Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, là năm đánh dấu tỷ trọng khu vực dịch vụ vượt qua khu vực nông nghiệp. Thu nhập bình quân đầu người đạt 42,05 triệu đồng, tăng 12,21% so với cùng kỳ. Tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới có nhiều khởi sắc; nhiều mô hình sản xuất hiệu quả được nhân rộng, đặc biệt mô hình nuôi tôm siêu thâm canh ứng dụng công nghệ cao trong nhà kín, nhà lưới, mô hình cánh đồng lớn sản xuất lúa chất lượng cao phục vụ tiêu thụ trong nước và đóng góp quan trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu 606 triệu USD của tỉnh. Đầu tư từ khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ, trong đó sôi động nhất là lĩnh vực năng lượng, với nhiều dự án điện gió, điện mặt trời đăng ký đầu tư phủ kín khu vực bờ biển và nhiều khu vực trên đất liền của tỉnh. Đặc biệt, tỉnh đã thu hút được dự án Nhà máy điện khí LNG Bạc Liêu với quy mô công suất 3.200MW, tổng vốn đầu tư 4,3 tỷ USD, hiện đang được các bộ, ngành Trung ương thẩm định, dự kiến hoàn tất thủ tục để khởi công trong năm 2019. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội được quan tâm; công tác đền ơn đáp nghĩa, chăm lo gia đình chính sách, đồng bào dân tộc được thực hiện đầy đủ, kịp thời, qua đó góp phần tích cực vào việc duy trì ổn định chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đặc biệt, công tác giảm nghèo được thực hiện quyết liệt và đạt được kết quả tốt, với 4,12% hộ thoát nghèo (chỉ tiêu đề ra là 2%), kéo tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 4,3%. Trong đó, điểm nhấn là chỉ đạo định hướng của Thủ tướng Chính phủ vào đầu năm và kết luận bổ sung của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh vào giữa năm xác định 5 trụ cột trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh gồm: (1) nông nghiệp, mà trọng tâm là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nâng cao hiệu quả sản xuất tôm, lúa gạo; (2) năng lượng tái tạo gồm điện gió, điện mặt trời và điện khí; (3) phát triển du lịch; (4) phát triển thương mại - dịch vụ, giáo dục, y tế chất lượng cao; (5) phát triển kinh tế biển gắn với đảm bảo quốc phòng - an ninh. Quyết định táo bạo này đã tạo nên đường hướng rõ ràng, cụ thể, giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành của tỉnh cũng như các nguồn lực đầu tư xã hội được tập trung đúng mục tiêu, tạo sự mạch lạc, đồng bộ và có tính hiệu quả tốt hơn, qua đó phát huy được yếu tố thời cơ trong phát triển của tỉnh. Mục tiêu lớn nhất của Bạc Liêu trong nhiệm kỳ này là thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ, đưa Bạc Liêu đứng vào tốp các tỉnh khá trong khu vực và trung bình khá của cả nước. Để đạt được mục tiêu này, từ đầu nhiệm kỳ tỉnh đã nhận thức rằng còn rất nhiều khó khăn cần phải vượt qua. Bởi lẽ, Bạc Liêu còn nghèo, với nhiều bất lợi về kết cấu hạ tầng, nguồn nội lực của nền kinh tế cũng như quy mô và sức cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu, hơn nữa vị trí địa lý của tỉnh cũng không thuận lợi. Nếu so sánh với các tỉnh trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long thì hầu hết các chỉ số kinh tế - xã hội của Bạc Liêu đều nằm trong nhóm thứ hạng từ 9 đến 13, nếu không bứt phá, không phát triển nhanh hơn các tỉnh bạn thì mục tiêu chính của nhiệm kỳ sẽ không thể đạt được. Hơn nữa, trong 2 năm đầu nhiệm kỳ, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó khó khăn lớn nhất là cơn hạn mặn lịch sử làm cho tốc độ phát triển của tỉnh chưa đạt như kỳ vọng và thấp hơn rất xa mức bình quân của các tỉnh, thành phố trong khu vực; nếu với tốc độ đó thì Bạc Liêu mãi mãi không thể vươn lên để đạt mục tiêu đề ra. Trước tình thế bất lợi đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thảo luận và thống nhất xác định năm 2018 là năm bản lề, là động lực trong phát triển của tỉnh, phải quyết tâm, quyết liệt tối đa, tạo đột phá mạnh mẽ để Bạc Liêu bứt phá vươn lên. Nếu năm 2018 không thực hiện được, thì với thời gian 2 năm còn lại (2019 - 2020) không thể xoay chuyển được tình thế và có thể xem như Bạc Liêu chính thức không hoàn thành mục tiêu đề ra của nhiệm kỳ. Với quyết tâm đó, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã thống nhất điều chỉnh nâng cao thêm đối với 6 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, nhất là nâng tốc độ tăng trưởng từ 6,5 - 7% lên 7 - 7,5%; đồng thời xác định đường hướng phát triển dựa trên 5 trụ cột kinh tế - xã hội; về định lượng của mục tiêu này, tỉnh đã xác định 5 chỉ tiêu quan trọng phải đứng trong tốp 5 của các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, đó là: Tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân đầu người, tổng mức đầu tư toàn xã hội, sản lượng thủy sản và tỷ lệ giảm nghèo. Hội nghị sơ kết giữa nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã xác định 5 chỉ tiêu chủ yếu để so sánh với các tỉnh, thành phố bạn trong khu vực. Nếu so sánh theo 5 tiêu chí này thì đến cuối năm 2018, Bạc Liêu xếp thứ 4/13 về tăng trưởng kinh tế, 7/13 về thu nhập bình quân đầu người, 6/13 về tổng mức đầu tư toàn xã hội, 6/13 về sản lượng thủy sản và 5/13 về tỷ lệ hộ nghèo. Tổng hợp lại có thể thấy Bạc Liêu hiện đang đứng ở tốp giữa của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Những kết quả đạt được trong năm 2018 của Bạc Liêu là khá tốt, song nếu tính cho cả giai đoạn 3 năm (2016 - 2018), chúng ta phát triển vẫn còn chậm, nhìn nhận khách quan thì tốc độ phát triển của Bạc Liêu cũng chỉ vừa đạt mức yêu cầu. Những khó khăn phía trước vẫn còn nhiều, nhiệm vụ cần phải thực hiện trong giai đoạn còn lại vẫn còn rất nặng nề; chúng ta phải vừa cùng "chạy", vừa tách tốp vượt lên, đây là một "cuộc đua" không hề dễ dàng. Song tôi tin tưởng rằng, với đường hướng phát triển đã được xác định rõ, cộng với đà phát triển hiện nay, nhất là làn sóng đầu tư vào 5 lĩnh vực trụ cột của tỉnh, thì những cơ hội phía trước để tỉnh Bạc Liêu hoàn thành mục tiêu lịch sử của nhiệm kỳ là tương đối tốt. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 10,61%, cao nhất từ đầu nhiệm kỳ đến nay, xếp thứ 2 ở khu vực ĐBSCL. Về phát triển công nghiệp, tỉnh đã tập trung phát triển năng lượng tái tạo gồm điện gió, điện mặt trời và điện khí. Hiện Nhà máy Điện gió Bạc Liêu đã hòa lưới điện quốc gia gần 800 triệu kWh và tiếp tục đầu tư giai đoạn 3. Nhà máy Điện gió Đông Hải 1 và Hòa Bình 1 cũng đã được khởi công trong năm. Riêng Dự án Nhà máy Điện khí LNG Bạc Liêu, quy mô công suất 3.200 MW, với tổng vốn đầu tư 4 tỷ USD, dự kiến khởi công vào cuối năm 2020. Lĩnh vực du lịch tiếp tục phát triển với nhiều kỳ vọng khi hạ tầng các khu, điểm du lịch được quan tâm đầu tư và khởi động nhiều dự án (đặc biệt là Dự án khu văn hóa đa năng ngoài công lập Công tử Bạc Liêu), sản phẩm dịch vụ - du lịch từng bước được hoàn thiện. Doanh thu du lịch - dịch vụ đạt khoảng 2.308 tỷ đồng, tăng 42,46% so với cùng kỳ, lượng khách cũng tăng 38,95% với hơn 2,5 triệu lượt khách. Công tác tuyên truyền, quảng bá, liên kết về du lịch ngày càng được chú trọng; trong đó, việc kết nối du lịch giữa TP. Hồ Chí Minh và 13 tỉnh, thành ĐBSCL trong năm là bước hội nhập đầy lạc quan của du lịch tỉnh nhà trước xu thế mới. Những lợi thế kinh tế: Với những lợi thế về thiên nhiên, Bạc Liêu có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế biển, bao gồm: đánh bắt hải sản, nuôi trồng thủy sản, công nghiệp chế biến, dịch vụ tổng hợp, du lịch và giao thông, có ý nghĩa quan trọng tác động vào sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh. Tỉnh Bạc Liêu đã có những chính sách đầu tư tín dụng ưu đãi góp phần nâng dần phương tiện khai thác biển với công suất lớn để thực hiện việc đánh bắt xa bờ, mở rộng diện tích nuôi tôm công nghiệp, bán công nghiệp, nâng cấp và xây dựng mới các nhà máy chế biến thủy sản với những thiết bị và công nghệ tiên tiến theo hướng xuất khẩu và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, tăng cường đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cho nghề biển mà trước mắt là hoàn chỉnh việc xây dựng cảng cá Gành Hào, một cảng cá có vị trí thuận lợi không chỉ đối với nghề biển Bạc Liêu mà còn đối với cả nước. Trung tâm ngành công nghiệp tôm Khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu, được thành lập theo Quyết định số 694/QĐ-TTg, ngày 24/5/2017 của Thủ tướng Chính phủ. Khu nông nghiệp được xây dựng trên diện tích là 418,91 ha, thuộc địa bàn xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu. Chính thức khởi công xây dựng vào ngày 30/01/2018. Xã hội. Giáo dục. Hệ thống giáo dục của tỉnh Bạc Liêu có nhiều cấp học, bao gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục chuyên nghiệp. Theo thống kê đến ngày 30 tháng 9 năm 2007, Bạc Liêu có 234 trường học ở các cấp phổ thông, thấp nhất khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Sáng ngày 20 tháng 7 năm 2009, 100% xã, phường, thị trấn trong toàn tỉnh có phòng học kiên cố. Toàn tỉnh Bạc Liêu có: Chỉ tiêu phổ cập đúng độ tuổi và THCS đều đạt và vượt tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục & Đào tạo quy định: 96,93% đối tượng tốt nghiệp lớp 9; 81,35% đối tượng từ 15-18 tuổi có bằng tốt nghiệp THCS, trẻ em 6 tuổi vào lớp 1 đạt 99,10%, trẻ em 11-14 tuổi tốt nghiệp Tiểu học đạt 90,79%. 31/61 xã, phường đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Dân số. Theo kết quả điều tra ngày 1 tháng 11 năm 2021, tỉnh Bạc Liêu có 918.207 người. Trong đó, dân số thành thị là 255.248 người (27,80%), dân số nông thôn là 662.959 người (72,20%).<ref name="BACLIEU1/11/2021"></ref> Dân số trung bình năm 2020 của tỉnh Bạc Liêu đạt 913.481 người, tăng 5.240 người, tương đương tăng 0,58% so với năm 2019. Trong đó, dân số thành thị là 253.644 người chiếm 27,76%; dân số nông thôn 659.837 người chiếm 72,23%; dân số nam 457.072 người chiếm 50,04%; dân số nữ 456.409 người chiếm 49,96% trong tổng dân số. Theo điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số của Bạc Liêu là 907.236 người, mật độ dân số đạt 335 người/km², dân số sống tại thành thị đạt 251.676 người, chiếm khoảng 27,74% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 655.560 người, chiếm 72,26% dân số, trong đó nam đạt 453.972 người, nữ đạt 453.264 người. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 28%. Bạc Liêu có ba dân tộc chủ yếu là Kinh, Hoa và Khmer. Sự hòa quyện văn hóa giữa ba dân tộc đã tạo cho Bạc Liêu một nền văn hóa rất riêng biệt khó trộn lẫn từ văn hóa ẩm thực cho đến phong cách sống, giao tiếp hàng ngày. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 157.029 người, nhiều nhất là Phật giáo đạt 131.226 người, Công giáo có 19.206 người, đạo Cao Đài có 5.550 người, đạo Tin Lành có 618 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 354 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 39 người, Minh Sư Đạo có 15 người, Hồi giáo có 14 người, Baha'i giáo có năm người và Bửu Sơn Kỳ Hương chỉ có hai người. Cao ốc Bạc Liêu. Baclieu Tower từng là tòa nhà cao nhất Đồng bằng sông Cửu Long thời điểm tòa nhà này được khánh thành (năm 2011), cao 18 tầng, nằm tại trung tâm thành phố Bạc Liêu, đối diện bưu điện tỉnh Bạc Liêu, có vị trí đẹp nhất trung tâm thành phố. Tòa nhà này được đầu tư bởi tập đoàn PetroVietnam, khởi công từ ngày 29 tháng 9 năm 2010 và khánh thành vào ngày 30 tháng 4 năm 2011. Baclieu Tower có 18 tầng, bao gồm 1 tầng hầm, từ sân thượng của tòa nhà có thể thấy tổng quan về thành phố Bạc Liêu. Tuy nhiên, tòa nhà này không được khai thác sử dụng hiệu quả vì chủ đầu tư thua lỗ, dẫn tới một số hạng mục xuống cấp trầm trọng gây lãng phí. Tòa nhà này đã được quy hoạch trung tâm thương mại, khách sạn, trung tâm hội nghị, văn phòng... Văn hóa. Khám phá những giá trị văn hóa phi vật thể. Bên cạnh những di tích vật thể thì Bạc Liêu còn độc đáo bởi những giá trị văn hóa phi vật thể như các lễ hội, phong tục, tập quán cổ truyền. Đó là các lễ hội Kỳ yên, lễ hội Phật giáo Thượng Ngươn, Trung Ngươn, Hạ Ngươn; lễ hội Chôl Chnăm Thmây, Oóc-om-bóc, Đôn-ta của người Khmer; lễ Giỗ tổ cổ nhạc, lễ cúng Thanh minh... Văn hóa ẩm thực cũng tạo nên nét đặc trưng cho vùng đất cuối trời Nam này. Ẩm thực Bạc Liêu mang sắc thái dân tộc và yếu tố bản địa vùng miền. Nhiều món ăn tạo nên thương hiệu Bạc Liêu như bún bò cay, bánh xèo, bún nước lèo… Bạc Liêu là một trong những cái nôi của đờn ca tài tử Nam bộ. Đây là nơi sinh ra các nhạc sư, nghệ nhân, nhiều ca sĩ, nghệ sĩ lừng danh… Và nói đến đất nước - con người Bạc Liêu, không thể không nhắc đến những trang sử vẻ vang của hai lần giành lại chính quyền từ tay giặc không đổ máu, những cuộc nổi dậy của nông dân Ninh Thạnh Lợi, nông dân Nọc Nạng... Tất cả làm nên một Bạc Liêu với nhiều kỳ tích! Một sức hấp dẫn rất Bạc Liêu sẽ không chỉ dừng lại ở những địa điểm du lịch, những nét văn hóa phi vật thể độc đáo mà còn quyến rũ bởi văn hóa ứng xử, văn hóa giao tiếp, văn hóa làm du lịch của Bạc Liêu. Du khách về thăm Bạc Liêu hãy cảm nhận sức hấp dẫn, sự quyến rũ ấy bằng chính giác quan và cảm quan của mình! Du lịch. Tiềm năng du lịch: Thế mạnh du lịch của Bạc Liêu là du lịch sinh thái, du lịch biển với những cảnh quan thiên nhiên độc đáo như vườn chim, vườn nhãn… đồng thời với những di tích lịch sử – văn hoá như: tháp cổ Vĩnh Hưng, Nọc Nạng, đền thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà lưu niệm cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu, hệ thống đình, chùa… Sự hấp dẫn của du lịch Bạc Liêu còn ở những nét độc đáo trong ẩm thực, trang phục, lễ hội, dân tộc Việt và một bộ phận dân cư người Khmer, người Hoa. Các điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh 1. Di tích lịch sử văn hóa Đồng Nọc Nạng (Địa chỉ: Ấp 4, xã Phong Thạnh A, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu) 2. Di tích lịch sử Nơi thành lập Chi bộ Đảng đầu tiên tỉnh Bạc Liêu (Địa chỉ: Ấp Rạch Rắn, xã Long Điền, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) 3. Khu lưu niệm Nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam bộ và Nhạc sĩ Cao Văn Lầu (Địa chỉ: Đường Cao Lầu, khóm 2, phường 2, thành phố Bạc Liêu) 4. Di tích lịch sử khu Căn cứ Tỉnh ủy Bạc Liêu (Địa chỉ: Ấp Cây Cui, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu) 5. Di tích kiến trúc Nghệ thuật Tháp cổ Vĩnh Hưng (Địa chỉ: Ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) 6. Di tích kiến trúc Nghệ thuật Thành Hoàng Cổ Miếu (Địa chỉ: Khóm 3, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 7. Di tích kiến trúc Nghệ thuật Đình An Trạch (Địa chỉ: Khóm 2, phường 5, thành phố Bạc Liêu) 8. Di tích kiến trúc Nghệ thuật Phước Đức Cổ Miếu (Địa chỉ: Số 74, Điện Biên Phủ, khóm 1, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 9. Di tích kiến trúc Nghệ thuật Tiên sư Cổ Miếu (Địa chỉ: Khóm 2, phường 7, thành phố Bạc Liêu) 10. Đình Bình An (Địa chỉ: Ấp Láng Dài, Thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu) 11. Thiên Hậu Cung (Địa chỉ: Phường 2, thành phố Bạc Liêu) 12. Miếu địa Mẫu Cung (Địa chỉ: Phường 3, thành phố Bạc Liêu) 13. Miếu Quan Đế (Địa chỉ: Phường 2, thành phố Bạc Liêu) 14. Chùa An Thạnh Linh (Địa chỉ: Ấp Chùa Phật, Thị trấn Hòa Bình, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu) 15. Di tích lịch sử Chùa Long Phước (Địa chỉ: Khóm 6, phường 5, thành phố Bạc Liêu) 16. Chùa Tịnh Độ (Địa chỉ: Đường Võ Thị Sáu, Khóm 1, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 17. Chùa Vĩnh Phước An (Địa chỉ: Khóm 4, phường 2, thành phố Bạc Liêu) 18. Tịnh xá Ngọc Liên (Địa chỉ: Đường Ninh Bình, Khóm 2, phường 2, thành phố Bạc Liêu) 19. Di tích lịch sử sự kiện Ninh Thạnh Lợi (Địa chỉ: Ấp Chủ Chọt, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu) 20. Di tích lịch sử Chùa Cỏ Thum (Địa chỉ: Ấp Cỏ Thum, xã Ninh Thạnh Lợi, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu) 21. Chùa Khmer Hưng Hội – Chùa Đầu (Địa chỉ: Ấp Cù Lao, xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) 22. Chùa Khmer Hưng Hội – Chùa Chót (Địa chỉ: Ấp Cái Giá, xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) 23. Di tích kiến trúc Nghệ thuật Chùa Giác Hoa (Địa chỉ: Ấp Xóm Lớn, xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) 24. Di tích lịch sử Chùa Xiêm Cán (Địa chỉ: Ấp Biển Đông A, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu) 25. Di tích lịch sử Chùa Vĩnh Đức (Địa chỉ: Đường Cách Mạng, phường 1, thành phố Bạc Liêu) 26. Chùa Vĩnh Hòa (Địa chỉ: Đường Cách Mạng, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 27. Chùa Châu Viên (Địa chỉ: Xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi, thành phố Bạc Liêu) 28. Phủ thờ dòng họ Cao Triều (Địa chỉ: Khóm 1, phường 5, thành phố Bạc Liêu) 29. Nhà cổ Khưu Hải Chiêu (Địa chỉ: Số 07/128, ấp Biển Tây, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu) 30. Di tích lịch sử Đồng Hồ Thái Dương (Địa chỉ: Đường 30/4, khóm 1, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 31. Chùa Hưng Thiện (Địa chỉ: Ấp Phú Tòng, xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) 32. Lăng cá Ông Gành Hào (Địa chỉ: Khu vực II, Ấp 2, Thị trấn Gành Hào, huyện Đông Hải, tỉnh Bạc Liêu) 33. Lăng cá Ông Vĩnh Thịnh (Địa chỉ: Xã Vĩnh Thịnh, huyện Hòa Bình, tỉnh Bạc Liêu) 34. Khu Cá Ông Nhà Mát (Địa chỉ: Khóm Nhà Mát, phường Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu) 35. Dinh Tỉnh trưởng Điệp (Địa chỉ: Đường Trần Phú, phường 3, thành phố bạc liêu) 36. Di tích kiến trúc Nghệ thuật nhà cổ Tòa Tham Biện (Dinh Tỉnh trưởng thời Pháp) (Địa chỉ: Đường 30/4, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 37. Di tích lịch sử Đình Tân Long (Địa chỉ: Ấp Tân Long, xã Long Thạnh, huyện Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu) 38. Khu nhà Công tử Bạc Liêu (Địa chỉ: Đường Điện Biên Phủ, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 39. Khu du lịch Nhà Mát (Địa chỉ: Khóm Nhà Mát, phường Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu) 40. Quán âm Phật Đài (Địa chỉ: Khóm Nhà Mát, phường Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu) 41. Khu du lịch sinh thái Hồ Nam (Địa chỉ: Số 02 Trần Quang Diệu, phường 1, thành phố Bạc Liêu) 42. Sân chim Bạc Liêu (Địa chỉ: Khóm Kinh Tế, phường Nhà Mát, thành phố Bạc Liêu) 43. Vườn nhãn Bạc Liêu (Địa chỉ: Xã Hiệp Thành và Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu) 44. Cây xoài 300 năm tuổi (Địa chỉ: Ấp Giồng Nhãn, xã Hiệp Thành, thành phố Bạc Liêu) 45. Biển và rừng ngập mặn (Địa chỉ: Tuyến đê biển Nhà Mát – Gành Hào, tỉnh Bạc Liêu) 46. Nhà thờ Tắc Sậy (Địa chỉ: Quốc lộ 1, Ấp 2, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai tỉnh, Bạc Liêu) 47. Khu điện gió (Địa chỉ: Ấp Biển Đông B, xã Vĩnh Trạch Đông, thành phố Bạc Liêu) 48. Tượng đài sự kiện Mậu Thân (Địa chỉ: Quảng trường Hùng Vương, phường 1, thành phố Bạc Liêu) 49. Tượng đài liệt sỹ (Địa chỉ: Đường Trần Huỳnh, phường 1, thành phố Bạc Liêu) 50. Quảng trường Hùng Vương (Địa chỉ: Khu trung tâm hành chính tỉnh, đường Nguyễn Tất Thành, phường 1,thành phố Bạc Liêu) 51. Bảo tàng tổng hợp (Địa chỉ: Số 84 Hai Bà Trưng, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 52. Trung tâm triển lãm văn hóa nghệ thuật và Nhà hát Cao Văn Lầu (Địa chỉ: Quảng trường Hùng Vương, đường Nguyễn Tất Thành, phường 1, thành phố Bạc Liêu) 53. Bia Khám Lớn (Địa chỉ: Đường 30/4, phường 3, thành phố Bạc Liêu) 54. Đình An Trạch (Địa chỉ: ấp Văn Đức, xã An Trạch, Đông Hải) 55. Nhà thờ cha Diệp (Địa chỉ: ấp Thành Thưởng, xã An Trạch, Đông Hải) Thăm di tích, thắng cảnh... Vùng đất Bạc Liêu có nhiều di tích ghi dấu những sự kiện từ ngày đầu khai hoang mở đất. Đây còn là vùng đất hội tụ văn hóa của ba dân tộc Kinh - Hoa - Khmer thể hiện qua những công trình văn hóa độc đáo, tạo nên vẻ đẹp riêng Bạc Liêu. Trước hết, phải kể đến di tích cấp quốc gia Tháp cổ Vĩnh Hưng. Di tích này nằm cách thành phố Bạc Liêu khoảng 20 km về hướng Tây Bắc, thuộc ấp Trung Hưng 1B, xã Vĩnh Hưng A, huyện Vĩnh Lợi. Đây là công trình kiến trúc nghệ thuật có niên đại 892 sau Công nguyên. Những cổ vật được phát hiện nơi này đã "kể lại" những ngày vàng son của nền văn hóa Óc Eo một thời. Trở lại thành phố Bạc Liêu, du khách hãy đến xem đồng hồ Thái Dương, một sản phẩm của nhà bác vật đầu tiên ở Việt Nam - ông Lưu Văn Lang (1880-1969). Đồng hồ Thái Dương được xây dựng bằng gạch và xi măng, chỉ dựa vào hướng đi của ánh nắng mặt trời để báo giờ. Quần thể nhà Công tử Bạc Liêu tọa lạc trên đường Điện Biên Phủ (phường 3) là địa chỉ không thể bỏ qua của du khách khi đến Bạc Liêu. Đây là nhà của ông Trần Trinh Trạch, cha của Trần Trinh Huy - người được mệnh danh là Công tử Bạc Liêu. Ngôi nhà xây dựng năm 1919 được coi là bề thế nhất của Bạc Liêu thời đó, do kỹ sư người Pháp thiết kế và có nhiều vật liệu phải chở từ Pháp sang. Nhà Công tử Bạc Liêu hiện được bày biện, phục tráng gần như nguyên trạng. Du khách muốn tận hưởng không khí mát dịu trong lành của rừng hoang sơ giữa lòng thành phố Bạc Liêu, hãy đến với vườn chim Bạc Liêu, cách trung tâm thành phố 6 km về hướng biển. Đây là cảnh quan độc đáo mà thiên nhiên ban tặng cho Bạc Liêu, cũng là thảm rừng ngập mặn quý hiếm còn sót lại ở Việt Nam, là nơi cư trú của nhiều loài động, thực vật quý hiếm... Giữa lòng thành phố Bạc Liêu còn có khu du lịch sinh thái Hồ Nam, một trong sáu điểm du lịch tiêu biểu đồng bằng sông Cửu Long ở Bạc Liêu… Khu du lịch này có vị trí đắc địa về phong thủy với hồ nước rộng đến 12ha bốn bề lộng gió, hệ thống các dịch vụ vừa hiện đại, vừa mang đậm tính dân dã truyền thống của Bạc Liêu xưa, đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí, nghỉ dưỡng... Sau khi ngắm vườn chim, thăm vườn nhãn cổ, xem cây xoài 300 tuổi, một điểm không thể bỏ qua là khu Quán âm Phật đài được xây dựng gần cửa biển Nhà Mát - một công trình kiến trúc, văn hóa, tâm linh ở Bạc Liêu. Cách đây không xa lại có thêm khu biển nhân tạo vừa được mở cửa để phục vụ du khách. Ngoài ra, Bạc Liêu còn có rất nhiều đình, chùa và các đền thờ được xây dựng để thờ các vị tiền nhân có công lao đối với quê hương Bạc Liêu (chùa Vĩnh Đức, chùa Long Phước, chùa Xiêm Cán, chùa Giác Hoa, đình thần Nguyễn Trung Trực, đình Tân Hưng...). Đặc biệt, Bạc Liêu còn có Đền thờ Bác Hồ ở xã Châu Thới, huyện Vĩnh Lợi với khuôn viên rộng 6.000m²; khu di tích Đồng Nọc Nạng (thị xã Giá Rai); khu di tích Ninh Thạnh Lợi (huyện Hồng Dân); khu lưu niệm Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam bộ và nghệ nhân Cao Văn Lầu... Vừa qua hiệp hội du lịch đồng bằng sông Cửu Long đã công nhận thêm 3 điểm du lịch tiêu biểu vùng đồng bằng sông Cửu Long năm 2014 ở Bạc Liêu là: Quảng trường Hùng Vương (thành phố Bạc Liêu),Khu nhà công tử Bạc Liêu (thành phố Bạc Liêu),Khu biển nhân tạo thuộc khu du lịch Nhà Mát (thành phố Bạc Liêu) nâng tổng số điểm du lịch tiêu biểu của tỉnh lên 6 điểm du lịch nhiều nhất toàn vùng. Hiện nay Bạc Liêu chiếm 9/41 điểm du lịch tiêu biểu của ĐBSCL và dẫn đầu khu vực. Hiện Bạc Liêu đứng thứ 5 khu vực Đồng bằng sông Cửu Long về lượng khách du lịch (sau Đồng Tháp, Tiền Giang, An Giang, Cần Thơ, Kiên Giang) và dẫn đầu khu vực về số lượng điểm du lịch tiêu biểu. Giao thông. 1. Quốc lộ 1, đi qua huyện Vĩnh Lợi, thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và thị xã Giá Rai. 2. Tỉnh lộ 1, nối huyện Hồng Dân với thành phố Bạc Liêu, đi qua các huyện Hồng Dân, Phước Long, Vĩnh Lợi, Hòa Bình. 3. Tỉnh lộ 2, nối thị trấn Phước Long (huyện Phước Long) với Quốc lộ 1 tại xã Vĩnh Mỹ B (huyện Hòa Bình), để đến thành phố Bạc Liêu, tỉnh lộ 2 đi qua huyện Phước Long và Hòa Bình. 4. Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp: nối thành phố Ngã Bảy với thành phố Cà Mau, đi qua huyện Hồng Dân, Phước Long và thị xã Giá Rai. 5. Tuyến đường Giá Rai - Gành Hào: nối thị xã Giá Rai với huyện Đông Hải, đi qua thị xã Giá Rai và huyện Đông Hải. 6. Quốc lộ 91C - đường Nam Sông Hậu, chạy dọc theo sông Hậu và biển Đông, nối thành phố Cần Thơ với thành phố Bạc Liêu. 7. Tuyến đường đê biển, chạy dọc theo bờ biển Bạc Liêu, nối thị trấn Gành Hào với thành phố Bạc Liêu, đi qua thành phố Bạc Liêu, huyện Hòa Bình và huyện Đông Hải. 8. Các hương lộ, huyện lộ khác và đường đô thị ở các phường, thị trấn. 9. Đặc điểm chung của các tuyến đường ở Bạc Liêu (trừ các tuyến đường ở thành phố, thị xã và thị trấn) là đều nằm cạnh một con sông, con kênh nhất định. Đây cũng là đặc điểm của giao thông miền Tây Nam Bộ. Biển số xe - Thành phố Bạc Liêu: 94-K1/K2 - Thị xã Giá Rai: 94-D1 - Huyện Phước Long: 94-E1 - Huyện Hồng Dân: 94-F1 - Huyện Vĩnh Lợi: 94-C1/K1/K2 - Huyện Đông Hải: 94-B1 - Huyện Hòa Bình: 94-G1/K1/K2 - Ký hiệu biển số xe ô tô ở tỉnh Bạc Liêu bao gồm: 94A, 94B, 94C, 94D, 94E, 94F, 94G, 94H, 94LD. - Ký hiệu biển số xe 50cc của tỉnh Bạc Liêu bao gồm: 94AB, 94AH. Tỉnh kết nghĩa. Ninh Bình có các công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội mang tên các địa danh của tỉnh Bạc Liêu như: trường cấp II Ninh Bình - Bạc Liêu, sông Vĩnh Lợi, cống Vĩnh Lợi, cống Bạc Liêu ở xã Yên Mỹ, cống Bạc Liêu ở xã Khánh Lợi, trạm bơm Bạc Liêu, trục kênh Bạc Liêu. Bạc Liêu có đường Ninh Bình là tuyến đường có Di tích lịch sử văn hóa Quốc gia là Khu lưu niệm nghệ thuật Đờn ca tài tử Nam Bộ và nhạc sĩ Cao Văn Lầu- đây là điểm tham quan, du lịch tiêu biểu của tỉnh Bạc Liêu. Trên Quảng trường Hùng Vương lớn nhất khu vực Đồng bằng sông Cửu Long tại Phường 1, Tp. Bạc Liêu có một công trình mang tên "Biểu tượng kết nghĩa Bạc Liêu - Ninh Bình". Đó là một biểu tượng có hồ nước rộng 176 m² với 3 vòm cong trên hồ liên kết với nhau tượng trưng cho sự trùng trùng điệp điệp, hùng vĩ của thiên nhiên đèo Ba Dội Ninh Bình hòa quyện với những ruộng muối đặc trưng của Bạc Liêu. Ngoài ra còn có một số công trình khác mang địa danh Ninh Bình như Trường THCS Bạc Liêu - Ninh Bình, Cầu Kim Sơn, Trường Tiểu học Hoa Lư, cầu Gia Viễn, cầu Trường Yên, khu dân cư Tràng An,… tại các huyện, thị xã, thành phố của tỉnh Bạc Liêu.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bến Tre là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Năm 2021, Bến Tre là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 28 về dân số, xếp thứ 46 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 56 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 48 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.288.200 người, GRDP đạt 60.035 tỉ đồng (tương ứng với 2,83 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 45,1 triệu đồng (tương ứng với 1.924 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,85%. Bến Tre có 09 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm các huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú và thành phố Bến Tre. Trước kia, tỉnh Bến Tre là vùng hoang vu, một thời gian sau đó có một vài nhóm người đến định cư và thường tập trung nơi đất cao trên các giồng và ven biển, hoặc dọc theo các đê sông, rạch, thuận tiện cho việc đi lại, sinh sống và tránh lũ lụt. Càng ngày số người đến định cư ngày càng đông, chính sự di cư này kèm theo sự gia tăng dân số, làm cho diện tích rừng ngày càng thu hẹp. Bến Tre ngày trước được người Khmer gọi là Sóc Treay (xứ cá) vì nhiều giống cá nằm rải rác trong tỉnh. Về sau người Việt lập nên một cái chợ mà họ gọi là Bến Tre. Con rạch chảy ngang trước chợ và đổ vào Sông Hàm Luông nên cũng mang tên này. Bến Tre cũng là quê hương của Đạo Dừa, với biệt danh là "Xứ Dừa". Từ thời Chiến tranh Việt Nam, Bến Tre được coi là "quê hương của Phong trào Đồng khởi", mở đầu cho cao trào đấu tranh vũ trang của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam chống chính quyền Ngô Đình Diệm, tiêu biểu nhất là trong năm 1960. Địa lý. Tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt, đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, với các hệ thống kênh rạch chằng chịt. Các điểm cực của tỉnh Bến Tre: Tỉnh Bến Tre có diện tích tự nhiên là 2.360 km², địa bàn nằm trên ba cù lao là cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của bốn nhánh sông Cửu Long bồi tụ nên (gồm sông Tiền dài 83 km, sông Ba Lai dài 59 km, sông Hàm Luông dài 71 km, sông Cổ Chiên dài 82 km) và đất phù sa màu mỡ, cây trái sum suê... Điều kiện tự nhiên. Bến Tre nằm trong miền khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhưng lại nằm ngoài ảnh hưởng của gió mùa cực đới, nên nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, nhiệt độ trung bình hằng năm từ 26 °C – 27 °C. Tỉnh Bến Tre chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau và gió mùa tây nam từ tháng 5 đến tháng 10, giữa 2 mùa này thời kỳ chuyển tiếp có hướng gió thay đổi vào các tháng 1 và tháng 4 tạo nên 2 mùa rõ rệt. "Mùa gió đông bắc" là thời kỳ khô hạn, mùa gió tây nam là thời kỳ mưa ẩm. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.250 mm – 1.500 mm. Trong mùa khô, lượng mưa vào khoảng 2 đến 6% tổng lượng mưa cả năm. Khí hậu Bến Tre cũng cho thấy thích hợp với nhiều loại cây trồng. Tuy nhiên, ngoài thuận lợi trên, Bến Tre cũng gặp những khó khăn do thời tiết nóng ẩm nên thường có nạn sâu bệnh, dịch bệnh, và nấm mốc phát sinh, phát triển quanh năm. Trở ngại đáng kể trong nông nghiệp là vào mùa khô, lượng nước từ thượng nguồn đổ về giảm nhiều và gió chướng mạnh đưa nước biển sâu vào nội địa, làm ảnh hưởng đến năng suất cây trồng đối với các huyện gần phía biển và ven biển. Bến Tre nằm ở hạ lưu sông Mekong, giáp với biển Đông, với mạng lưới sông ngòi chằng chịt có tổng chiều dài xấp xỉ 6.000 km, trong đó có sông Cổ Chiên dài 82 km, sông Hàm Luông dài 71 km, sông Ba Lai dài 59 km, sông Tiền dài 83 km. Hệ thống sông ngòi ở Bến Tre rất thuận lợi về giao thông đường thủy, nguồn thủy sản phong phú, nước tưới cho cây trồng ít gặp khó khăn, tuy nhiên cũng gây trở ngại đáng kể cho giao thông đường bộ, cũng như việc cấp nước vào mùa khô, khi thủy triều biển Đông đưa mặn vào sâu trong kênh rạch vào mùa gió chướng. Địa hình tỉnh Bến Tre có độ cao trung bình từ 1 - 2 mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao chênh lệch khá lớn, tối đa là 3,5 mét. Trong đó, phần cao nhất thuộc khu vực huyện Chợ Lách và một phần huyện Châu Thành, độ cao tuyệt đối có nơi đạt trên 5 mét, nhưng đa số từ 3 đến 3,5 mét. Phần đất thấp độ cao trung bình khoảng 1,5 mét, tập trung tại các vùng Phước An, Phước Tú ở huyện Châu Thành hoặc Phong Phú, Phú Hòa ở huyện Giồng Trôm. Phần đất trũng, độ cao tối đa không quá 0,5 mét, phân bố ở các huyện ven biển như huyện Bình Đại, Ba Tri và Thạnh Phú. Địa hình bờ biển của tỉnh chủ yếu là các bãi bồi rộng với thành phần chủ yếu là bùn hoặc cát. Khi triều rút, các bãi bồi nổi lên và trải rộng ra biển hàng nghìn mét, tạo thuận lợi cho nuôi trồng hải sản. Bến Tre có 4 nhóm đất chính là nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất phèn và nhóm đất mặn. Trong đó, nhóm đất mặn chiếm diện tích lớn nhất trong các loại đất của tỉnh 43,11%, nhóm đất phù sa chiếm 26,9% diện tích toàn tỉnh, nhóm đất phèn, chiếm khoảng 6,74% diện tích đất tự nhiên của tỉnh, nhóm đất cát chủ yếu là loại đất giồng chiếm diện tích thấp nhất 6,4% diện tích toàn tỉnh. Tỉnh Bến Tre nằm ở cuối nguồn sông Cửu Long, tiếp giáp biển Đông với chiều dài đường biển khoảng 65 km và các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh, Vĩnh Long. Tỉnh lỵ Bến Tre cách Thành phố Hồ Chí Minh 87 km về phía Tây qua Tiền Giang và Long An. Địa hình của Bến Tre bằng phẳng, có độ cao trung bình từ 1 đến 2 mét so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam, độ cao chênh lệch khá lớn, tối đa là 3,5 m. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, các tháng còn lại là mùa khô. Nhiệt độ trung bình năm từ 26C - 27C. Lượng mưa trung bình năm từ 1.250 - 1.500 mm. Hành chính. Tỉnh Bến Tre hiện có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 8 huyện. Trong đó có 157 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 10 thị trấn, 8 phường và 139 xã. Lịch sử. Nguồn gốc dân cư Bến Tre. Đất Bến tre do phù sa sông Cửu Long bồi đắp. Đến đầu thế kỉ XVIII, phần lớn đất đai còn hoang vu, lầy lội, là nơi nhiều loài dã thú như cọp, heo rừng, trâu rừng, cá sấu, trăn, rắn sinh sống. Trong sách "Phủ biên tạp lục" viết về xứ Đàng Trong giữa thế kỉ XVIII, Lê Quý Đôn ghi: "Từ các cửa biển Cần Giờ, Lôi Lạp, cửa Đại, cửa Tiểu trở vào toàn là rừng rậm hàng ngàn dặm" Nhưng đó chỉ là nhìn từ bên ngoài, còn bên trong đã có các "lõm" dân cư vào khai phá sinh sống. Đó là những lưu dân người Việt từ miền Bắc và miền Trung vào, chủ yếu là miền Trung, đa số là những nông dân nghèo khổ vào Nam tìm đất sống, nhất là vào thời gian quân Trịnh lợi dụng chúa Nguyễn đang lúng túng trước phong trào Khởi nghĩa Tây Sơn, đánh chiếm Thuận Hóa, Quảng Nam (1774). Ngoài ra còn có các thành phần khác như binh lính, trốn lính, tù nhân bị lưu đày, người có tội với triều đình, người Minh Hương hay một số người có tiền của vào khai phá... Người di dân đến Bến Tre chủ yếu bằng đường biển và đường bộ, đa số là bằng đường biển. Sự khai phá và định cư của người Việt trên đất Bến Tre. Khi đặt chân lên đất Bến Tre, những lưu dân người Việt chọn những giồng đất cao ráo để sinh sống. Vùng đất Ba Tri được khai phá sớm nhất vì nơi đây là địa điểm dừng chân của các lưu dân theo đường biển. Lần hồi, dân cư ngày càng đông đúc, lập nên thôn, trại, làng. Nhờ những kinh nghiệm trong sản xuất ở quê nhà, khi đến vùng đất mới mênh mông, những người dân đã tạo nên những cánh đồng bao la, những vườn dừa bạt ngàn, những vườn cây ăn trái tươi tốt. Chỉ trong hai thế kỉ, những vùng đất hoang vu đầy dã thú, các cù lao nằm ở cuối vùng sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên đã trở thành nơi sản xuất dừa, trái cây, gạo ngon nổi tiếng. Lịch sử hành chính. Từ năm 1757, Bến Tre được gọi là tổng Tân An thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ. Đời vua Minh Mạng, miền Nam Việt Nam chia thành sáu tỉnh: Vĩnh Long, Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, An Giang và Hà Tiên. Đất Bến Tre bấy giờ là phủ Hoàng Trị gồm các huyện Tân Ninh, Bảo An, Bảo Hậu và trực thuộc tỉnh Vĩnh Long. Tỉnh Bến Tre vốn là một phần của dinh Hoằng Trấn lập ra năm 1803, năm sau đổi là dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808 dinh này lại đổi là trấn Vĩnh Thanh. Năm 1832, cù Lao An Hóa với hai tổng Hòa Quới và Hòa Minh nằm trong huyện Kiến Hòa. Năm 1844, vua Minh Mạng bỏ trấn lập tỉnh, đất Bến Tre là hai phủ Hoằng An và Hoằng Trị, thuộc tỉnh Vĩnh Long. Thời Pháp thuộc, Ngày 15 tháng 7 năm 1867 thành lập hạt (Sở tham biện) Bến Tre, cai trị đầu tiên là chủ hạt De Champeaux (1867 - 1868). Ngày 4 tháng 12 năm 1867, tách hai huyện Tân Minh và Duy Minh của hạt Bến Tre thành lập hạt Mỏ Cày, lỵ sở đặt tại chợ Mỏ Cày. Ngày 5 tháng 6 năm 1871, hạt Bến Tre bị giải thể, nhập địa bàn vào hạt Mỏ Cày. Ngày 2 tháng 11 năm 1871 dời lỵ sở từ chợ Mỏ Cày về chợ Bến Tre nên đổi tên thành hạt Bến Tre. Ngày 16 tháng 3 năm 1872, hạt Bến Tre nhận thêm 2 tổng Minh Chánh và Minh Lý từ hạt Vĩnh Long, do De Boullenois de Senuc làm chủ hạt. Ngày 25 tháng 7 năm 1877, tổng Minh Chánh bị giải thể, nhập phần đất phía Tây kinh Giằng Xây của tổng này vào tổng Minh Thuận cùng hạt. Hạt (sở tham biện) Bến Tre vào thời gian này có 21 tổng. Chánh tham biện lúc này là Marquis. Theo Nghị định ngày 22 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt (Sở tham biện) Bến Tre trở thành tỉnh Bến Tre (chỉ gồm có cù lao Bảo và cù lao Minh, có bốn quận: Châu Thành, Ba Tri, Mỏ Cày và Thạnh Phú; đến năm 1948 cù lao An Hóa thuộc Mĩ Tho mới được chính quyền cách mạng nhập vào phần đất Bến Tre). Năm 1912, tỉnh thành lập 4 quận là Ba Tri, Sóc Sải, Mỏ Cày, Thạnh Phú; Daroussin làm chủ tỉnh Bến Tre. Từ ngày 1 tháng 1 năm 1927, thời chủ tỉnh Bến Tre là Rivoal, quận Sóc Sải được đổi tên thành quận Châu Thành. Từ ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Bến Tre đổi tên thành tỉnh Kiến Hòa và gồm 9 quận là Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Đôn Nhơn, Giồng Trôm, Hàm Long, Hương Mỹ, Thạnh Phú, Trúc Giang. Tỉnh lị tỉnh Kiến Hòa đổi tên là Trúc Giang. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Kiến Hòa mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Bến Tre. Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Long An, tỉnh Bến Tre, tỉnh Mỹ Tho, tỉnh Gò Công và thành phố Mỹ Tho sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Bến Tre vẫn để thành tỉnh riêng biệt. Tháng 2 năm 1976, tỉnh Kiến Hòa đổi thành tỉnh Bến Tre. Tỉnh Bến Tre có thị xã Bến Tre và 7 huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày, Thạnh Phú. Ngày 9 tháng 2 năm 2009, chia huyện Mỏ Cày thành hai huyện: Mỏ Cày Bắc và Mỏ Cày Nam. Ngày 11 tháng 8 năm 2009, chuyển thị xã Bến Tre thành thành phố Bến Tre. Tỉnh Bến Tre có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Bến Tre và các huyện: Ba Tri, Bình Đại, Châu Thành, Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Thạnh Phú. Ngày 13 tháng 2 năm 2019, thành phố Bến Tre được công nhận là đô thị loại II. Kinh tế - xã hội. Bến Tre cũng có diện tích trồng lúa khá lớn, do phù sa sông Cửu Long bồi đắp, đặc biệt là ở Hàm Luông. Cây lương thực chính là lúa, hoa màu phụ cũng chiếm phần quan trọng là khoai lang, ngô, và các loại rau. Mía được trồng nhiều tại các vùng đất phù sa ven sông rạch; nổi tiếng nhất là có các loại mía tại Mỏ Cày và Giồng Trôm. Diện tích trồng thuốc lá tập trung ở Mỏ Cày, nơi có loại thuốc thơm cũng nổi tiếng. Đất bồi thích hợp trồng cói. Bến Tre có nhiều loại cây ăn trái như cam, quýt, sầu riêng, chuối, chôm chôm, măng cụt, mãng cầu, xoài cát, bòn bon, dứa, vú sữa, bưởi da xanh... trồng nhiều ở huyện Chợ Lách, Giồng Trôm, Mỏ Cày và Châu Thành. Ngoài đặc sản là kẹo dừa, bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc. Làng nghề Cái Mơn, huyện Chợ Lách, hàng năm cung ứng cho thị trường hàng triệu giống cây ăn quả và cây cảnh khắp nơi. Năm 2012, tỉnh Bến Tre đề ra mục tiêu cơ bản của năm là tăng trưởng kinh tế đạt 13%, cải thiện đời sống nhân dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 7,1%, bảo đảm an sinh xã hội, giữ vững ổn định chính trị. Trong 6 tháng đầu năm 2012, mặc dù kinh tế tỉnh gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn tiếp tục duy trì và phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt 9,29%, thị trường xuất khẩu được giữ vững và có bước phát triển, xuất khẩu tăng trưởng khá, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 247,72 triệu USD. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi chuyển đổi theo hướng tăng năng xuất, chất lượng, hiệu quả, mô hình trồng xen, nuôi xen trong vườn dừa tiếp tục được triển khai và nhân rộng, dịch bệnh nguy hiểm trên gia xúc, gia cầm không xảy ra. Sản xuất công nghiệp duy trì và phát triển khá, hoạt động thương mại nội địa đáp ứng được nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trong nhân dân. Tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội 6.360 tỷ đồng. Chất lượng phục vụ các ngành dịch vụ đáp ứng tốt yêu cầu. Giải quyết việc làm, giảm nghèo, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của nhân dân. Lĩnh vực y tế, văn hóa, giáo dục, thể dục, thể thao tiếp tục phát triển, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục phát triển và nâng lên về chất. Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều khó khăn, phức tạp. Trong đó giá cả một số loại hàng hóa vật tư thiết yếu tăng cao, giá một số hàng nông sản như dừa, cá tra,… giảm mạnh, dịch bệnh tôm nuôi phát sinh và gây thiệt hại lớn, sản xuất công nghiệp còn gặp nhiều khó khăn đã ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của nhân dân. Công tác giải phóng mặt bằng một số công trình chậm ảnh hưởng đến tiến độ thi công do tình hình tranh chấp, khiếu kiện vẫn còn phức tạp, nhất là lĩnh vực tranh chấp đất đai, giải phóng mặt bằng, tình hình trật tự an toàn xã hội trên một số lĩnh vực vẫn còn diễn biến phức tạp, phạm pháp hình sự, tai nạn, tệ nạn xã hội mặc dù được kéo giảm so với cùng kỳ nhưng còn xảy ra nhiều vụ giết người, chết người, tài sản thiệt hại lớn. Đến tháng 10 năm 2012, Tình hình kinh tế xã hội tiếp tục phát triển, một số chỉ tiêu chủ yếu tăng khá, đạt kế hoạch và vượt so với cùng kỳ. Kinh tế tháng 10 tiếp tục có sự tăng trưởng khả quan trên tất cả các lĩnh vực và tăng so với cùng kỳ, tạo tiền đề và động lực để các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân tỉnh nhà hăng hái chăm lo sản xuất, góp phần thúc đẩy kinh tế xã hội của tỉnh tăng trưởng cao hơn trong những tháng còn lại của năm 2012. Trong tháng 10 năm 2012, Sản xuất nông nghiệp đã thu hoạch xong vụ lúa hè thu, với tổng diện tích là 22.234 ha, giảm 3,11% so cùng kỳ nhưng năng suất bình quân 47,32 tạ/ha, tăng 1,7% so cùng kỳ. Vụ thu đông, toàn tỉnh đã xuống giống khoảng 23.937 ha, đạt 93,9% kế hoạch, giảm 5,3% so cùng kỳ và vụ Mùa đã xuống giống 9.245 ha, đạt 110% kế hoạch và tăng 7% so cùng kỳ. Nuôi trồng thủy sản đã thả giống khoảng 28.867 ha tôm sú, giảm 2,8% so cùng kỳ. Diện tích nuôi cá tra thâm canh đã thả giống ước khoảng 700 ha, sản lượng thu hoạch ước đạt 141.331 tấn.Tình hình nuôi nghêu sò phát triển thuận lợi, sản lượng thu hoạch ước khoảng 16.596 tấn. Hoạt động khai thác thủy sản gặp khó khăn do bị ảnh hưởng của thời tiết và giá xăng dầu tăng nhưng nhờ trúng mùa cá ngừ và cá nục nên sản lượng khai thác thủy sản đạt 13.563 tấn, tăng 6,39% so với tháng trước. Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tăng 15,57% so với tháng trước, giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 404,5 tỷ đồng, luỹ kế 10 tháng đầu năm đạt 4.271 tỷ đồng, đạt 80,1% kế hoạch, tăng 22,1% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hàng hóa trong tháng ước đạt 511 ngàn tấn, luân chuyển đạt 47.810 ngàn tấn-km vận chuyển hành khách ước đạt 2.708 ngàn lượt hành khách. Tình hình hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tương đối ổn định. Tổng vốn thực hiện trong tháng khoảng 0,4 triệu USD, bằng 20% so cùng kỳ, doanh thu xuất khẩu ước 16,5 triệu USD, tăng 65% so cùng kỳ. Tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là 16.687 người, trong đó khu công nghiệp là 16.111 người. Trong tháng, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 19 doanh nghiệp, với tổng vốn đầu tư ban đầu 315,9 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ xã hội trong tháng ước thực hiện 1.645,8 tỷ đồng. Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 1,2% so với tháng trước, tăng 2,85% so với đầu năm và bình quân 10 tháng tăng 8,59% so với cùng kỳ, trong đó nhóm thuốc và dịch vụ y tăng mạnh 15,27%, các nhóm hàng hóa còn lại đều tăng nhẹ so với trước. Trong tháng, tỉnh đã đón và phục vụ 45.274 lượt du khách, giảm 8,96% so cùng kỳ, trong đó, khách quốc tế khoảng 19.563 lượt, giảm 10,91% so cùng kỳ. Doanh thu ước đạt 22,4 tỷ đồng. Hoạt động xuất khẩu tháng 10 tiếp tục phát triển, đạt 37,5 triệu USD, luỹ kế 10 tháng đầu năm đạt 347,14 triệu USD, đạt 80,7% kế hoạch, tăng 18,1% so cùng kỳ. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu trong tháng là, thủy hải sản các loại 2.200 tấn, chỉ xơ dừa 7.657 tấn, hàng may mặc 3,16 triệu USD… Năm 2019 các ngành, các cấp của Bến Tre đã có sự tăng tốc khá đồng bộ, nhiều nội dung đạt kết quả cao thể hiện tính bứt phá. Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, có 24/24 chỉ tiêu đạt và vượt, trong đó thu ngân sách (vượt trên 31%), tăng trưởng kinh tế (đạt 7,39%), TP. Bến Tre đạt đô thị loại II, xây dựng Tầm nhìn chiến lược... là những nội dung thể hiện sự bứt phá rất đáng khích lệ. Dân số. Theo thống kê năm 2020, tỉnh Bến Tre có diện tích 2.394 km², dân số năm 2020 là 1.288.463 người, mật độ dân số đạt 538 người/km². Dân số tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 của Bến Tre đạt 1.288.463 người, với mật độ dân số 533 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 126.447 người, chiếm 9,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.162.016 người, chiếm 90,2% dân số. Dân số nam đạt 630.492 người, trong khi đó nữ đạt 657.971 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,26% Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 23%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau đạt 210.413 người, nhiều nhất là Phật giáo đạt 106.914 người, tiếp theo là Công giáo có 73.677 người, đạo Cao Đài có 17.020 người, đạo Tin Lành có 8.713 người, Phật giáo Hòa Hảo chiếm 3.679 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 191 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 115 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 61 người, Minh Lý Đạo có 24 người, Minh Sư Đạo có 12 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có bốn người và tôn giáo Baha'i có ba người. Văn hóa. Có hai lễ hội lớn ở Bến Tre là hội đình Phú Lễ và Lễ hội nghinh Ông. Đình Phú Lễ ở ấp Phú Khương, xã Phú Lễ, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, thờ Thành hoàng Bổn Cảnh. Hàng năm lễ hội đình Phú Lễ diễn ra 2 lần: lễ Kỳ Yên vào ngày 18, ngày 19 tháng 3 âm lịch để cầu cho mưa thuận, gió hòa và lễ Cầu Bông vào ngày 9, ngày 10 tháng 11 âm lịch cầu cho mùa màng tươi tốt. Lễ hội có rước sắc thần, lễ tế Thành Hoàng, người đã có công khai khẩn giúp dân trồng trọt. Đêm có hát bội và ca nhạc tài tử. Lễ hội nghinh Ông là lễ hội phổ biến của các làng ven biển của Việt Nam, trong đó có Bến Tre. Hàng năm vào các ngày 16/6 âm lịch tại các đình đền hay miếu của các xã thuộc huyện Bình Đại, huyện Ba Tri, mở lễ hội này. Trong ngày hội tất cả tàu thuyền đánh cá đều về tập trung neo đậu để tế lễ, vui chơi và ăn uống. Ngày 18 tháng 7 năm 2016, Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch tỉnh Bến Tre phối hợp Ủy ban nhân dân huyện Bình Đại tổ chức Lễ công bố di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia Lễ hội Nghinh ông Nam Hải ở xã Bình Thắng, huyện Bình Đại. Du lịch. Du lịch sinh thái. Bến Tre có điều kiện thuận tiện để phát triển du lịch sinh thái, bởi ở đó còn giữ được nét nguyên sơ của miệt vườn, giữ được môi trường sinh thái trong lành trong màu xanh của những vườn dừa, vườn cây trái rộng lớn. Một số địa điểm du lịch có tiếng là: Ngoài ra cũng có du lịch trên sông nước và các bãi như bãi Ngao, huyện Ba Tri. Di tích. Tại Bến Tre cũng có nhiều di tích Phật giáo hay mộ các nhân vật nổi tiếng. Các chùa ở Bến Tre là chùa Hội Tôn, chùa Tuyên Linh, chùa Viên Minh. Chùa Hội Tôn Chùa được thiền sư Long Thiền dựng vào thế kỷ XVIII tại ấp 8, xã Quới Sơn, huyện Châu Thành và được trùng tu vào các năm 1805, 1884, 1947 và 1992. Chùa Tuyên Linh được dựng vào năm 1861 ở ấp Tân Quới Đông B, xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày Nam, và được tu sửa và mở rộng vào các năm 1924, 1941, 1983. Chùa Viên Minh tọa lạc ở 156, đường Nguyễn Đình Chiểu, thành phố Bến Tre, với kiến trúc hiện nay được xây từ năm 1951 đến 1959. Các nhân vật có mộ ở đây là Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản và Phan Thanh Giản, nữ tướng Nguyễn Thị Định, và lãnh binh Nguyễn Ngọc Thăng. Ngôi mộ của nhà bác học Trương Vĩnh Ký, trước cũng ở Bến Tre (Cái Mơn - xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), nay đã được cải táng đến Chợ Quán, thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Festival Dừa. Festival Dừa là một lễ hội về dừa được tổ chức tại tỉnh Bến Tre. Lễ hội đã được tổ chức qua 5 kỳ vào các năm 2009, 2010, 2012, 2015, 2019. Hai kỳ đầu tiên được tổ chức với quy mô địa phương trong khi đó năm 2012, 2015 và 2019 được tổ chức với quy mô quốc gia. Festival Dừa năm 2012, 2015 và 2019 mang nhiều ý nghĩa hơn với mục đích mở rộng thị trường cho các sản phẩm dừa, giao lưu công nghệ sản xuất, chế biến dừa, khuyến khích, hỗ trợ nông dân trồng dừa, xúc tiến thương mại và du lịch, quảng bá thương hiệu các sản phẩm dừa Bến Tre trong và ngoài nước. Giao thông. Bến xe khách. Bến xe tỉnh Bến Tre Bến xe Mỏ Cày Bến xe Chợ Lách Bến xe Ba Tri Bến xe Bình Đại Bến xe Thạnh Phú Bến xe Tiên thủy Bến phà. Một số bến phà đang hoạt động trên địa bàn tỉnh: phà Tân Phú, phà Hưng Phong, phà Tam Hiệp, phà Mỹ An - An Đức, phà tạm Rạch Miễu.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bình Định là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Thủ phủ của Bình Định là thành phố cảng Quy Nhơn nằm cách thủ đô Hà Nội 1.070 km về phía nam, cách thành phố Đà Nẵng 323 km về phía nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 652 km về phía bắc theo đường Quốc lộ 1. Năm 2020, Bình Định là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 20 về số dân, xếp thứ 15 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 20 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 23 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 2.526.752 người dân, GRDP đạt 219.409 tỉ Đồng (tương ứng với 7,42 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 82,772 triệu đồng (tương ứng với 3.510 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,32% Địa lý. Vị trí địa lý. Bình Định là tỉnh duyên hải miền Trung Việt Nam. Lãnh thổ của tỉnh trải dài 110 km theo hướng Bắc - Nam, có chiều ngang với độ hẹp trung bình là 55 km (chỗ hẹp nhất 50 km, chỗ rộng nhất 60 km). Phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi với đường ranh giới chung 63 km (điểm cực Bắc có tọa độ: 14°42'10' Bắc, 108°55'4' Đông). Phía Nam giáp tỉnh Phú Yên với đường ranh giới chung 50 km (điểm cực Nam có tọa độ: 13°39'10' Bắc, 108°54'00' Đông). Phía Tây giáp tỉnh Gia Lai có đường ranh giới chung 130 km (điểm cực Tây có tọa độ: 14°27' Bắc, 108°27' Đông). Phía Đông giáp Biển Đông với bờ biển dài 134 km, điểm cực Đông là xã Nhơn Châu (Cù Lao Xanh) thuộc thành phố Quy Nhơn (có tọa độ: 13°36'33 Bắc, 109°21' Đông). Bình Định được xem là một trong những cửa ngõ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng nam Lào. Địa hình. Địa hình của tỉnh tương đối phức tạp, thấp dần từ tây sang đông. Phía tây của tỉnh là vùng núi rìa phía đông của dãy Trường Sơn Nam, kế tiếp là vùng trung du và tiếp theo là vùng ven biển. Các dạng địa hình phổ biến là các dãy núi cao, đồi thấp xen lẫn thung lũng hẹp độ cao trên dưới 100 mét, hướng vuông góc với dãy Trường Sơn, các đồng bằng lòng chảo, các đồng bằng duyên hải bị chia nhỏ do các nhánh núi đâm ra biển. Ngoài cùng là cồn cát ven biển có độ dốc không đối xứng giữa 2 hướng sườn đông và tây. Các dạng địa hình chủ yếu của tỉnh là: Hải đảo. Ven bờ biển tỉnh Bình Định gồm có 33 đảo lớn nhỏ được chia thành 10 cụm đảo hoặc đảo đơn lẻ. Trong các đảo nói trên thì chỉ đảo Cù Lao Xanh là có dân cư sinh sống, các đảo còn lại là những đảo nhỏ một số đảo còn không có thực vật sinh sống chỉ toàn đá và cát. Dọc bờ biển của tỉnh, ngoài các đèn hiệu hướng dẫn tàu thuyền ra vào cảng Quy Nhơn, thì Bình Định còn có 2 ngọn hải đăng: một ngọn được xây dựng trên mạng bắc của núi Gò Dưa thuộc thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ huyện Phù Mỹ, ngọn này có tên gọi là Hải Đăng Vũng Mới hay Hải Đăng Hòn Nước; ngọn thứ hai được xây dựng trên đảo Cù Lao Xanh thuộc xã Nhơn Châu thành phố Quy Nhơn. Sông ngòi. Các sông trong tỉnh đều bắt nguồn từ những vùng núi cao của sườn phía đông dãy Trường Sơn. Các sông ngòi không lớn, độ dốc cao, ngắn, hàm lượng phù sa thấp, tổng trữ lượng nước 5,2 tỷ m³, tiềm năng thủy điện 182,4 triệu kw. Ở thượng lưu có nhiều dãy núi bám sát bờ sông nên độ dốc rất lớn, lũ lên xuống rất nhanh, thời gian truyền lũ ngắn. Ở đoạn đồng bằng lòng sông rộng và nông có nhiều luồng lạch, mùa kiệt nguồn nước rất nghèo nàn; nhưng khi lũ lớn nước tràn ngập mênh mông vùng hạ lưu gây ngập úng dài ngày vì các cửa sông nhỏ và các công trình che chắn nên thoát lũ kém. Trong tỉnh có bốn con sông lớn là Côn, Lại Giang, La Tinh và Hà Thanh cùng các sông nhỏ như Châu Trúc hay Tam Quan. Ngoài các sông đáng kể nói trên còn lại là hệ thống các suối nhỏ chằng chịt thường chỉ có nước chảy về mùa lũ và mạng lưới các sông suối ở miền núi tạo điều kiện cho phát triển thủy lợi và thủy điện. Độ che phủ của rừng đến nay chỉ còn khoảng trên 40% nên hàng năm các sông này gây lũ lụt, sa bồi, thủy phá nghiêm trọng. Ngược lại, mùa khô nước các sông cạn kiệt, thiếu nước tưới. Hồ đầm. Toàn tỉnh Bình Định có nhiều hồ nhân tạo được xây dựng để phục vụ mục đích tưới tiêu trong mùa khô. Trong đó có thể kể tên một số hồ lớn tại các huyện trong tỉnh như: hồ Hưng Long (An Lão); hồ Vạn Hội, Mỹ Đức và Thạch Khê (Hoài Ân); hồ Mỹ Bình (Hoài Nhơn); hồ Hội Sơn và Mỹ Thuận (Phù Cát); hồ Diêm Tiêu, Hóc Nhạn và Phú Hà (Phù Mỹ); hồ Định Bình, Thuận Ninh (Tây Sơn); hồ Núi Một (Vân Canh - An Nhơn); hồ Vĩnh Sơn, hồ Định Bình (Vĩnh Thạnh). Ngoài ra Bình Định còn có một đầm nước ngọt khá rộng là đầm Trà Ổ (Phù Mỹ) và hai đầm nước lợ là Đề Gi (Phù Mỹ - Phù Cát) và Thị Nại (Tuy Phước - Quy Nhơn). Hệ thống hồ đầm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp và nuôi trồng thủy hải sản. Đặc biệt đầm Thị Nại là đầm lớn rất thuận lợi cho việc phát triển cảng biển tầm cỡ quốc gia và góp phần phát triển khu kinh tế Nhơn Hội, đầm còn được biết đến với cây cầu vượt biển dài thứ hai Việt Nam hiện nay sau cầu Đình Vũ (Hải Phòng). Khí hậu. Khí hậu Bình Định có tính chất nhiệt đới ẩm, gió mùa. Do sự phức tạp của địa hình nên gió mùa khi vào đất liền đã thay đổi hướng và cường độ khá nhiều. Lịch sử. Bình Định đời nhà Tần, nhà Hán là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam, năm Vĩnh Hoà 2 (137) người trong quận làm chức Công Tào tên là Khu Liên đã giết viên huyện lệnh chiếm đất và tự phong là Lâm Ấp vương. Đời nhà Tùy (605) dẹp Lâm Ấp đặt tên là Xung Châu, sau đó lại lấy tên cũ là Lâm Ấp. Đời nhà Đường, năm 627 đổi tên là Lâm Châu. Năm 803, nhà Đường bỏ đất này và nước Chiêm Thành của người Chăm ra đời, đất này được đổi là Đồ Bàn, Thị Nại. Đời nhà Lê, tháng 7 năm 1471, vua Lê cho lập phủ Hoài Nhơn gồm 3 huyện là: Bồng Sơn, Phù Ly và Tuy Viễn. Từ đó người Việt bắt đầu tiến vào sinh sống trên vùng đất Bình Định ngày nay. Năm 1490 (chưa đầy 20 năm sau), theo Thiên nam dư hạ tập cho biết: dưới thời Hồng Đức, Phủ Hoài Nhơn có 19 tổng và 100 xã. Năm 1602, chúa Nguyễn Hoàng cho đổi phủ Hoài Nhơn thành phủ Quy Nhơn thuộc dinh Quảng Nam. Năm 1651, chúa Nguyễn Phúc Tần, đã đổi tên phủ Quy Nhơn thành phủ Quy Ninh. Năm 1742, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho lấy lại tên cũ là Quy Nhơn. Năm 1744, chúa Nguyễn Phúc Khoát đặt các đạo làm dinh, nhưng cấp phủ vẫn giữ nguyên. Phủ Quy Nhơn vẫn thuộc về dinh Quảng Nam, đặt các chức tuần phủ và khám lý để cai trị. Phủ lỵ dời ra phía Bắc thành Đồ Bàn, đóng tại thôn Châu Thành (nay là phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn). Năm 1725, ở phủ Quy Nhơn đặt các chức quan trông coi: Chánh hộ, Khám lý, Đề đốc, Đề lãnh, Ký lục, Cai phủ, Thư ký, mỗi chức đặt một người; mỗi huyện đặt cai tri, thư ký, mỗi chức một người và 2 viên lục lại; mỗi tổng có cai tổng. Giữa thế kỷ 18, có cuộc khởi nghĩa của một chàng trai ở Gò Sặt võ nghệ cao cường, tên là Lía. Chàng chọn Truông Mây làm căn cứ. Ngày nay còn có câu: Từ 1773 đến 1797, nhà Tây Sơn chiếm cứ đất này, sau khi lấy lại đất này Nguyễn Ánh đổi tên đất này là dinh Bình Định, sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu trấn thủ và đặt quan cai trị gọi là Lưu Thủ, Cai Bộ, Ký Lục. Từ 1799 đến 1802, thành Quy Nhơn bị quân Nguyễn Ánh chiếm đóng và đổi làm thành Bình Định và suốt chiều dài lịch sử, đây là trung tâm cai trị của triều Nguyễn tại Bình Định trong những năm đầu thế kỷ XIX. Năm 1808 đổi dinh Bình Định thành trấn Bình Định. Năm 1814, vua Gia Long cho xây dựng lại thành Bình Định mới, ngày nay ở phường Bình Định thị xã An Nhơn, nằm về phía đông nam và cách thành cũ khoảng 5 km ở phía gần sông Côn. Sau khi xây xong cho chuyển toàn bộ nhà cửa về thành mới này. Năm 1825 đặt tri phủ Quy Nhơn, năm 1831 lại đổi thành phủ Hoài Nhơn. Năm 1832 tách huyện Tuy viễn thành hai huyện Tuy Viễn và Tuy Phước, tách huyện Phù Ly thành hai huyện Phù Mỹ và Phù Cát đồng thời Bình Định và Phú Yên thành liên tỉnh Bình Phú, sau đó bỏ liên tỉnh này. Năm 1885 Bình Định là một tỉnh lớn ở Trung Kỳ, nhiều vùng đất của Gia Lai - Kon Tum còn thuộc về Bình Định. Cai trị lúc này là Công sứ Quy Nhơn Eugene Navelle (1883 - 1886). Khi Charles Lemire làm Công sứ Quy Nhơn (1886 - 1888), Pháp lập huyện Bình Khê. Năm 1890, thực dân Pháp sáp nhập thêm Phú Yên vào tỉnh Bình Định thành tỉnh Bình Phú, tỉnh lỵ là Quy Nhơn, do Edmond Guiomar làm Công sứ (1888 - 1890). Nhưng đến năm 1899, Phú Yên tách ra khỏi Bình Phú. Ngày 4 tháng 7 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập tỉnh tự trị Pleikou Derr, tỉnh lỵ đặt tại làng Pleikan Derr của dân tộc Gia Lai. Địa bàn tỉnh Pleikou Derr bao gồm các vùng cư trú của đồng bào thiểu số Xơ Đăng, Bana, Giarai tách từ tỉnh Bình Định ra. Ngày 25 tháng 4 năm 1907 xoá bỏ tỉnh Pleikou Derr. Toàn bộ đất đai của tỉnh này chia làm hai phần: một là Đại lý Kontum cho sáp nhập trở lại tỉnh Bình Định và đặt dưới sự cai trị của viên Công sứ Bình Định là Augustin Sandré (1907 - 1910); một gọi là Đại lý Cheo Reo, cho sáp nhập vào tỉnh Phú Yên và đặt dưới sự cai trị của viên Công sứ Phú Yên Benjamin Léhé (1907 - 1910) Năm 1913, thực dân Pháp lại sáp nhập Phú Yên vào Bình Định thành tỉnh Bình Phú và thành lập tỉnh Kontum làm tỉnh riêng; địa bàn tỉnh Kontum bao gồm Đại lý Kontum tách từ tỉnh Bình Định, Đại lý Cheo Reo tách từ tỉnh Phú Yên và Đại lý Đắk Lắk. Ngày 28 tháng 3 năm 1917 cắt tổng Tân Phong và tổng An Khê thuộc cao nguyên An Khê, tỉnh Bình Định, sáp nhập vào tỉnh Kontum. Năm 1921, thực dân Pháp cắt tỉnh Phú Yên ra khỏi tỉnh Bình Định và kéo dài cho đến năm 1945. Thời Việt Nam Cộng hòa đổi các huyện thành quận, tỉnh Bình Định có 11 quận, 1 thị xã, trong đó có 4 quận miền núi. Tháng 2 năm 1976, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam. Theo đó hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Ngày 24 tháng 8 năm 1981, chia huyện Hoài Ân thành 2 huyện: Hoài Ân và An Lão; chia huyện Phước Vân thành 2 huyện: Tuy Phước và Vân Canh; chia huyện Tây Sơn thành 2 huyện: Tây Sơn và Vĩnh Thạnh. Ngày 3 tháng 7 năm 1986, chuyển thị xã Quy Nhơn thành thành phố Quy Nhơn. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Bình Định được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình cũ. Khi tách ra, tỉnh Bình Định có 11 đơn vị hành chính gồm: thành phố Quy Nhơn (tỉnh lỵ) và 10 huyện: An Lão, An Nhơn, Hoài Ân, Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tây Sơn, Tuy Phước, Vân Canh, Vĩnh Thạnh. Ngày 4 tháng 7 năm 1998, thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại II. Ngày 25 tháng 1 năm 2010, thành phố Quy Nhơn được công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Định. Ngày 28 tháng 11 năm 2011, chuyển huyện An Nhơn thành thị xã An Nhơn. Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Hoài Nhơn thành thị xã Hoài Nhơn. Tỉnh Bình Định có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện như hiện nay. Hành chính. Bình Định có 11 đơn vị hành chính cấp huyện bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện, được phân chia thành 159 đơn vị hành chính cấp xã gồm 32 phường, 11 thị trấn và 116 xã. Kinh tế - Xã hội. Bình Định có vị trí địa kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc giao lưu với các quốc gia ở khu vực và quốc tế; nằm ở trung điểm của trục giao thông đường sắt và đường bộ Bắc - Nam Việt Nam, đồng thời là cửa ngõ ra biển Đông gần nhất và thuận lợi nhất của Tây Nguyên, Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và Đông Bắc Thái Lan thông qua Quốc lộ 19 và cảng biển quốc tế Quy Nhơn. Ngoài lợi thế này, Bình Định còn có nguồn tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn phong phú và nguồn nhân lực khá dồi dào. Trong Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bình Định đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "(theo Quyết định số 54/2009/QĐ-TTg ngày 14/4/2009)", Bình Định được xác định sẽ phấn đấu trở thành tỉnh có nền công nghiệp hiện đại và là một trong những trung tâm phát triển về kinh tế - xã hội, đóng góp tích cực vào sự phát triển của Vùng kinh tế trọng điểm miền Trung và cả nước, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh và quốc phòng luôn bảo đảm. Các chỉ tiêu đạt được năm 2018: Về các chỉ tiêu kinh tế, Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) tăng 7,32% (kế hoạch 7-7,2%). Trong đó, giá trị tăng thêm của các ngành: + Nông, lâm, thủy sản tăng 4,99% (kế hoạch 3%). + Công nghiệp, xây dựng tăng 9,03% (kế hoạch 10-10,2%). + Dịch vụ tăng 7,38% (kế hoạch 7,2-7,5%). + Thuế trừ trợ cấp sản phẩm 8,43% (kế hoạch 6,5%). - Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 8,71% (kế hoạch 9%), tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 800 triệu USD (kế hoạch 800 triệu USD), tổng nguồn vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trên địa bàn tỉnh ước tăng 9,7% so cùng kỳ (kế hoạch 9,22%). Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 8.466,4 tỷ đồng (dự toán năm 2018 là 6.775,5 tỷ đồng), vượt 25% dự toán năm và tăng 11,7% so với cùng kỳ. Trong đó, thu nội địa 7.791 tỷ đồng, tăng 25,9% dự toán năm và tăng 11,9% so với cùng kỳ. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 54% (kế hoạch 53%). Các chỉ tiêu xã hội: -  Mức giảm tỷ suất sinh  0,1‰ (kế hoạch giảm 0,1‰). - Tạo việc làm mới cho 29.917 lao động (kế hoạch 29.850 lao động). Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề, bồi dưỡng nghề đạt 52% (kế hoạch trên 52%). - Tỷ lệ hộ nghèo còn 7,05%, giảm 1,73% so với năm 2017 (kế hoạch giảm còn 7,45% theo tiêu chí mới). Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 89,7% (kế hoạch giao 88,5%). Tỷ lệ trạm y tế có bác sĩ đạt 100% (kế hoạch 100%). Tỷ lệ xã đạt chuẩn quốc gia về y tế 97,5% (kế hoạch 97,5%). - Số giường bệnh trên 1 vạn dân 30,2 giường (kế hoạch 30 giường). Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng 9,7% (kế hoạch dưới 10%). Các chỉ tiêu môi trường: - Tỷ lệ dân cư đô thị sử dụng nước sạch 79% (kế hoạch 79%). Tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch và hợp vệ sinh 98% (kế hoạch 98%). Tỷ lệ chất thải rắn ở đô thị được thu gom 85% (kế hoạch 80%). Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 6,81%, thấp hơn so với cùng kì năm 2018. Tổng thu ngân sách năm 2019 của tỉnh đạt kỷ lục với hơn 12.000 tỷ đồng, tăng gần 34 % so với năm 2018, vượt 20,7% dự toán;  trong đó, thu xuất nhập khẩu đạt 641,5 tỷ đồng; thu nội địa đạt hơn 11.300 tỷ đồng (thu tiền sử dụng đất 5.700 tỷ đồng, tăng 77% so với cùng kỳ). Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh đạt 35.377 tỷ đồng, tăng 17% so với năm 2018. Riêng nguồn vốn ngân sách Nhà nước đầu tư đạt 6.286 tỷ đồng, tăng 76,4% so với cùng kỳ. Năm 2019,  tổng sản lượng thủy sản khai thác trên địa bàn tỉnh đạt hơn 257.000 tấn, tăng 5,6% so với năm 2018; trong đó, sản lượng cá ngừ đại dương đạt 11.300 tấn, tăng 6,3%. Dân cư. Bình Định có diện tích tự nhiên 6022,6  km², dân số 1.487.009 (năm 2021) người, mật độ dân số 389 người/km² (số liệu năm 8/2021 của World Population Review). Theo tổng điều tra dân số tính đến ngày tháng 8 năm 2021, toàn tỉnh có 1.487.009 người, trong đó nam chiếm 49,2%, nữ chiếm: 50,8%. Dân số ở thành thị chiếm 31,9%, nông thôn chiếm 68,1%, mật độ dân số là 246 người/km² và dân số trong độ tuổi lao động chiếm khoảng chiếm: 58.8% dân số toàn tỉnh. Ngoài dân tộc Kinh, còn có các dân tộc khác nhưng chủ yếu là Chăm, Ba Na và Hrê, bao gồm khoảng 2,5 vạn dân. Dân cư trên địa bàn tỉnh phân bố không đều, mật độ dân số toàn tỉnh là 251,8 người/km2; dân cư tập trung đông nhất tại khu vực thành phố Quy Nhơn (mật độ dân số trung bình 1007,2 người/km2), tiếp đến là tại thị xã An Nhơn (mật độ trung bình 752,8 người/km2), thị xã Hoài Nhơn (mật độ trung bình 502,2 người/km2); thấp nhất là huyện Vân Canh với 31,6 người/km2. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 46,3%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 9 tôn giáo khác nhau đạt 124.348 người, nhiều nhất là Công giáo có 36.299 người, tiếp theo là Phật giáo có 23.460 người, đạo Cao Đài có 13.118 người, đạo Tin Lành có 1.321 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 94 người, Baha'i giáo có 26 người, Hồi giáo có 19 người, Bà La Môn có 10 người, 1 người theo Minh Lý đạo. Văn hóa. Bình Định là mảnh đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá Sa Huỳnh, từng là cố đô của vương quốc Chămpa mà di sản còn lưu giữ là thành Đồ Bàn và các tháp Chàm với nghệ thuật kiến trúc độc đáo. Đây là nơi phát danh của Đào Duy Từ (1572-1634), quân sư của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên. Chỉ vỏn vẹn tám năm (1627-1634) phò Chúa Sãi mà Đào Duy Từ đã khắc họa hình ảnh đặc dị một người thầy của Chúa Sãi, một kiệt tướng, một chính trị gia, một chiến lược gia, một kiến trúc gia, một kỹ thuật gia, một nghệ sư tài hoa, một học giả, là người góp phần quan trọng định hình nhà nước, địa lý và bản sắc Đàng Trong. Đây cũng là nơi xuất phát phong trào nông dân khởi nghĩa vào thế kỷ 18 với tên tuổi của anh hùng áo vải Nguyễn Huệ; là quê hương của các danh nhân Trần Đức Hòa, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân,Nguyễn Đăng Lâm, Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, Ngô Mây, Tăng Bạt Hổ, Diệp Trường Phát..., và các văn thi nhân Nguyễn Diêu, Đào Tấn, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Yến Lan,Quách Tấn, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ, Phạm Văn Ký, nhạc sĩ Nguyễn Văn Hiên, ca sĩ Quang Dũng... Bình Định còn được biết đến với truyền thống thượng võ và có nền văn hoá đa dạng phong phú với các loại hình nghệ thuật như bài chòi, hát bội, nhạc võ Tây Sơn, hò bá trạo của cư dân vùng biển... cùng với các lễ hội như: lễ hội Đống Đa Tây Sơn, lễ hội cầu ngư, lễ hội của các dân tộc miền núi... Thành phố Quy Nhơn có trường Đại học Quy Nhơn, Đại học Quang Trung (tư thục), Cao đẳng Bình Định (trước kia là Cao đẳng sư phạm Bình Định), Cao đẳng Nghề Quy Nhơn, Cao đẳng Nghề cơ điện nông lâm Trung bộ, Cao đẳng Y tế Bình Định hàng năm đào tạo hàng chục ngàn sinh viên khoa học kỹ thuật cho tỉnh và khu vực miền trung Tây Nguyên. Lễ hội cầu ngư. Hằng năm, người dân vùng biển tổ chức lễ cầu ngư, cúng “Ông Nam Hải” hay cá voi để cầu xin cho trời yên biển lặng, tàu thuyền ra khơi vào lộng được nhiều tôm cá. Ở Bình Định, lễ hội cầu ngư có ở hầu hết các vùng ven biển các huyện Hoài Nhơn, Phù Mỹ, Phù Cát, Tuy Phước và TP. Quy Nhơn và thường được tổ chức từ tháng 2 đến tháng 6 âm lịch. Lễ hội Đống Đa - Tây Sơn. Đây là lễ hội lớn để tưởng nhớ các thủ lĩnh của phong trào Tây Sơn, đặc biệt là người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ và kỷ niệm chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa đánh đuổi 29 vạn quân Thanh ra khỏi bờ cõi (năm 1789). Lễ hội được tổ chức hoành tráng vào ngày mùng 4 và mùng 5 tháng Giêng Âm lịch hàng năm tại thị trấn Phú Phong – huyện Tây Sơn. Tuồng Bình Định. Bình Định là nơi có nghệ thuật tuồng rất phát triển gắn liền với tên tuổi của Đào Duy Từ (hiện nay đền thờ Đào Duy Từ ở tại thôn Cự Tài, xã Hoài Phú, thị xã Hoài Nhơn; đền thờ này do Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên cho xây từ năm 1634, ngay sau Đào Duy Từ mất; đền cách Quốc lộ 1 3 km, tính từ ngã tư Nguyễn Chí Thanh-Trần Phú, phường Tam Quan, thị xã Hoài Nhơn) và Đào Tấn (hiện nay đền thờ Đào Tấn ở huyện Tuy Phước; Đào Tấn là hậu duệ Đào Duy Từ). Các đoàn hát tuồng trong tỉnh được hình thành ở khắp các huyện. Với sự giao lưu của nghệ thuật tuồng và võ Bình Định đã đưa tuồng Bình Định lên một tầm cao mới khác lạ hơn so với các đoàn tuồng của Huế hay Quảng Nam. Tuồng còn gọi là "hát bội" hay hát bộ sở dĩ nó có tên gọi như thế là vì ngoài việc hát thì yếu tố quan trọng góp phần tạo nên một vở tuồng hay và đặc sắc là hành động điệu bộ của các đào kép. Việc kết hợp võ thuật vào các màng nhào lộn, đánh trận ở mỗi đoàn có khác nhau tùy theo trình độ của đào kép. Trước kia khi hát bội còn thịnh hành thì có nhiều đoàn hát nhưng những năm gần đây dưới sự biến động của kinh tế thị trường thì nhiều đoàn dần giải tán, bộ môn văn hóa nghệ thuật dân tộc này có nguy cơ thất truyền. Lúc còn thịnh hành các đoàn hát bội thường được các làng, những gia chủ giàu có hay các lăng, đình ven biển mời về biểu diễn. Sau những màn diễn hay người cầm chầu ném tiền thưởng lên sân khấu. Vì thế mới có câu "Ở đời có bốn cái ngu: Làm mai, lãnh nợ, gác cu, cầm chầu" thường thì sau đêm hát cuối cùng các đoàn hay hát màn "tôn vương" để chúc tụng gia chủ, làng xóm gặp nhiều may mắn và cuối màn "tôn vương" thì thường hát câu: ""Rày mừng hải yến Hà Thanh - nhân dân an lạc thái bình âu ca" hay "ngũ sắc tường vân khai Bắc khuyết - nhất bôi thọ tửu chúc Nam san"". Năm 2014, hát Bội Bình Định được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia. Phương ngữ Người dân Bình Định mặc dù ở chung cùng một tỉnh nhưng có giọng nói khác biệt rõ rệt ở các huyện phía bắc và phía nam, người dân tại TP. Quy Nhơn và Tx. Hoài Nhơn nói giọng khá ngả về giọng nói các tỉnh phía trong nhưng vẫn còn giữ nét đặc trưng của văn hóa Bình Định. Lý do khác biệt là do sự hình thành dân cư và giao lưu văn hóa diễn ra rất thường xuyên tại 2 địa phương này của tỉnh. Giao thông. Có Quốc lộ 1, quốc lộ 1D, quốc lộ 19, quốc lộ 19B, quốc lộ 19C, cao tốc Bắc - Nam phía Đông (CT.01), đường sắt Bắc- Nam đi qua, sân bay Phù Cát, cảng Quy Nhơn... Du lịch. Đặc sản. Ngoài các đặc sản về lâm, thổ, thủy, hải sản của duyên hải miền Trung nói chung, Bình Định còn có: rượu Bàu Đá (An Nhơn), cá chua nước lợ (Đề Gi - Phù Cát), bánh tráng nước dừa (phường Tam Quan), bún Song Thằn và bánh hỏi, nem chả Chợ Huyện, bánh ít lá gai. Ngày nay ở thị xã Hoài Nhơn có thêm đặc sản cá ngừ đại dương (cá "Bò Gù"), thị xã An Nhơn có thêm Rượu Vang Nếp Belifoods. Kỳ Co. Bãi biển Kỳ Co cách TP. Quy Nhơn 25 km về phía Đông Bắc (thuộc xã Nhơn Lý) trải dài uốn cong hình lưỡi liềm với ba mặt giáp núi và một mặt giáp biển. Từ xa, du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh núi non hùng vĩ cùng những tầng cây xanh rợp mát. Càng lại gần phía biển, không khí thoáng đãng cùng những làn gió mang theo hơi mằn mặn đặc trưng của biển khơi sẽ khiến tâm hồn mỗi người trở nên thư thái. Ghềnh Ráng Tiên Sa. Nằm ở phường Ghềnh Ráng, TP. Quy Nhơn, Ghềnh Ráng – Tiên Sa nằm cách trung tâm thành phố khoảng 3 km về phía Đông Nam. Điểm đặc biệt của nơi đây chính là quần thể những bãi đá nằm liền kề nhau và những bãi đá tập trung theo đường cong của eo núi Xuân Vân. Nhờ vào vẻ đẹp độc đáo mà Ghềnh Ráng đã được Bộ Văn hóa – Thông tin xếp hạng là di tích quốc gia.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bình Dương là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ của Bình Dương là thành phố Thủ Dầu Một, cách trung tâm của Thành phố Hồ Chí Minh 30 km theo đường Quốc lộ 13. Đây là tỉnh có dân số đông thứ 6 trong tổng số 63 tỉnh thành và cũng là tỉnh có tỷ lệ gia tăng dân số cơ học rất cao do có nhiều người nhập cư, hơn 50% dân số của tỉnh Bình Dương là dân nhập cư. Năm 2020 là đơn vị hành chính đông thứ sáu về dân số và là tỉnh có dân số đông thứ tư cả nước, xếp thứ ba về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ ba về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 8 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 2.465.000 người dân, GRDP đạt 389.500 tỉ Đồng (tương ứng với 16,81 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 158,1 triệu đồng (tương ứng với 6907 USD, cao nhất Việt Nam), tốc độ tăng trưởng GRDP dự kiến đạt 9,5% Bình Dương là vùng đất chiến trường năm xưa với những địa danh đã đi vào lịch sử như Phú Lợi, Bàu Bàng, Bến Súc, Lai Khê, Nhà Đỏ và đặc biệt là chiến khu Đ với trung tâm là huyện Tân Uyên (nay là huyện Bắc Tân Uyên và thành phố Tân Uyên), vùng Tam giác sắt trong đó có ba làng An. Ngoài ra còn có khu du lịch Đại Nam là khu du lịch lớn nhất Đông Nam Á. Ông Trần Văn Nam – Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương cho biết: Bình Dương tiếp tục ưu tiên thu hút đầu tư và phát triển công nghiệp công nghệ cao, dịch vụ chất lượng cao, hậu cần, các dịch vụ hỗ trợ phát triển khu công nghiệp, khu đô thị; Khuyến khích đẩy mạnh hợp tác giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Xây dựng nông nghiệp theo hướng ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp đô thị, trồng trọt, chăn nuôi theo hướng trang trại, tập trung. Vị trí địa lý. Tỉnh Bình Dương thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, với diện tích 2694,4 km xếp thứ 4 trong vùng Đông Nam Bộ. Có tọa độ địa lý là 1051'46"B – 1130'B, 10620' Đ – 10658'Đ. Địa hình Bình Dương tương đối bằng phẳng, hệ thống sông ngòi và tài nguyên thiên nhiên phong phú. Khí hậu mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với 2 mùa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ khoảng tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình hàng năm 1.800 mm đến 2.000 mm. Nhiệt độ trung bình hằng năm là 26,5C. Bình Dương là cửa ngõ giao thương với Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế – văn hóa của cả nước, có các trục lộ giao thông huyết mạch của quốc gia chạy qua như quốc lộ 13, quốc lộ 14, đường Hồ Chí Minh, đường Xuyên Á … cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất và các cảng biển chỉ từ 10 km – 15 km… thuận lợi cho phát triển kinh tế và xã hội toàn diện. Trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn ở mức cao, GRDP tăng bình quân khoảng 14,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, công nghiệp, dịch vụ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng cao, năm 2010, tỷ lệ công nghiệp – xây dựng 63%, dịch vụ 32,6% và nông lâm nghiệp 4,4%. Hiện nay, Bình Dương có 28 khu công nghiệp và cụm công nghiệp tập trung có tổng diện tích hơn 8.700 ha với hơn 1.200 doanh nghiệp trong và ngoài nước đang hoạt động có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ đôla Mỹ. Năm 2019, tổng GRDP trên địa bản tỉnh tăng 9,5%. Tổng thu ngân sách ước đạt 57.300 tỷ đồng, đạt 105% dự toán HĐND tỉnh, tăng 14% so với cùng kỳ. Tổng chi cân đối ngân sách địa phương ước đạt 20.535 tỷ đồng, đạt 100% dự toán HĐND tỉnh, tăng 12% so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,86% so với cùng kì. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 27 tỷ 781 triệu đô la Mỹ, tăng 15,6%. Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 20 tỷ 795 triệu đô la Mỹ, tăng 10,6%; thặng dư thương mại của tỉnh năm 2019 đạt gần 07 tỷ đô la Mỹ. Tính đến 27/11/2019, tỉnh đã thu hút 56.702 tỷ đồng vốn đăng ký kinh doanh trong nước (tăng 3,3%); lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 42.269 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh, tổng vốn đăng ký 357.680 tỷ đồng. Thu hút đầu tư nước ngoài đạt 03 tỷ 067 triệu đô la Mỹ (vượt 119% kế hoạch năm, tăng 49% cùng kỳ); lũy kế đến nay, toàn tỉnh có 3.753 dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 34,23 tỷ đô la Mỹ. Điều kiện tự nhiên. Bình Dương là một tỉnh nằm ở vị trí chuyển tiếp giữa sườn phía nam của dãy Trường Sơn, nối nam Trường Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, là tỉnh bình nguyên có địa hình lượn sóng từ cao xuống thấp dần từ 10m đến 15m so với mặt biển. Địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ bắc xuống nam. Nhìn tổng quát, Bình Dương có nhiều vùng địa hình khác nhau như: Đất đai Bình Dương rất đa dạng và phong phú về chủng loại. Các loại đất như đất xám trên phù sa cổ, có diện tích 200.000 ha phân bố trên các huyện Dầu Tiếng, thị xã Bến Cát, thành phố Thuận An, thành phố Thủ Dầu Một. Đất nâu vàng trên phù sa cổ, có khoảng 35.206 ha nằm trên các vùng đồi thấp thoải xuống, thuộc các thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo, khu vực thành phố Thủ Dầu Một, thành phố Thuận An và một ít chạy dọc quốc lộ 13. Đất phù sa Glây (đất dốc tụ), chủ yếu là đất dốc tụ trên phù sa cổ, nằm ở phía bắc thị xã Tân Uyên, huyện Phú Giáo, thị xã Bến Cát, huyện Dầu Tiếng, thành phố Thuận An, thành phố Dĩ An, đất thấp mùn Glây có khoảng 7.900 ha nằm rải rác tại những vùng trũng ven sông rạch, suối. Khí hậu ở Bình Dương cũng như chế độ khí hậu của khu vực miền Đông Nam Bộ, nắng nóng và mưa nhiều, độ ẩm khá cao. Vào những tháng đầu mùa mưa, thường xuất hiện những cơn mưa rào lớn, rồi sau đó dứt hẳn. Những tháng 7,8,9, thường là những tháng mưa dầm. Có những trận mưa dầm kéo dài 1–2 ngày đêm liên tục. Đặc biệt ở Bình Dương hầu như không có bão, mà chỉ bị ảnh hương những cơn bão gần. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Bình Dương từ 26 °C–27 °C. Nhiệt độ cao nhất có lúc lên tới 39,3 °C và thấp nhất từ 16 °C–17 °C (ban đêm) và 18 °C vào sáng sớm. Vào mùa khô, độ ẩm trung bình hàng năm từ 76%–80%, cao nhất là 86% (vào tháng 9) và thấp nhất là 66% (vào tháng 2). Lượng mùa mưa trung bình hàng năm từ 1.800–2.000 mm. Chế độ gió tương đối ổn định, Bình Dương có hai hướng gió chủ đạo trong năm là gió Tây – Tây Nam và gió Đông – Đông Bắc. Gió Tây – Tây Nam là hướng gió thịnh hành trong mùa mưa và hướng gió Đông – Đông Bắc là hướng gió thịnh hành trong mùa khô. Tốc độ gió bình quân khoảng 0,7m/s, tốc độ gió lớn nhất quan trắc được là 12m/s thường là Tây – Tây Nam. Với khí hậu nhiệt đới mang tính chất cận xích đạo, nền nhiệt độ cao quanh năm, ẩm độ cao và nguồn ánh sáng dồi dào, rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đặc biệt là trồng cây công nghiệp ngắn và dài ngày. Khí hậu Bình Dương tương đối hiền hoà, ít thiên tai như bão, lụt... Chế độ thủy văn của các con sông chảy qua tỉnh và trong tỉnh Bình Dương thay đổi theo mùa: mùa mưa nước lớn từ tháng 5 đến tháng 11 (dương lịch) và mùa khô (mùa kiệt) từ tháng 11 đến tháng 5 năm sau, tương ứng với 2 mùa mưa nắng. Bình Dương có ba con sông lớn, nhiều rạch ở các địa bàn ven sông và nhiều suối nhỏ khác. Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa ba con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Tài nguyên rừng. Do đặc điểm khí hậu nhiệt đới ẩm và đất đai màu mỡ, nên rừng ở Bình Dương xưa rất đa dạng và phong phú về nhiều chủng loài. Có những khu rừng liền khoảnh, bạt ngàn. Rừng trong tỉnh có nhiều loại gỗ quý như căm xe, sao, trắc, gõ đỏ, cẩm lai, giáng hương... Rừng Bình Dương còn cung cấp nhiều loại dược liệu làm thuốc chữa bệnh, cây thực phẩm và nhiều loài động vật, trong đó có những loài động vật quý hiếm. Khoáng sản. Cùng với những giá trị quý giá về tài nguyên rừng, Bình Dương còn là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi chứa đựng nhiều loại khoáng sản phong phú tiềm ẩn dưới lòng đất. Đó chính là cái nôi để các ngành nghề truyền thống ở Bình Dương sớm hình thành như gốm sứ, điêu khắc, mộc, sơn mài... Bình Dương có nhiều đất cao lanh, đất sét trắng, đất sét màu, sạn trắng, đá xanh, đá ong nằm rải rác ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở các thành phố Dĩ An, Tân Uyên, thành phố Thuận An và thành phố Thủ Dầu Một. Môi trường. Với tốc độ đô thị hóa ngày càng tăng của Bình Dương, môi trường ở Bình Dương đang bị ô nhiễm trầm trọng. Bình Dương có lượng nước thải rất lớn và rất ô nhiễm. Tổng lượng nước thải một ngày của Bình Dương khoảng 190.000 m³ trong đó có tới 1/3 là nước thải công nghiệp. Môi trường nước tiếp nhận các nguồn nước này là hồ, kênh, mương và sông gây nên tình trạng ô nhiễm phải thông cống nghẹt Bình Dương. Hầu hết các cơ sở đều xả nước thải xuống các sông thoát nước chính của thành phố. Nhiều tài liệu cho thấy nước Bình Dương xuất hiện các chất có chứa chất lơ lửng, nước bị ô nhiễm hóa học, cơ học các kim loại nặng rất cao. Tầng nước ngầm cung cấp nước cho các nhà máy hiện nay cũng đã bị ô nhiễm và phải sử dụng biện pháp hút hầm cầu Bình Dương. Từ kết quả quan trắc cho thấy nồng độ bụi lơ lửng của các khu công nghiệp đang có xu hướng tăng dần. Theo số liệu thống kê năm 2012, trung bình mỗi ngày trên địa bàn tỉnh thải ra khoảng 900-1.000 tấn chất thải rắn sinh hoạt từ các hộ dân, các cơ quan, xí nghiệp (bình quân mỗi ngày một người thải ra khoảng 0,56 - 0,62 kg chất thải rắn đô thị), khoảng 7.700 tấn chất thải rắn công nghiệp từ các cơ sở công nhiệp, các khu công nghiệp, cụm công nghiệp (trong đó có khoảng 290 tấn chất thải nguy hại). Với hiện trạng thu gom rác tại thời điểm này thì tỷ lệ chất thải rắn thông thường được thu gom xử lý khoảng 87%, tỷ lệ chất thải nguy hại được thu gom xử lý khoảng 78%, tỷ lệ chất thải bệnh viên được thu gom xử lý khoảng 97%. Vào thời điểm này, lượng chất thải rắn được thu gom tái chế khoảng 90-100 tấn/ngày (chiếm 10%), lượng chất thải công nghiệp được thu gom tái chế khoảng 5.390 tấn/ngày (chiếm 70%), lượng chất thải công nghiệp nguy hại được thu gom tái chế khoảng 87 tấn/ngày (chiếm 30%), riêng đối với chất thải y tế thì không có khả năng tái chế. Sự hình thành các khu đô thị, các KCN, cụm sản xuất cùng với quá trình khai thác khoáng sản với quy mô lớn (chủ yếu tập trung tại phía Đông của thành phố Dĩ An, phía Nam của thị xã Tân Uyên và phường Mỹ Phước của thị xã Bến Cát) đã làm biến đổi bề mặt địa hình của khu vực, làm mất đi những đường nét tự nhiên, gây nhiều tác động tiêu cực như thúc đẩy quá trình rửa trôi bề mặt và xâm thực bào mòn các bề mặt sườn. Để đảm bảo phát triển hài hòa giữa kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường, tỉnh Bình Dương đã đặt ra các mục tiêu cụ thể về môi trường đến 2015 như sau: tỷ lệ chất thải rắn được thu gom và xử lý đạt 95%, tỷ lệ chất thải y tế được thu gom và xử lý đạt 100%; hộ dân thành thị sử dụng nước sạch đạt tỷ lệ 99%, các hộ nông dân được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt tỷ lệ 98% và tỷ lệ che phủ rừng, cây lâm nghiệp, cây lâu năm đạt 57%. Chú trọng gắn kết quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch ngành với quy hoạch khai thác tài nguyên và chiến lược bảo vệ môi trường. Quản lý, bảo vệ và sử dụng tài nguyên chặt chẽ, tiết kiệm phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội của địa phương, tiến dần đến việc hạn chế và cấm dần việc khai thác tài nguyên. Ngăn chặn tình trạng ô nhiễm môi trường, phục hồi và nâng cao chất lượng môi trường nước trên các sông Sài Gòn, Đồng Nai. Dân cư. Dân số trung bình năm 2021 của tỉnh Bình Dương là 2.685.513 người, tăng 104.963 người, tương đương tăng 4,07% so với năm 2020, bao gồm: dân số thành thị 2.266.771 người, chiếm 84,4%; dân số nông thôn 418.742 người, chiếm 15,6%; dân số nam là 1.373.424 người, chiếm 51,1%; dân số nữ là 1.312.089 người, chiếm 48,9%; mật độ dân số là 997 người/km2. Tổng tỷ suất sinh năm 2021 đạt 1,62 con/phụ nữ. Tỷ suất sinh thô là 18,22%; tỷ suất chết thô là 3,6%. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 1 tuổi là 8,7%. Tỷ suất chết của trẻ em dưới 5 tuổi là 14,35%. Tuổi thọ trung bình của dân số tỉnh năm 2021 là gần 75 năm, trong đó, nam hơn 72 năm, nữ gần 78 năm. Tỷ lệ tăng dân số chung của tỉnh là 4,54%, trong đó, cả 02 khu vực thành thị và nông thôn đều có tỷ lệ tăng dân số chụng là 4,5%. Trên địa bàn Bình Dương có khoảng 15 dân tộc, nhưng đông nhất là người Kinh và sau đó là người Hoa, người Khmer... Bình Dương cũng là tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất cả nước với tỷ lệ 84,32% (tính đến năm 2023). Theo thông cáo báo chí Kết quả Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019 thì toàn quốc có 12 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có tỷ suất di cư thuần dương, nghĩa là người nhập cư nhiều hơn người xuất cư. Trong đó, tỉnh Bình Dương có tỷ suất di cư thuần dương cao nhất (200,4‰) với hơn 489 nghìn người nhập cư nhưng chỉ có khoảng 38 nghìn người xuất cư khỏi tỉnh này trong 5 năm trước. Như vậy, cứ 5 người từ 5 tuổi trở lên ở tỉnh Bình Dương thì có 1 người đến từ tỉnh khác. Hơn nữa theo thông cáo này, Bình Dương cũng là tỉnh có tỷ lệ người di cư phải thuê/mượn nhà cao nhất cả nước (74,5%). Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau đạt 186.021 người, nhiều nhất là Công giáo có 108.260 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 58.220 người, Phật giáo Hòa Hảo có 10.619 người, đạo Cao Đài có 5.962 người, đạo Tin Lành chiếm 1.962 người, Hồi giáo có 745 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 110 người. Còn lại các tôn giáo khác như Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 85 người, Bà La Môn có 20 người, Minh Lý Đạo có 13 người, Minh Sư Đạo có 12 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 7 người và 6 người theo Baha'i giáo. Hành chính. Tỉnh Bình Dương có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 4 thành phố, 1 thị xã và 4 huyện với 91 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 45 phường, 5 thị trấn và 41 xã. Lịch sử. Bình Dương là một phần của tỉnh Thủ Dầu Một xưa kia. Tỉnh Thủ Dầu Một được thành lập tháng 12 năm 1899 từ Sở Tham biện Thủ Dầu Một, tách từ tỉnh Biên Hòa. Tháng 10 năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa giải thể tỉnh Thủ Dầu Một để thành lập các tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Như vậy Bình Dương là một trong 22 tỉnh của Nam Phần được chính quyền Việt Nam Cộng Hòa thiết lập theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22 tháng 10 năm 1955. Tỉnh lị là thị xã Phú Cường. Tỉnh Bình Dương bao gồm 5 quận, 10 tổng, 60 xã: Năm 1959, cắt một phần đất, cùng với phần đất của các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, Phước Long, để lập tỉnh Phước Thành. Tỉnh này tồn tại đến năm 1965 thì giải thể. Ngày 18 tháng 12 năm 1963, tách một phần quận Củ Chi về tỉnh Hậu Nghĩa mới thành lập. Phần còn lại của quận Củ Chi lập thành quận Phú Hòa, quận lị đặt tại Bến Cỏ, xã Phú Hòa Đông, sau dời về xã Tân Hòa. Sau năm 1975, quận Phú Hòa lại nhập với quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa thành huyện Củ Chi thuộc Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 1965, quận Phú Giáo của tỉnh Phước Thành vừa giải thể được nhập vào tỉnh Bình Dương. Năm 1976, chính quyền mới hợp nhất 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long cũ thành tỉnh Sông Bé, đến ngày 6 tháng 11 năm 1996 lại tách ra thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước. Khi vừa tái lập, tỉnh Bình Dương có diện tích 2.718,5 km², dân số 646.317 người, gồm thị xã Thủ Dầu Một và 3 huyện: Bến Cát, Tân Uyên, Thuận An. Tỉnh lỵ đặt tại thị xã Thủ Dầu Một. Ngày 23 tháng 7 năm 1999, huyện Thuận An được chia thành 2 huyện Thuận An và Dĩ An, huyện Bến Cát được chia thành 2 huyện Bến Cát và Dầu Tiếng, huyện Tân Uyên được chia thành 2 huyện Tân Uyên và Phú Giáo. Bình Dương có 7 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thị xã Thủ Dầu Một (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Bến Cát, Dầu Tiếng, Dĩ An, Phú Giáo, Tân Uyên, Thuận An. Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ra Nghị quyết 04/NQ-CP, thành lập 2 thị xã Dĩ An và Thuận An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của hai huyện có tên tương ứng. Ngày 2 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ra Nghị quyết 11/NQ-CP, thành lập thành phố Thủ Dầu Mộttrên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Thủ Dầu Một. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ra Nghị quyết 136/NQ-CP chia huyện Bến Cát thành thị xã Bến Cát và huyện Bàu Bàng, chia huyện Tân Uyên thành thị xã Tân Uyên và huyện Bắc Tân Uyên. Bình Dương có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 4 thị xã và 4 huyện. Ngày 8 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1120/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại II. Ngày 27 tháng 4 năm 2017, Bộ xây dựng công nhận 2 thị xã Dĩ An và Thuận An là đô thị loại III. Ngày 6 tháng 12 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1959/QĐ-TTg công nhận thành phố Thủ Dầu Một là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Bình Dương. Ngày 24 tháng 10 năm 2018, Bộ Xây dựng công nhận 2 thị xã Bến Cát và Tân Uyên là đô thị loại III. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập hai thành phố Dĩ An và Thuận An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của hai thị xã có tên tương ứng. Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 725/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập thành phố Tân Uyên trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Tân Uyên. Từ đó, tỉnh Bình Dương có 4 thành phố, 1 thị xã và 4 huyện trực thuộc như hiện nay. Chính trị. Cơ quan chính trị cao nhất của tỉnh Bình Dương là Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương, hay Đảng ủy tỉnh Bình Dương, gọi tắt Tỉnh ủy Bình Dương, là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ Tỉnh Bình Dương giữa hai kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh. Đứng đầu Tỉnh ủy là Bí thư Tỉnh ủy và thường là ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng. Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương hiện nay là Nguyễn Văn Lợi. Lịch sử. Tháng 2 năm 1936 thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ nhất đồng thời để đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ hiện tại Xứ ủy Nam Kỳ đã chỉ định "Ban Chấp hành Tỉnh ủy lâm thời Thủ Dầu Một" gồm 5 ủy viên. Đến tháng 1 năm 1937, Trung ương Đảng chính thức công nhận Tỉnh ủy lâm thời, với tên gọi chính thức là "Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Dầu Một". Khi Thế chiến II bùng nổ, chính quyền thực dân Pháp trấn áp các phòng trào đòi độc lập. Tháng 11 năm 1940, Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra bất thành, chính quyền thực dân Pháp khủng bố ác liệt, nhiều đảng viên phải lẩn tránh nhiều nơi. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một bị xóa sổ. Giữa năm 1942, nhiều đảng viên tập hợp quay trở lại, tháng 3 năm 1943 Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được tái lập. Tháng 5 năm 1943, Bí thư các Tỉnh ủy Thủ Dầu Một, Biên Hòa, Gia Định, Chợ Lớn, Tây Ninh họp lại thành lập Liên Tỉnh ủy miền Đông để chỉ đạo chung các phong trào tại địa phương. Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra, Tỉnh ủy chức tổng khởi nghĩa giành chính quyền tại tỉnh và thành lập Ủy ban nhân dân tỉnh. Giữa tháng 9, Ủy ban nhân dân tỉnh đổi tên thành Ủy ban Hành chánh kháng chiến tỉnh. Cuối tháng 9 năm 1945, Liên quân Anh - Pháp nổ súng quân tái chiếm Nam Bộ. Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Nam BỘ quyết định Nam Bộ kháng chiến. Thực hiện chủ trương "giải tán" của Đảng ngày 11/11/1945, Tỉnh ủy cũng tiến hành tự "giải tán", thực chất phát triển phong trào cách mạng dưới tên Việt Minh. Theo chủ trương tháng 3 năm 1951 của Trung ương Đảng, Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Biên Hòa sáp nhập thành Tỉnh ủy Thủ Biên, hoạt động đưới sự chỉ đạo của Phân liên khu ủy miền Đông gồm đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn, và 5 tỉnh Gia Định Ninh, Thủ Biên, Bà Rịa – Chợ Lớn, Mỹ Tho, Long Châu Sa. Đại diện cho Trung ương là cơ quan Xứ ủy Nam Bộ chỉ đạo hoạt động trên toàn miền Nam. Sau khi Hiệp định Geneve được ký, Tỉnh ủy Thủ Biên chuẩn bị lực lượng thi hành Hiệp định. Theo các thảo thuận về tập kết 2 bên, Xứ ủy Nam Bộ quyết định phân chia lại địa bàn các tỉnh để phù hợp với tình hình mới. Cuối năm 1954, Tỉnh Thủ Biên tách lại 2 tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Tháng 1/1955 Hội nghị Ban Chấp hành tỉnh Thủ Dầu Một được tổ chức. Sau khi Ngô Đình Diệm phế truất Bảo Đại làm Tổng thống, thực hiện chính sách "tố cộng, diệt cộng". Từ năm 1956, chính quyền Ngô Đình Diệm nhiều cuộc càn quét quy mô lớn khiến cho Tỉnh ủy Thủ Dầu Một tổn thất rất lớn. Đầu năm 1960, phong trào Đồng khởi tại Bến Tre nổ ra. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một thành lập Ban chỉ đạo đồng khởi của tỉnh và tiến hành đồng khởi tại tỉnh tháng 2 năm 1960 và giành thắng lợi, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công. Để phù hợp tình hình mới, Xứ ủy Nam Bộ sáp nhập 2 tỉnh Thủ Dầu Một, Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên. Tháng 9/1960 "Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Thủ Biên" được chỉ định. Đầu năm 1961 Trung ương Cục miền Nam được thành lập thay thế cho Xứ ủy Nam Bộ. Trung ương Cục quyết định tách ra, tái lập lại 2 tỉnh Biên Hòa, Thủ Dầu Một và thành lập tỉnh Phước Thành để phù hợp với chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của Mỹ. Tháng 6/1961 Tỉnh ủy Thủ Dầu Một và Tỉnh ủy Phước Thành được thành lập. Tháng 10/1967 Bộ Chính trị phê chuẩn Nghị quyết của Trung ương Cục miền Nam và Quân ủy Miền về tiến hành tổng công kích-tổng khởi nghĩa, còn gọi "Nghị quyết Quang Trung". Trung ương Cục quyết định sắp xếp lại các lực lượng để tiến hành Tổng khởi nghĩa. Tổ chức thành 5 phân khu hướng tiến công Sài Gòn-Gia Định và khu vực xung quanh. Căn cứ vào tình hình chiến trường, Trung ương Cục quyết định thành lập Ban Chấp hành các phân khu thay cho các Tỉnh ủy. Tỉnh ủy Thủ Dầu Một được sáp nhập vào "Ban chấp hành Phân khu ủy Phân khu 5". Tháng 6/1969 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam được thành lập. Để đáp ứng nhiệm vụ mới, tháng 5/1971 Trung ương Cục quyết định sáp nhập Phân khu 5 và tỉnh Biên Hòa thành Phân khu Thủ Biên, Trung ương Cục chỉ định "Ban chấp hành Phân khu ủy Thủ Biên". Đến cuối năm 1972, Trung ương Cục quyết định tổ chức lại chiến trường miền Đông Nam Bộ, giải thể các Phân khu, thành lập lại các tỉnh. Tháng 9/1972 Phân khu Thủ Biên được giải thể, tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập. Trung ương cục chỉ định Tỉnh ủy Thủ Dầu Một. Tháng 12/1975 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW về phát triển đất nước sau chiến tranh. Thực hiện Nghị quyết, Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam đã ban hành các nghị quyết giải thể khu, hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam. Tháng 2/1976 tỉnh Thủ Dầu Một và Bình Phước được sáp nhập thành tỉnh Sông Bé, đồng thời Trung ương Cục cũng chỉ định "Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Sông Bé". Tháng 11/1976, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (vòng 1) diễn ra từ ngày 10-20/11/1976, nhiệm vụ chính là tham gia thảo luận ý kiến chính trị, bầu đại biểu tham dự Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng. Ngày 19/4/1977, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Sông Bé lần thứ nhất (vòng 2) được khai mạc. Đại hội đã chính thức bầu "Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Sông Bé" với nhiệm kỳ 1976-1979. Sau Đại hội, Tỉnh ủy tiến hành đại hội Đảng vòng 2 ở các Đảng bộ trực thuộc tỉnh ủy. Tại kỳ họp thứ 10 (15/10-12/11/1996) Quốc hội khóa IX ra nghị quyết về việc chia tách tỉnh và điều chỉnh địa giới hành chính, trong đó có tỉnh Sông Bé. Ngày 1/11/1997 tỉnh Bình Dương được tái lập. Trước đó ngày 12/12/1996 Bộ Chính trị ra Nghị quyết 118-QĐNS/TW thành lập Đảng bộ Bình Dương và chỉ định "Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Bình Dương". Thực hiện Chỉ thị 51-CT/TW của Ban Bí thư và Hướng dẫn 06-HD/TC-TW ngày 23/7/1997 của Ban Tổ chức Trung ương về việc chuẩn bị và tiến hành Đại hội Đảng bộ các tỉnh, thành phố mới được chia tách. Tỉnh ủy lâm thời tổ chức Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ VI từ 17-19/12/1997. Đại hội chính thức bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương khóa VI gồm 47 ủy viên. Các đời Bí thư Tỉnh ủy. Giai đoạn 1936-1976 Giai đoạn 1976-1997 Giai đoạn 1997 - nay Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Bình Dương là một trong những địa phương năng động trong kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài. Với chủ trương tạo ra một môi trường đầu tư tốt nhất hiện nay tại Việt Nam, tính đến tháng 10/2006, tỉnh đã có 1.285 dự án FDI với tổng số vốn 6 tỷ 507 triệu USD. Năm 2007, tỉnh Bình Dương đặt mục tiêu thu hút trên 900 triệu USD vốn đầu tư nước ngoài (FDI), tăng hơn 2,5 lần so với năm 2006. Theo bảng xếp hạng Chỉ số Năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2006, tỉnh Bình Dương đứng đầu cả nước với 76,23 điểm, trong khi thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước, lần lượt xếp thứ thứ 40 với 50,34 điểm và xếp thứ 7 với 63,39 điểm. Bình Dương có nhiều khu công nghiệp (KCN) đang hoạt động, trong đó nhiều KCN đã cho thuê gần hết diện tích như KCN Sóng Thần I, KCN Sóng Thần II, KCN Đồng An, KCN Nam Tân Uyên, KCN Tân Đông Hiệp A, KCN Việt Hương, KCN VSIP 1,2,3 - Việt Nam Singapore, các KCN Mỹ Phước 1, 2, 3, 4 và 5. Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu hút 938 dự án đầu tư, trong đó có 613 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn 3,483 triệu USD và 225 dự án đầu tư trong nước có số vốn 2.656 tỷ đồng. Nhằm tăng sự thu hút đầu tư, địa phương này đang tập trung hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật, đẩy nhanh tiến độ thi công các khu công nghiệp mới để phát triển công nghiệp ra các huyện phía bắc của tỉnh. Trong năm 2019, chủ đầu tư các khu công nghiệp đã đầu tư cơ sơ hạ tầng với tổng vốn trên 300 tỷ đồng; cho thuê lại đât và nhà xưởng với tông diện tích 273 ha (bằng 37,2% so với cùng kỳ), thu hút đầu tư nước ngoài đạt 02 tỷ 507 triệu đô la Mỹ (chiếm 81,7% toàn tỉnh) và 3.342 tỷ đồng vốn đầu tư trong nước. Các doanh nghiệp trong khu công nghiệp đã giải ngân 2,2 tỷ đô la Mỹ đê đâu tư nhà xưởng, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh. Toàn tỉnh hiện có 29 khu công nghiệp (trong đó 27 khu công nghiệp đi vào hoạt động), diện tích 12.743 ha, tỷ lệ cho thuê đạt 83,3%. Năm 2019, Bình Dương thành lập thêm các cụm công nghiệp: Thanh An, Tân Thành và An Lập; rà soát, đôn đốc chủ đầu tư các cụm công nghiệp hoàn thiện cơ sở hạ tầng; đến 2019 toàn tỉnh có 12 cụm công nghiệp, với tổng diện tích 790 ha, tỷ lệ lắp đầy đạt 67,4%. Năm 2019, kim ngạch xuất, nhập khẩu duy trì tăng trưởng; cơ cấu hàng hóa xuất khẩu được cải thiện theo hướng tăng các sản phẩm chế tạo, chế biến, hàng nông sản; bên cạnh giữ vững các thị trường xuất khẩu truyền thống (Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, ASEAN), nhiều doanh nghiệp có bước tiếp cận, phát triển một số thị trường mới như: Cuba, Mexico, các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất, Cộng hòa Belarus, Cộng hòa Kazakhstan; đến nay sản phẩm xuất khẩu của tỉnh đã có mặt 88 quốc gia và vùng lãnh thổ. Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 27 tỷ 781 triệu đô la Mỹ, tăng 15,6% (năm 2018 tăng 9,7%, KH tăng 15,5%). Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 20 tỷ 795 triệu đô la Mỹ, tăng 10,6%; thặng dư thương mại của tỉnh năm 2019 đạt gần 07 tỷ đô la Mỹ. Theo thống kê cuối năm 2019 của tỉnh, ước tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội đạt 114.669 tỷ đồng, tăng 15,8% (năm 2018 tăng 12,2%, KH tăng 10,02%); trong đó: vốn nhà nước tăng 15,2% (chiếm 16,3%), vốn ngoài nhà nước tăng 21,4% (chiếm 35,5%) và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 12,1% (chiếm 48,3%). Thu hút đầu tư: Năm 2019, tình hình sản xuất công nghiệp tiếp tục phát triển, chuyển dịch nội bộ ngành theo hướng tích cực; công nghiệp chế biến, chế tạo đóng vai trò quan trọng của ngành; một số ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh (gỗ, dày dép, dệt may, điện tử, linh kiện...) có quy mô lớn, năng lực cạnh tranh, đạt giá trị xuất khẩu cao. Có 1.261 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp đi vào hoạt động góp phần đưa chỉ sô phát triển công nghiệp tăng 9,86% (năm 2018 tăng 9,8%, KH 2019 tăng 9,5%). Sản lượng điện thương phẩm 2019 ước đạt 13,6 tỷ KWh, tăng 9,1% so với cùng kỳ, duy trì tỷ lệ hộ dân sử dụng điện đạt 99,998%. Theo thống kê cuối năm 2019, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDRP) ước tăng 9,5% (kế hoạch 8,5-8,7%), bình quân đầu người đạt 146,9 triệu đồng (kế hoạch 140,6 triệu đồng). Cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp - thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm với tỉ trọng tương ứng là 66,8% - 22,4% - 2,6% - 8,2% (kế hoạch 63,7% - 25% - 3,2% - 8,1%). Giáo dục. Danh sách các trường Cao đẳng, Đại học, Trung học chuyên nghiệp và dạy nghề: Tính vào thời điểm cuối tháng 11 năm 2019, trên địa bàn toàn tỉnh có khoảng 180 nhà trẻ - mầm non - mẫu giáo, 136 trường tiểu học, 67 trường trung học cơ sở, 35 trường trung học phổ thông, 7 trung tâm giáo dục thường xuyên, 9 trường đại học và cao đẳng.. Theo số liệu sơ bộ của ngành Giáo dục và Đào tạo, tổng số học sinh các cấp học từ mầm non đến trung học phổ thông toàn tỉnh năm học 2019-2020 có 493.347 học sinh, tăng thêm 34.933 học sinh (tăng 7%) so với năm học trước, số học sinh tăng cơ học (tuyển sinh vào lớp 1) là 8.926, chủ yếu tại Thuận An (2.788), thị xã Bến Cát (2.695). Một số địa phương vượt quy định số học sinh cấp tiểu học (35 học sinh/lớp) như thị xã Bến Cát (trung bình 48 học sinh/lớp), Dĩ An (trung bình 47 học sinh/lớp), Thuận An (trung bình 46 học sinh/lớp). Y tế. Công tác khám chữa bệnh được quan tâm thực hiện, đáp ứng nhu cầu phục vụ nhân dân. Theo thống kê tháng 9 năm 2019, tổng số lần khám bệnh của các bệnh viện trên địa bàn tỉnh là 4.210.714 lượt người, đạt 67% kế hoạch (trong đó: các bệnh viện ngoài công lập khám 1.688.455 lượt người, chiếm tỷ lệ 40%). Nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nông nghiệp. Tính đến trung tuần tháng 9, toàn tỉnh đã gieo trồng được 6.780,7 ha các loại cây hàng năm vụ mùa, bằng 97,4% cùng kỳ. Trong đó diện tích cây lúa gieo cấy 2.407 ha, bằng 93,9% cùng kỳ; cây ngô và cây lương thực có hạt khác 127,4 ha, tăng 0,2%; cây lấy củ có chất bột 1.665 ha, tăng 0,1%; cây rau, đậu, hoa các loại 1.735 ha, tăng 0,2%; diện tích cây hàng năm khác 382 ha, tăng 0,4% so cùng kỷ. Cùng với việc gieo trồng vụ mùa, toàn tỉnh đã thu hoạch lúa vụ hè thu được 1.321 ha, bằng 93,6% cùng kỳ, sản lượng lúa đạt 5,3 ngàn tấn, bằng 95,6% cùng kỳ. Ước tính diện tích các loại cây hàng năm, năm 2019 thực hiện 21.693 ha, bằng 98,8% cùng kỳ. Diện tích một số loại cây hàng năm (lúa, mỳ...) giảm so với cùng kỳ là do người dân chuyển sang trồng cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao hơn. Mặc dù diện tích có giảm nhưng được người dân áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, sử dụng giống mới, cũng như được đầu tư chăm sóc tốt nên năng suất một số cây trồng tăng so với cùng kỳ. Năm 2019, chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao tiếp tục phát triển với 133 trang trại gà; 141 trang trại heo; 10 trang trại vịt; 01 trang tại bò sữa; 2.870 hộ đầu tư sản xuất các mô hình nông nghiệp đô thị. Trước diễn biến phức tạp của bệnh dich tả heo Châu phi 2019 và các trang trại chăn nuôi theo phương thức truyền thống (trại hở) không tái đàn sau khi xuất bán nên tổng đàn lợn ước tính giảm so với cùng kỳ. Ước tính tổng đàn lợn hiện có: 615.789 con, giảm 1,3% so với cùng kỳ, giảm 7% so với thời điểm 01/4/2019; tổng đàn trâu: hiện có 5.321 con, bằng 91,8% so cùng kỳ; tổng đàn bò: 24.412 con, bằng 98,4% cùng kỳ; gia cầm: 10.289 ngàn con, tăng 5,5% so cùng kỳ, trong đó gà 10.072 ngàn con, tăng 5,4% so cùng kỳ. Lâm nghiệp. Ước tính 9 tháng năm 2019, diện tích rừng trồng chăm sóc 3.998 ha, tăng 0,6% so cùng kỳ. Khai thác lâm sản chủ yếu khai thác từ rừng trồng của lâm trường và các loại cây trồng phân tán, sản lượng gỗ khai thác là 8.536,1 m³, tăng 1,5% so cùng kỳ; sản lượng củi khai thác 9.013,4 Ste, tăng 1,4% so cùng kỳ. Thủy sản. Năm 2019, tiếp tục tổ chức hướng dẫn các cơ sở, trang trại và các hộ nuôi trồng thủy sản thực hiện vệ sinh ao hồ và các qui trình nuôi thả đúng quy định trên diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản hiện có là 364,9 ha, bằng 98,1% cùng kỳ. Sản lượng thủy sản 9 tháng năm 2019 thực hiện 2.425,6 tấn, tăng 2,2% so cùng kỳ, trong đó: sản lượng thủy sản khai thác 205,1 tấn, tăng 1,6%; sản lượng thủy sản nuôi trồng 2.220,5 tấn, tăng 2,2%. Truyền thông. Bình Dương đưa vào hoạt động Tổng đài đường dây nóng (1022) để tiếp nhận và xử lý những phản ánh của người dân và tổ chức, triển khai phòng họp không giấy (e-cabinet), cổng dịch vụ công mới với 600 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 97 dịch vụ cổng trực tuyến mức độ 4. Giáo dục. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bình Dương có hơn 250 ngôi trường công lập đã đi vào hoạt động gồm các cấp: TH-THCS-THPT-CĐ-ĐH 1. Đại học Bình Dương (Binh Duong University (BDU)) 2. Đại học Thủ Dầu Một (Thu Dau Mot University (TDMU)) 3. Đại học Kinh tế – Kỹ thuật Bình Dương (Binh Duong Economics and Technology University (BETU)) 4. Đại học quốc tế Miền Đông ( Eastern International University) 5. Đại học Việt – Đức (Vietnamese – German University) 7. Trường Đại học Thủy lợi – Cơ sở 2 (Thuy Loi University (TLU)) 8. Trường Đại học Ngô Quyền – Sĩ quan Công binh ( Ngo Quyen University (NQU)) •Các trường cao đẳng 1. Trường Cao đẳng Y tế Bình Dương (Binh Duong Medical College) 2. Cao đẳng Nghề Việt Nam – Singapore (Vietnam – Singapore Vocational College) 3. Trường Cao đẳng Công nghệ cao Đồng An (DAP) 4. Trường Cao đẳng Việt Nam – Hàn Quốc Bình Dương Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn các trường tư thục đã liên thông lên đại học, các Trung tâm giáo dục thường xuyên, các trường nghề và các trường trung cấp đã đi vào hoạt động nhằm mục đích phát triển trong việc học tập của học sinh cũng như việc giáo dục của tỉnh Bình Dương Văn hóa và du lịch. Bình Dương có các làng nghề truyền thống, như điêu khắc gỗ, làm đồ gốm và tranh sơn mài. Từ xa xưa các sản phẩm gốm mỹ nghệ, sơn mài và điêu khắc của Bình Dương đã tham gia hội chợ quốc tế, đồng thời cũng đã xuất khẩu sang Pháp và nhiều nước trong khu vực. Tổ chức các chương trình quảng bá thông tin, hình ảnh du lịch tỉnh Bình Dương tại các sự kiện Du xuân Bình Dương 2019, Lễ hội Hương Bưởi Bạch Đằng, Lễ hội “Lái Thiêu mùa trái chín”, Hội chợ du lịch Quốc tế Việt Nam - VITM Ha Noi 2019, Ngày hội du lịch Thành phố Hồ Chí Minh, Lễ hội bánh dân gian Nam bộ lần thứ 8 năm 2019 tại Thành phố cần Thơ và Hội chợ Du lịch Quốc tế ITE - Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019. Trong 9 tháng năm 2019, ước tính có gần 26 triệu lượt khách đến tham quan du lịch, tăng 5,2% so cùng kỳ, doanh thu ước đạt 955 tỷ đồng, tăng 14% so cùng kỳ; riêng Khu du lịch Đại Nam Văn hoá, Du lịch, Thể thao thu hút hon 560 ngàn lượt khách với doanh thu đạt 188 tỷ đồng. Bình Dương tuyên truyền, cổ động và tổ chức các hoạt động biểu diễn nghệ thuật chào mừng năm mới và các ngày Lễ, kỷ niệm lớn của đất nước, các sự kiện chính trị của địa phương diễn ra sôi nổi, rộng khắp; các thiết chế văn hóa, thể thao và di tích từ cấp tỉnh đến cơ sở tiếp tục được quan tâm đầu tư xây dựng, tu bổ và khai thác phát huy; hoàn chỉnh hồ sơ đề nghị Thủ tướng Chính phủ công nhận 22 hiện vật “Bộ dụng cụ dệt Phú Chánh” là bảo vật quốc gia; tổ chức lễ đón nhận xếp hạng di tích quốc gia đối với Đình thần Dĩ An (phường Dĩ An, thị xã Dĩ An); công tác tổ chức và quản lý lễ hội được thực hiện đảm bảo chu đáo, đúng quy định, trong đó Lễ hội Chùa Bà - Rằm tháng Giêng và các lễ hội mang đặc trưng văn hóa của địa phương như: “Trái cây mùa trái chín”, “Hương bưởi Bạch Đằng” đã tạo những nét đẹp văn hoá, nhiều ý nghĩa trong cộng đồng, được dư luận xã hội đồng tình hưởng ứng. Giao thông vận tải. Bình Dương là một tỉnh có hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy rất quan trọng nối liền giữa các vùng trong và ngoài tỉnh. Đường bộ. Trong hệ thống đường bộ, Quốc lộ 13 là con đường chiến lược cực kỳ quan trọng xuất phát từ Thành phố Hồ Chí Minh, chạy suốt chiều dài của tỉnh từ phía nam lên phía bắc, qua tỉnh Bình Phước và nối Vương quốc Campuchia xuyên đến biên giới Thái Lan và Lào. Đây là con đường có ý nghĩa chiến lược cả về quân sự và kinh tế. Đường Quốc lộ 14, từ Tây Ninh qua Dầu Tiếng đi Chơn Thành, Đồng Xoài, Bù Đăng thuộc tỉnh Bình Phước xuyên suốt vùng Tây Nguyên, là con đường chiến lược quan trọng cả trong chiến tranh cũng như trong thời kỳ hòa bình xây dựng đất nước. Ngoài ra còn có Tỉnh lộ 741 từ Thủ Dầu Một đi Phước Long... và hệ thống đường nối thị xã với các thị trấn và điểm dân cư trong tỉnh. Đường thủy. Về hệ thống giao thông đường thủy, Bình Dương nằm giữa ba con sông lớn, nhất là sông Sài Gòn. Bình Dương có thể nối với các cảng lớn ở phía nam và giao lưu hàng hóa với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Đường sắt. Trên địa tỉnh có hai nhà ga là ga Sóng Thần và ga Dĩ An theo tuyến đường sắt Bắc Nam. Từ ngày 5 tháng 6 năm 2019, ga Dĩ An chính thức được đón khách thay cho ga Sóng Thần vì ga Dĩ An gần với khu dân cư, khu công nghiệp nên được nhiều hành khách lựa chọn là điểm đến hơn so với ga Sóng Thần. Cũng từ ngày này, ngành đường sắt dừng việc nhận và trả khách tại ga Sóng Thần. Theo chiến lược phát triển giao thông vận tải đường sắt đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, tuyến đường sắt Sài Gòn - Lộc Ninh sẽ được khôi phục và xây dựng lại. Đây cũng là một phần trong dự án đường sắt Xuyên Á mà Chính phủ đã cam kết trong thỏa thuận chung ASEAN nhưng dự án đã bị trì hoãn dài làm kèm theo nhiều hệ lụy. Đường hàng không. Vào thời điểm năm 2011, sân bay Phú Lợi và sân bay Phú Giáo là hai sân bay còn lại duy nhất của tỉnh này, tuy nhiên cả hai đều được dùng để khai khác dự trữ quân sự. Bình Dương cách sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất từ 10 đến 15 km. Năm 2012, trong đồ án Quy hoạch tổng thể GTVT tỉnh Bình Dương đến năm 2020 và định hướng 2030, Trung tâm Nghiên cứu phát triển GTVT đã đề xuất xây dựng 2 sân bay ở Bến Cát và Dầu Tiếng, nhưng Phó chủ tịch UBND tỉnh Trần Văn Nam cho rằng cần phải nghiên cứu, bổ sung sân bay ở một số nơi khác vì đến năm 2020 kinh tế - xã hội của Bình Dương nói riêng và cả nước nói chung đã đổi khác, nhu cầu đi lại, du lịch bằng đường hàng không là cần thiết. Quan hệ quốc tế. Thành phố kết nghĩa. Bình Dương hiện tại có một thành phố kết nghĩa : Daejeon, Hàn Quốc (17 tháng 5 năm 2005) Hợp tác, hữu nghị. Ngoài ra, Bình Dương hiện tại đã kí kết các thỏa thuận hợp tác, hữu nghị với các thành phố hoặc vùng sau đây:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bình Phước là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây cũng là tỉnh có diện tích lớn nhất Nam Bộ. Tỉnh lỵ của Bình Phước hiện nay là thành phố Đồng Xoài, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 121 km theo đường Quốc lộ 13 và Quốc lộ 14 và 102 km theo đường Tỉnh lộ 741. Bình Phước là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ có 240 km đường biên giới với Vương quốc Campuchia trong đó 3 tỉnh biên giới gồm Tbong Khmum, Kratie, Mundulkiri, tỉnh là cửa ngõ đồng thời là cầu nối của vùng với Tây Nguyên và Campuchia. Năm 2020, Bình Phước là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 43 về số dân, xếp thứ 36 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 24 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 5 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 979,6 nghìn dân, GRDP đạt 43.650 tỉ Đồng (tương ứng với 1,898 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 44,56 triệu đồng (tương ứng với 1.937 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,51%. Bình Phước là nơi định cư và sinh sống của nhiều dân tộc khác nhau, trong đó dân tộc ít người chiếm 17,9%, đa số là người Khmer, và Xtiêng, một số ít người Hoa, Nùng, Tày... vì vậy Bình Phước có nhiều nét văn hóa của người Xtiêng. Ngoài ra tỉnh còn có nhiều lễ hội truyền thống đặc sắc như Liên hoan văn hóa các dân tộc thiểu số vào tháng 12 hằng năm, lễ hội cầu mưa của người Xtiêng, lễ bỏ mả, lễ hội đánh bạc bầu cua, đánh liêng tố xả láng ở điểm 2, lễ mừng lúa mới của người Khmer. Địa lý. Bình Phước là một tỉnh nằm ở phía bắc của vùng Đông Nam Bộ, có vị trí địa lý: Địa hình. Bình Phước là vùng chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung bộ xuống đồng bằng sông Cửu Long, nhìn chung địa hình Bình Phước tương đối bằng phẳng ở phía nam và tây nam, phía bắc và đông bắc có địa hình dốc hơn. Bình Phước là một tỉnh trung du miền núi nhưng địa hình khá thấp và không phức tạp khi so với các tỉnh trung du miền núi khác, phía nam và tây nam tỉnh là nền đất hình thành trên phù sa cổ với địa hình tương đối bằng phẳng, tiếp đến là vùng đồi thấp chủ yếu hình thành trên nền Bazan có địa hình lượn sóng nối tiếp nhau, phía bắc và tây bắc là vùng đất tiếp giáp Tây Nguyên có độ cao và dốc mạnh hơn. Núi cao nhất tỉnh Bình Phước và cũng là núi cao thứ 3 ở Nam Bộ là núi Bà Rá với độ cao 736m. Tài nguyên khoáng sản. Bình Phước có 13 loại đất, phần lớn nằm trên tầng bazan và phù sa cổ, diện tích lớn nhất là đất đỏ bazan chiếm khoảng 40%, nâu vàng trên bazan chiếm khoảng 15%, đất xám bạc màu trên phù sa cổ chiếm khoảng 15%, đất nâu vàng trên phù sa cổ chiếm 11%, đất đỏ vàng trên đá phiến chiếm khoảng 10%. Trong đó đất chất lượng cao trở lên chiếm 61,17% tổng diện tích đất tự nhiên, đất có chất lượng trung bình chiếm 36,78% diện tích đất tự nhiên và đất có chất lượng kém, hoặc cần đầu tư chiếm 1,15% tổng diện tích đất lâm nghiệp. Rừng của tỉnh Bình Phước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ môi trường sinh thái của vùng Đông Nam Bộ, có tác dụng tham gia điều hoà dòng chảy của các con sông. Tổng diện tích đất lâm nghiệp của tỉnh Bình Phước chiếm 51,3% tổng diện tích đất toàn tỉnh. Toàn tỉnh hiện có khoảng 91 mỏ, điểm quặng, điểm khoáng với 20 loại khoáng sản có tiềm năng triển vọng khác nhau thuộc 4 nhóm gồm nguyên liệu phân bón, kim loại, phi kim loại, đá quý và bán quý. Trong đó nguyên vật liệu xây dựng, cao lanh, đá vôi… là loại khoáng sản có triển vọng và quan trọng nhất của tỉnh. Khí hậu. Nằm trong vùng mang đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa với 2 mùa là mùa mưa và mùa khô, Vào mùa mưa, thời tiết thường mát mẻ, lượng mưa lớn, ngược lại vào mùa khô, lượng mưa ít, độ ẩm không khí giảm, thời tiết thường se lạnh vào đầu mùa khô đến giữa mùa khô đến cuối mùa khô thời tiết khô nóng rất khó chịu, Nhiệt độ bình quân trong năm khá cao đều và ổn định từ 25,8 ⁰C - 26,2 °C. Và thấp kỷ lục là 10⁰C cao kỷ lục là 38⁰C Thủy văn. Bình Phước có địa hình tương đối cao, là nơi bắt nguồn của nhiều sông, suối, có mạng lưới sông suối khá dày đặc 0,7 - 0,8 km/km², lớn nhất là sông Bé, sông Đồng Nai và sông Sài Gòn, các sông suối ở Bình Phước đều thuộc hệ thống sông Đồng Nai do vậy chế độ thủy văn của Bình Phước ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực miền Đông Nam Bộ. Hầu hết các hồ tự nhiên đều có diện tích nhỏ, một số hồ nhân tạo phục vụ cho các công trình thủy điện hoặc lấy nước sản xuất và sinh hoạt có diện tích khá lớn là hồ Thác Mơ, hồ Sóc Miêng, hồ Cần Đơn, và đặc biệt là hồ thủy lợi Phước Hòa còn có tác dụng điều phối nguồn nước dồi dào từ sông Bé bổ sung nước cho hồ Dầu Tiếng giúp điều phối nước chống xâm nhập mặn cho sông Sài Gòn và sông Vàm Cỏ. Giao thông. Trên địa bàn tỉnh giao thông được thông suốt nối trong và ngoài tỉnh, hầu hết được nhựa hóa. Với các tuyến đường chính như Quốc lộ 13 từ cầu Tham Rớt đi theo hướng Nam – Bắc qua trung tâm huyện Chơn Thành, Bình Long đến cửa khẩu Hoa Lư với tổng chiều dài là 79,90 km, Quốc lộ 14 nối các tỉnh Tây Nguyên qua Bình Phước về Thành phố Hồ Chí Minh với 112,70 km. Ngoài ra, các tuyến đường khác như tỉnh lộ 741 kết nối trung tâm tỉnh với huyện Đồng Phú và thị xã Phước Long, các tuyến đường liên huyện đã được láng nhựa, gần 90% đường đến trung tâm các xã đã được láng nhựa, các tuyến đường nối với tỉnh Tây Ninh, tỉnh Lâm Đồng đã được láng nhựa rất thuận tiện cho giao thông. Đường nối với tỉnh Đồng Nai cũng được nâng cấp mở rộng. Tháng 11 năm 2012, Về doanh thu vận tải hành khách tháng này ước thực hiện 48,94 tỷ đồng, tăng 1,4% so tháng 10, tăng 13% so với cùng kỳ năm trước. Doanh thu vận tải hàng hoá tháng này ước thực hiện 30,38 tỷ đồng, tăng 3,3% so tháng trước và tăng 15,5% so cùng kỳ năm 2011. Dự kiến đến năm 2020-2025 sẽ có tuyến đường sắt xuyên Á đi qua cửa khẩu Hoa Lư với tuyến đường sắt đi Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Miền Tây Nam Bộ. Tuyến đường xuyên Á sẽ nối với các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Malaysia, Thái Lan thuận lợi cho lưu thông hàng hóa và người qua lại giữa các nước trong khu vực. Lịch sử. Thời nhà Nguyễn, địa bàn Bình Phước ngày nay thuộc trấn Biên Hòa. Đến giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp chia Nam Kỳ thành 4 khu vực là Sài Gòn, Mỹ Tho, Vĩnh Long, Bassac lúc này Bình Phước thuộc khu vực Sài Gòn. Năm 1889, thực dân Pháp đổi các tiểu khu thành các tỉnh, Bình Phước thuộc địa phận tỉnh Biên Hòa và Thủ Dầu Một. Từ năm 1956, Việt Nam Cộng hòa thiết lập một số tỉnh mới ở miền Nam. Hai tỉnh Bình Long và Phước Long là tiền thân của tỉnh Bình Phước. Ngày 30 tháng 1 năm 1971, Trung ương Cục miền Nam thành lập phân khu Bình Phước. Cuối năm 1972, phân khu Bình Phước giải thể, tỉnh Bình Phước chính thức được thành lập. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất quốc hội khóa VI, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thành lập tỉnh Sông Bé bao gồm Thủ Dầu Một, Bình Phước và 3 xã thuộc huyện Thủ Đức, chia thành 7 huyện, thị và 1 thị xã. Ngày 9 tháng 2 năm 1978, tái lập huyện Lộc Ninh từ một số xã của hai huyện Bình Long và Phước Long. Ngày 4 tháng 7 năm 1988, tái lập huyện Bù Đăng từ một phần huyện Phước Long. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Sông Bé tách thành hai tỉnh là Bình Dương và Bình Phước, lúc này tỉnh Bình Phước được tái lập gồm 5 huyện phía bắc của tỉnh Sông Bé là: Bình Long, Bù Đăng, Đồng Phú, Lộc Ninh, Phước Long. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Đồng Xoài thuộc huyện Đồng Phú. Ngày 1 tháng 9 năm 1999, thành lập thị xã Đồng Xoài - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Bình Phước trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của huyện Đồng Phú. Ngày 20 tháng 2 năm 2003, tái lập huyện Chơn Thành từ một phần huyện Bình Long và tái lập huyện Bù Đốp từ một phần huyện Lộc Ninh. Ngày 11 tháng 8 năm 2009, theo Nghị quyết số 35/NQ-CP của Thủ tướng Chính phủ, chia huyện Bình Long thành thị xã Bình Long và huyện Hớn Quản; chia huyện Phước Long thành thị xã Phước Long và huyện Bù Gia Mập. Đến thời điểm này, tỉnh Bình Phước có 10 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 3 thị xã: Đồng Xoài (tỉnh lỵ), Bình Long, Phước Long và 7 huyện: Bù Đăng, Bù Đốp, Bù Gia Mập, Chơn Thành, Đồng Phú, Hớn Quản, Lộc Ninh. Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 931/NQ-UBTVQH14, thành lập huyện Phú Riềng trên cơ sở tách một số xã thuộc huyện Bù Gia Mập. Ngày 16 tháng 10 năm 2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 587/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2018), thành lập thành phố Đồng Xoài trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Xoài. Ngày 11 tháng 8 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 570/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 10 năm 2022), thành lập thị xã Chơn Thành trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chơn Thành. Từ đó, tỉnh Bình Phước có 1 thành phố, 3 thị xã và 7 huyện như hiện nay. Hành chính. Hiện nay tỉnh Bình Phước có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 3 thị xã và 7 huyện, chia thành 111 đơn vị hành chính cấp xã gồm 20 phường, 5 thị trấn và 86 xã. Dân cư. Là vùng đất cao ráo, khí hậu điều hòa không có gió bão cực đoan, không xa với trung tâm công nghiệp lớn, cũng đang trong quá trình phát triển công nghiệp mạnh mẽ, nên nhiều người dân từ các vùng trong cả nước chọn Bình Phước là nơi đến sinh sống và lập nghiệp. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Bình Phước đạt 994.679 người, mật độ dân số đạt 132 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 235.405 người, chiếm 23,7% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 759,274 người, chiếm 76,3% dân số. Dân số nam đạt 501.473 người, trong khi đó nữ đạt 493.206 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 1,3 ‰ Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng Đông Nam Bộ với gần 1 triệu dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 40,56%. Thành phần dân tộc. Trên địa bàn tỉnh Bình Phước có sự cộng cư của 41 dân tộc anh em. bao các dân tộc Kinh, Stieng, Khmer, Mnông, Hoa, Tày, Nùng... trong đó dân tộc thiểu số đông nhất là Stieng. Tôn giáo. Đại bộ phận dân cư trong tỉnh là không theo tôn giáo nào. Công giáo là tôn giáo có số lượng tín đồ đông đảo nhất, tiếp đến là Phật giáo, Tin Lành và Cao Đài. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 13 tôn giáo khác nhau đạt 323.818 người, nhiều nhất là Công giáo có 169.226 người, tiếp theo là Phật giáo đạt 86.996 người, đạo Tin lành có 84.687 người, đạo Cao Đài có 33.092 người, Hồi giáo chiếm 481 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 345 người. Còn lại các tôn giáo khác như Baha'i giáo có 25 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 15 người, Minh Lý Đạo có 10 người, Bà La Môn có chín người, Minh Sư Đạo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo 5 người và 2 người theo Bửu Sơn Kỳ Hương. Kinh tế. Tại báo cáo tổng kết kinh tế xã hội cuối năm 2020, bà Trần Tuệ Hiền - Chủ tịch UBND tỉnh Bình Phước - nhận định, năm 2020 là năm cuối thực hiện kế hoạch 5 năm, cũng là năm Bình Phước phấn đấu để đạt được kết quả cao nhất về mục tiêu tăng trưởng của giai đoạn 2016-2020. Mặc dù gặp không ít khó khăn do tác động xấu của đại dịch COVID-19 gây ra, tỉnh Bình Phước đã xây dựng kịch bản điều hành kinh tế xã hội để thực hiện mục tiêu kép vừa phòng chống dịch bệnh hiệu quả vừa phát triển kinh tế. Nhờ sự vào cuộc đồng bộ của cả tỉnh, tăng trưởng kinh tế năm 2020 đạt 7,51%. Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng 10,3%, công nghiệp xây dựng tăng 12,5%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 11.608 tỉ đồng. Kim ngạch xuất khẩu tăng 7,33% so với cùng kỳ 2019. Kim ngạch nhập khẩu tăng 6,25% so với cùng kỳ năm 2019. Về thu hút đầu tư, năm 2020 có 35 dự án đăng ký đầu tư vào Bình Phước với số vốn 252 triệu USD. Tính lũy kế hiện nay Bình Phước có 273 dự án với 2,65 tỉ USD đăng ký đầu tư. Các nhà đầu tư trong nước cũng đăng ký 7.000 tỉ đồng để phát triển 110 dự án. Tính lũy kế đến nay, có 1.081 dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư là 90.700 tỷ đồng. Nông nghiệp. Năm 2020, toàn tỉnh gieo trồng được: 27.663 ha cây hàng năm, giảm 19,02% so cùng kỳ năm trước; 429.801 ha cây lâu năm, tăng 1,36% so cùng kỳ. Tổng sản lượng lương thực có hạt năm 2020 đạt 51.726 tấn, giảm 6,42% so với cùng kỳ năm 2019.. Ước tính đến hết năm 2020, toàn tỉnh có 13.260 con trâu, tăng 10,28% so với cùng kỳ năm 2019. Bò có 39.418 con, tăng 6,02%. Heo 1.080.000 con, tăng 20,21%. Gia cầm 7.556 ngàn con, tăng 9,06%. Sản lượng thịt trâu xuất chuồng năm 2020 ước 1.126 tấn, tăng 10,39%, bò 39.418 tấn, tăng 6,48%, heo 130.890 tấn, tăng 74,98%; gia cầm 27.880 tấn, tăng 47,64%; so cùng kỳ năm 2019. Bình Phước được mệnh danh là thủ phủ hạt điều với giống điều Bình Phước nổi tiếng không chỉ tại Việt Nam mà còn trên khắp thế giới. Với diện tích 175.000 ha hạt điều được trồng khắp toàn tỉnh, Bình Phước được xem là vùng đất có diện tích trồng điều lớn nhất Việt Nam (tính đến nay, diện tích trồng điều ở Việt Nam là khoảng 290.000 ha hạt điều). Năng suất hạt điều Bình Phước dao động ở mức 600 kg/ha cao hơn mức bình quân của thế giới. Ngành điều là ngành mũi nhọn quan trọng trong việc phát triển kinh tế của toàn tỉnh Bình Phước. Lâm nghiệp. Ước tính năm 2012, diện tích rừng được chăm sóc bảo vệ 26,95 km², giảm 10,1% so với cùng kỳ năm trước, diện tích rừng được khoanh nuôi tái sinh là 115 ha, đạt kế hoạch, bằng năm 2011, diện tích rừng được giao khoán bảo vệ 32.183 ha, đạt kế hoạch, giảm 1,9% so với năm 2011. Tính đến ngày 31 tháng 10 năm 2012, các ngành chức năng đã phát hiện 65 vụ khai thác rừng trái phép, 213 vụ vận chuyển lâm sản trái pháp luật, 178 vụ mua, bán, cất giữ, chế biến kinh doanh lâm sản trái pháp luật, 79 vụ phá rừng làm thiệt hại 35,42 ha rừng. Công nghiệp. Tháng 12 năm 2020, Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 4,87% so với tháng trước và tăng 25,4% so với cùng kỳ năm 2019, trong đó ngành công nghiệp khai thác khoáng sản giảm 3,38%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,41%; sản xuất và phân phối điện, khí đốt tăng 6,69%. Ước năm 2020 có 1.202 doanh nghiệp thành lập mới, với tổng số vốn đăng ký 15.000 tỷ đồng, tăng 12% về số doanh nghiệp và tăng 3,18% về số vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2019, đạt 100,2% kế hoạch năm. Lũy kế đến hết tháng 12/2020, trên địa bàn tỉnh có tổng cộng 8.458 doanh nghiệp, với số vốn đăng ký 79.848 tỷ đồng. Tháng 11 năm 2012, giá trị thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn ngân sách nhà nước do địa phương quản lý ước gần 175,9 tỷ đồng. Lũy kế 11 tháng năm 2012, tổng vốn đầu tư phát triển thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý ước thực hiện 1.160,7 tỷ đồng, đạt 59,7% kế hoạch năm, trong đó cấp tỉnh 719,5 tỷ đồng, đạt 57,9% kế hoạch năm và cấp huyện 441,2 tỷ đồng, đạt 62,9% kế hoạch năm. Trước đố, tháng 10 năm 2012, tình hình giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 52% (820,2 tỷ đồng) kế hoạch năm 2012. Nội thương. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng tháng 12/2020 ước tính đạt 4.823 tỷ đồng, tăng 2,89% so với tháng trước và tăng 10,89% so với cùng kỳ năm trước. Quý IV năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 14.061,2 tỷ đồng, tăng 9,59% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2020, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước thực hiện được 48.439,4 tỷ đồng, tăng 0,43% so cùng kỳ năm trước. Ngoại thương. Trong 11 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện được 550.696 ngàn USD, giảm 10,9% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 11 năm 2012, ước thực hiện 56.776 ngàn USD, tăng 1,5% so tháng trước và giảm 14,1% so cùng kỳ năm 2011. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, kinh tế nhà nước ước thực hiện 16.490 ngàn USD, chiếm 29%, tăng 12,8% so tháng trước và giảm 12,9% so với cùng kỳ, kinh tế tư nhân 29.536 ngàn USD, chiếm 52%, giảm 5,9% so tháng trước và giảm 25,9% so với cùng kỳ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 10.750 ngàn USD, chiếm 18,9%, tăng 8,5% so tháng trước và tăng 47,4% so với cùng kỳ. Trong đó, Hạt điều nhân ước thực hiện 1.417 tấn (trị giá 9.280 ngàn USD), Mủ cao su thành phẩm ước thực hiện 11.050 tấn (trị giá 32.618 ngàn USD), Hàng nông sản khác ước thực hiện 2.370 ngàn USD, Hàng dệt may ước thực hiện 1.359 ngàn USD, Hàng điện tử ước thực hiện 3.000 ngàn USD, sản phẩm bằng gỗ ước thực hiện 2.066 ngàn USD, Hàng hóa khác ước thực hiện 4.440 ngàn USD. Cũng trong 11 tháng năm 2012, kim ngạch nhập khẩu ước thực hiện được 103.939 ngàn USD, giảm 6,5% so với cùng kỳ năm trước. Tháng 11 năm 2012 ước thực hiện 14.810 ngàn USD, tăng 11,8% so tháng trước và tăng 43,7% so cùng kỳ năm trước. Trong tổng kim ngạch xuất khẩu, kinh tế nhà nước ước không thực hiện, kinh tế tư nhân 5.098 ngàn USD chiếm 34,4%, giảm 16,3% so tháng trước và giảm 15,4% so với cùng kỳ, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 9.712 ngàn USD chiếm 65,6%, tăng 35,7% so tháng trước và tăng 126,8% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vải may mặc ước thực hiện 4.900 ngàn USD, hàng điện tử ước thực hiện 2.600 ngàn USD, hàng hóa khác ước thực hiện 7.212 ngàn USD. Xã hội. Giáo dục. Năm học 2011 đến 2012, toàn tỉnh có 429 trường học. Toàn tỉnh có 26/111 xã, phường, thị trấn được huyện, thị xã công nhận phổ cập giáo dục mầm non 5 tuổi, 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn xóa nạn mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và THCS, học sinh tốt nghiệp THCS đạt 99,7%. Đặc biệt năm học vừa qua tỷ lệ học sinh bỏ học các cấp giảm chỉ còn 0,5% (giảm so với các năm trước từ 2 - 3%). Năm 2018, toàn tỉnh có 517 trường học, 237.476 học sinh. Cán bộ, giáo viên, nhân viên công tác tại các trường trên toàn tỉnh đạt 15.304 cán bộ. Về cơ sở vật chất không xảy ra tình trạng thiếu trường, lớp, không có lớp học ca 3. Tuy nhiên, ở một số địa phương vẫn còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất trường, lớp học. Văn hóa - Xã hội. Du lịch. Nằm trong khu vực chuyển tiếp từ vùng Nam Trung Bộ sang vùng hạ Tây Nam Bộ do đó cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái của Bình Phước tương đối đa dạng với những khu vực có cảnh quan thiên nhiên đẹp, hệ sinh thái còn được bảo tồn nguyên vẹn... tạo thành các khu vực có khả năng phát triển du lịch đặc biệt là du lịch sinh thái. Ẩm thực. Bình Phước nổi tiếng là mảnh đất trồng điều vì thế các món liên quan đến điều rất được ưa chuộng tại đây.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Bình Thuận là một tỉnh ven biển nằm ở cực nam khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. có diện tích tự nhiên 7.810,4 km2 Năm 2018, Bình Thuận là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 32 về số dân, xếp thứ 34 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 26 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 35 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.231.000 người dân, GRDP đạt 81.325 tỷ Đồng (tương ứng với 3,3 tỷ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 66 triệu đồng (tương ứng với 2.881 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 11,09%. Tỉnh Bình Thuận nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng của địa bàn Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh lỵ của Bình Thuận là thành phố Phan Thiết nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 166 km về phía đông theo đường cao tốc, cách thành phố Nha Trang 252 km về phía tây nam và cách thủ đô Hà Nội 1.538 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1. Bình Thuận có biển dài 192 km kéo dài từ mũi Đá Chẹt giáp Cà Ná thuộc Ninh Thuận đến bãi bồi Bình Châu thuộc địa phận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Trong sách giáo khoa, Từ điển Bách khoa Việt Nam hay Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam đều xếp Bình Thuận vào vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê Việt Nam và Website của Bộ Kế hoạch & đầu tư Việt Nam lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận vào Đông Nam Bộ . Một phần khác Bộ Kế hoạch & đầu tư Việt Nam lại xếp Bình Thuận và Ninh Thuận vào vùng Duyên hải miền Trung. Vị trí địa lý. Bình Thuận là tỉnh có dãy đất bắt đầu chuyển hướng từ Nam sang Tây của phần còn lại của Việt Nam trên bản đồ hình chữ S, có tọa độ địa lý từ 1033'42" đến 1133'18" vĩ độ Bắc, từ 10723'41" đến 10852'18" kinh độ Đông. Phía Bắc của tỉnh Bình Thuận giáp với tỉnh Lâm Đồng, phía Đông Bắc giáp tỉnh Ninh Thuận, phía Tây giáp tỉnh Đồng Nai, và phía Tây Nam giáp Bà Rịa-Vũng Tàu, ở phía Đông và Nam giáp Biển Đông với đường bờ biển dài 192 km. Bình Thuận thuộc vùng nào của Việt Nam? Địa giới của tỉnh Bình Thuận hiện tại bao gồm diện tích của 2 tỉnh cũ: tỉnh Bình Tuy (nửa phía tây nam) và tỉnh Bình Thuận (nửa phía đông bắc). Trước năm 1975, tỉnh Bình Tuy thuộc miền Đông Nam Bộ, và tỉnh Bình Thuận thuộc Nam Trung Bộ. Vì thế, đến khi hai tỉnh cũ này hợp nhất thành tỉnh Bình Thuận thì mới đặt ra vấn đề là tỉnh Bình Thuận hiện nay thuộc Đông Nam Bộ hay Nam Trung Bộ? Quan điểm thuộc Đông Nam Bộ. Tổng cục Thống kê Việt Nam (và một số tài liệu lấy số liệu của Tổng cục Thống kê) xếp Bình Thuận cùng Ninh Thuận vào Đông Nam Bộ. Còn website của Bộ Kế hoạch và đầu tư Việt Nam cũng xếp 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận vào Đông Nam Bộ trong số liệu thống kê vùng Đông Nam Bộ. Bình Thuận thuộc quân khu 7 (quân khu thuộc Đông Nam Bộ mở rộng). Ngoài ra, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng xếp Bình Thuận vào Đông Nam Bộ theo tọa độ địa lý các đơn vị hành chính (Bình Thuận có vĩ tuyến cùng Bắc với Đồng Nai, Bình Dương, thấp hơn vĩ tuyến Bắc so với Bình Phước, Tây Ninh, trung tâm tỉnh lỵ là Thành phố Phan Thiết nằm cùng vĩ tuyến Bắc so với Thành phố Hồ Chí Minh, thấp hơn đôi chút so với Biên Hòa, Thủ Dầu Một.) Về mặt thông tin và truyền thông, Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Thuận thuộc hệ thống các đài truyền hình miền Đông Nam Bộ. Về mặt văn hóa, Bình Thuận là một trong 21 tỉnh, thành phía nam có lịch sử đờn ca tài tử rất phát triển mà đờn ca tài tử là dòng nhạc mang đặc trưng của riêng vùng Nam Bộ. Hơn nữa, Bình Thuận được xếp vào vùng có xổ số miền Nam lưu hành, Công ty Điện lực Bình Thuận trực thuộc Tổng công ty Điện lực miền Nam. Quan điểm thuộc Nam Trung Bộ. Phần lớn sách báo, trong đó có các sách giáo khoa, Từ điển Bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, website chính thức của tỉnh Bình Thuận và người dân địa phương xếp Bình Thuận vào vùng duyên hải Nam (hoặc cực Nam) Trung Bộ. Về địa lý Bình Thuận có rất nhiều điểm chung với các tỉnh Nam Trung bộ khác, ít điểm chung với các tỉnh Đông Nam Bộ. Chẳng hạn như, Bình Thuận có chế độ khí hậu mang nét đặc trưng của khí hậu bán khô hạn của vùng cực Nam Trung Bộ, nhiều nắng, gió, mùa mưa Bình Thuận đến trễ hơn vùng Đông Nam Bộ (thực tế từ tháng 8 tháng 9 mới mưa nhiều) không giống các tỉnh Đông Nam Bộ đã mưa nhiều từ tháng 5 (riêng vùng tiếp giáp Đông Nam Bộ và Tây Nguyên có khí hậu giao thoa), ngoài ra vùng biển Bình Thuận vùng biển miền Trung và khí hậu của vùng biển miền Trung, địa hình của Bình Thuận theo dạng "đồng bằng chân núi nhỏ hẹp" có thể dễ dàng thấy những dãy núi cao chạy xuyên suốt từ bất kỳ đâu giống như các tỉnh Nam Trung Bộ khác trong khi Đông Nam Bộ đất lượn sóng trên bậc thêm phù sa cổ và bazan chỉ có vài ngọn núi sót cao không quá 1000m. Về văn hóa và con người, giọng nói của người Bình Thuận tuy có phần nhẹ hơn các tỉnh Nam Trung Bộ khác nhưng vẫn mang nét rất đặc trưng của con người vùng biển Nam Trung Bộ. Bình Thuận có văn hóa Chăm Pa lâu đời giống như các tỉnh Nam Trung Bộ khác còn Đông Nam Bộ thì không. Ngoài ra, tổ chức cấp nhỏ ở địa phương Bình Thuận sử dụng thôn trong khi các tỉnh Nam Bộ lại dùng [ấp. Xét về mặt lịch sử Bình Thuận chỉ được xếp vào Nam Kỳ trong thời gian khoảng 1 năm (1883-1884), sau đó lại trả về Trung Kỳ cho tới nay. Bình Thuận được xếp vào chi hội cấp thoát nước miền Trung, du lịch miền Trung... Điều kiện tự nhiên. Địa hình Bình Thuận chủ yếu là đồi núi thấp, đồng bằng ven biển nhỏ hẹp, địa hình hẹp ngang kéo theo hướng đông bắc - tây nam, phân hoá thành 4 dạng địa hình chính gồm đất cát và cồn cát ven biển chiếm 18,22%, đồng bằng phù sa chiếm 9,43%, vùng đồi gò chiếm 31,65% và vùng núi thấp chiếm 40,7% diện tích đất tự nhiên. Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, nhiều nắng, nhiều gió, không có mùa đông và khô hạn nhất cả nước. Khí hậu nơi đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. nhưng trên thực tê mùa mưa chỉ tập trung vào 3 tháng 8, 9 và tháng 10, vì vậy mùa khô thực tế thường kéo dài. Bình Thuận có 10 loại đất với 20 tổ đất khác nhau, có kiểu rừng gỗ lá rộng, kiểu rừng rụng lá, kiểu rừng hỗn giao lá kim chiếm ưu thế, kiểu rừng hỗn giao và tre nứa thuần loại. Bên cạnh đó, Bình Thuận có nhiều tích tụ khoáng sản đa dạng về chủng loại như vàng, wolfram, chì, kẽm, nước khoáng và các phi khoáng khác. Trong đó, nước khoáng, sét, đá xây dựng có giá trị thương mại và công nghiệp. Sông ngòi tại Bình Thuận đều ngắn, lượng nước không điều hòa, mùa mưa thì nước sông chảy mạnh, mùa nắng làm sông bị khô hạn. Tỉnh có sáu sông lớn là sông Lũy, sông Lòng Sông, sông Cái và Sông Cà Ty, sông La Ngà, sông Phan. Lịch sử. Đất Bình Thuận nguyên thuộc nước Nhật Nam ngày xưa, sau là đất của Chiêm Thành. Vì chiến tranh liên miên nên Chiêm Thành mất dần đất đai. Tên gọi Bình Thuận bắt nguồn từ tên gọi tắt của từ Bình yên Thuận hòa có nghĩa là sự bình yên và thuận hòa của một vùng đất Năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần đánh chiếm đất Phan Lang (sau gọi là Phan Rang), để lại mảnh đất phía Tây cho Chiêm Thành. Năm 1692, chúa Nguyễn Phúc Chu lấy luôn mảnh đất còn lại đặt tên là Thuận Phủ và năm 1694 đặt là Thuận Thành trấn. Năm 1697, Lập Bình Thuận phủ gồm 2 huyện An Phước và Hòa Đa. Sau cải thành Bình Thuận Dinh. Đời vua Gia Long vẫn giữ Bình Thuận dinh, đến vua Minh Mạng đổi lại Bình Thuận phủ. Năm 1827: Minh Mạng đặt ra hai phủ Ninh Thuận và Hàm Thuận và hai huyện Tuy Phong và Tuy Định. Bình Thuận được đặt thành tỉnh và giao cho quan Tuần phủ Thuận Khánh kiêm nhiệm luôn tỉnh Khánh Hòa. Năm 1883: Hòa ước ký với Pháp (ngày 23 tháng 7) sáp nhập Bình Thuận vào Nam Kỳ. Năm 1884: Hòa ước Patenôtre (ngày 6 tháng 6) lại đưa Bình Thuận về Trung Kỳ. Năm 1888, thời công sứ Pháp E. Aymonier (1886 - 1889), vua Đồng Khánh chuyển phủ Ninh Thuận vào Khánh Hòa. Năm 1900, vua Thành Thái đặt huyện Tuy Lý và lấy huyện Tánh Linh trước thuộc Đồng Nai Thượng sáp nhập vào Bình Thuận, do công sứ M. Gaietta (1900 - 1902) quản lý. Năm 1905, Phủ Di Linh được nhập vào Bình Thuận, do công sứ L. Garnier (1904 - 1910) quản lý Năm 1945, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thống nhất hành chính trên toàn quốc, bãi bỏ các cấp phủ và tổng. Phủ Hàm Thuận được đổi thành huyện Hàm Thuận. Năm 1955-1975, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia Bình Thuận làm 8 Quận: Hàm Thuận, Phú Quý, Thiện Giáo, Hải Long, Hải Ninh, Hòa Đa, Tuy Phong và Phan Lý Chàm. Năm 1976: Bình Thuận sáp nhập với Bình Tuy và Ninh Thuận thành tỉnh Thuận Hải. Ngày 15 tháng 12 năm 1977, thành lập huyện đảo Phú Quý. Ngày 30 tháng 12 năm 1982, chia huyện Bắc Bình thành 2 huyện: Bắc Bình và Tuy Phong; chia huyện Hàm Thuận thành 2 huyện: Hàm Thuận Bắc và Hàm Thuận Nam; chia huyện Đức Linh thành 2 huyện: Đức Linh và Tánh Linh. Đến tháng 4 năm 1992, tỉnh Thuận Hải được chia thành 2 tỉnh mới lấy tên là Ninh Thuận và Bình Thuận theo Quyết định chia tách ghi ngày 26 tháng 12 năm 1991. Khi tách ra, tỉnh Bình Thuận có 9 đơn vị hành chính gồm: thị xã Phan Thiết (tỉnh lỵ) và 8 huyện: Bắc Bình, Đức Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Phú Quý, Tánh Linh, Tuy Phong. Ngày 25 tháng 8 năm 1999, chuyển thị xã Phan Thiết thành thành phố Phan Thiết. Ngày 5 tháng 9 năm 2005, thành lập thị xã La Gi trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Hàm Tân. Tình Bình Thuận có 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện như hiện nay. Hành chính. Bình Thuận có 10 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 124 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 19 phường, 12 thị trấn và 93 xã. Hiện nay tỉnh Bình Thuận có 15 đô thị gồm: Kinh tế. Theo sự sắp đặt về kinh tế, hiện nay, Bình Thuận là tỉnh thuộc vùng kinh tế Đông Nam Bộ. Phần đất liền của Bình Thuận nằm trong giới hạn 10°35'-11°38' Bắc và 107°24'-108°53' Đông. Năm 2019, kinh tế tỉnh Bình Thuận tiếp tục tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng GRDP của tỉnh tăng 11,09% (đây mức tăng trưởng cao nhất từ năm 2010 đến nay), khẳng định được vai trò là năm tăng tốc của Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm (2016-2020). GRDP bình quân đầu người đạt 62 triệu đồng, tương đương 2.681 USD, tăng 12,94% so với cùng kỳ năm 2018. Công nghiệp chế biến-chế tạo và sản xuất, phân phối điện chiếm tỷ trọng lớn, tăng trưởng liên tục, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của nền kinh tế. Thu ngân sách Nhà nước là điểm sáng, năm 2019 đạt 13.203 tỷ đồng, vượt 40,75% dự toán HĐND tỉnh Bình Thuận giao, trong đó, thu nội địa là 9.400 tỷ đồng, vượt 49,68% dự toán HĐND tỉnh giao. Tổng vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội năm 2019 đạt 33.152 tỷ đồng (tăng 38,13% so cùng kỳ năm trước), chiếm 43,45% GRDP; trong đó vốn ngoài Nhà nước chiếm 74,07% (tăng 35,92% so với cùng kỳ năm 2018). Đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân tiếp tục được nâng lên; thu nhập bình quân đầu người năm 2019 ước đạt 43,6 triệu đồng/năm, tăng 8,36%. Công tác xóa đói giảm nghèo, chăm sóc các gia đình, những người có công với nước được tiếp tục quan tâm; tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh theo chuẩn đa chiều năm 2019 giảm 0,7%, còn 2,02%. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế có nhiều cố gắng, ước đạt 86%. Thủy hải sản. Nhiều sông suối bắt nguồn từ cao nguyên Di Linh thuộc Lâm Đồng đã chảy qua Bình Thuận để ra biển. Tính chung, các đoạn sông qua Bình Thuận có tổng chiều dài 663 km, trong đó có sông Cà Ty (76 km), sông La Ngà (74 km), sông Quao (63 km), sông Lòng Sông (43 km), sông Phan (40 km), sông Mao (29 km) và sông Luỹ (25 km). Bình Thuận có vũng lãnh hải rộng 52 nghìn km² nên Bình Thuận là một trong ba ngư trường lớn của Việt Nam trữ lượng khai thác đánh bắt hải sản đạt 240.000 tấn hải sản các loại, là điều kiện chế biến thủy sản xuất khẩu. Sò điệp là đặc sản của biển Bình Thuận, tập trung ở 4 bãi chính là: La Khế, Hòn Rơm, Hòn Cau và Phan Rí, cho phép đánh bắt 25-30 nghìn tấn/năm. Nông - Lâm nghiệp. Tỉnh Bình Thuận có 151.300 ha đất canh tác nông nghiệp, trong đó có trên 50.000 ha đất lúa. Sẽ phát triển thêm 100.000 ha đất sản xuất nông nghiệp. Chăn nuôi gia súc, gia cầm khá phát triển. Đang đầu tư để hình thành các vùng chuyên canh cây công nghiệp, cây ăn quả với: Đây là nguồn nguyên liệu dồi dào để phát triển các ngành công nghiệp chế biến từ cây công nghiệp, lương thực, thực phẩm... Với diện tích 400.000 ha rừng và đất lâm nghiệp, trữ lượng gỗ 25 triệu m³ và thảm cỏ là tiền đề thuận lợi để lập các nhà máy chế biến gỗ và phát triển các trang trại chăn nuôi đại gia súc và lập nhà máy chế biến thịt bò, heo... Trong vài năm trở lại đây, diện tích cây điều bị sụt giảm đáng kể do giá hạt điều bị giảm, cây thanh long và cây cao su liên tục tăng diện tích. Khoáng sản. Tỉnh Bình Thuận có nhiều loại khoáng sản với trữ lượng lớn: Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số của tỉnh đạt 1.230.808 người. 44% dân số sống ở đô thị và 56% dân số sống ở nông thôn. Dân cư tỉnh phân bố không đồng đều giữa các huyện, thị xã, thành phố. Tập trung đông nhất tại Thành phố Phan Thiết dân số (2015): 272.457 chiếm gần 1/4 dân số toàn tỉnh, tiếp đến là Phan Rí Cửa, Thị xã La Gi. Thưa thớt tại các huyện Bắc Bình, Tánh Linh, Hàm Tân<ref name=MS>
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Cà Mau là một tỉnh ven biển ở cực nam của Việt Nam, nằm trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Toàn bộ địa phận Cà Mau nằm trên Bán đảo Cà Mau. Năm 2019, Cà Mau là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 26 về số dân, xếp thứ 41 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 38 về GRDP bình quân đầu người. Với 1.229.600 người dân, GRDP đạt 53.229 tỉ Đồng (tương ứng với 2,3118 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 47,1 triệu đồng (tương ứng với 2.028 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,00%. Cà Mau là một vùng đất trẻ, mới được khai phá khoảng trên 300 năm. Vùng đất Cà Mau ngày xưa được Mạc Cửu dẫn người Hoa đến khai phá. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn đất này thần phục Nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều đình Chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên. Qua nhiều lần thay đổi về hành chính, đến ngày 1 tháng 1 năm 1997, tỉnh Cà Mau được tái lập theo Nghị quyết của Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 10, ngày 6 tháng 11 năm 1996 về việc điều chỉnh địa giới hành chính, chia tách tỉnh Minh Hải thành tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu. Nguồn gốc tên gọi. Tên gọi Cà Mau (chính tả cũ: Cà-mau) được hình thành do người Khmer gọi tên vùng đất này là "Tưk Kha-mau" (tiếng Khmer: តឹកខ្មៅ), có nghĩa là "nước đen". Do Nước đen là màu nước đặc trưng do lá tràm của thảm rừng tràm U Minh bạt ngàn rụng xuống làm đổi màu nước. Cà Mau là xứ đầm lầy ngập nước, có nhiều bụi lác mọc tự nhiên và hoang dã. Chính vì lẽ đó từ thuở xưa đã có câu ca dao: Địa lý. Khái quát. Tỉnh Cà Mau là mảnh đất tận cùng của tổ quốc với 3 mặt tiếp giáp với biển, cách thành phố Cần Thơ 180 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km, có vị trí địa lý: Phần lãnh thổ đất liền của tỉnh Cà Mau nằm trong tọa độ từ 834' - 933' vĩ Bắc và 10525' - 10443' kinh Đông. Toạ độ các điểm cực của tỉnh Cà Mau: Thành phố Cà Mau nằm trên trục đường Quốc lộ 1 và quốc lộ 63. Là tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Đường bờ biển của tỉnh Cà Mau có độ dài gần 254 km (dài thứ 2 cả nước), trong đó có 107 km bờ Biển Đông và 147 km bờ Biển Tây. Biển Cà Mau tiếp giáp với vùng biển các nước như Thái Lan, Malaysia, Indonesia và là trung tâm của vùng biển quốc tế ở Đông Nam Á. Điều kiện tự nhiên. Cà Mau là vùng đất thấp, khu vực rìa phía nam thường xuyên bị ngập nước. Cà Mau có 5 nhóm đất chính gồm: đất phèn, đất than bùn, đất bãi bồi, đất mặn và đất kênh rạch. Rừng Cà Mau là loại hình sinh thái đặc thù, rừng sinh thái ven biển ngập mặn được phân bố dọc ven biển với chiều dài 254 km. Bên cạnh đó, Cà Mau còn có hệ sinh thái rừng tràm nằm sâu trong lục địa ở các huyện U Minh, Trần Văn Thời, Thới Bình quy mô 35.000 ha. Diện tích rừng ngập mặn ở Cà Mau chiếm 77% rừng ngập mặn của vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tỉnh Cà Mau mang đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với nền nhiệt độ cao vào loại trung bình trong tất cả các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Khí hậu Cà Mau được chia thành 2 mùa là mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa ở Cà Mau trung bình có 165 ngày mưa/năm, với 2.360 mm. Độ ẩm trung bình năm là 85,6%, nhiệt độ trung bình hàng năm là 26,5C. Trong đó, nhiệt độ trung bình cao nhất trong năm là vào tháng 4, khoảng 27,6C, nhiệt độ trung bình thấp nhất vào tháng 1, khoảng 25C. Biển nhiệt độ trung bình trong 1 năm là 2,7C. Năm 2014, nhiệt độ thấp nhất ở đây đã xuống tới 20 độ C (tháng 1) (trước đó vào tháng 12 năm 2013 đã xuống còn 18 độ C). Nhiệt độ cao nhất là 38 độ C khi đang trong mùa khô vào tháng 4 năm 2016. Bán đảo Cà Mau. "Cà Mau" là một dải đất hình tam giác, có chiều dài tối đa là 130 dặm và độ cao trung bình là 7 feet so với mực nước biển. Sự hình thành của nó gần như hoàn toàn là kết quả của trầm tích của sông Mekong, cũng là kết quả của quá trình hình thành Mũi Bai ở cuối bán đảo. Khí hậu "Cà Mau" là nhiệt đới xa-van (Koppen: Aw) với lượng ẩm quanh năm trừ hai đến ba tháng mùa đông khí hậu tương đối khô hạn. Cụm các đảo thuộc Cà Mau. Quần đảo Hòn Khoai. Quần đảo Hòn Khoai bao gồm 5 hòn đảo sát nhau: Tổng diện tích 4 km². Hòn Đá Bạc. "Hòn Đá Bạc" ở xã Khánh Bình Tây huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, Việt Nam. Hành chính. Tỉnh Cà Mau có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 8 huyện. Được phân chia thành 101 đơn vị hành chính cấp xã gồm có 9 thị trấn, 10 phường và 82 xã. Lịch sử. Thời phong kiến. Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức có chép "Thời Gia Long, những giồng đất cao ráo ở ven sông Ông Đốc, sông Gành Hào, sông Bảy Háp và một vài phụ lưu mới có người khai khẩn, lập thành xóm, ấp. Tuy vậy, đến thời Tự Đức Cà Mau vẫn là vùng rừng đước, vẹt, tràm, không mấy ai đến lập nghiệp vì thiếu nước ngọt và ruộng quá nhiều phèn". Cuối thế kỷ 17, Mạc Cửu là tướng của nhà Minh do không chấp nhận triều đình nhà Thanh nên đã dẫn một số người Trung Hoa đến vùng Hà Tiên sinh sống. Sau khi Mạc Cửu dâng toàn bộ phần đất này thần phục nhà Nguyễn, Mạc Thiên Tứ con của Mạc Cửu đã vâng lệnh triều đình chúa Nguyễn lập ra đạo Long Xuyên. Vào năm 1808, Thời Gia Long thứ 7, đổi tên đạo Long Xuyên thành huyện Long Xuyên, thuộc trấn Hà Tiên. Năm 1825, Thời Minh Mạng thứ 6, nhà Nguyễn đã đặt ra một quan tri huyện để cai trị. Thời Pháp thuộc. Ngày 15 tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp thành lập hạt Cà Mau gồm địa bàn huyện Long Xuyên cũ. Tuy nhiên đến ngày 1 tháng 8 năm 1877, thực dân Pháp lại giải thể hạt Cà Mau, nhập vào địa bàn hạt Rạch Giá. Ngày 18 tháng 2 năm 1882, chính quyền Pháp lấy một phần đất Bạc Liêu thuộc tỉnh Sóc Trăng, một phần đất Cà Mau thuộc Rạch Giá hợp thành tỉnh Bạc Liêu. Thời Pháp thuộc, Cà Mau là một quận của tỉnh Bạc Liêu, quận lỵ đặt tại làng An Xuyên thuộc tổng Quản Long. Năm 1903, thực dân Pháp lập đại lý hành chính Cà Mau gồm 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên, Long Thủy. Ngày 16 tháng 5 năm 1911, Toàn quyền Đông Dương quyết định nâng lên thành quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu. Ngày 5 tháng 10 năm 1917, quận Cà Mau gồm 2 tổng Quảng Xuyên, Quảng Long và các làng Tân Lộc, Tân Lợi, Tân Phú, Thới Bình của tổng Long Thủy. Ngày 6 tháng 4 năm 1923, tách các làng Tân Lợi, Tân Lộc, Thới Bình của tổng Long Thủy lập tổng mới Long Thới, thuộc quận Cà Mau (có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1924). Ngày 24 tháng 9 năm 1938, tách tổng Quảng Xuyên khỏi quận Cà Mau lập quận mới Quảng Xuyên. Ngày 14 tháng 9 năm 1942, lập cơ sở hàng chính Tân An thuộc quận Cà Mau. Ngày 5 tháng 4 năm 1944, lập quận Thới Bình bao gồm tổng Thới Bình. Ngày 6 tháng 10 năm 1944, đổi tên quận Thới Bình thành quận Cà Mau Bắc, đổi tên quận Quảng Xuyên thành quận Cà Mau Nam. Sau đó lại hợp nhất 2 quận này thành một quận Cà Mau thuộc tỉnh Bạc Liêu. Giai đoạn 1956-1975. Ngày 9 tháng 3 năm 1956, theo Sắc lệnh 32/VN, chính quyền Việt Nam Cộng hòa lấy quận Cà Mau và 4 xã của quận Giá Rai là Định Thành, Hoà Thành, Tân Thành, Phong Thạnh Tây lập thành tỉnh Cà Mau, tỉnh lỵ ban đầu có tên là Cà Mau. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng Hoà gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Cà Mau được đặt tên mới là tỉnh An Xuyên, còn tỉnh lỵ đổi tên là "Quản Long". An Xuyên chính là tên của làng sở tại trước kia thuộc tổng Quản Long, vốn là nơi đặt quận lỵ quận Cà Mau trước năm 1956. Lúc này, xã An Xuyên cũng được đổi tên thành xã Tân Xuyên thuộc quận Quản Long và là nơi đặt tỉnh lỵ Quản Long của tỉnh An Xuyên. Tỉnh An Xuyên khi đó gồm 6 quận: Quản Long, Thới Bình, Sông Ông Đốc, Cái Nước, Đầm Dơi và Năm Căn. Tuy nhiên, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh An Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cà Mau. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Cà Mau cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Tỉnh Cà Mau lúc bấy giờ có 6 huyện: Thới Bình, Trần Văn Thời, Cái Nước, Ngọc Hiển, Châu Thành, Duyên Hải và thị xã Cà Mau. Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Cà Mau, tỉnh Bạc Liêu và hai huyện Vĩnh Thuận, An Biên (ngoại trừ 2 xã Đông Yên và Tây Yên) của tỉnh Rạch Giá sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cà Mau và tỉnh Bạc Liêu được tiến hành hợp nhất vào ngày 1 tháng 1 năm 1976 với tên gọi ban đầu là tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu. Tỉnh Minh Hải giai đoạn 1976-1996. Ngày 10 tháng 3 năm 1976, Ban đại diện Trung ương Đảng và Chính phủ đổi tên tỉnh Cà Mau - Bạc Liêu thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên thành thị xã Minh Hải và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Minh Hải. Tuy nhiên, đến năm 1984, thị xã Minh Hải được đổi về tên cũ là thị xã Bạc Liêu và tỉnh lỵ cũng được dời về thị xã Cà Mau. Tỉnh Cà Mau từ năm 1997 đến nay. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chia tỉnh Minh Hải thành hai tỉnh Bạc Liêu và Cà Mau, nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 1997. Tỉnh Cà Mau có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Cà Mau (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Cái Nước, Đầm Dơi, Ngọc Hiển, Thới Bình, Trần Văn Thời, U Minh. Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/1999/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau. Ngày 17 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định 138/2003/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Ngọc Hiển để tái lập huyện Năm Căn; điều chỉnh một phần diện tích và dân số của huyện Cái Nước để tái lập huyện Phú Tân. Tỉnh Cà Mau có 1 thành phố và 8 huyện như hiện nay. Ngày 6 tháng 8 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1373/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Cà Mau là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Cà Mau. Ngày 26 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 891/QĐ-TTg của về việc công nhận xã An toàn khu thuộc tỉnh Cà Mau Kinh tế. Tuy Cà Mau có nhiều tiềm năng, thế mạnh, nhưng khi mới chia tách, xuất phát điểm về kinh tế - xã hội rất thấp kém. Kinh tế thuần nông với cơ cấu nông - lâm - thủy sản chiếm tỷ trọng 63,40%, công nghiệp - xây dựng chỉ đạt 16,96%, dịch vụ chỉ đạt 19,64%. Kết cấu hạ tầng kinh tế yếu kém, thu nhập bình quân đầu người 296 USD, đời sống người dân còn rất nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo chiếm 27,9%, lao động qua đào tạo, dạy nghề 15%, hộ sử dụng điện 16%, sử dụng máy điện thoại bình quân 4,5 máy cho 100 dân. Sau hơn 20 năm tái lập (1997 - 2018), thu nhập bình quân đầu người tăng 4,75 lần, năm 2018 đạt 2.000 USD. Từ cơ cấu nông nghiệp chiếm đến 63,40%, công nghiệp 16,96%, dịch vụ 19,64% vào năm 1997, đến năm 2018 cơ cấu nông nghiệp chỉ còn 8%, công nghiệp tăng lên 43%, dịch vụ 49%. Năm 2011, diện tích gieo trồng lúa của tỉnh ước đạt 128 ngàn hécta, chiếm 82,7% diện tích cây trồng của tỉnh. Sản lượng lúa ước đạt 532.000 tấn. Hoạt động chăn nuôi gia súc và gia cầm phát triển chậm, chủ yếu là chăn nuôi nhỏ lẻ, chưa mang tính chất công nghiệp, do đó chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của người dân trong tỉnh và còn gặp nhiều khó khăn. Tổng đàn heo năm 2011 ước đạt 221,2 ngàn con. Đàn gia cầm ước đạt 1.521,2 ngàn con đang có xu hướng giảm, nguyên nhân chủ yếu một phần là do tác động của chuyển dịch một phần diện tích đất trồng lúa sang nuôi tôm, ở vùng nuôi tôm do thiếu thức ăn và nguồn nước bị nhiễm mặn nên hoạt động chăn nuôi gia súc, gia cầm khó phát triển. Năm 2011, diện tích rừng tập trung của tỉnh đạt 102.973 ha, Diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản khoảng 296.300 ha. Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2011 ước đạt 248,4 ngàn tấn, tăng gần 4,4 lần so với năm 1997, tăng bình quân 12,8%/năm. Giá trị sản xuất bình quân trên 1 ha mặt nước nuôi trồng thủy sản không ngừng tăng, năm 2011 ước đạt 47,2 triệu đồng/ha, tăng 4,8 lần so với năm 1997, tăng bình quân 13,4%/năm. Diện tích nuôi tôm chiếm 90% diện tích nuôi trồng thủy sản của tỉnh. Sản lượng thủy sản đánh bắt tuy tăng chậm so với nuôi trồng nhưng cơ cấu sản xuất cũng chuyển dịch theo hướng tăng sản lượng khai thác xa bờ, giảm khai thác gần bờ có nguy cơ làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản và ô nhiễm môi trường nước ven biển. Sản lượng thủy hải sản khai thác đạt 155 ngàn tấn vào năm 2011, bình quân mỗi năm tăng 4,3%. Tổng giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 2011 trên địa bàn tỉnh đạt 17.500 tỷ đồng, gấp 10,5 lần năm 1997 và gấp 6,1 lần năm 2000, tăng bình quân hằng năm trên 18%. Từ đầu năm 2012 đến ngày 30 tháng 1 năm 2013, thu ngân sách được 309 tỷ đồng, đạt 6,2% dự toán năm, bằng 90,2% so với cùng kỳ. Chi ngân sách 587 tỷ đồng, Giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 372 tỷ đồng, Sản lượng điện ước đạt 155 triệu KWh, Sản lượng đạm 10.000 tấn. Sản lượng chế biến thủy sản xuất khẩu khoảng 1.069 tấn. Kim ngạch xuất khẩu đạt 11 triệu USD, tăng 16,3% so với cùng kỳ. Kim ngạch nhập khẩu 1,28 triệu USD. Năm 2018, giá trị sản xuất của thủy sản so với Tổng giá trị sản xuất của Nông nghiệp – Lâm nghiệp – Thủy sản  là 59,1%. Năm 2019, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng 7% so với năm 2018. Khu vực nông, lâm, ngư nghiệp chiếm 29,2% GRDP; công nghiệp, xây dựng chiếm 26,1%; dịch vụ chiếm 40,9%; thuế nhập khẩu, thuế sản phẩm chiếm 3,8%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 13.810 tỉ đồng. Thu ngân sách đạt 5.654 tỉ đồng, vượt 23,7% dự toán, tăng 19,9% so với cùng kì. Chi ngân sách đạt 10.066 tỉ đồng, bằng 103% dự toán, tăng 11% so với cùng kì. Kim ngạch xuất khẩu đạt 1.168 triệu USD, bằng 97,3% kế hoạch, tăng 3,6% so với cùng kì. Xã hội. Giáo dục. Hiện nay toàn tỉnh Cà Mau có 2 trường Đại học và 4 trường Cao đẳng. Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng ở Cà Mau: Dân số. Cà Mau là tỉnh có dân số đứng thứ 9 trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long (hơn các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, Hậu Giang và Bạc Liêu). Sau 10 năm, quy mô dân số Cà Mau giảm 12.462 người. Bình quân dân số qua các giai đoạn giảm dần: Dân số bình quân giai đoạn 1989 - 1999 tăng 2,32%/năm; dân số bình quân giai đoạn 1999 - 2009 tăng 0,76%/năm; dân số bình quân giai đoạn 2009 - 2019 giảm 0,10%/năm. Tính vào thời điểm 00 giờ ngày 01/4/2019, tổng số dân của tỉnh Cà Mau là 1.194.476 người. Trong đó, dân số nam là 604.901 người, chiếm 50,64%; dân số nữ là 589.575 người, chiếm 49,36%. Dân số khu vực thành thị là 271.063 người, chiếm 22,69%; dân số khu vực nông thôn là 923.413 người, chiếm 77,31% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 28,4%. Trong tổng dân số trên địa bàn tỉnh Cà Mau, người Kinh chiếm đa số, chiếm 97,19% với 1.160.852 người; kế tiếp là dân tộc Khmer, chiếm 2,19% với 26.110 người; tiếp theo là dân tộc Hoa, chiếm 0,53% với 6.343 người; còn lại các dân tộc khác, chiếm 0,1% với 1.171 người (chủ yếu là các dân tộc Tày 148 người, Thái 119 người, Mường 198 người, Gia Rai 299 người, Ba Na 108 người, Chăm 91 người, Nùng 58 người, Ê Đê 36 người...). Đến thời điểm Tổng điều tra năm 2019, trên địa bàn tỉnh Cà Mau có 26.356 người theo tôn giáo, chiếm 2,21 % tổng dân số toàn tỉnh. Trong đó, số người theo Công giáo là đông nhất với 15.421 người, chiếm 58,51% tổng số người theo tôn giáo và chiếm 1,29% tổng dân số toàn tỉnh. Xếp thứ hai là số người theo Phật giáo với 6.795 người, chiếm 25,78% những người theo tôn giáo và chiếm 0,57% dân số toàn tỉnh, xếp thứ 3 là số người theo đạo Cao Đài với 2.310 người, chiếm 8,76% những người theo tôn giáo và chiếm 0,19% dân số toàn tỉnh. Các tôn giáo còn lại chiếm tỷ trọng nhỏ, không đáng kể. Mật độ dân số của tỉnh Cà Mau năm 2019 là 229 người/km2, tăng 3 người/km2 so với năm 2009. Với kết quả này, Cà Mau là tỉnh có mật độ dân số thấp hơn mật độ dân số chung vùng Đồng bằng sông Cửu Long (423 người/km2); thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và thấp hơn mật độ dân số chung của cả nước (290 người/km2). Thành phố Cà Mau là đơn vị có mật độ dân số đông nhất 908 người/km2. Huyện Ngọc Hiển là đơn vị có mật độ dân số thấp nhất so với các đơn vị với 94 người/km2; kế đến là huyện Năm Căn 118 người/km2 và huyện U Minh 131 người/km2. Tỷ số giới tính của dân số Cà Mau là 102,6 nam/100 nữ. Tỷ số giới tính của Cà Mau cao hơn tỷ số giới tính chung của cả nước và cao hơn khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Kết quả Tổng điều tra năm 2019 cho thấy tỉnh Cà Mau có cơ cấu dân số vàng, vì tỷ trọng dân số từ 15 – 64 tuổi chiếm 68,78%; tỷ trọng dân số dưới 15 tuổi và từ 65 tuổi trở lên chiếm lần lượt là 23,45% và 7,7%. Như vậy, Cà Mau là tỉnh đang trong thời kỳ “cơ cấu dân số vàng” khi có hai người trong độ tuổi lao động thì có một người phụ thuộc. Tỷ suất sinh thô năm 2019 là 11,2 trẻ sinh sống/1.000 dân và tỷ số giới tính khi sinh là 102 bé trai/100 bé gái. Tỷ suất sinh thô và tỷ số giới tính khi sinh của tỉnh thấp hơn tỷ suất sinh thô và tỷ số giới tính khi sinh chung của cả nước và khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tuổi thọ trung bình năm 2019 của người dân là 75,0 tuổi, nam giới là 72,6 tuổi, nữ giới là là 77,5 tuổi. Tuổi thọ trung bình của người Cà Mau cao hơn tuổi thọ trung bình chung của cả nước kể cả nam và nữ và bằng tuổi thọ trung bình chung của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi trở lên là 96,6%, tăng 1,11 điểm phần trăm so với năm 2009. Tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn so với cả nước và vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Số người có trình độ học vấn từ trung học phổ thông trở lên chiếm 18,2% tổng dân số từ 15 tuổi trở lên, tăng 3,26% so với năm 2009. Đến đầu năm 2017, trên địa bàn tỉnh Cà Mau, người Kinh chiếm đại đa số, với khoảng 1.180.000 người, chiếm trên 96% dân số và sinh sống hầu hết ở các nơi trong tỉnh. Tiếp theo là người Khmer khoảng 33.439 người, chiếm 2,73% dân số, sống tập trung tại các ngôi chùa ở cả thành thị và nông thôn, tạo thành các xóm người Khmer, sinh sống bằng nghề trồng lúa, rau màu, chăn nuôi, khai thác thủy sản, mua bán nhỏ. Người Hoa có 9.418 người, chiếm 0,76% dân số, chủ yếu sống ở khu vực thành thị, sinh sống bằng nghề mua bán. Còn lại là các dân tộc khác như: Mường, Thái, Tày, Nùng, Giao, Gia rai, Ê đê, Chăm, Chu ru, Si la, người nước ngoài. Tổng số hộ nghèo và cận nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số khoảng 3.940 hộ, chiếm 32,93%; trong đó, hộ nghèo khoảng 3.073 hộ, chiếm 25,68%; hộ cận nghèo khoảng 867 hộ, chiếm 7,25%. Đồng bào các dân tộc trong tỉnh Cà Mau đều có bản sắc văn hóa, phong tục, tạp quán riêng nhưng luôn đoàn kết, hòa quyện với nhau, góp phần tạo nên sự đa dạng, phong phú đậm đà bản sắc dân tộc. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước đã quan tâm đầu tư sửa chữa, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các ngôi chùa, nhà sinh hoạt văn hóa cộng đồng, lò hỏa táng, tạo điều kiện thuận lợi cho bà con đồng bào dân tộc thiểu số tập trung sinh hoạt vào các dịp lễ, Tết. Đến nay, đời sống đồng bào dân tộc thiểu số trong tỉnh có bước phát triển đáng kể. Nhiều hộ được cấp đất ở, đất sản xuất, tặng nhà ở, cung cấp nước sạch, giải quyết việc làm, học sinh được cử tuyển; các nơi sinh hoạt văn hóa, lễ hội cộng đồng, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, dạy chữ Khmer… được quan tâm giải quyết. Kết cấu hạ tầng nhất là về điện nông thôn, đường giao thông, trường học, trạm y tế, hệ thống cung cấp nước sạch…được đầu tư xây dựng.. Tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số giảm bình quân mỗi năm từ 3-4%/năm. Đến đầu năm 2017, tỉnh Cà Mau có 373.327 tín đồ, chiếm 30,7% so với dân số; 1.132 chức sắc; 1.913 chức việc. Có tổng số 142 tổ chức tôn giáo cơ sở; 134 cơ sở thờ tự. Bao gồm: - Phật giáo gồm: Phật giáo Bắc Tông, Phật giáo Hoa Tông, Phật giáo Nam Tông. Trong đó: + Phật giáo Bắc tông có tổng số 41 cơ sở thờ tự; 277.865 phật tử, tu sĩ, chức sắc, chức việc, hoàn thượng, thượng tọa, ni trưởng, ni sư, đại đức, sư cô, sadi, sadini, thức xoa mana. + Phật giáo Hoa Tông có 02 cơ sở thờ tự; 2.180 phật tử, cư sĩ. + Phật giáo Nam Tông có 07 cơ sở thờ tự; 25.215 phật tử, sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, chức việc. - Công giáo: có 19 cơ sở thờ tự; 22.360 giáo dân, linh mục. - Tin lành gồm: Tin lành Việt Nam (miền Nam), Tin lành BaptitVN, Tin lành Liên hữu Cơ đốc, Tin lành Chứng nhân Giê-hô-va, Tin lành Cơ đốc Phục lâm. Trong đó: + Tin lành Việt Nam (miền Nam) có 08 cơ sở thờ tự; 4.472 tín hữu, mục sư, truyền đạo. + Tin lành BaptitVN có 34 điểm nhóm; 1.105 tín hữu, mục sư, nữ truyền đạo, chức việc. + Tin lành Liên hữu Cơ đốc có 01 điểm nhóm; 49 tín hữu, mục sư. + Tin lành Chứng nhân Giê-hô-va có 01 điểm nhóm; 136 tín hữu, chức việc. + Tin lành Cơ đốc Phục lâm có 01 điểm nhóm; 32 tín hữu, chức việc. - Cao đài gồm có: Cao Đài Minh Chơn đạo, Cao Đài Tây Ninh, Cao Đài Tiên Thiên. Trong đó: + Cao Đài Minh Chơn đạo có 23 cơ sở thờ tự; 13.436 nhơn sanh, chức sắc, chức việc. + Cao Đài Tây Ninh có 09 cơ sở thờ tự; 13.277 nhơn sanh, chức sắc, chức việc. + Cao Đài Tiên Thiên có 02 cơ sở thờ tự; 715 nhơn sanh, chức sắc, chức việc. - Tịnh độ cư sĩ phật hội: có 22 cơ sở thờ tự; 14.691 tín đồ, chức sắc, chức việc. - Phật giáo Hòa Hảo: có 01 cơ sở thờ tự; 1.056 đồng đạo, chức việc. Đồng bào các tôn giáo ở Cà Mau tích cực tham gia các hoạt động từ thiện xã hội như: hỗ trợ đồng bào nghèo nhân dịp lễ, tết, bắc cầu giao thông nông thôn, khám và cấp phát thuốc miễn phí cho bệnh nhân nghèo, hỗ trợ mổ tim cho người nghèo... Du lịch. Do đặc điểm tự nhiên, Cà Mau là tỉnh cuối cùng nơi cực Nam Tổ quốc, Mũi Cà Mau có cột mốc tọa độ quốc gia nên du lịch địa lý rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Với 2 hệ sinh thái rừng ngập mặn, ngập lợ đan xen giữa những rừng cây là những dòng sông uốn lượn, từng là điểm mở đường Hồ Chí Minh trên biển (bến Vàm Lũng, huyện Ngọc Hiển); nơi chứng kiến, tiễn đưa những đứa con miền Nam tập kết ra Bắc, mang theo cây vú sữa miền Nam gởi tặng Bác Hồ (cửa sông Ông Đốc, huyện Trần Văn Thời); những dòng sông với nhiều chiến công hiển hách (Tam Giang, Cái Lớn, Cái Tàu, sông Ông Đốc, Đầm Dơi). Dưới tán rừng là những đầm tôm, ruộng lúa cùng các vườn cây ăn trái, sân chim tự nhiên, với nhiều loại chim quý hiếm… tạo nên các tuyến du lịch sinh thái hấp dẫn. Các đảo Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Đá Bạc, Hòn Buông, bãi Khai Long… là những nơi còn giữ được vẻ đẹp nguyên thủy của tự nhiên. Ngoài ra, Cà Mau còn có nhiều di tích lịch sử cấp Quốc gia, cấp tỉnh; nhiều lễ hội truyền thống như lễ hội nghinh Ông, vía Bà, đua ghe ngo… mang đậm bản sắc văn hoá của 3 dân tộc anh em kinh – hoa – khmer. Về Cà Mau du khách còn nghe kể chuyện Bác Ba Phi, đơn ca tài tử, đi thuyền trên sông nước, thưởng thức những món ăn đặc sản của rừng, của biển… Giao thông. Tỉnh Cà Mau có Quốc lộ 1 và quốc lộ 63 và quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 380 km và thành phố Cần Thơ 180 km. Từ Thành phố Cà Mau có thể đi lại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long dễ dàng. Các sông lớn như sông Bảy Háp, sông Gành Hào, sông Đốc, sông Trẹm... rất thuận tiện cho giao thông đường thủy đi lại khắp vùng đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh Cảng Năm Căn là cảng quan trọng trong hệ thống cảng ở đồng bằng sông Cửu Long. Cảng được đầu tư xây dựng ở vị trí vòng cung đường biển của vùng Đông Nam Á. Cảng Năm Căn có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao thương với các nước trong vùng như: Singapore, Indonesia, Malaysia... Hiện nay, năng lực hàng hóa thông qua cảng trên 10.000 tấn/năm. Cảng hàng không Cà Mau là sân bay vệ tinh, trực thuộc Cụm cảng Hàng không miền Nam. Đây là sân bay hàng không dân dụng cấp 4C có khả năng tiếp nhận các loại máy bay như ATR-72, AN-2, MI-17,Airbus A220, KingAir B200 và các loại máy bay khác có trọng tải cất cánh tương đương. Tỉnh kết nghĩa. Ở Ninh Bình có các công trình phục vụ phát triển kinh tế xã hội mang tên các địa danh của tỉnh Cà Mau như: rạp Kim Mau, cống Tân Hưng, cống Biện Nhị, đường Cà Mau, sông Cà Mau, cầu Cà Mau, trạm bơm Rạch Ráng, cầu Chà Là, đê Năm Căn. Ở Cà Mau có khoảng 100.000 người quê gốc ở Ninh Bình đang sinh sống. Ban Liên lạc đồng hương Ninh Bình tại Cà Mau họp mặt mỗi năm 1 lần. Trường Nội trú Cà Mau - Ninh Bình được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân vì "Đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước".
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đắk Lắk (trước đây là Darlac) là một tỉnh nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, miền Trung Việt Nam. Năm 2019, Đắk Lắk là đơn vị hành chính Việt Nam có diện tích lớn thứ 4, đông thứ 10 về dân số, xếp thứ 22 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 41 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 37 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1,87 triệu người dân, số liệu kinh tế - xã hội thống kê GRDP đạt 78.686 tỉ Đồng (tương ứng với 3,4175 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 41,00 triệu đồng (tương ứng với 1.781 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,82%. Tỉnh lỵ của Đắk Lắk là thành phố Buôn Ma Thuột, nằm cách Hà Nội 1.410 km, cách thành phố Đà Nẵng 520 km và cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tỉnh Đắk Lắk được tách thành hai tỉnh là Đắk Lắk và Đắk Nông. Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại. Tên gọi. Bắt nguồn từ tiếng M'nông "Đắk Lắk" [daːk laːk] (phát âm gần giống như "đác lác") nghĩa là "hồ Lắk", với "dak" nghĩa là "nước" hay "hồ". Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Đắk Lắk nằm ở trung tâm vùng Tây Nguyên, đầu nguồn của hệ thống sông Sêrêpôk và một phần của sông Ba, nằm trong khoảng tọa độ địa lý từ 107°28'57"Đ- 108°59'37"Đ và từ 12°9'45"B - 13°25'06"B. Tỉnh Đắk Lắk có vị trí địa lý: Độ cao trung bình 400 – 800 mét so với mặt nước biển, cao nhất là đỉnh núi Chư Yang Sin có độ cao 2442 m so với mực nước biển, đây cũng chính là đỉnh núi cao nhất ở Đắk Lắk. Tuy nhiên, do điều kiện lịch sử chia tách và sáp nhập nên 9.300 ha nằm giữa xã Ea Trang (huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk) và xã Ninh Tây (thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa) nằm trong diện tranh chấp để phân định địa giới hành chính giữa hai tỉnh. Điều kiện tự nhiên. Đắk Lắk có địa hình có hướng thấp dần từ đông nam sang tây bắc: nằm ở phía tây và cuối dãy Trường Sơn, là một cao nguyên rộng lớn, địa hình dốc thoải, khá bằng phẳng xen kẽ với các đồng bằng thấp ven các dòng sông chính. Khí hậu toàn tỉnh được chia thành hai tiểu vùng. Vùng phía tây bắc có khí hậu nắng nóng, khô hanh về mùa khô, vùng phía đông và phía nam có khí hậu mát mẻ, ôn hoà. thời tiết chia làm 2 mùa khá rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10 kèm theo gió tây nam thịnh hành, các tháng có lượng mưa lớn nhất là tháng 7,8,9, lượng mưa chiếm 80-90% lượng mưa năm. Riêng vùng phía đông do chịu ảnh hưởng của đông Trường Sơn nên mùa mưa kéo dài hơn tới tháng 11. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, trong mùa này độ ẩm giảm, gió đông bắc thổi mạnh, bốc hơi lớn, gây khô hạn nghiêm trọng. Lượng mưa trung bình nhiều năm toàn tỉnh đạt từ 1600–1800 mm. Rừng Đắk Lắk có diện tích và trữ lượng lớn nhất nước với nhiều chủng loại gỗ quý hiếm, nhiều loại cây đặc sản vừa có giá trị kinh tế vừa có giá trị khoa học, phân bố trong điều kiện thuận lợi nên tái sinh rừng có mật độ khá lớn. Khoáng sản với trữ lượng khác nhau, trong đó một số loại khoáng sản đã được xác định là sét cao lanh, sét gạch ngói, ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều loại khoáng sản khác như vàng, phosphor, than bùn, đá quý… có trữ lượng không lớn phân bố ở nhiều nơi trong tỉnh . Hệ thống sông suối trên địa bàn tỉnh khá phong phú, phân bố tương đối đồng đều, tuy nhiên do địa hình dốc nên khả năng trữ nước kém, những khe suối nhỏ hầu như không có nước trong mùa khô. Bên cạnh hệ thống sông suối khá phong phú, trên địa bàn tỉnh hiện nay còn có rất nhiều hồ tự nhiên và hồ nhân tạo như hồ Lắk, Ea Kao, Buôn Triết, Ea So... Nạn phá rừng. Tổng diện tích rừng và đất lâm nghiệp trên địa bàn có hơn 720.000 ha. Trong đó, diện tích đất có rừng hơn 526.000 ha, độ che phủ rừng đạt hơn 39,3% (tính cả cây cao su). Rừng được giao cho 15 công ty lâm nghiệp, 7 ban quản lý rừng đặc dụng, 4 ban quản lý rừng phòng hộ, 69 doanh nghiệp có chức năng quản lý, tổ chức sản xuất kinh doanh, khoanh nuôi bảo vệ rừng và một phần giao cho UBND cấp huyện, cấp xã quản lý, Thống kê của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Lắk, trong năm 2020, các lực lượng chức năng đã phát hiện, xử lý 1.407 vụ vi phạm lâm luật, tịch thu 2.441,7 m3 gỗ và 717 phương tiện các loại, thu nộp ngân sách nhà nước hơn 18,8 tỷ đồng. So với năm 2019, số vụ vi phạm lâm luật giảm 217 vụ. Tuy số vụ giảm, nhưng những vụ phá rừng với quy mô lớn và táo bạo vẫn diễn ra. Một trong những nguyên nhân dẫn đến nạn phá rừng là do chính quyền địa phương có rừng chưa thực hiện đầy đủ trách nhiệm được giao trong quản lý bảo vệ rừng. Một số cán bộ, công chức trong lực lượng bảo vệ rừng còn thiếu trách nhiệm, thậm chí bao che, tiếp tay cho lâm tặc nên còn sơ hở để các đối tượng làm ăn phi pháp lợi dụng thực hiện hành vi vi phạm. Lịch sử. Đắk Lắk (còn ghi theo tiếng Pháp là "Darlac") được thành lập theo nghị định ngày 22 tháng 11 năm 1904 của Toàn quyền Đông Dương. Từ DAK có những từ tương đồng như Dar, đạ, đà. Các từ này tương ứng với các từ chỉ nơi chốn như Đà Nẵng, Đà Lạt, Đạ Tẻn, Đak Hà...v.v...Từ Dak = Dar = Đạ = Đà có nghĩa như một vùng lãnh thổ xuất hiện trong vùng đất của quốc gia Chăm Pa cổ xưa. Ngoài ra từ (Dar = Dak = Đạ = Đà) cũng có nghĩa là nước (như Đạ Lạch = dòng sông/suối của người Lạch (Đà Lạt), hay Đa Gui (Ma-đa-gui) = dòng sông "vàng" của người Mạ tại khu vực giáp ranh với Đồng Nai trên quốc lộ 20, nơi có rất nhiều người Mạ sinh sống), "Đạ / Đà" ám chỉ một nguồn nước như sông/suối thuộc quyền cai quản của một dân tộc thiểu số tại một khu vực nhất định. Trong các nghiên cứu về Chăm Pa, một số nhận định của các nhà nghiên cứu cũng cho rằng Champa quản lí đất nước giống như các tiểu bang thời nay ở nước ngoài. Từ LAK có từ tương đồng LAC là tiếng của người bản địa ( Người M'nông R'Lăm ) Dak Lak có nghĩa là Nước mênh mông, Người M'nông từ họ sinh sống quanh hồ Lak. Theo các già làng ở vùng cao nguyên cũng cho rằng từ LAC là phiên âm của từ LẠCH. Theo dân gian thì người Lạch là các nhà buôn và trao đổi hàng hóa gốm xứ ở vùng cao nguyên (thương gia người dân tộc Lạch) trong thời Chăm Pa cổ. Các sử thi như sử thi Đăm Săn cũng nói về người Lạch. Từ DAKLAK hay DARLAC hoặc ĐẠ LẠCH ý nói như vùng đất hay địa bàn mà người Lạch hay trao đổi hàng hóa tại đây. Các công sứ Pháp từ 1900 - 1930 là: Đến ngày 9 tháng 2 năm 1913 thì tỉnh này trở thành một đại lý hành chính trực thuộc tỉnh Kon Tum được thành lập cùng ngày. Mãi đến ngày 2 tháng 7 năm 1923 tỉnh Đắk Lắk mới được thành lập lại. Lúc mới thành lập, Đắk Lắk chưa chia huyện, tổng mà chỉ có đơn vị làng (còn gọi là buôn hay bon), người Ê Đê có 151 làng, người Bih có 24 làng, người Gia Rai có 11 làng, người Krung có 28 làng, người M'dhur có 120 làng, người M'Nông có 117 làng, người Xiêm có 1 làng. Năm 1931, trong cuộc cải cách hành chính toàn Đông Dương, tỉnh Đắk Lắk được chia làm 5 quận, gồm có Ban Mê Thuột, Buôn Hồ, Đăk Song, Lắk và M'Drắk, dưới có 440 làng. Ngày 15 tháng 4 năm 1950, Bảo Đại ban hành Dụ số 6 đặt Cao nguyên Trung phần, trong đó có Đắk Lắk, làm Hoàng triều Cương thổ, có quy chế cai trị riêng. Nghị định số 356-BNV/HC/NĐ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa ngày 2 tháng 7 năm 1958 ấn định tỉnh Đắk Lắk (được ghi là Darlac) có 5 quận, 21 tổng và 77 xã. Trong đó, Quận Ban Mê Thuột có 4 tổng, Quận Lạc Thiện (đổi tên từ quận Lăk) có 7 tổng, Quận M'Đrak có 4 tổng, Quận Đak Song có 2 tổng và Quận Buôn Hồ có 4 tổng. Ngày 23 tháng 1 năm 1959, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành Nghị định số 24/NV, tách gần như toàn bộ quận Đak Song của tỉnh Darlac, lập ra tỉnh Quảng Đức. Như vậy tỉnh Darlac còn lại 4 quận. Sau đó quận M'Đrak lại bị xé lẻ, một phần nhập vào tỉnh Khánh Hòa và một phần nhập vào tỉnh Phú Yên. Tháng 12 năm 1960, Chính phủ cách mạng chính thức thành lập tỉnh Quảng Đức dựa trên sự phân chia ranh giới của địch, lấy mật danh là B4. Ngày 20 tháng 12 năm 1963, lập thêm một quận mới tên là Phước An, quận lỵ đặt tại Phước Trạch, đến ngày 1 tháng 9 năm 1965 chuyển về Thuận Hiếu. Sau này lại bỏ cấp tổng, nên chỉ còn cấp quận (4 quận) và xã. Sau năm 1975, tỉnh Đắk Lắk gồm thị xã Buôn Ma Thuột và 6 huyện: Đắk Mil, Đắk Nông, Krông Búk, Krông Pắc, Lắk và Buôn Hồ Ngày 30 tháng 8 năm 1977, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Ea Súp; chia huyện Krông Pắk thành 2 huyện: Krông Pắc và M'Drắk. Ngày 3 tháng 4 năm 1980, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Ea H'leo. Ngày 19 tháng 9 năm 1981, thành lập huyện Krông Ana trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Pắk và thị xã Buôn Ma Thuột; chia huyện Krông Pắk thành 2 huyện: Krông Pắk và Krông Bông. Ngày 23 tháng 1 năm 1984, chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Cư M'gar. Ngày 22 tháng 2 năm 1986, chia huyện Đắk Nông thành 2 huyện: Đắk Nông và Đắk R'lấp. Ngày 13 tháng 9 năm 1986, thành lập huyện Ea Kar trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Krông Pắc và M'Drắk. Ngày 9 tháng 11 năm 1987, chia huyện Krông Búk thành 2 huyện: Krông Búk và Krông Năng; thành lập huyện Krông Nô trên cơ sở tách một số xã thuộc các huyện Đắk Mil, Đắk Nông và Lắk. Ngày 19 tháng 6 năm 1990, thành lập huyện Cư Jút trên cơ sở tách ra từ huyện Đắk Mil và thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 21 tháng 1 năm 1995, chuyển thị xã Buôn Ma Thuột thành thành phố Buôn Ma Thuột. Ngày 7 tháng 10 năm 1995, chia huyện Ea Súp thành 2 huyện: Ea Súp và Buôn Đôn. Ngày 21 tháng 6 năm 2001, thành lập huyện Đắk Song trên cơ sở tách ra từ 2 huyện Đắk Nông và Đắk Mil. Đến cuối năm 2002, tỉnh Đắk Lắk có diện tích 19.576,4 km², dân số 2.029.972 người, có tỉnh lị là thành phố Buôn Ma Thuột và 18 huyện: Buôn Đôn, Cư Jút, Cư M'gar, Đắk Mil, Đắk Nông, Đắk R'Lấp, Đắk Song, Ea H'leo, Ea Kar, Ea Súp, Krông Ana, Krông Bông, Krông Búk, Krông Năng, Krông Nô, Krông Pắc, Lắk, M'Drắk. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết số 22/2003/QH.11, tỉnh Đắk Lắk tách thành hai tỉnh mới là Đắk Lắk và Đắk Nông, nên số huyện giảm xuống còn 12: Ngày 28 tháng 2 năm 2005, thành phố Buôn Ma Thuột được công nhận là đô thị loại II. Ngày 27 tháng 8 năm 2007, chia huyện Krông Ana thành 2 huyện: Krông Ana và Cư Kuin. Ngày 23 tháng 12 năm 2008, thành lập thị xã Buôn Hồ trên cơ sở tách ra từ huyện Krông Búk. Tỉnh Đắk Lắk có 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện như ngày nay. Ngày 9 tháng 2 năm 2010, thành phố Buôn Ma Thuột được công nhận là là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Đắk Lắk. Hành chính. Tỉnh Đắk Lắk có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện, với 184 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 20 phường, 13 thị trấn và 151 xã. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Kinh tế chủ đạo của Đắk Lắk chủ yếu dựa vào sản xuất và xuất khẩu nông sản, lâm sản. Tỉnh có tiềm năng về du lịch sinh thái. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2017, tỉnh Đắk Lắk xếp ở vị trí thứ 31/63 tỉnh thành. Đắk Lắk là tỉnh có diện tích và sản phẩm cà phê xuất khẩu lớn nhất cả nước, với diện tích 182.343ha và sản lượng thu hoạch hàng năm đạt trên 400.000 tấn, chiếm 40% sản lượng cả nước. Tỉnh cũng là nơi trồng bông, cacao, cao su, điều lớn của Việt Nam. Đồng thời, là nơi phát triển các loại cây ăn trái khác, như cây bơ, sầu riêng, chôm chôm, xoài... Năm 2016, Đánh giá về việc thực hiện 18 chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2016 cho thấy, có 12 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch đề ra, nổi bật nhất là chỉ tiêu về tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, tổng sản phẩm xã hội (GRDP - theo giá so sánh 2010) khoảng 44.571 tỷ đồng, đạt 101,3% kế hoạch; tăng trưởng kinh tế 7,02%. Cơ cấu kinh tế (theo giá hiện hành): nông - lâm - thủy sản đạt 44,81%; công nghiệp - xây dựng đạt 14,48%; dịch vụ đạt 38,68% (kế hoạch năm 2016 tương ứng là: 43 - 44%, 16 - 17%, 36 - 37%). -Ngành nông, lâm, thủy sản ước đạt 18.892 tỷ đồng, bằng 107,6% KH, tăng trưởng 4,25% (KH: 17.559 tỷ đồng, tăng 3,5-4%). Giá trị sản xuất của các loại cây trồng lâu năm và hằng năm trên địa bàn tỉnh tăng khoảng 250,4 tỷ đồng, tương ứng giá trị tăng thêm 118 tỷ đồng -Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 4.100 tỷ đồng, bằng 97,6% kế hoạch do HĐND tỉnh giao (kế hoạch: 4.200 tỷ đồng) và đạt 120,2% kế hoạch Trung ương giao (kế hoạch: 3.671 tỷ đồng), tăng 20,2% so với thực hiện năm 2015 -Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh 2010) năm 2016 thực hiện 13.750 tỷ đồng, tăng 18,5% so với năm 2015, đạt 108,2% kế hoạch. Phấn đấu năm 2018, UBND tỉnh Đắk Lắk đề ra chỉ tiêu: Tổng sản phẩm xã hội đạt khoảng 51.480 tỷ đồng, tăng trưởng kinh tế 7,8-8%, thu nhập bình quân đầu người 41 triệu đồng, huy động vốn đầu tư toàn xã hội 27.720 tỷ đồng, tổng kim ngạch xuất khẩu khoảng 600 triệu USD, thu ngân sách nhà nước khoảng 5.000 tỷ đồng. Giáo dục. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Đắk Lắk có 695 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 53 trường, Trung học cơ sở có 221 trường, Tiểu học có 417 trường và 5 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 235 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Đắk Lắk cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Đắk Lắk đạt 1.869.322 người, mật độ dân số đạt 135 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 462.013 người, chiếm 24,7% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.407.309 người, chiếm 75,3% dân số. Dân số nam đạt 942.578 người, trong khi đó nữ đạt 926.744 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,75 ‰ Đây cũng là tỉnh đông dân nhất vùng Tây Nguyên với hơn 1,8 triệu dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 25,76%. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Đắk Lắk có 13 Tôn giáo khác nhau chiếm 577.920 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 265.760 người, thứ hai là Đạo Tin Lành với 181.670 người, thứ ba là Phật giáo với 126.660, thứ tư là Đạo Cao Đài có 3.572 người, cùng với các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 162 người, Hồi giáo có 65 người, Bửu sơn kỳ hương có 23 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có ba người, Bahá'í có hai người, ít nhất là Minh Sư Đạo, Minh Lý Đạo và Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa mỗi đạo có một người. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Đắk Lắk có 47 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh chiếm đông nhất với 1.161.533 người, thứ hai là Người Ê Đê có 298.534 người, thứ ba là Người Nùng có 71.461 người, thứ tư là Người Tày có 51.285 người. Cùng các dân tộc ít người khác như M'nông có 40.344 người, Người Mông có 22.760 người, Người Thái có 17.135 người, Người Mường có 15.510 người... Văn hóa. Đắk Lắk có bản sắc văn hóa đa dạng như các trường ca truyền miệng lâu đời Đam San, Xinh Nhã dài hàng nghìn câu, như các ngôn ngữ của người Ê Đê, người M'Nông...như các đàn đá, đàn T'rưng, đàn k'lông pút... Đắk Lắk được xem là một trong những cái nôi nuôi dưỡng Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, được UNESCO công nhận là Kiệt tác truyền khẩu và phi vật thể nhân loại. Các lễ hội đáng chú ý gồm có Lễ mừng lúa mới, Lễ bỏ mả, Lễ hội đâm trâu, Lễ cúng Bến nước, Lễ hội đua voi, Lễ hội Cồng chiêng và Lễ hội cà phê… được tổ chức đều đặn hàng năm như một truyền thống. Các Di tích lịch sử tại Đắk Lắk như Đình Lạc Giao, Chùa Sắc tứ Khải Đoan, Nhà đày Buôn Ma Thuột, Khu Biệt điện Bảo Đại, Toà Giám mục tại Đắk Lắk, Hang đá Đắk Tur và Tháp Yang Prong... Y tế. Đắk Lắk là trung tâm về Y tế vùng Tây Nguyên. Với một số bệnh viện lớn cấp Vùng như Bệnh viện Đa khoa Vùng Tây Nguyên với quy mô 800 giường bệnh nội trú. Với nỗ lực của các Y - Bác sĩ, bệnh viện đã hạn chế được một phần về tình trạng bệnh nhân cấp cứu phải chuyển tuyến đến các bệnh viện tuyến trên như: Bệnh viện Chợ Rẫy (Hồ Chí Minh), Bệnh viện Đà Nẵng (Đà Nẵng), Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Thể thao. Đắk Lắk có Câu lạc bộ bóng chuyền Đắk Lắk hiện đang thi đấu tại giải vô địch và câu lạc bộ bóng đá Đắk Lắk thi đấu ở giải hạng nhất Quốc gia Du lịch. Du lịch Đắk Lắk đang có lợi thế với nhiều địa danh cho phép khai thác theo hướng kết hợp cảnh quan, sinh thái, môi trường và truyền thống văn hóa của nhiều dân tộc trong tỉnh như hồ Lắk, Thác Gia Long, cụm du lịch Buôn Đôn, Thác Krông Kmar, Diệu Thanh, Tiên Nữ… bên cạnh các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên Chư Yang Sin, Easo… Giao thông. Đắk Lắk có Sân bay Buôn Ma Thuột tuyến từ Buôn Ma Thuột đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Vinh, Hải Phòng, Thanh Hóa, Cần Thơ Ngoài ra, 14 tỉnh lộ với tổng chiều dài 460 km, có quốc lộ 14 chạy qua nối với thành phố Đà Nẵng qua các tỉnh Gia Lai, Kon Tum và nối với Thành phố Hồ Chí Minh qua Bình Phước và Bình Dương...Song song với biên giới Campuchia có quốc lộ 14C. Quốc lộ 27 nối thành phố Buôn Ma Thuột với thành phố Phan Rang đi qua tỉnh Lâm Đồng có đoạn chung với quốc lộ 20. Quốc lộ 26 từ Đắk Lắk đi tỉnh Khánh Hòa, nối với Quốc lộ 1 tại phường Ninh Hiệp, thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hòa. Quốc lộ 29 nối thị xã Buôn Hồ với tỉnh Phú Yên tại cảng Vũng Rô.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Đồng Tháp là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Vùng đất Đồng Tháp đã được Chúa Nguyễn khai phá vào khoảng thế kỷ XVII, XVIII. Tỉnh Đồng Tháp được thành lập trên cơ sở hợp nhất tỉnh Kiến Phong và tỉnh Sa Đéc vào năm 1976. Năm 2018, Đồng Tháp là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 15 về số dân, xếp thứ 30 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 43 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 57 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Năm 2022, với 1.624.100 người, GRDP đạt 100.184 tỉ Đồng (tương ứng với 4,36 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt khoảng 62,3 triệu đồng (tương ứng với 2.678 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,11%.<ref name=":055">
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hậu Giang là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Năm 2018, Hậu Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 54 về số dân, xếp thứ 52 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 48 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 52 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 776.700 người dân, GRDP đạt 29.763 tỉ Đồng (tương ứng với 1,2926 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 38,32 triệu đồng (tương ứng với 1.664 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,08%. Địa lý. Hậu Giang là tỉnh thuộc khu vực nội địa của đồng bằng sông Cửu Long. Lãnh thổ của tỉnh nằm trong tọa độ từ 9030'35" đến 10019'17" Bắc và từ 105014'03" đến 106017'57" kinh Đông. Hậu Giang là tỉnh ở trung tâm châu thổ sông Mê Kông, thuộc khu vực nội địa của Đồng bằng sông Cửu Long nên có vị trí địa lý: Tỉnh lỵ hiện nay là thành phố Vị Thanh cách Thành phố Hồ Chí Minh 240 km về phía tây nam, cách thành phố Cần Thơ 60 km theo Quốc lộ 61 và chỉ cách 40 km theo đường nối Vị Thanh – thành phố Cần Thơ Tỉnh nằm ở hạ lưu sông Hậu, giữa một mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt. Hậu Giang tiếp giáp với thành phố Cần Thơ, trung tâm của vùng Tây Nam Bộ. Hậu Giang là một trong những trung tâm lúa gạo của miền Tây Nam Bộ. Tỉnh có thế mạnh về cây lúa và cây ăn quả các loại, có nguồn thủy sản phong phú, chủ yếu tôm cá nước ngọt và chăn nuôi gia súc. Sông Mái Dầm có đặc sản cá ngát nổi tiếng. Tỉnh nổi tiếng với chợ nổi Ngã Bảy và nhiều di tích lịch sử cấp quốc gia như di tích Khởi Nghĩa Nam Kỳ, di tích Liên Hiệp Đình Chiến Nam Bộ, Căn cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ, di tích Tầm Vu, đền Bác Hồ, v.v... Điều kiện tự nhiên. Hậu Giang là tỉnh ở Đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, địa hình thấp trũng, độ cao trung bình dưới 2 mét so với mực nước biển. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông sang Tây. Khu vực ven sông Hậu cao nhất, trung bình khoảng 1 - 1,5 mét, độ cao thấp dần về phía Tây. Bề mặt địa hình bị chia cắt mạnh bởi hệ thống kênh rạch nhân tạo. Tỉnh Hậu Giang nằm trong vòng đai nội chí tuyến Bắc bán cầu, gần xích đạo, có khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành hai mùa rõ rệt. Mùa mưa có gió Tây Nam từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô có gió Đông Bắc từ tháng 12 đến tháng 4 hàng năm. Nhiệt độ trung bình là 27 0C không có sự chênh lệch quá lớn qua các năm. Tháng có nhiệt độ cao nhất (35 0C) là tháng 4 và thấp nhất vào tháng 12 (20,3 0C). Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm, chiếm từ 92 - 97% lượng mưa cả năm. Lượng mưa ở Hậu Giang thuộc loại trung bình, khoảng 1800 mm/năm, lượng mưa cao nhất vào khoảng tháng 9 (250,1 mm). Ẩm độ tương đối trung bình trong năm phân hoá theo mùa một cách rõ rệt, chênh lệch độ ẩm trung bình giữa tháng ẩm nhất và tháng ít ẩm nhất khoảng 11%. Độ ẩm trung bình thấp nhất vào khoảng tháng 3 và 4 (77%) và độ ẩm trung bình trong năm là 82%. Tỉnh Hậu Giang có một hệ thống sông ngòi kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài khoảng 2.300 km. Mật độ sông rạch khá lớn 1,5 km/km, vùng ven sông Hậu thuộc huyện Châu Thành lên đến 2 km/km. Hậu Giang nằm trong vùng trũng của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Cấu tạo của vùng có thể chia thành hai vùng cấu trúc rõ rệt là Tầng cấu trúc dưới và Tầng cấu trúc bên, trong đó Tầng cấu trúc dưới gồm Nền đá cổ cấu tạo bằng đá Granit và các đá kết tinh khác, bên trên là đá cứng cấu tạo bằng đá trầm tích biển hoặc lục địa và các loại đá mắcma xâm nhập hoặc phun trào. Hành chính. Tỉnh Hậu Giang có 8 đơn vị hành chính, gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện được chia làm 51 xã, 13 phường và 11 thị trấn. Lịch sử. Trước năm 1976, Hậu Giang là tên gọi theo âm Hán - Việt của sông Hậu. Vùng đất thuộc tỉnh Hậu Giang ngày nay trước năm 1956 nằm rải rác thuộc tỉnh Cần Thơ và tỉnh Rạch Giá. Từ năm 1957, toàn bộ vùng đất tỉnh Hậu Giang ngày nay đều thuộc về tỉnh Cần Thơ (về phía chính quyện Việt Nam Cộng Hòa là thuộc các tỉnh Phong Dinh, Chương Thiện). Tháng 3 năm 1976, tỉnh Hậu Giang (cũ) được thành lập trên cơ sở hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau trước đó là tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Hậu Giang được chia thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, tỉnh Cần Thơ lại được chia thành thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương và tỉnh Hậu Giang ngày nay. Thời Pháp thuộc. Tỉnh Hậu Giang ngày nay vào thời Pháp thuộc bao gồm quận Long Mỹ của tỉnh Rạch Giá; quận Phụng Hiệp và một phần quận Châu Thành của tỉnh Cần Thơ. Năm 1939, quận Long Mỹ có 3 tổng là An Ninh, Thanh Tuyên, Thanh Giang. Quận Phụng Hiệp năm 1939 có 2 tổng là Định Hòa, và Định Phước. Riêng quận Châu Thành có 2 tổng là Định Bảo và Định An. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Năm 1951, chính quyền Việt Minh quyết định giải thể tỉnh Rạch Giá, sáp nhập địa bàn vào các tỉnh Bạc Liêu, Cần Thơ và Sóc Trăng. Trong đó, huyện Long Mỹ được giao về cho tỉnh Cần Thơ. Tuy nhiên, việc giải thể tỉnh Rạch Giá lại không được phía chính quyền Quốc gia Việt Nam thân Pháp của Bảo Đại và sau này là chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Đến năm 1954, chính quyền Việt Minh lại quyết định tái lập tỉnh Rạch Giá. Tháng 10 năm 1954, huyện Long Mỹ cũng trở lại thuộc tỉnh Rạch Giá. Giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Sau Hiệp định Geneve năm 1954, Pháp rút, Hoa Kỳ can thiệp vào miền Nam Việt Nam, thiết lập chính thể Việt Nam Cộng hòa. Lúc này vùng đất Long Mỹ, Phụng Hiệp lại có nhiều thay đổi. Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Cần Thơ như thời Pháp thuộc. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, theo Sắc lệnh số 143-NV, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tên tỉnh Cần Thơ thành tỉnh Phong Dinh. Năm 1957, quận Long Mỹ được chính quyền Việt Nam Cộng hòa chuyển giao cho tỉnh Phong Dinh quản lý. Ngày 12 tháng 3 năm 1960, chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức khánh thành Khu trù mật Vị Thanh - Hỏa Lựu. Ngày 18 tháng 3 năm 1960, quận Long Mỹ được tách ra, thành lập một quận mới có tên là quận Đức Long. Hai quận này ban đầu đều trực thuộc tỉnh Phong Dinh. Ngày 21 tháng 12 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng Hoà Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh số 244-NV thành lập tỉnh Chương Thiện, bao gồm những vùng được tách ra từ các tỉnh Phong Dinh (trước năm 1956 là tỉnh Cần Thơ), Kiên Giang (trước năm 1956 là tỉnh Rạch Giá) và Ba Xuyên (trước năm 1956 là tỉnh Sóc Trăng). Sau đó, lễ khánh thành tỉnh Chương Thiện được tổ chức trọng thể vào ngày 3 tháng 1 năm 1962. Tỉnh lỵ tỉnh Chương Thiện có tên là "Vị Thanh", do lấy theo tên xã Vị Thanh thuộc quận Đức Long là nơi đặt tỉnh lỵ. Tỉnh Chương Thiện ban đầu bao gồm 5 quận: Đức Long, Long Mỹ, Kiên Hưng, Kiên Long, và Phước Long. Trong đó, quận Đức Long nhận thêm một số xã tách từ quận Kiên Hưng vốn trước năm 1962 thuộc tỉnh Kiên Giang nhưng lúc bấy giờ cũng chuyển sang cùng thuộc tỉnh Chương Thiện; phần đất này trước năm 1956 lại thuộc về quận Giồng Riềng của tỉnh Rạch Giá. Ngày 18 tháng 4 năm 1963, Tổng thống Ngô Đình Diệm lại ban hành Sắc lệnh 38-NV về việc thay đổi hành chính ở tỉnh Chương Thiện. Theo đó, thành lập mới quận Kiến Thiện trên cơ sở tách một phần đất đai của các quận Phước Long và Long Mỹ, quận lỵ đặt tại Ngan Dừa. Lúc này, tỉnh Chương Thiện bao gồm 6 quận trực thuộc: Đức Long, Long Mỹ, Kiên Long, Kiên Hưng, Phước Long, Kiên Thiện. Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh 254-NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu. Lúc này, quận Phước Long trở lại thuộc tỉnh Bạc Liêu. Kể từ đó cho đến năm 1975, tỉnh Chương Thiện còn lại 5 quận: Đức Long, Long Mỹ, Kiên Long, Kiên Hưng, Kiên Thiện. Song song với tỉnh Chương Thiện, tại phần đất thuộc tỉnh Phong Dinh cũng có một số thay đổi hành chính. Ngày 2 tháng 7 năm 1962, tỉnh Phong Dinh có thêm quận Khắc Nhơn, được thành lập do tách đất từ quận Châu Thành và quận Phong Phú (trước năm 1958 là quận Ô Môn) cùng tỉnh. Ngày 20 tháng 4 năm 1964, đổi tên quận Khắc Nhơn thành quận Thuận Nhơn. Ngày 23 tháng 4 năm 1968, lại lập thêm quận Phong Thuận, gồm các xã do tách đất từ quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh và quận Kế Sách, tỉnh Ba Xuyên. Chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi "Phong Dinh" mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Cần Thơ. Sau năm 1961, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng không công nhận tên gọi "Chương Thiện" cùng với sự sắp xếp, phân chia hành chính như trên. Khu vực tỉnh Chương Thiện vẫn thuộc tỉnh Cần Thơ và tỉnh Rạch Giá chỉ đạo như cũ. Huyện Long Mỹ, thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ; các huyện Gò Quao, Giồng Riềng, Vĩnh Thuận thuộc tỉnh Rạch Giá. Riêng huyện Hồng Dân (tức huyện Phước Long cũ) vẫn thuộc tỉnh Sóc Trăng, đến tháng 11 năm 1973 thì chuyển sang thuộc tỉnh Bạc Liêu. Cho đến năm 1966, khu vực quận Long Mỹ và quận Đức Long của Việt Nam Cộng hòa vẫn cùng thuộc địa phận huyện Long Mỹ của chính quyền Cách mạng. Từ năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng đặt huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Cần Thơ nhưng giữ lại xã Vị Thanh và nhập vào huyện Giồng Riềng của tỉnh Rạch Giá. Tháng 7 năm 1960, huyện Giồng Riềng giao xã Vị Thanh về cho huyện Long Mỹ của tỉnh Cần Thơ quản lý. Ngày 9 tháng 3 năm 1961, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định thành lập thị trấn Vị Thanh bao gồm khu vực chợ Cái Nhum và các ấp xung quanh, bên cạnh xã Vị Thanh. Tháng 6 năm 1966, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tách thị trấn Vị Thanh và một số ấp của xã Vị Thanh ra khỏi huyện Long Mỹ để thành lập thị xã Vị Thanh trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Bên cạnh đó, tại vùng đất tỉnh Cần Thơ, chính quyền Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng không công nhận tên gọi các quận sau này do chính quyền Việt Nam Cộng hòa lập ra như Đức Long, Kiên Thiện (cùng thuộc tỉnh Chương Thiện), Thuận Nhơn, Phong Thuận (cùng thuộc tỉnh Phong Dinh). Tháng 10 năm 1966, huyện Châu Thành thuộc tỉnh Cần Thơ được chia ra thành hai huyện là Châu Thành A và Châu Thành B. Cuối 1967 nhập lại là Châu Thành. Sau nhiều lần chia tách rồi sáp nhập Châu Thành Vòng Cung vào Châu Thành A, Châu Thành B nhập lại là huyện Châu Thành. Trong đó, địa bàn huyện Châu Thành A lúc bấy giờ cũng chính là huyện Châu Thành A ngày nay, còn địa bàn huyện Châu Thành B chính là huyện Châu Thành cùng thuộc tỉnh Hậu Giang ngày nay. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ vẫn duy trì hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ (ngoại trừ huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ (có cả huyện Thốt Nốt), tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh. Tỉnh Hậu Giang cũ, giai đoạn 1976-1992. Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Tỉnh lỵ khi đó lại đặt tại thành phố Cần Thơ, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Hậu Giang. Khi mới thành lập, tỉnh Hậu Giang gồm có thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng, thị xã Vị Thanh và 11 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Long Phú, Thạnh Trị, Vĩnh Châu. Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP về việc hợp nhất huyện Long Mỹ và thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang thành một đơn vị hành chính lấy tên là huyện Long Mỹ thuộc tỉnh Hậu Giang. Thị xã Vị Thanh chuyển xuống thành thị trấn Vị Thanh thuộc huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang. Ngày 26 tháng 10 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 119-HĐBT về việc tách huyện Long Mỹ thành hai huyện Long Mỹ và huyện Mỹ Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 6 tháng 4 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng của ban hành Quyết định số 64-HĐBT về việc đổi tên huyện Mỹ Thanh thành huyện Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang. Từ đó cho đến cuối tháng 3 năm 1992, tỉnh Hậu Giang lúc này bao gồm thành phố Cần Thơ, thị xã Sóc Trăng và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Phụng Hiệp, Long Mỹ, Vị Thanh, Kế Sách, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Long Phú, Vĩnh Châu. Tỉnh lỵ lúc đó lại là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Hậu Giang. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội Việt Nam ban hành Nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Cần Thơ có 7 đơn vị hành chính gồm: thành phố Cần Thơ và 6 huyện: Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh, có diện tích tự nhiên 3.022,30 km² với số dân 1.614.350 người. Tỉnh lỵ: thành phố Cần Thơ. Tỉnh Cần Thơ cũ, giai đoạn 1992-2003. Tỉnh Cần Thơ chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại từ tháng 4 năm 1992. Tỉnh Cần Thơ lúc đó có diện tích 2.965,36 km², dân số là 1.832.045 người, bao gồm thành phố Cần Thơ và 6 huyện là Thốt Nốt, Ô Môn, Châu Thành, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thanh. Tỉnh lỵ là thành phố Cần Thơ trực thuộc tỉnh Cần Thơ. Địa bàn tỉnh Hậu Giang ngày nay lúc đó thuộc tỉnh Cần Thơ. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 45/1999/NĐ-CP<ref name="45/1999/NĐ-CP"></ref> về việc thành lập thị xã Vị Thanh, đổi tên huyện Vị Thanh thành huyện Vị Thủy và thành lập các phường, xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh và huyện Vị Thủy, tỉnh Cần Thơ. Ngày 6 tháng 11 năm 2000, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 64/2000/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Châu Thành để thành lập huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Cần Thơ. Theo đó, tái lập huyện Châu Thành A trên cơ sở 22.139 ha diện tích tự nhiên và 163.357 nhân khẩu của huyện Châu Thành. Từ đó cho đến cuối năm 2003, tỉnh Cần Thơ gồm 9 đơn vị hành chính trực thuộc: thành phố Cần Thơ, thị xã Vị Thanh, huyện Châu Thành, huyện Châu Thành A, huyện Phụng Hiệp, huyện Vị Thủy, huyện Long Mỹ, huyện Ô Môn, huyện Thốt Nốt. Tỉnh Hậu Giang từ năm 2004 đến nay. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội Việt Nam thông qua Nghị quyết số 22/2003/QH11 về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, chia tỉnh Cần Thơ thành thành phố Cần Thơ trực thuộc trung ương và tỉnh Hậu Giang như sau: Từ ngày 1 tháng 1 năm 2004, tỉnh Hậu Giang chính thức được tái lập và đi vào hoạt động trở lại. Ban đầu, tỉnh Hậu Giang bao gồm thị xã Vị Thanh và 5 huyện: Châu Thành, Châu Thành A, Long Mỹ, Phụng Hiệp, Vị Thủy. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 98/2005/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Phụng Hiệp để thành lập thị xã Tân Hiệp, tỉnh Hậu Giang; thành lập phường, xã thuộc thị xã Tân Hiệp. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 124/2006/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính, thành lập xã, thị trấn thuộc thị xã Vị Thanh, huyện Long Mỹ; đổi tên thị xã Tân Hiệp thành thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang. Ngày 23 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP thành lập thành phố Vị Thanh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vị Thanh.<ref name="34/NQ-CP">Nghị quyết 34/NQ-CP năm 2010 thành lập thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang</ref> Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 933/NQ-UBTVQH13 về việc thành lập thị xã Long Mỹ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Long Mỹ. Ngày 19 tháng 12 năm 2019, thành phố Vị Thanh mở rộng được công nhận là đô thị loại II. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 869/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập thành phố Ngã Bảy trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ngã Bảy. Tỉnh Hậu Giang có 2 thành phố, 1 thị xã và 5 huyện như hiện nay. Kinh tế. Trong 6 tháng đầu năm 2012, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục phát triển, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm được tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt kết quả tốt, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 14,08%, trong đó thu nhập bình quân đầu người đạt 12,39 triệu đồng/người, tăng 17,5% so cùng kỳ năm 2011, tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn 6.251 tỷ đồng, đạt 54,8%, tổng thu ngân sách nhà nước đạt trên 3457 tỷ đồng, đạt 97% chỉ tiêu Hội đồng nhân dân tỉnh giao, tăng 29,5% so cùng kỳ, Năng suất vụ lúa Đông xuân đạt 7,1 tấn/ha, tăng 0,4 tấn/ha so với cùng kỳ, sản lượng đạt 554.182 tấn, giảm 2.156 tấn so cùng kỳ, xuống giống vụ lúa Hè Thu 77.381 ha, năng suất ước đạt 5,3 tấn/ha. Thực hiện chủ trương của Chính phủ về mua tạm trữ gạo năm 2012, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã thu mua tạm trữ 15.000 tấn gạo, đạt 100% KH. Đến tháng 10 năm 2012, tình hình kinh tế xã hội có sự chuyển biến, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm được tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt kết quả tích cực. Giá trị sản xuất công nghiệp trong tháng thực hiện được 544,3 tỷ đồng, Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong tháng ước thực hiện được 912,1 tỷ đồng, tổng nguồn vốn xây dựng cơ bản được phân bổ 2.753,8 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ trong tháng ước thực hiện được 2.090 tỷ đồng. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu và dịch vụ thu ngoại tệ thực hiện 26,3 triệu USD, Chỉ số giá tiêu dùng tháng 10 tăng 0,29% so với tháng trước. Tính đến ngày 24 tháng 10 năm 2012, tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh thực hiện được 4.796,8 tỷ đồng, Tổng chi ngân sách trên địa bàn tỉnh thực hiện 3.535,7 tỷ đồng. Đánh giá tình hình kinh tế xã hội trong tháng 10 năm 2012, có chuyển biến và tiếp tục phát triển, các nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm được tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện và đạt kết quả tích cực, nổi bật là, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 12,6% so với tháng trước, tăng 6% so với cùng kỳ, tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng 4,1% so với tháng trước, tăng 22% so với cùng kỳ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tăng 3% so với tháng trước, tăng 45,3% so cùng kỳ; tổng kim ngạch xuất và dịch vụ thu ngoại tệ tăng so với tháng trước, tăng 29,3% so với cùng kỳ, chỉ số giá tiêu dùng tăng nhưng tỉ lệ thấp hơn tháng trước và thấp hơn bình quân chung cả nước. Năm 2019, tăng trưởng kinh tế đạt 6,5%, đặc biệt khu vực 1 có mức tăng hơn 2,7%, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo chiều hướng tốt. Xã hội. Giáo dục Hệ thống giáo dục tỉnh Hậu Giang bao gồm đầy đủ các cấp học, ngành học từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, đại học. Tiêu biểu như trường Đại học Cần Thơ (khu Hòa An), trường Đại học Võ Trường Toản, trường cao đẳng cộng đồng Hậu Giang, trường trung cấp Luật Vị Thanh, trường trung cấp nghề Hậu Giang, trường cao đẳng nghề Trần Đại Nghĩa và các trường trung học phổ thông, trung học cơ sở, tiểu học, mầm non...Giáo dục mầm non hiện nay đã có các cơ sở ở tất cả các huyện thị, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xã hội. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, toàn tỉnh Hậu Giang có 250 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 12 ở khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Y tế: Tại Hậu Giang có một số bệnh viện như lớn như Bệnh viện đa khoa Hậu Giang với quy mô 500 giường, ngoài ra còn có các bệnh viện khác như Bệnh viện Sản - Nhi Hậu Giang, Bệnh viện Thành phố Vị Thanh,Bệnh viện Tâm thần tỉnh Hậu Giang, Bệnh viện Lao phổi tỉnh Hậu Giang...và nhiều cơ sở y tế tại các xã phường, thị trấn thuộc tỉnh Hậu Giang. Đến năm 2008, toàn tỉnh có 80 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 8 bệnh viện, 8 phòng khám đa khoa khu vực và 64 trạm y tế phường xã. Tổng số giường bệnh là 1.692 giường, trong đó các bệnh viện có 1.135 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 65 giường, trạm y tế có 492 giường, với 293 bác sĩ, 558 y sĩ, 387 y tá, 188 nữ hộ sinh, 17 dược sĩ cao cấp, 249 dược sĩ trung cấp và 2 dược tá. Văn hoá. Tỉnh có một đài truyền hình địa phương, lớn thứ 2 ở Đồng bằng Sông Cửu Long chỉ sau Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long và trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Hậu Giang. Dân số. Dân số trung bình năm 2021 của tỉnh Hậu Giang là 729.888 người, tăng 108 người, tương đương tăng 0,01% so với năm 2020, bao gồm dân số thành thị 204.813 người, chiếm 28,06%; dân số nông thôn 525.075 người, chiếm 71,94%; dân số nam 367.453 người, chiếm 50,34%; dân số nữ 362.435 người, chiếm 49,66%. Theo thống kê năm 2020, tỉnh Hậu Giang có diện tích 1.621,70 km², dân số năm 2020 là 726.792 người, mật độ dân số đạt 448 người/km². Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Hậu Giang đạt 733.017 người, mật độ dân số đạt 480 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 213.887 người, chiếm 28% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 519.130 người, chiếm 72% dân số. Dân số nam đạt 366.206 người, trong khi đó nữ đạt 366.811 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,33 ‰ Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long với hơn 733.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2023 đạt 29,75%. Hậu Giang có nhiều dân tộc khác nhau cư trú trên địa bàn tỉnh. Tính đến tháng 10 năm 2009, tỉnh Hậu Giang có 7.533 hộ đồng bào dân tộc thiểu số với 35.268 khẩu, chiếm 3,16% dân số, trong đó nhiều nhất là đồng bào dân tộc Khmer với 5.537 hộ, 25.536 khẩu, đồng bào Hoa 1.977 hộ với 9.530 khẩu, các dân tộc Chăm, Ê Đê, Mường có 58 hộ với 202 khẩu. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 11 tôn giáo khác nhau đạt 152.031 người, nhiều nhất là Phật giáo đạt 116.996 người, tiếp theo là Công giáo có 16.772 người, đạo Cao Đài có 8.751 người, đạo Tin Lành có 4.226 người, Phật giáo Hòa Hảo chiếm 3.226 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam đạt 1.315 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa đạt 682 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có 48 người, Minh Sư Đạo có 13 người, Minh Sư Đạo và Bà La Môn mỗi đạo chỉ có một người. Văn hóa. Bên cạnh đó, Hậu Giang còn có các làng nghề truyền thống đa dạng và phong phú, thể hiện những nét văn hoá đặc sắc của vùng đất, con người. Đặc sản về cây ăn trái của Hậu Giang cũng được nhiều người ưa chuộng như khóm Cầu Đúc, bưởi Phú Hữu, quýt đường Long Trị...Ngoài ra, tỉnh còn có đặc sản về thủy sản, cá thác lác Vị Thanh ngon nổi tiếng khắp vùng Đồng bằng Sông Cửu Long. Tỉnh cũng có nhiều di tích văn hoá lịch sử như Căn cứ Tỉnh Ủy Cần Thơ, đền Bác Hồ, di tích Chiến thắng 75 Tiểu đoàn, di tích Tầm Vu... Hàng năm, mỗi khi có dịp lễ lộc, du khách các nơi tìm về không ít. Ngoài ra, còn có các lễ hội, đặc biệt là lễ hội đua ghe ngo truyền thống thu hút khá nhiều du khách đến xem. Du lịch. Tỉnh Hậu Giang có nhiều tiềm năng để phát triển du lịch, tuy nhiên vẫn còn hạn chế, Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch còn hạn chế, chưa có sản phẩm du lịch đặc trưng. Xu hướng của khách du lịch trong nước lẫn quốc tế là tìm về với thiên nhiên, với miệt vườn sông nước, với rừng, núi, biển càng hoang sơ, ruộng đồng heo hút, chính vì lẽ đó Hậu Giang đang có nhiều dự án phát triển du lịch hướng vào xây dựng du lịch sinh thái miệt vườn kết hợp với khu vui chơi giải trí, ăn uống, nghỉ ngơi... Giao thông. Hệ thống giao thông Hậu Giang thuận tiện, nối liền các mạch giao thông với các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Trên địa bàn tỉnh, có năm trục giao thông huyết mạch là Quốc lộ 1, Quốc lộ 61, Quốc lộ 61B, Đường Nam Sông Hậu, Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp. Ngoài ra, tuyến đường bộ nối Vị Thanh-Cần Thơ, tuyến đường Bốn Tổng -Một Ngàn là cầu nối quan trọng giữa Hậu Giang, thành phố Cần Thơ với tỉnh Kiên Giang. Đường nội bộ tỉnh, gồm các tuyến 924 đến 933 với tổng chiều dài khoảng 400 km. Mạng lưới đường thủy, gồm có hai trục giao thông quốc gia kênh Xà No, kênh Quản Lộ - Phụng Hiệp. Hệ thống kênh, rạch hình thành mạng lưới đường thủy chằng chịt, trải đều địa bàn tỉnh đảm bảo cho việc vận tải thủy thuận lợi. Năm 2020, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra tổng cộng 89 vụ tai nạn giao thông (đường bộ 87 vụ, đường thủy 02 vụ), làm chết 65 người (đường bộ 63 người, đường thủy 02 người) và làm bị thương 33 người (tập trung ở đường bộ). So với cùng kỳ năm trước giảm 05 vụ, số người chết giảm 11 người và số người bị thương giảm 02 người (tất cả tập đều tập trung ở đường bộ)
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Kiên Giang là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Nam Bộ. Phần lớn diện tích Kiên Giang ngày nay bao gồm thành phố Rạch Giá và toàn bộ tỉnh Hà Tiên cũ. Đây là tỉnh có diện tích lớn nhất vùng Tây Nam Bộ và lớn thứ hai ở Nam Bộ (sau tỉnh Bình Phước). Tuy nhiên, vào thời nhà Nguyễn toàn bộ diện tích tỉnh Kiên Giang ngày nay đều thuộc tỉnh Hà Tiên. Tỉnh lị của tỉnh hiện nay là thành phố Rạch Giá cách Cần Thơ khoảng 120 km và Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 250 km. Là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông Cửu Long. Năm 2018, Kiên Giang là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 11 về số dân, xếp thứ 19 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 31 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 39 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.723.067 người dân , GRDP đạt 101.887,58 tỉ Đồng (tương ứng với 4,4 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 58,13 triệu đồng (tương ứng với 2.527 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP 2021 đạt 0,58%. Địa lý. Vị trí địa lý. Kiên Giang nằm tận cùng phía Tây Nam của Việt Nam, trong đó lãnh thổ bao gồm đất liền và hải đảo. Phần đất liền nằm trong tọa độ từ 9°23'50" - 10°32'30" vĩ Bắc và từ 104°26'40" - 105°32'40" kinh Đông. Tỉnh Kiên Giang có vị trí địa lý: Phần hải đảo nằm trong vịnh Thái Lan bao gồm hơn 100 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó lớn nhất là đảo Phú Quốc và xa nhất là quần đảo Thổ Chu, tập trung thành 5 quần đảo là quần đảo Hà Tiên (Hải Tặc), quần đảo Bà Lụa, quần đảo An Thới, quần đảo Nam Du và quần đảo Thổ Chu. Cực Bắc thuộc địa phận xã Tân Khánh Hoà, huyện Giang Thành. Cực Nam nằm ở xã Vĩnh Phong, huyện Vĩnh Thuận. Cực Tây tại phường Mỹ Đức, thành phố Hà Tiên Cực Đông nằm ở xã Hoà Lợi thuộc địa phận huyện Giồng Riềng. Trung tâm tỉnh là thành phố Rạch Giá, cách Thành phố Hồ Chí Minh 250 km về phía Tây. Kiên Giang tiếp giáp Campuchia ở phía Bắc với đường biên giới dài 54 km. Vịnh Thái Lan ở phía Tây có đường bờ biển dài hơn 200 km. Ngoài ra Kiên Giang có hơn 100 đảo lớn nhỏ. Kiên Giang nằm ven biển thuộc phía Tây Nam của Việt Nam, là vùng đất thuộc trấn Hà Tiên cũ do Tổng trấn Mạc Cửu khai phá vào thế kỷ 17. Đầu thế kỷ 18, Mạc Cửu được chúa Nguyễn thuần phục. Vào thời vua Minh Mạng Hà Tiên là một trong sáu tỉnh Nam Kỳ. Sau năm 1975 thành lập tỉnh Kiên Giang cho đến ngày nay. Kiên Giang được nhiều người biết đến là vùng đất văn hóa và du lịch nổi tiếng bậc nhất ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Cảnh đẹp của Kiên Giang ngày xưa từng được ca ngợi qua "Hà Tiên thập vịnh". Đến ngày nay Kiên Giang được nhiều người biết đến qua danh thắng du lịch nổi tiếng là Hòn Phụ Tử (gãy hòn Phụ, còn hòn Tử)và đảo Phú Quốc. Ngoài ra, Kiên Giang còn có tiềm năng kinh tế với nguồn lợi vô cùng to lớn về thủy sản. Tỉnh lỵ của Kiên Giang là thành phố Rạch Giá, một trong hai thành phố biển ở Đồng bằng sông Cửu Long (Hà Tiên & Rạch Giá). Kiên Giang có vị trí chiến lược quan trong, nằm trong vùng vịnh Thái Lan, gần với các nước thuộc Đông Nam Á như Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore, Chính vì vậy Kiên Giang có nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực, đồng thời đóng vai trò cầu nối các tỉnh miền Tây Nam Bộ với bên ngoài. Điều kiện tự nhiên. Kiên Giang có đủ các dạng địa hình từ đồng bằng, núi rừng và biển đảo. Trong đó, phần đất liền có địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ đông bắc xuống tây nam. Do nằm ở vĩ độ thấp và giáp biển nên Kiên Giang có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm quanh năm nhiệt độ trung bình hàng tháng từ 27 – 27,50C. Kiên Giang không chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão nhưng lượng nước mưa do bão chiếm một tỷ trọng đáng kể, nhất là vào cuối mùa mưa. Mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 3 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.600 – 2.000 mm ở đất liền và 2.400 – 2.800 mm ở vùng đảo Phú Quốc. Khí hậu Kiên Giang rất ít thiên tai, không rét, không có bão đổ bộ trực tiếp, ánh sáng và nhiệt lượng dồi dào, nên rất thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi sinh trưởng. Kiên Giang có 4 vùng đất đai chính là vùng phù sa ngọt thuộc tây sông Hậu, vùng phèn ngập lũ thuộc tứ giác Long Xuyên, vùng nhiễm mặn thuộc bán đảo Cà Mau và vùng đồi núi, hải đảo ở Phú Quốc và Kiên Hải. Trong đó, Đất nông nghiệp, chiếm 64,2% diện tích tự nhiên, đất rừng chiếm 122,8 nghìn ha, đất chuyên dùng 35,4 nghìn ha, đất ở 10,1 nghìn ha. Ngoài ra tỉnh còn có trên 70 nghìn ha đất hoang hoá và sản xuất chưa ổn định với hơn 25 nghìn ha vườn tạp. Rừng tại Kiên Giang rất ít, chủ yếu là rừng phòng hộ. Kiên Giang là tỉnh có tiềm năng khoáng sản tương đối lớn mặc dù đang ở mức thăm dò, nghiên cứu nhưng bước đầu đã xác định được 152 điểm quặng và 23 mỏ khoáng sản các loại khác. Trữ lượng đá vôi toàn tỉnh hiện có 440 triệu tấn, có khả năng khai thác 342 triệu tấn, trong đó trữ lượng khai thác công nghiệp là 235 triệu tấn, đủ nguyên liệu để sản xuất 4,6 triệu tấn clinker/năm trong suốt 40 năm. Than bùn, ước tính còn khoảng 150 triệu tấn . Nền nông nghiệp của Kiên Giang là nông nghiệp trồng lúa nước. Đất canh tác không tập trung nhưng phần lớn phân bố ở ven các trung tâm huyện. Trên Quốc lộ 61 có một vùng trồng lúa ven nội ô huyện Giồng Riềng ngoài ra còn có đất canh tác của các gia đình nằm sâu trong những xóm nhỏ. Xen kẽ với việc trồng lúa nước là các loại hoa màu và một số cây có giá trị công nghiệp cao như dừa, khóm... Kiên Giang là tỉnh có nghề đánh bắt hải sản phát triển. Với bờ biển dài trên 200 km, có diện tích biển khoảng 63.000 km², Kiên Giang tiềm năng rất phong phú để phát triển kinh tế biển. Đây là một lĩnh vực mà tỉnh có lợi thế hơn hẳn so với nhiều tỉnh khác trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. "Nước mắm Phú Quốc" là một thương hiệu nước mắm nổi tiếng không những trong phạm vi cả nước mà còn trên bình diện quốc tế. Lịch sử. Tỉnh Hà Tiên thời nhà Nguyễn độc lập. Năm 1757, Kiên Giang được biết là một đạo ở vùng Rạch Giá thuộc Trấn Hà Tiên do Mạc Thiên Tích thành lập. Đến năm 1808, đạo Kiên Giang được đổi thành huyện Kiên Giang. Năm 1832, vua Minh Mạng đặt ra tỉnh Hà Tiên (một trong [[Nam Kỳ Lục tỉnh), gồm 1 phủ là Quan Biên (đổi tên từ phủ An Biên) thống lĩnh 8 huyện: Hà Châu (đổi tên từ huyện Hà Tiên), Long Xuyên (sau này là địa bàn [[Cà Mau]]) và Kiên Giang (sau này là địa bàn [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]]), Sài Mạt, Linh Quỳnh, Châu Sum (có thể là [[Chhuk]], mà cũng có thể là [[Bảy Núi]]), Cần Vọt, Vũng Thơm. Thời vua [[Tự Đức]] cho đến khi [[Pháp]] chiếm Hà Tiên (1847-1867), tỉnh Hà Tiên gồm 1 phủ (là phủ An Biên) với 3 huyện: Hà Châu, Kiên Giang và Long Xuyên. Các huyện trước thuộc phủ Quảng Biên (đất Cần Bột ([[Kam pốt|Kampot]]), Vũng Thơm) trả về cho nước [[Cao Miên]]. Phủ An Biên (thời Tự Đức), gồm: Theo "[[Đại Nam nhất thống chí]]" của [[Quốc sử quán (triều Nguyễn)|Quốc sử quán nhà Nguyễn]] thì vào thời vua Tự Đức, cương vực tỉnh Hà Tiên như sau: "...Đông-Tây cách nhau 37 dặm, Nam-Bắc cách nhau 25 dặm, phía Đông đến địa giới huyện Hà Dương tỉnh An Giang (35 dặm), phía Tây đến [[vịnh Thái Lan|biển]] (2 dặm), phía Nam vượt qua núi Tô Châu đến biển (5 dặm), phía Bắc đến địa giới Cao Miên (25 dặm), phía Đông Nam đến địa giới huyện Phong Thịnh tỉnh An Giang (150 dặm linh), phía Tây Nam đến biển (chừng 1 dặm), phía Đông Bắc đến địa giới Cao Miên (25 dặm), phía Tây Bắc vượt qua núi Bạch Ô đến biển (20 dặm). Từ [[Hà Tiên|tỉnh lỵ]] đi về phía Đông đến [[Huế|Kinh]] 1.325 dặm..." Như vậy, tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn nằm kéo dài bên bờ [[vịnh Thái Lan]] (biển Tây), suốt từ [[Cà Mau]] đến [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]], có thời kỳ tới tận tỉnh [[Kam pốt|Kampot]] và thành phố [[Sihanoukville]] (Kompong Som) của [[Campuchia]], phía Đông giáp với tỉnh [[An Giang]] [[nhà Nguyễn]], phía Tây Bắc, phía Bắc và phía Đông Bắc tiếp giáp [[Campuchia|Cao Miên]]. Trong cuốn Đất nước Việt Nam qua các đời, xem xét về các địa danh trấn Hà Tiên, [[Đào Duy Anh]] viết: "... Chúng ta đã biết Vũng Thơm, Cần Bọt, Sài Mạt là dải đất từ lỵ sở Hà Tiên đến Sài Mít. Tức dải đất bờ biển phía tây nam nước Cao Miên. Còn Chân Sum thì Nhất thống chí (An Giang) chép là núi ở phía nam huyện Hà Âm cách 10 dặm, cách bờ sông Vĩnh Tế ở phía Nam 10 dặm. Huyện Hà Âm là huyện ở phía bắc sông Vĩnh Tế (phía âm của sông) nên gọi tên là thế, đối với huyện Hà Dương là huyện ở phía nam (phía dương của sông). Có thể đất Chân Sum là đất Sóc Sum của tỉnh KamPot. Về Linh Quỳnh thì Nhất thống chí chép rằng núi Linh Quỳnh thuộc huyện Hà Châu cách 120 dặm và ở phía bắc [[sông Giang Thành]], sông này có hai nguồn ra từ núi Linh Quỳnh. Linh Quỳnh tức địa điểm Linh Quỳnh của tỉnh KamPot nước Cao Miên. (Xem thế thì thấy rằng năm phủ Vũng Thơm, Cần Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh ở đời Nguyễn còn là đất của huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên và của huyện Hà Âm tỉnh An Giang, đến đời Tự Đức triều Nguyễn mới trả về nước Cao Miên)." Từ ngày [[15 tháng 6]] năm [[1867]], thực dân Pháp đặt hạt Thanh tra Kiên Giang. Ngày [[16 tháng 8]] năm [[1967]], đổi tên thành hạt Kiên Giang [[rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] Tỉnh Rạch Giá và tỉnh Hà Tiên thời Pháp thuộc. Trước năm 1900. Ngày [[24 tháng 6]] năm [[1867]], tỉnh thành Hà Tiên bị thực dân Pháp chiếm. Sau nhiều năm do dự và phân thiết, địa bàn Hà Tiên được phân bổ ra các đơn vị hành chánh khá phức tạp, theo từng thời điểm khác nhau. Ngày [[15 tháng 6]] năm [[1867]], sau khi chiếm xong tỉnh Hà Tiên, thực dân Pháp cho thành lập hạt Thanh tra Kiên Giang bao gồm hai huyện Kiên Giang và Long Xuyên cũ. Ngày [[16 tháng 8]] năm [[1867]], hạt Thanh tra Rạch Giá được thành lập do đổi tên từ hạt Thanh tra Kiên Giang trước đó. Năm [[1868]], [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] cũ được chia ra làm hai hạt Thanh tra: Hà Tiên và Rạch Giá Ngày [[5 tháng 6]] năm [[1871]], Pháp tách vùng [[Cà Mau]] ra khỏi Rạch Giá. Ngày [[18 tháng 12]] năm [[1871]], Pháp lại nhập [[Cà Mau]] vào Rạch Giá. Năm [[1874]], hạt Thanh tra [[Phú Quốc]] được thành lập, nhưng vì kinh tế không phát triển được nên một năm sau phải giải thể. Ngày [[5 tháng 1]] năm [[1876]], thực dân Pháp chia [[Nam Kỳ]] thành 4 khu vực hành chính lớn, mỗi khu vực hành chính lại chia nhỏ thành các tiểu khu hay hạt tham biện ("arrondissement administratif") thì tỉnh Hà Tiên cũ bị chia thành hai hạt tham biện là [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]] và [[Rạch Giá (tỉnh)|Rạch Giá]], đồng thời các thôn cũng đổi thành các làng. Năm [[1882]], thiết lập hạt tham biện [[Bạc Liêu]] trên cơ sở tách 3 tổng Quảng Long, Quảng Xuyên và Long Thủy của hạt tham biện [[Rạch Giá (tỉnh)|Rạch Giá]] hợp với 2 tổng Thạnh Hòa và Thạnh Hưng tách từ hạt tham biện [[Sóc Trăng]] chuyển sang. Lỵ sở Bạc Liêu thuộc địa bàn tổng Thạnh Hòa vốn trước đó thuộc hạt tham biện [[Sóc Trăng]]. Ngày [[12 tháng 8]] năm [[1888]], hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt tham biện [[Long Xuyên (tỉnh)|Long Xuyên]]. Ngày [[27 tháng 12]] năm [[1892]], thực dân Pháp lại tái lập hạt tham biện [[Rạch Giá (tỉnh)|Rạch Giá]]. Năm [[1888]], Hà Tiên cho thuộc về hạt tham biện [[Châu Đốc (tỉnh)|Châu Đốc]], đến cuối năm [[1892]] được phục hồi. Hạt tham biện Hà Tiên thuộc khu vực Bát Xắc (Bassac) chỉ còn đất huyện Hà Châu của [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] cũ. Giai đoạn 1900-1945. Theo Nghị định ngày [[20 tháng 12]] năm [[1899]] của [[Toàn quyền Đông Dương]] đổi tên tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày [[1 tháng 1]] năm [[1900]] hai hạt tham biện Rạch Giá và Hà Tiên trở thành [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] và [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]]. Năm [[1903]], đảo [[Phú Quốc]] được đặt dưới quyền của đại diện chủ tỉnh Hà Tiên. Ngày [[20 tháng 5]] năm [[1920]], thực dân Pháp cho thành lập ở [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] 5 quận trực thuộc: [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]], [[Giồng Riềng]], [[Gò Quao]], [[Long Mỹ]], [[Phước Long, Bạc Liêu|Phước Long]]. Tỉnh lỵ Rạch Giá đặt tại làng Vĩnh Thanh Vân thuộc quận [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]]. Ngày [[18 tháng 12]] năm [[1928]], [[Toàn quyền Đông Dương]] ra Nghị định thành lập thị xã hỗn hợp Rạch Giá trực thuộc [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] trên cơ sở cải biến khu đô thị Rạch Giá, trụ sở tại làng Vĩnh Thanh Vân dưới quyền một viên Thị trưởng và một Hội đồng thị xã. Ngày [[16 tháng 1]] năm [[1930]], Pháp chia địa bàn thị xã Rạch Giá thành 5 khu vực để đánh thuế. Ngày [[30 tháng 4]] năm [[1934]], Pháp nâng thị xã Rạch Giá lên thành thành phố [[Rạch Giá]] và chia thành 3 khu phố trực thuộc. Ngày [[1 tháng 1]] năm [[1936]], thực dân Pháp lập đại lý hành chánh [[An Biên]] thuộc [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]], trụ sở đặt tại chợ Thứ Ba trên cơ sở tách ra từ quận [[Phước Long, Bạc Liêu|Phước Long]]. Đến ngày [[1 tháng 8]] năm [[1939]], [[Toàn quyền Đông Dương]] ban hành Nghị định nâng lên thành quận [[An Biên]], đặt dưới quyền một quan chức người Pháp. [[Hà Tiên (tỉnh)|Tỉnh Hà Tiên]] từ năm [[1913]] đến năm [[1924]] bị giải thể, sáp nhập vào [[Châu Đốc (tỉnh)|tỉnh Châu Đốc]]. Ngày [[9 tháng 2]] năm [[1924]], Hà Tiên lại trở thành một tỉnh độc lập. Từ năm [[1924]], [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] gồm 4 quận: Châu Thành, [[Giang Thành]], [[Hòn Chông]] và [[Phú Quốc]]. Tỉnh lỵ Hà Tiên đặt tại làng [[Mỹ Đức, Hà Tiên|Mỹ Đức]] thuộc quận Châu Thành. Giai đoạn 1945-1954. Sau [[Cách mạng tháng Tám]] 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] đến năm [[1956]] cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm [[1975]]. Lúc bấy giờ, [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] và [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] nằm trong danh sách 21 tỉnh ở [[Nam Bộ]]. Năm [[1947]], quận [[Phước Long, Bạc Liêu|Phước Long]] được chính quyền thực dân Pháp giao cho tỉnh [[Bạc Liêu]]. Cũng trong năm này, chính quyền kháng chiến của lực lượng [[Việt Minh]] quyết định đổi tên huyện Phước Long thành huyện [[Hồng Dân]], ban đầu thuộc [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]], do lấy theo tên người chiến sĩ cộng sản Trần Hồng Dân (1916 - 1946) đã hy sinh tại địa phương trước đó. Năm [[1951]], huyện [[Hồng Dân]] được chính quyền [[Việt Minh]] giao về cho tỉnh [[Bạc Liêu]]. Năm [[1951]], chính quyền [[Việt Minh]] quyết định giải thể [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]], sáp nhập địa bàn vào các tỉnh [[Bạc Liêu]], [[Cần Thơ (tỉnh)|Cần Thơ]] và [[Sóc Trăng]]. Trong đó, thị xã [[Rạch Giá]] và các huyện [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]], [[Long Mỹ]], [[Gò Quao]], [[Giồng Riềng]] được giao về cho [[Cần Thơ (tỉnh)|tỉnh Cần Thơ]], các huyện [[Hồng Dân]] và [[An Biên]] được giao về cho tỉnh [[Bạc Liêu]]. Bên cạnh đó, một phần nhỏ đất đai tỉnh Rạch Giá cũng được giao về cho tỉnh [[Sóc Trăng]] quản lý. Tuy nhiên, việc giải thể [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]], cũng như đổi tên gọi huyện [[Phước Long, Bạc Liêu|Phước Long]] thành huyện [[Hồng Dân]] lại không được phía chính quyền [[Quốc gia Việt Nam]] thân Pháp của [[Bảo Đại]] và sau này là chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] công nhận. Đến năm [[1954]], chính quyền [[Việt Minh]] lại quyết định tái lập [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]]. Tháng [[10]] năm [[1954]], các huyện [[Hồng Dân]] và [[Long Mỹ]] cũng trở lại thuộc tỉnh Rạch Giá. Sau năm [[1956]], chính quyền Cách mạng lại quyết định giao huyện [[Hồng Dân]] cho tỉnh [[Sóc Trăng]] và giao huyện [[Long Mỹ]] cho [[Cần Thơ (tỉnh)|tỉnh Cần Thơ]] quản lý trở lại như cũ. Ngày [[29 tháng 12]] năm [[1952]], chính quyền [[Quốc gia Việt Nam]] thân Pháp quyết định công nhận đô thị tỉnh lỵ Rạch Giá trở thành thị xã hỗn hợp ("commune mixte") [[Rạch Giá]] trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Song song đó, [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] cũng bị giải thể giống như [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]]. Tháng [[10]] năm [[1950]], chính quyền [[Việt Minh]] quyết định thành lập tỉnh [[Long Châu Hà]] trên cơ sở hợp nhất [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] với tỉnh [[Long Châu Hậu]] (bao gồm một phần [[Châu Đốc (tỉnh)|tỉnh Châu Đốc]] và một phần [[Long Xuyên (tỉnh)|tỉnh Long Xuyên]] cũ) trước đó. Tuy nhiên, tên gọi tỉnh [[Long Châu Hà]] cũng không được chính quyền [[Quốc gia Việt Nam]] của [[Bảo Đại]] và chính quyền [[Việt Nam Cộng Hòa]] công nhận. Tỉnh [[Long Châu Hà]] tồn tại cho đến năm [[1954]] thì cũng bị giải thể, phân chia lại cho [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]], [[Châu Đốc (tỉnh)|tỉnh Châu Đốc]] và [[Long Xuyên (tỉnh)|tỉnh Long Xuyên]] như cũ. Như vậy, sau năm [[1954]], [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] và [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] đều được khôi phục trở lại như cũ. Tỉnh Kiên Giang (tỉnh Rạch Giá) giai đoạn 1956-1976. Việt Nam Cộng hòa. Ban đầu, chính quyền [[Quốc gia Việt Nam]] và sau đó là [[Việt Nam Cộng hòa]] vẫn duy trì tên gọi [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] và [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]] như thời Pháp thuộc. Ngày [[15 tháng 2]] năm [[1955]], Thủ hiến Nam Việt của chính quyền Quốc gia Việt Nam quyết định tạm sáp nhập vùng Chắc Băng và quận [[An Biên]] thuộc tỉnh Rạch Giá vào tỉnh [[Sóc Trăng]]. Ngày [[24 tháng 5]] năm [[1955]], quyết định sáp nhập ba quận [[An Biên]], [[Phước Long, Bạc Liêu|Phước Long]] và Chắc Băng để thành lập đặc khu An Phước thuộc tỉnh [[Sóc Trăng]], nhưng không lâu sau lại cho giải thể đặc khu này. Sau đó, quận [[An Biên]] và vùng Chắc Băng lại trở về thuộc tỉnh Rạch Giá như cũ. Ngày [[22]] tháng [[10]] năm [[1956]], [[Tổng thống Việt Nam Cộng hòa]] [[Ngô Đình Diệm]] ký Sắc lệnh 143/VN để " thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm [[Thành phố Hồ Chí Minh|Đô thành Sài Gòn]] và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là [[Châu Thành]], [[Hòn Chông]], [[Giang Thành, Kiên Giang|Giang Thành]], [[Phú Quốc]] được sáp nhập vào [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] để thành lập tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang đặt tại [[Rạch Giá]] và vẫn giữ nguyên tên là "Rạch Giá", về mặt hành chánh thuộc xã Vĩnh Thanh Vân, quận [[Châu Thành, Kiên Giang|Kiên Thành]]. Sau năm [[1956]], thành phố Rạch Giá bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn xã Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Kiên Thành của tỉnh Kiên Giang. Năm [[1957]], theo Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ, tỉnh Kiên Giang gồm 6 quận là Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Hà Tiên, Phú Quốc. Ngày [[27 tháng 12]] năm [[1957]], Nghị định số 368-BNV/HC/NĐ bổ túc Nghị định số 281-BNV/HC/NĐ ấn định các đơn vị hành chánh tỉnh Kiên Giang. Quận Kiên An gồm thêm xã [[Vĩnh Tuy]]. Trong đó, quận Kiên An đổi tên từ quận [[An Biên]] cũ, quận Kiên Thành đổi tên từ quận [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]] cũ, quận Kiên Tân tách ra từ quận Châu Thành cũ, quận Kiên Bình thành lập trên phần đất hai quận [[Gò Quao]] và [[Giồng Riềng]] cũ. Ngày [[13 tháng 6]] năm [[1958]], chính quyền Việt Nam Cộng hòa ban hành ban hành Nghị định 314-BNV/HC/NĐ về việc sửa đổi đơn vị hành chính tỉnh Kiên Giang. Trong đó quận Kiên Bình được tách thành quận [[Giồng Riềng|Kiên Bình]] và quận [[Gò Quao|Kiên Hưng]]. Năm [[1958]], tỉnh Kiên Giang có 7 quận: Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên An, Kiên Bình, Kiên Hưng, Hà Tiên, Phú Quốc. Sau đó lại lập thêm quận [[Vĩnh Thuận|Kiên Long]]. Ngày [[31 tháng 5]] năm [[1961]], chính quyền [[Việt Nam Cộng hòa]] lập thêm quận [[Kiên Lương]] do tách đất từ hai quận Kiên Thành và Hà Tiên (địa bàn quận Kiên Lương lúc bấy giờ khác hẳn huyện Kiên Lương ngày nay). Ngày [[24 tháng 12]] năm [[1961]], lại giao hai quận Kiên Long và Kiên Hưng cho tỉnh [[Chương Thiện]] vừa mới thành lập. Năm [[1968]], tỉnh Kiên Giang có 7 quận là: Kiên Thành, Kiên Tân, Kiên Bình, Kiên An, Kiên Lương, Hà Tiên, Phú Quốc. Sau năm [[1968]], chính quyền Việt Nam Cộng hòa lại lập thêm quận Hiếu Lễ, do tách đất từ quận Kiên An. Năm [[1971]], tỉnh Kiên Giang có 8 quận là: [[Châu Thành, Kiên Giang|Kiên Thành]], [[Tân Hiệp, Kiên Giang|Kiên Tân]], [[Giồng Riềng|Kiên Bình]], [[An Biên|Kiên An]], [[Kiên Lương]], [[Hà Tiên]], [[Phú Quốc]], [[An Minh|Hiếu Lễ]]. Ngày [[20 tháng 11]] năm [[1970]], chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập thị xã [[Rạch Giá]], là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương [[Việt Nam Cộng hòa]], đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang. Thị xã Rạch Giá được tái lập trên cơ sở các xã [[Vĩnh Thanh Vân]] và [[An Hòa, Rạch Giá|An Hòa]] cùng thuộc quận Kiên Thành trước đó. Từ đó cho đến năm [[1975]], thị xã Rạch Giá và tỉnh Kiên Giang là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Cách mạng. Tuy nhiên, chính quyền [[Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam]] và [[Việt Nam Dân chủ Cộng hòa]] vẫn giữ nguyên tên gọi tỉnh Rạch Giá từ năm [[1956]] cho đến năm [[1976]], đồng thời vẫn duy trì thị xã [[Rạch Giá]] trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Năm [[1957]], chính quyền Cách mạng quyết định giải thể [[Hà Tiên (tỉnh)|tỉnh Hà Tiên]], đổi thành huyện [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]] và huyện [[Phú Quốc]] cùng trực thuộc tỉnh Rạch Giá. Tỉnh Rạch Giá khi đó gồm thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, [[Gò Quao]], [[Giồng Riềng]], [[An Biên]], [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]] và [[Phú Quốc]]. Về sau, chính quyền Cách mạng lại cho thành lập thêm huyện [[Tân Hiệp, Kiên Giang|Tân Hiệp]] trên cơ sở tách đất từ huyện [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]] và huyện [[Giồng Riềng]]. Bên cạnh đó, huyện Châu Thành cũng được chia thành huyện Châu Thành A và huyện Châu Thành B cùng thuộc tỉnh Rạch Giá. Năm [[1964]], chính quyền Cách mạng thành lập huyện [[Vĩnh Thuận]] trên cơ sở tách ra từ huyện [[An Biên]]. Huyện Vĩnh Thuận thuộc [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] có địa giới hành chính trùng với quận Kiên Long thuộc tỉnh Kiên Giang của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm [[1965]], giao huyện [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]] và huyện [[Phú Quốc]] cho tỉnh [[An Giang]] quản lý. Đến năm [[1967]] lại trả hai huyện Hà Tiên và Phú Quốc về cho tỉnh Rạch Giá như trước. Tuy nhiên, năm [[1971]] khi [[Trung ương Cục miền Nam]] quyết định thành lập tỉnh Châu Hà, tách ra từ tỉnh [[An Giang]], trên phần đất [[Châu Đốc (tỉnh)|tỉnh Châu Đốc]] và tỉnh Hà Tiên trước đó thì huyện Hà Tiên, huyện [[Phú Quốc]] cùng với huyện Châu Thành A của tỉnh Rạch Giá lại được giao về cho tỉnh Châu Hà quản lý. Đến năm [[1974]] ba huyện này lại cùng thuộc tỉnh [[Long Châu Hà]]. Sau khi đã bàn giao huyện Châu Thành A về cho tỉnh Châu Hà và sau đó là tỉnh [[Long Châu Hà]] quản lý, huyện Châu Thành B cũng được đổi tên lại thành huyện Châu Thành thuộc [[Rạch Giá (tỉnh)|tỉnh Rạch Giá]] như cũ. Từ đó cho đến năm [[1976]], tỉnh Rạch Giá còn lại thị xã Rạch Giá và các huyện: Châu Thành, Gò Quao, [[Giồng Riềng]], [[An Biên]], [[Tân Hiệp, Kiên Giang|Tân Hiệp]], [[Vĩnh Thuận]]. Sau [[sự kiện 30 tháng 4 năm 1975]], chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Rạch Giá như trước đó cho đến đầu năm [[1976]]. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngày [[20 tháng 9]] năm [[1975]], Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, địa bàn tỉnh Rạch Giá sẽ được chia ra vào sáp nhập vào các tỉnh mới, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Cụ thể như sau: Nhưng đến ngày [[20 tháng 12]] năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Rạch Giá cũ (bao gồm cả ba huyện [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]], [[Phú Quốc]], Châu Thành A hiện cùng thuộc tỉnh [[Long Châu Hà]] nhưng trước năm [[1971]] lại cũng đều thuộc tỉnh Rạch Giá) vẫn để thành một tỉnh riêng biệt. Tỉnh Kiên Giang từ năm 1976 đến bây giờ.. Tháng 2 năm [[1976]], Chính phủ Việt Nam quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tỉnh Rạch Giá và ba huyện: [[Hòn Đất|Châu Thành A]], [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]], Phú Quốc vốn thuộc tỉnh [[Long Châu Hà]] trước đó. Lúc này, huyện Châu Thành A bị giải thể và sáp nhập trở lại vào huyện Châu Thành như trước. Tỉnh Kiên Giang lúc đó gồm thị xã Rạch Giá và 8 huyện: [[An Biên]], [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]], [[Giồng Riềng]], [[Gò Quao]], [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]], [[Phú Quốc]], [[Tân Hiệp, Kiên Giang|Tân Hiệp]], [[Vĩnh Thuận]]. Tỉnh lỵ là thị xã Rạch Giá. Ngày [[3 tháng 6]] năm [[1978]], Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 125-CP về việc chia huyện Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang thành hai huyện lấy tên là huyện [[Hòn Đất]] và huyện Châu Thành thuộc tỉnh Kiên Giang. Theo đó, huyện Hòn Đất gồm có các xã Nam Thái Hoa, Mỹ Lâm, Sóc Sơn của huyện Châu Thành cũ và xã Bình Sơn của huyện [[Hà Tiên (huyện)|Hà Tiên]] cắt sang. Địa bàn huyện Hòn Đất thuộc tỉnh Kiên Giang ngày nay chính là địa bàn huyện Châu Thành A thuộc tỉnh Rạch Giá và sau đó thuộc tỉnh Long Châu Hà trước năm [[1976]], còn địa bàn huyện Châu Thành phần còn lại sau khi chia tách cũng chính là địa bàn huyện Châu Thành B thuộc tỉnh Rạch Giá cũ. Ngày [[14 tháng 1]] năm [[1983]], Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 4-HĐBT về việc thành lập huyện [[Kiên Hải]] thuộc tỉnh Kiên Giang. Ngày [[13 tháng 1]] năm [[1986]], Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 7-HĐBT về việc chia huyện [[An Biên]] thuộc tỉnh Kiên Giang thành hai huyện lấy tên là huyện [[An Biên]] và huyện [[An Minh]]. Ngày [[8 tháng 7]] năm [[1998]], [[Chính phủ Việt Nam]] ban hành Nghị định số 47/1998/NĐ-CP về việc thành lập thị xã Hà Tiên và thành lập các phường thuộc thị xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Theo đó, thành lập thị xã [[Hà Tiên]] trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị trấn Hà Tiên, xã Thuận Yên (trừ 2.732 ha diện tích tự nhiên và 3.302 nhân khẩu giao về xã Phú Mỹ quản lý), xã Mỹ Đức và xã Tiên Hải thuộc huyện Hà Tiên. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính để thành lập thị xã Hà Tiên, huyện Hà Tiên còn lại 89.548,5 ha diện tích tự nhiên và 62.162 nhân khẩu, gồm 6 xã và 1 thị trấn. Ngày [[21 tháng 4]] năm [[1999]], Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 28/1999/NĐ-CP về việc đổi tên huyện Hà Tiên thành huyện [[Kiên Lương]] thuộc tỉnh Kiên Giang. Ngày [[26 tháng 7]] năm [[2005]], Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 97/2005/NĐ-CP' về việc thành lập thành phố [[Rạch Giá]] thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị xã Rạch Giá. Ngày [[6 tháng 4]] năm [[2007]], Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 58/2007/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện; thành lập huyện [[U Minh Thượng]] và thành lập xã thuộc các huyện [[Vĩnh Thuận, Kiên Giang|Vĩnh Thuận]], [[Kiên Lương]] và [[Hòn Đất]], tỉnh Kiên Giang. Sau khi điều chỉnh, tỉnh Kiên Giang có 14 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, Giồng Riềng, Gò Quao, Châu Thành, Tân Hiệp, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Kiên Hải, Phú Quốc, thị xã Hà Tiên và thành phố Rạch Giá. Ngày [[29 tháng 6]] năm [[2009]], [[Chính phủ Việt Nam]] ban hành Nghị quyết số 29/NQ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính xã, phường, thuộc các huyện, thành lập xã thuộc thị xã [[Hà Tiên]] và các huyện: [[Kiên Lương]], [[Tân Hiệp, Kiên Giang|Tân Hiệp]], [[Giồng Riềng]], [[Vĩnh Thuận, Kiên Giang|Vĩnh Thuận]]; đồng thời điều chỉnh địa giới hành chính huyện [[Kiên Lương]] để thành lập huyện [[Giang Thành, Kiên Giang|Giang Thành]]. Tỉnh Kiên Giang có 634.833,32 ha diện tích tự nhiên và 1.726.026 nhân khẩu, có 15 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm các huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, Châu Thành, Tân Hiệp, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An Minh, Vĩnh Thuận, U Minh Thượng, Kiên Hải, Phú Quốc, Giang Thành, thị xã Hà Tiên và thành phố Rạch Giá. Ngày [[18 tháng 2]] năm [[2014]], [[Thủ tướng Việt Nam|Thủ tướng Chính phủ]] ban hành Quyết định số 268/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Rạch Giá là [[đô thị loại II (Việt Nam)|đô thị loại II]] trực thuộc tỉnh Kiên Giang. Ngày [[17 tháng 9]] năm [[2014]], Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1676/QĐ-TTg công nhận huyện đảo Phú Quốc là đô thị loại II. Ngày [[11 tháng 9]] năm [[2018]], [[Ủy ban Thường vụ Quốc hội]] ban hành Nghị quyết số 573/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thành phố [[Hà Tiên]] trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Hà Tiên (nghị quyết có hiệu lực từ ngày [[1 tháng 11]] năm [[2018]]). Ngày [[9 tháng 12]] năm [[2020]], Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1109/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thành phố [[Phú Quốc]] trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Phú Quốc (nghị quyết có hiệu lực từ ngày [[1 tháng 1]] năm [[2021]]). Tỉnh Kiên Giang có 3 thành phố và 12 huyện như hiện nay. Hành chính. [[Tập tin:Cổng tam quan TP Rạch Giá.jpg|nhỏ|giữa|Cổng tam quan [[thành phố Rạch Giá]]]] Tỉnh Kiên Giang có 15 đơn vị hành chính cấp huyện được chia thành 3 [[Thành phố (Việt Nam)|thành phố]] và 12 huyện với 144 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 10 [[Thị trấn (Việt Nam)|thị trấn]], 18 [[Phường (Việt Nam)|phường]] và 116 [[Xã (Việt Nam)|xã]]. Kinh tế. [[Tập tin:nuoidiep.jpg|nhỏ|phải|220px|Nuôi Ngọc điệp ở Hòn Dõi - Phú Quốc.]] [[Tập tin:Khu lấn biển ở Rạch Giá, Kiên Giang.jpg|nhỏ|trái|Khu lấn biển ở TP. Rạch Giá, Kiên Giang]] Năm 2012 Tốc độ tăng trưởng [[kinh tế]] đạt 11,81%, mục tiêu đề ra là 12,5% xếp hạng thứ 3 trong các tỉnh vùng [[Đồng bằng sông Cửu Long]] sau Hậu Giang với 14,13%, Bạc Liêu đạt 12,57%, GDP bình quân đầu người năm 2012 là 2026 [[Đô la Mỹ|USD]]/người/năm, sản lượng [[thực phẩm|lương thực]] của tỉnh đạt 4,28 triệu tấn cao nhất từ trước đến nay và là năm thứ 2 đứng đầu cả nước về sản lượng [[thực phẩm|lương thực]], trong đó [[Lúa|sản lượng lúa]] đạt 4.287.175 tấn, tăng 366.026 tấn so cùng kỳ, đây là năm sản lượng [[thực phẩm|lương thực]] đạt cao nhất từ trước đến nay. Sản lượng khai thác và nuôi trồng [[thủy sản]] ước 548.182 tấn, đạt 100,95% kế hoạch, tăng 8,24%, trong đó sản lượng khai thác 421.201 tấn, đạt 100,29% kế hoạch và tăng 6,11%, sản lượng nuôi trồng [[thủy sản]] 126.981 tấn, đạt 103,24% kế hoạch và tăng 15,96% so với năm 2011. Giá trị sản xuất [[công nghiệp]] năm 2012 ước đạt 16.055,3 tỷ đồng, đạt 99,11% kế hoạch, tăng 10,01% so với cùng kỳ năm 2011. Tổng mức bán lẻ [[hàng hóa]] và [[dịch vụ]] ước 41.710 tỷ đồng, tăng 18,02% cùng kỳ. Kim ngạch [[xuất khẩu]] ước đạt 620 triệu [[Đô la Mỹ|USD]]. Trong đó, hàng nông sản 438 triệu [[Đô la Mỹ|USD]] và hàng hải sản đạt 157 triệu [[Đô la Mỹ|USD]]. Kim ngạch [[nhập khẩu]] ước 35 triệu [[Đô la Mỹ|USD]]. Tình hình đầu tư và hoạt động xúc tiến đầu tư, [[thương mại]], [[du lịch]] được đẩy mạnh thực hiện, thu hút có hiệu quả các nguồn lực cho đầu tư phát triển của tỉnh. Tổng vốn đầu tư toàn [[xã hội]] ước 24.406,9 tỷ đồng, Vốn ngân sách do địa phương quản lý giá trị khối lượng hoàn thành ước thực hiện 3.269 tỷ đồng, giải ngân 3.214 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách [[Nhà nước Việt Nam|nhà nước]] ước 4.406 tỷ đồng, đạt 97,9% dự toán điều chỉnh. Tổng chi ngân sách ước 8.357 tỷ đồng, đạt 105,4% dự toán điều chỉnh, trong đó chi đầu tư phát triển 2.742 tỷ đồng chưa kể nguồn vốn trái phiếu [[Chính phủ Việt Nam|Chính phủ]], chi thường xuyên 4.558,8 tỷ đồng. Hoạt động [[ngân hàng]], nguồn vốn hoạt động tiếp tục tăng trưởng 14,28%, huy động vốn tại địa phương tăng 20,59% so với năm 2011, đảm bảo vốn tín dụng cho yêu cầu phát triển [[kinh tế]] [[xã hội]] địa phương. Doanh số cho vay ước đạt 49.950 tỷ đồng tăng 8,8% so năm trước, dư nợ cho vay là 25.650 tỷ đồng tăng 6,39% so năm trước, tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng được kiểm soát, tỷ lệ nợ xấu không vượt quá 3%. [[Chỉ số giá tiêu dùng|Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)]] 11 tháng tăng 6,3% so với [[tháng mười hai|tháng 12]] năm 2011, ước [[Chỉ số giá tiêu dùng|CPI]] [[tháng mười hai|tháng 12]] năm 2012 so với [[tháng mười hai|tháng 12]] năm 2011 tăng 6,5-7,5%, thấp hơn so với mức bình quân chung của cả nước (8%). Kinh tế biển. Kiên Giang là tỉnh có vùng biển rộng khoảng 63.290 km², với 5 quần đảo, trong đó có 3 thành phố ven biển: Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc cùng với 5 huyện: An Biên, An Minh, Hòn Đất, Kiên Hải và Kiên Lương Kiên Giang cũng là tỉnh nằm trong ngư trường Kiên Giang - Cà Mau. Đây là ngư trường lớn nhất nước ta. Năm 2020, bất chấp đại dịch [[Đại dịch COVID-19|COVID-19]], tổng sản lượng khai thác và nuôi trồng thủy sản của tỉnh Kiên Giang ước đạt 836.175 tấn, vượt 10,75% kế hoạch, gồm: Khai thác đánh bắt hơn 572.000 tấn, nuôi trồng 264.105 tấn, trong đó tôm nuôi 92.490 tấn, vượt 8,8% kế hoạch, tăng 11,7% so với năm [[Premier League 2019-20|2019]] Giao thông. [[Tập tin:An Thoi port.jpg|nhỏ|220x220px|Cảng An Thới ở phường An Thới, thành phố Phú Quốc]] Kiên Giang nằm cách [[Thành phố Hồ Chí Minh]] khoảng 250 km đường bộ về [[hướng Tây Nam|phía tây nam]], hệ thống giao thông ở tỉnh tương đối thuận tiện, bao gồm [[đường giao thông|đường bộ]], [[đường thủy]] và [[Hàng không|đường hàng không]]. Trong đó, Hệ thống giao thông [[đường giao thông|đường bộ]] không ngừng phát triển. Giao thông nội bộ các [[Thành phố (Việt Nam)|thành phố]], [[Thị xã (Việt Nam)|thị xã]] được nâng cấp và tráng nhựa. Các tuyến đường huyết mạch trên địa bàn tỉnh là [[Quốc lộ 80]], [[Quốc lộ 61]], [[Quốc lộ 63]] và Tỉnh lộ 11...Mạng lưới giao thông [[đường thủy]] của tỉnh cũng tương đối hoàn chỉnh. Về giao thông vận tải theo đường hàng không thì Kiên Giang có [[Sân bay Rạch Giá]] và [[Sân bay Phú Quốc|Sân bay Quốc tế Phú Quốc]], rất thuận lợi về việc lưu thông trong tỉnh và trong nước. Dân số. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Kiên Giang đạt 1.923.067 người, mật độ dân số đạt 272 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 587.800 người, chiếm 28,3% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 1.335.267 người, chiếm 71,7% dân số. Dân số nam đạt 973.236 người, trong khi đó nữ đạt 949.831 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 10,8 ‰ Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 35,6%. Về dân tộc và [[tôn giáo]], Kiên Giang là địa bàn cư trú của hơn 15 [[dân tộc]] khác nhau. Trong đó, [[người Việt|người Kinh]] chiếm khoảng 85,5%, [[Người Khmer]] chiếm khoảng 12,2% dân số tập trung chủ yếu ở các huyện [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]], [[Gò Quao]]. [[Người Hoa tại Việt Nam|Người Hoa]] chiếm khoảng 2,2% dân số sinh sống ở [[thành phố Rạch Giá]] và huyện [[Châu Thành, Kiên Giang|Châu Thành]]. Còn lại là một số dân tộc khác như: [[Người Chăm|Chăm]], [[Người Tày|Tày]], [[Người Mường|Mường]], [[Người Nùng|Nùng]]... Tính đến ngày [[1 tháng 4]] năm [[2019]], toàn tỉnh có 12 [[tôn giáo]] khác nhau đạt 513.283 người, nhiều nhất là [[Phật giáo Việt Nam|Phật giáo]] có 272.662 người, tiếp theo là [[Công giáo tại Việt Nam|Công giáo]] đạt 136.789 người, [[đạo Cao Đài]] có 49.697 người, [[Phật giáo Hòa Hảo]] có 45.920 người, [[Kháng Cách|đạo Tin Lành]] chiếm 5.697 người, [[Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa]] đạt 1.791 người, [[Hồi giáo tại Việt Nam|Hồi giáo]] đạt 419 người, [[Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam]] đạt 218 người. Còn lại các tôn giáo khác như [[Baha'i giáo]] có 39 người, [[Minh Sư Đạo]] có 26 người, [[Bửu Sơn Kỳ Hương]] có 22 người và [[Bà La Môn]] chỉ có ba người. Giáo dục. [[Tập tin:Trường Trung cấp Kỹ thuật - Nghiệp vụ Kiên Giang.jpg|nhỏ|Trường Trung cấp Kỹ thuật - Nghiệp vụ Kiên Giang ở Tp.Rạch Giá]] Tính đến năm 2018, toàn tỉnh Kiên Giang có 485 trường học ở các cấp phổ thông, trong đó có 43 trường THPT, 167 trường THCS và 275 trường tiểu học, ngoài ra còn có 236 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Kiên Giang tương đối ổn đinh, góp phần làm giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Hiện nay Kiên Giang có 1 trường Đại học và 5 trường Cao đẳng. Danh sách các trường Đại học, Cao đẳng tại Kiên Giang: Văn hóa. [[Tập tin:Fish sauce factory, Phu Quoc.jpg|nhỏ|Một cơ sở sản xuất nước mắm tại Phú Quốc]] Kiên Giang nằm tận cùng về phía tây nam của Việt Nam, nơi giao thoa [[văn hóa]] của nhiều vùng miền cả nước, bản sắc văn hoá tỉnh nhà cũng vì thế mà rất phong phú, đa dạng, thể hiện qua các lĩnh vực [[văn học]], [[nghệ thuật]], [[ẩm thực]], [[lễ hội]], làng nghề truyền thống... Văn hóa ẩm thực ở đây cũng rất phong phú, đa dạng với hàng trăm món ăn các loại với các đặc sản như Cá nhồng, [[Nước mắm Phú Quốc]], Cháo môn, Sò huyết Hà Tiên, [[Bún cá Kiên Giang]]... Hằng năm trên địa bàn tỉnh diễn ra nhiều [[lễ hội]], nhưng đặc sắc nhất là lễ hội anh hùng dân tộc [[Nguyễn Trung Trực]] diễn ra vào tháng tháng Tám âm lịch thu hút hàng ngàn lượt khách trong và ngoài tỉnh đến tham gia. các làng nghề truyền thống rất đặc sắc như đan đệm bàng, dệt chiếu Tà Niên, nắn nồi Hòn Đất, làm hàng thủ công mỹ nghệ bằng đồi mồi, làm huyền phách ở [[Hà Tiên (tỉnh)|Hà Tiên]]… Du lịch Kiên giang tiềm tàng nhiều tài năng chưa được khai thác hoặc khai thác chưa đúng mức. Du lịch. [[Tập tin:Mount Ba Hòn, Kiên Lương town, Kiên Lương district, Kiên Giang, Vietnam, at June-2022.jpg|200px|phải|thumb|Đỉnh núi Ba Hòn tại thị trấn Kiên Lương.]] Liên kết ngoài. [[Thể loại:Kiên Giang| ]] [[Thể loại:Vịnh Thái Lan]] [[Thể loại:Tỉnh ven biển Việt Nam]]
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Lai Châu là một tỉnh thuộc vùng Tây Bắc Bộ, Việt Nam . Năm 2018, Lai Châu là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 62 về số dân, xếp thứ 61 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 58 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 46 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 456.300 người dân, GRDP đạt 14.998 tỉ Đồng (tương ứng với 0,6540 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 33 triệu đồng (tương ứng với 1.433 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,23%. Lai Châu là một tỉnh biên giới, phía bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, phía tây và phía tây nam giáp tỉnh Điện Biên, phía đông giáp tỉnh Lào Cai, phía đông nam giáp tỉnh Yên Bái, và phía nam giáp tỉnh Sơn La. Đây là tỉnh có diện tích lớn thứ 10/63 tỉnh thành Việt Nam . Địa lý. Trung tâm hành chính của tỉnh là Thành phố Lai Châu, cách Thủ đô Hà Nội 397 km Nằm ở phía tây bắc của Việt Nam, có toạ độ địa lý từ 21°41' đến 22°49' vĩ độ Bắc và 102°19' đến 103°59' kinh độ Đông. Các điểm cực của tỉnh Lai Châu:. Lai Châu có 265,165 km đường biên giới (theo Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc) với cửa khẩu song phương Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà và nhiều đường mòn qua lại trên tuyến biên giới Việt – Trung trực tiếp giao lưu với các lục địa rộng lớn phía tây nam Trung Quốc. Lai Châu có tiềm năng để phát triển dịch vụ – thương mại, xuất nhập khẩu và du lịch, đồng thời, cũng có vị trí chiến lược hết sức quan trọng về quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia. Lai Châu nằm trong khu vực đầu nguồn và phòng hộ đặc biệt xung yếu của sông Đà, sông Nậm Na và sông Nậm Mu, điều tiết nguồn nước trực tiếp cho các công trình thủy điện lớn trên sông Đà, đảm bảo sự phát triển bền vững cả vùng châu thổ sông Hồng. Địa hình được tạo bởi những dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc - Đông Nam, có nhiều đỉnh núi cao như đỉnh Pu Ta Leng cao 3.096 m (đỉnh núi cao thứ 2 tại Việt Nam), đỉnh Bạch Mộc Lương Tử cao 3.046 m. Núi đồi cao và dốc, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, có nhiều cao nguyên, sông suối. Sông có nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu lượng lớn nên tiềm năng thủy điện rất lớn. Lai Châu có đặc điểm địa hình với nhiều dãy núi và cao nguyên, phía đông là dãy núi Hoàng Liên Sơn. Giữa hai dãy núi đồ sộ trên là phần đất thuộc vùng núi thấp tương đối rộng lớn và lưu vực sông Đà với nhiều cao nguyên đá vôi (dài 400 km, rộng từ 1 – 25 km, cao 600 – 1.000 m). Trên 60% diện tích có độ cao trên 1.000 m, trên 90% diện tích có độ dốc trên 25°, bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi chạy dài theo hướng tây bắc – Đông Nam, xen kẽ là các thung lũng có địa hình tương đối bằng phẳng như: Mường So, Tam Đường, Bình Lư, Than Uyên… Có đỉnh núi Fansipan cao 3.143 m, Pu Sam Cáp cao 1.700 m… Núi đồi cao và dốc, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, có nhiều sông suối, nhiều thác ghềnh, dòng chảy lưu lượng lớn nên có nhiều tiềm năng về thủy điện. Lai Châu có khí hậu cận nhiệt đới ẩm. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 21 °C-23 °C chia làm hai mùa theo độ ẩm là mùa mưa và mùa khô, chia làm 4 mùa theo nhiệt độ: xuân, hè, thu, đông. Lịch sử. Xưa kia Lai Châu hay Mường Lai được đặt dưới quyền điều hành của tù trưởng các dân tộc Thái, quy phục triều đình Việt Nam. Đây vốn là một châu thuộc phủ Điện Biên, tỉnh Hưng Hóa xưa. Tiểu quân khu phụ Lai Châu gồm châu Lai (trung tâm tại thị xã Mường Lay ngày nay), châu Luân (Tủa Chùa), châu Quỳnh Nhai, châu Phong Thổ được thành lập theo Nghị định ngày 5 tháng 6 năm 1893 của Toàn quyền Đông Dương và trực thuộc tỉnh Vạn Bú từ ngày 10 tháng 10 năm 1895. Tỉnh Vạn Bú đổi tên thành tỉnh Sơn La năm 1904, do đó Lai Châu lại thuộc tỉnh Sơn La. Tỉnh Lai Châu được thành lập theo Nghị định ngày 28 tháng 6 năm 1909 của Toàn quyền Đông Dương. Lúc đó tỉnh Lai Châu gồm các châu Lai, châu Quỳnh Nhai, châu Điện Biên tách ra từ tỉnh Sơn La, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Lai Châu (nay là thị xã Mường Lay thuộc tỉnh Điện Biên), quản lý đầu tiên là công sứ E. Gilles. Ngày 16 tháng 1 năm 1915 tỉnh Lai Châu bị thay thế bằng Đạo Quan binh 4 Lai Châu dưới sự cai trị quân sự. Năm 1948, Lai Châu thuộc Khu tự trị Thái trong Liên bang Đông Dương đến năm 1950 thì gộp và Hoàng triều Cương thổ của Quốc trưởng Bảo Đại. Thời kỳ 1953-1955, khi Việt Minh tiếp quản thì tỉnh Lai Châu thuộc Khu tây bắc, tách khỏi Liên khu Việt Bắc. Ngày 29 tháng 4 năm 1955, tỉnh Lai Châu giải thể, 6 châu của tỉnh Lai Châu cũ (Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ, Điện Biên, Quỳnh Nhai, Tuần Giáo) trực thuộc Khu tự trị Thái Mèo. Ngày 18 tháng 10 năm 1955, thành lập châu Tủa Chùa gồm 8 xã, tách từ châu Mường Lay. Ngày 27 tháng 10 năm 1962, đổi tên Khu tự trị Thái Mèo thành Khu tự trị Tây Bắc, đồng thời tái lập tỉnh Lai Châu, gồm 7 huyện: Mường Tè, Mường Lay, Sình Hồ (nay là Sìn Hồ), Điện Biên, Quỳnh Nhai, Tuần Giáo, Tủa Chùa. Đến cuối năm 1975, giải thể cấp Khu tự trị. Sau năm 1975, tỉnh Lai Châu có tỉnh lị là thị xã Lai Châu và 7 huyện: Điện Biên, Mường Lay, Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tủa Chùa, Tuần Giáo. Năm 1979, Trung Quốc đã xâm lăng, đánh chiếm thị trấn Phong Thổ huyện Phong Thổ, phá hủy nhiều cơ sở trước khi rút quân về bên kia biên giới. Sau này tỉnh lỵ chuyển về thị xã Điện Biên Phủ. Năm 1990, cơ sở hạ tầng của thị xã Lai Châu bị phá huỷ nặng nề bởi trận lũ lịch sử. Ngày 18 tháng 4 năm 1992, thành lập thị xã Điện Biên Phủ và chuyển tỉnh lỵ từ thị xã Lai Châu về thị xã Điện Biên Phủ. Ngày 14 tháng 1 năm 2002, thành lập huyện Tam Đường trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phong Thổ; thành lập huyện Mường Nhé trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Mường Tè và Mường Lay. Ngày 26 tháng 9 năm 2003, thành lập thành phố Điện Biên Phủ trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Điện Biên Phủ. Trước khi tách tỉnh, tỉnh Lai Châu có diện tích lớn nhất miền Bắc Việt Nam, thứ hai cả nước (sau tỉnh Đắk Lắk cũ); có diện tích 18.619,22 km², dân số 753.811 người, có 12 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Điện Biên Phủ (tỉnh lị), thị xã Lai Châu và 10 huyện: Điện Biên, Điện Biên Đông, Mường Lay, Mường Nhé, Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường, Tủa Chùa, Tuần Giáo. Ngày 26 tháng 11 năm 2003, Quốc hội ra Nghị quyết trong đó chia tỉnh Lai Châu thành tỉnh Lai Châu (mới) và tỉnh Điện Biên, đồng thời chuyển huyện Than Uyên của tỉnh Lào Cai về tỉnh Lai Châu mới quản lý: Tỉnh Lai Châu mới có diện tích tự nhiên là 906.512,30 ha và dân số vào thời điểm đó là 313.511 người, bao gồm các huyện Mường Tè, Phong Thổ, Sìn Hồ, Tam Đường; các xã Pú Đao, Chăn Nưa, Nậm Hàng và bản Thành Chử, xã Xá Tổng của huyện Mường Lay; phường Lê Lợi của thị xã Lai Châu; huyện Than Uyên của tỉnh Lào Cai. Tỉnh lỵ đặt tại thị trấn Phong Thổ, huyện Tam Đường. Ngày 2 tháng 1 năm 2004, địa giới các huyện Mường Tè và Sìn Hồ được điều chỉnh lại. Ngày 10 tháng 10 năm 2004, thành lập thị xã Lai Châu mới trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Tam Đường. Còn thị xã Lai Châu cũ thuộc tỉnh Điện Biên được đổi tên thành thị xã Mường Lay vào năm 2005. Ngày 30 tháng 10 năm 2008, thành lập huyện Tân Uyên trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Than Uyên. Ngày 2 tháng 11 năm 2012, thành lập huyện Nậm Nhùn trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Mường Tè và Sìn Hồ. Ngày 27 tháng 12 năm 2013, chuyển thị xã Lai Châu thành thành phố Lai Châu. Tỉnh Lai Châu có 1 thành phố và 7 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Lai Châu có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 5 phường, 7 thị trấn và 94 xã. Dân số. Tính đến ngày 1/4/2019, dân số tỉnh Lai Châu là 460.196 người, xếp thứ 62/63 tỉnh, thành phố cả nước, trên tỉnh Bắc Kạn, 17,8% dân số sống ở đô thị và 82,2% dân số sống ở nông thôn; dân tộc Kinh có 73.233 người, chiếm 15,9% dân số, còn lại các dân tộc khác có 386.963 người, chiếm 84% dân số toàn tỉnh. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng Tây Bắc Bộ với gần 500.000 dân. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 5 tôn giáo khác nhau đạt 60.892 người, nhiều nhất là đạo Tin Lành có 57.226 người, tiếp theo là Công giáo đạt 3.577 người, Phật giáo có 80 người. Còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo có bảy người và Phật giáo Hòa Hảo có hai người. Cơ sở hạ tầng. Lai Châu là một tỉnh vùng cao biên giới, núi đồi dốc, địa hình chia cắt, xen kẽ nhiều thung lũng sâu và hẹp, lại có nhiều cao nguyên, sông suối nên khó khăn cho việc phát triển giao thông. Nhưng Lai Châu lại có đường biên giới dài 265,095 km giáp tỉnh Vân Nam, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với cửa khẩu song phương Ma Lù Thàng - Kim Thủy Hà là điều kiện thuận lợi cho việc giao thương hàng hoá và dịch vụ du lịch. Với mạng lưới giao thông chủ yếu là đường bộ. Tỉnh Lai Châu có quốc lộ 12 chạy qua nối từ thành phố Điện Biên Phủ tới Trung Quốc (qua cửa khẩu Ma Lù Thàng), có quốc lộ 4D nối tới thị trấn SaPa (Lào Cai), quốc lộ 32 nối với tỉnh Yên Bái, có đường thủy sông Đà giao lưu với các tỉnh Điện Biên, Sơn La, Hòa Bình. Tính đến nay đã có 95/98 xã, phường có đường ô tô đến tận trung tâm các xã, phường trên địa bàn toàn tỉnh và 3 xã đang trong giai đoạn xây dựng. Hạ tầng mạng lưới điện: Tính đến cuối năm 2009, 80/98 xã và 74% số hộ được sử dụng điện. Nhiều công trình thủy điện lớn đã và đang được xây dựng trên địa bàn như thủy điện Sơn La (2400MW), Huội Quảng (520MW), Bản Chát (220MW), Nậm Na 3 (84MW) và đặc biệt là thủy điện Lai Châu (1.200MW) được khởi công vào cuối năm 2010, cùng với 60 dự án thủy điện vừa và nhỏ khác… Hạ tầng mạng lưới cấp thoát nước: Tính đến cuối năm 2009, 50% dân số đô thị trên địa bàn tỉnh được sử dụng nước sạch, 74% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh. Tính đến cuối năm 2009, Lai Châu có 11 bưu cục, 68/89 xã có điểm bưu điện văn hoá xã, 22 đại lý bưu điện và điểm chuyển phát; có 29/89 xã, 06 thị trấn, 03/03 phường có báo phát hàng ngày; có 221 trạm BTS, tăng 111 trạm so với năm trước; mật độ điện thoại cố định là 16,2 máy/100 dân, tăng 143% so với năm 2008; dịch vụ Internet tiếp tục phát triển nhanh, mật độ 1,21 thuê bao/ 100 dân, tăng 162% so với năm 2008 Năm học 2009-2010 có 392 trường với 5.759 lớp, tăng 27 trường, 306 lớp so với năm 2008-2009. Tổng số học sinh ra lớp là 104.209 học sinh, tăng 6.117 học sinh so với năm học trước. Tính đến cuối năm 2009, đã hoàn thành phổ cập giáo dục Trung học cơ sở 23 xã, đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Kinh tế. Sau khi tách tỉnh, Lai Châu là một trong những tỉnh khó khăn. Tuy nhiên, nền kinh tế Lai Châu đã phát triển và đạt được những kết quả quan trọng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá. Tốc độ tăng trưởng kinh tế GDP bình quân 13%/ năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2010 đạt 8 triệu đồng, tăng 2,4 lần so với năm 2005. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng nông, lâm nghiệp đạt 34% (giảm 11,3%); công nghiệp – xây dựng 35% (tăng 9,6%); dịch vụ 31% (tăng 1,7%). Các ngành, lĩnh vực kinh tế đều có sự phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa. Đã hình thành một số vùng sản xuất nông, lâm nghiệp tập trung, có triển vọng về hiệu quả kinh tế và xã hội; Sản xuất lương thực tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt 157 nghìn tấn, lương thực bình quân đầu người đạt 400 kg/ người/ năm. Cây cao su được đầu tư trồng mới gần 7000 ha, tiếp tục thâm canh vùng chè và đưa thêm giống mới vào sản xuất. Kinh tế rừng phát triển với việc đã thu hút được một số doanh nghiệp đến đầu tư, phát triển rừng kinh tế. Trong 5 năm đã khoán bảo vệ 141 nghìn ha, khoanh nuôi tái sinh 117 nghìn ha, trồng mới trên 19 nghìn ha, tỷ lệ che phủ rừng đạt 41%, tăng 9,3% so với năm 2005; Văn hóa - xã hội tiếp tục có bước chuyển biến rõ nét, dân trí được nâng lên, công tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tích cực; Quốc phòng - An ninh được đảm bảo, quan hệ đối ngoại được mở rộng; Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên…Được gắn với khu vực tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh bằng các tuyến Quốc lộ 4D, Quốc lộ 70, Quốc lộ 32 và đường thủy sông Đà. Ngày 06 tháng 10 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1182/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Quản lý Khu kinh tế tỉnh Lai Châu Ẩm thực. Các đặc sản, ẩm thực ở Lai Châu như: lợn cắp nách, bánh bỏng San Thàng, gạo nếp Tan, mắc cọp Sìn Hồ, pa tỉnh tộp, chè san tuyết Sà Dề Phìn, rêu đá, rượu ngô Sùng Chô, bánh chưng đen, chè dây Ka Lăng, thịt sấy gác bếp, rau dớn, mật ong rừng Mường Tè, thắng cố, ớt trung đoàn Thu Lũm, gỏi cá, mắc khén, hạt dổi, cá bống vùi tro Vàng Pheo, gạo Dâu, chè san tuyết Tả Lèng, ve sầu rán, canh gà lá thuốc Dao Khâu Sìn Hồ, quả mắc có, đậu phụ nhự, rau ngót rừng, lam nhọ Lai Châu, rượu sâu chít, nấm hương rừng Phong Thổ, xôi màu xôi tím, sâu măng Sin Súi Hồ, quả óc cho, lá chua trộn thịt, tam thất đen Mường Tè, lòng tiết nhồi gạo nếp Sìn Hồ, thảo quả, phở nhắng Lai Châu, hoa đu đủ, đường phên Tả Lèng, canh tiết lá đắng, mận Sìn Hồ, măng, cá đắng Sàng Mà Pho, rau lá ngón Mường So, măng nộm hoa ban, chè xanh, gạo séng cù Than Uyên, miến rong Bình Lư, khâu nhục, lợn đen Mường Tè, dưa chuột mèo, măng lay chấm chéo. Du lịch. Du lịch văn hoá. Lai Châu có 20 dân tộc, mỗi dân tộc đều có những nét riêng trong đời sống văn hoá truyền thống. Chợ phiên vùng cao là nơi biểu hiện rất rõ những nét văn hoá đặc trư­ng đó.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.586766
Địa lý & Hành chính
null
null
Long An là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Là địa phương nằm ở cửa ngõ của vùng Đồng bằng sông Cửu Long liền kề với Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2021, Long An là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 13 về số dân, trong danh sách đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP, xếp thứ 12 về tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 14 về GRDP bình quân đầu người. Với 1.763.754 người dân GRDP đạt 138.198 tỉ đồng, GRDP bình quân đầu người đạt gần 81 triệu đồng, tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,41%. Long An là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ và là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với khu vực đồng bằng sông Cửu Long, nhất là có chung đường ranh giới với Thành phố Hồ Chí Minh, bằng hệ thống các quốc lộ: 1, 50, 62, N1, N2 (Đường Hồ Chí Minh). Tỉnh được xem là thị trường tiêu thụ hàng hóa nông sản lớn nhất của Đồng bằng Sông Cửu Long. Địa lý. Vị trí, địa hình. Tỉnh Long An thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, có tọa độ địa lý từ "10530' 30" đến 10647' 02" kinh độ Đông và 1023'40" đến 1102' 00" vĩ độ Bắc", cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 45 km theo Quốc lộ 1, có vị trí địa lý: Dù được xếp vào vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng Long An nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Sở hữu vị trí địa lý khá đặc biệt bên cạnh đó còn thuộc vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ, Long An được xác định là vùng kinh tế động lực có vai trò đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam. Trước năm 1975, tỉnh Long An (không bao gồm các huyện thị thuộc vùng Đồng Tháp Mười ngày nay) thuộc vùng Đông Nam Bộ. Hiện nay, dù được xếp vào vùng đồng bằng sông Cửu Long nhưng Long An là phần đất chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ, nên địa hình có xu hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Phía Bắc và Đông Bắc tỉnh có một số gò đồi thấp; giữa tỉnh là vùng đồng bằng và phía Tây Nam tỉnh là vùng trũng Đồng Tháp Mười, trong đó có khu rừng tràm ngập phèn rộng 46.300 ha. Các điểm cực của tỉnh: Địa chất, thủy văn. Tỉnh có 6 nhóm đất chính, nhưng phần lớn là dạng phù sa bồi lắng lẫn nhiều tạp chất hữu cơ, cấu tạo bở rời, tính chất cơ lý kém, nhiều vùng bị chua phèn và tích tụ độc tố. Địa hình Long An bị chia cắt nhiều bởi hệ thống sông và kênh rạch chằng chịt với tổng chiều dài lên tới 8.912 km, sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ Tây hợp thành sông Vàm Cỏ, kênh Dương Văn Dương... trong đó lớn nhất là sông Vàm Cỏ Đông. Long An chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều không đều từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp. Thời gian một ngày triều là 24 giờ 50 phút, một chu kì triều là 13 - 14 ngày. Vùng chịu ảnh hưởng của triều nhiều nhất là các huyện phía Nam Quốc lộ 1, đây là nơi ảnh hưởng mặn từ 4 đến 6 tháng trong năm. Triều biển Đông tại cửa sông Soài Rạp có biên độ lớn từ 3,5 đến 3,9 m, đã xâm nhập vào sâu trong nội địa với cường độ triều mạnh nhất là mùa khô. Biên độ triều cực đại trong tháng từ 217 đến 235 cm tại Tân An và từ 60 đến 85 cm tại Mộc Hóa. Do biên độ triều lớn, đỉnh triều mùa gió chướng đe doạ xâm nhập mặn vào vùng phía nam. Trong mùa mưa có thể lợi dụng triều tưới tiêu tự chảy vùng ven 2 sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây làm giảm chi phí sản xuất. Bị ngập mặn chủ yếu là từ biển Đông qua cửa sông Soài Rạp do chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều. Trước đây, sông Vàm Cỏ Tây mặn thường xâm nhập trên Tuyên Nhơn (huyện Thạnh Hóa) khoảng 5 km. Mặn xâm nhập bắt đầu từ tháng một đến tháng sáu với mức 2 đến 4 gam/lít. Đất phèn tập trung với 2084,49 km, chiếm 69,8% diện tích toàn vùng Đồng Tháp Mười và bằng 46,41% diện tích tự nhiên của tỉnh. Lũ thường bắt đầu vào trung tuần tháng 8 và kéo dài đến tháng 11, mưa tập trung với lưu lượng và cường độ lớn nhất trong năm gây khó khăn cho sản xuất và đời sống. Lũ đến tỉnh Long An chậm và mức ngập không sâu. Khí hậu. Long An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, ẩm. Do tiếp giáp giữa 2 vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long cho nên vừa mang các đặc tính đặc trưng cho vùng đồng bằng sông Cửu Long lại vừa mang những đặc tính riêng biệt của vùng Đông Nam Bộ. Nhiệt độ trung bình hàng tháng 27,2 - 27,7 °C. Thường vào tháng 4 có nhiệt độ trung bình cao nhất 28,9 °C, tháng 1 có nhiệt độ trung bình thấp nhất là 25,2 °C. Lượng mưa hàng năm biến động từ 966–1325 mm. Mùa mưa chiếm trên 70-82% tổng lượng mưa cả năm. Mưa phân bổ không đều, giảm dần từ khu vực giáp ranh Thành phố Hồ Chí Minh xuống phía tây và Tây Nam. Các huyện phía Đông Nam gần biển có lượng mưa ít nhất. Cường độ mưa lớn làm xói mòn ở vùng gò cao, đồng thời mưa kết hợp với cường triều, với lũ gây ra ngập úng, ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống của dân cư. Độ ẩm tương đối trung bình hàng năm là 80 - 82%. Thời gian chiếu sáng bình quân ngày từ 6,8 - 7,5 giờ/ngày và bình quân năm từ 2.500 - 2.800 giờ. Tổng tích ôn năm từ 9.700 - 10.100 °C. Biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm dao động từ 2-4 °C. Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 có gió Đông Bắc, tần suất 60 - 70%. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 có gió Tây Nam với tần suất 70%. Tỉnh Long An nằm trong vùng đặc trưng của khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo có nền nhiệt ẩm phong phú, ánh nắng dồi dào, thời gian bức xạ dài, nhiệt độ và tổng tích ôn cao, biên độ nhiệt ngày đêm giữa các tháng trong năm thấp, ôn hòa. Những khác biệt nổi bật về thời tiết khí hậu như trên có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội và sản xuất nông nghiệp. Lịch sử. Các di chỉ khảo cổ học cho thấy, ngay từ thời cổ đại, Long An đã là địa bàn quan trọng của vương quốc Phù Nam - Chân Lạp. Khi Nguyễn Hữu Cảnh vào khai phá miền Nam, đất Long An thuộc phủ Gia Định. Thời Minh Mạng, đất Long An thuộc tỉnh Gia Định và một phần tỉnh Định Tường. Đầu thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia thành 21 tỉnh, đất Long An nằm trong địa bàn 2 tỉnh Tân An và Chợ Lớn. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Sài Gòn lập tỉnh Long An trên cơ sở sáp nhập hai tỉnh Chợ Lớn và Tân An. Tỉnh lỵ đặt tại Tân An, về mặt hành chánh thuộc xã Bình Lập, quận Châu Thành. Ngày 24 tháng 4 năm 1957, tỉnh Long An bao gồm 7 quận như sau: Ngày 3 tháng 10 năm 1957, quận Châu Thành đổi tên thành quận Bình Phước. Ngày 3 tháng 3 năm 1959, lập quận mới Đức Huệ, gồm 3 xã. Ngày 7 tháng 2 năm 1963, đổi tên quận Cần Đước thành quận Cần Đức, quận Cần Giuộc thành quận Thanh Đức. Ngày 15 tháng 10 năm 1963, tách 2 quận Đức Hòa, Đức Huệ nhập vào tỉnh Hậu Nghĩa. Ngày 17 tháng 11 năm 1965, đổi tên quận Cần Đức thành quận Cần Đước, quận Thanh Đức thành quận Cần Giuộc như cũ. Ngày 7 tháng 1 năm 1967, lập mới quận Rạch Kiến, gồm 9 xã. Sau năm 1975, quận Bình Phước đổi về tên cũ là Châu Thành, quận Rạch Kiến giải thể. Năm 1976, tỉnh Long An hợp nhất với tỉnh Kiến Tường và 2 quận Đức Hòa, Đức Huệ của tỉnh Hậu Nghĩa thành tỉnh Long An mới. Toàn bộ đất của tỉnh Kiến Tường cũ trở thành huyện Mộc Hoá của tỉnh Long An. Cùng năm, xã Bình Lập, huyện Châu Thành được tách ra để thành lập thị xã Tân An - thị xã tỉnh lỵ tỉnh Long An. Tỉnh Long An bao gồm gồm thị xã Tân An và 9 huyện: Bến Lức, Cần Đước, Cần Giuộc, Châu Thành, Đức Hòa, Đức Huệ, Mộc Hoá, Tân Trụ, Thủ Thừa. Ngày 11 tháng 3 năm 1977, hợp nhất 2 huyện Thủ Thừa và Bến Lức thành huyện Bến Thủ, hợp nhất 2 huyện Tân Trụ và Châu Thành thành huyện Tân Châu. Ngày 30 tháng 3 năm 1978, chia huyện Mộc Hoá thành hai huyện: Mộc Hoá và Vĩnh Hưng. Ngày 19 tháng 9 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 298-CP, chia huyện Mộc Hoá thành 2 huyện: Mộc Hoá và Tân Thạnh, đổi tên huyện Tân Châu thành huyện Vàm Cỏ. Ngày 14 tháng 1 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 05-HĐBT, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh Long An như sau: Ngày 4 tháng 4 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 36/HĐBT, chia huyện Vàm Cỏ thành 2 huyện: Châu Thành và Tân Trụ. Ngày 26 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 74/HĐBT, thành lập huyện Thạnh Hóa từ một phần các huyện Mộc Hóa và Tân Thạnh. Ngày 24 tháng 3 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 27-CP, chia huyện Vĩnh Hưng thành 2 huyện: Vĩnh Hưng và Tân Hưng. Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 38/NQ-CP, thành lập thành phố Tân An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Tân An. Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP, thành lập thị xã Kiến Tường trên cơ sở điều chỉnh 20.428,20 ha diện tích tự nhiên và 64.589 nhân khẩu của huyện Mộc Hoá. Ngày 5 tháng 9 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1140/QĐ-TTg công nhận thành phố Tân An là đô thị loại II.<ref name="1140/QĐ-TTg"></ref> Ngày 25 tháng 8 năm 2023, Bộ Xây dựng ra quyết định số 879/QĐ-BXD về việc công nhận thị xã Kiến Tường đạt tiêu chí đô thị loại III thuộc tỉnh Long An. Tỉnh Long An có 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Long An có 15 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 13 huyện với 188 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 12 phường, 15 thị trấn và 161 xã. Kinh tế. Nổi tiếng với nhiều sản phẩm nông nghiệp như gạo tài nguyên, gạo nàng thơm Chợ Đào, rượu đế Gò Đen, dưa hấu Long Trì, dứa Bến Lức, đậu phộng Đức Hòa, mía Thủ Thừa, thanh long Châu Thành... Đặc biệt, lúa gạo chất lượng cao là sản phẩm nông nghiệp chủ lực phục vụ xuất khẩu. Công nghiệp đạt khoảng 50% giá trị trong nền kinh tế tỉnh, được biết đến với những sản phẩm như dệt may, thực phẩm chế biến, xây dựng... Trong bảng xếp hạng về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của Việt Nam năm 2018, tỉnh Long An xếp ở vị trí thứ 2 trong 13 tỉnh miền Tây và thứ 3 cả nước. Giá trị sản xuất công nghiệp cả năm 2019 ước đạt 315.200 tỷ đồng. Tổng sản phẩm GRDP ước đạt 123.000 tỷ đồng. Thu ngân sách đạt 18.000 tỷ đồng. Xã hội. Y tế. Đến ngày 05 tháng 11 năm 2008, hệ thống y tế của tỉnh bao gồm: 1 bệnh viện tuyến tỉnh, 11 bệnh viện tuyến huyện, 8 phòng khám khu vực và có 183/188 xã, phường, thị trấn có trạm y tế. Năm 2009, tỉnh Long An có 211 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 16 bệnh viện, 5 phòng khám đa khoa khu vực, và 190 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.807 giường, trong đó các bệnh viện có 1.980 giường, phòng khám đa khoa khu vực có 95 giường, trạm y tế có 732 giường. Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có 211 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 16 bệnh viện, 5 phòng khám đa khoa khu vực, 190 trạm y tế phường xã, với 3.332 giường bệnh và 751 bác sĩ, 1.034 y sĩ, 907 y tá và khoảng 455 nữ hộ sinh. Giáo dục. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh có hơn 500 trường học ở cấp phổ thông trong đó trung học phổ thông có 48 trường, trung học cơ sở có 122 trường, tiểu học có 246 trường, bên cạnh đó còn có 183 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Long An cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Hệ thống trường tiêu biểu như: Trường Chính trị Long An (1005, QL.1, phường Tân Khánh, TP. Tân An, Long An - Tel: 0272 3511 574) Hệ thống trường Đại học: Hệ thống trường Cao đẳng: Trung cấp: Ngoài ra, Long An còn có xây dựng thêm rất nhiều trường trung học phổ thông, cơ sở, tiểu học và rất nhiều trường mầm non trong địa bàn toàn tỉnh nhằm đáp ứng nhu cầu về giáo dục cho người dân. Dân số. Tính đến ngày 9 tháng 11 năm 2021, dân số toàn tỉnh Long An đạt 1.763.754 người, mật độ dân số đạt 392 người/km². Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 36%. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Long An có 36 dân tộc cùng 110 người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc kinh có 1.672.776 người, người Hoa có 3.801 người, 9.980 người Khơ Me cùng nhiều dân tộc khác... Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Long An có 11 Tôn giáo khác nhau chiếm 163.710 người. Trong đó, nhiều nhất là đạo Cao Đài với 70.991 người, thứ 2 là Công giáo 53.607 người, thứ 3 là Phật giáo với 47.226 người cùng các tôn giáo ít người khác như Đạo Tin Lành có 6.660 người, Phật giáo Hòa Hảo có 4.226 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 440 người, Hồi Giáo có 430 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 43 người Minh Sư Đạo và Minh Lý Đạo mỗi đạo có 38 người, ít nhất là Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa với chỉ 11 người. Văn hoá. Long An có nhiều di tích lịch sử từ cổ tới kim, nổi bật là văn hóa Óc Eo tại Đức Hòa, đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức tại Tân An, Chùa Tôn Thạnh ở Cần Giuộc và Nhà trăm cột tại Cần Đước. Hiện tỉnh có khoảng 186 di tích lịch sử, có 16 di tích được xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia và 63 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Phong tục tập quán. Long An còn có các lễ hội như lễ Kỳ Yên, lễ cầu mưa, lễ tống phong với nhiều trò chơi dân gian như đua thuyền, kéo co, đánh vật, có khả năng thu hút được nhiều khách du lịch. Các nghề thủ công truyền thống của tỉnh như nghề chạm gỗ (Cần Đước, Bến Lức), nghề kim hoàn (Phước Vân), nghề đóng ghe (Cần Đước), nghề làm trống (Tân Trụ)... Các lễ hội là một phần trong văn hóa và đời sống xã hội của Long An như: Kỳ Yên, lễ hội cầu mưa và Tòng Phóng. Du khách sẽ hết sức thú vị với mô hình du lịch sinh thái Đồng Tháp Mười, nghe đờn ca tài tử cải lương – một loại hình dân ca đặc sắc của Nam Bộ mà Long An là chiếc nôi của dòng dân ca này. Giao thông. Long An là cửa ngõ nối liền Đông Nam Bộ với đồng bằng sông Cửu Long, có chung đường ranh giới với Thành phố Hồ Chí Minh. Hệ thống giao thông kết nối tỉnh với khu vực khá hoàn chỉnh, bao gồm đường bộ lẫn đường thủy. Ngoài hệ thống giao thông đường bộ Long An cũng là tỉnh có hệ thống giao thông đường thủy chằng chịt với các tuyến giao thông như sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ Tây, sông Rạch Cát (sông Cần Giuộc). Các tuyến đường thủy quan trọng như Thành phố Hồ Chí Minh - Kiên Lương, Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau, Thành phố Hồ Chí Minh - Tây Ninh đều qua Long An theo kênh Nước Mặn, sông Rạch Cát, sông Vàm Cỏ Đông. Các loại phương tiện vận tải thủy trên 100 tấn có thể theo các kênh rạch như Phước Xuyên, Dương Văn Dương, Trà Cú, Kinh Xáng, sông Bến Lức, sông Rạch Cát, kinh Thủ Thừa... đi từ miền Tây đến Thành phố Hồ Chí Minh. Dọc theo tuyến biên giới ở Long An, hiện nay có 5 cửa khẩu, bao gồm: Ngoài ra, còn có 5 điểm trao đổi hàng hoá khác như Voi Đình, Sóc Rinh thuộc huyện Đức Huệ, Tà Lọt thuộc huyện Mộc Hoá, Rạch Chanh, Tàu Nu, Cây Trâm Dồ thuộc huyện Vĩnh Hưng. Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, khối lượng vận chuyển hành khách của tỉnh là 38,5 triệu lượt người, khối lượng luân chuyển hành khách đạt 1176,8 triệu lượt người/km, khối lượng vận chuyển hàng hoá đạt 12.972,0 nghìn tấn (đường bộ đạt 4.147 nghìn tấn, đường thủy đạt 8.798 nghìn tấn), khối lượng luân chuyển hàng hoá đạt 483,2 triệu tấn/km (đường bộ đạt 51,9 triệu tấn/km, đường thủy đạt 431,3 triệu tấn/km).
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Ninh Thuận là một tỉnh ven biển thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam, cũng là cửa ngõ nối liền Duyên hải Nam Trung Bộ với khu vực Tây Nguyên. Thủ phủ của Ninh Thuận là thành phố Phan Rang – Tháp Chàm nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 340 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 642 km về phía nam, cách thủ đô Hà Nội 1.380 km về phía Nam và cách Nha Trang 100 km theo đường Quốc lộ 1 và cách Đà Lạt 110 km theo đường Quốc lộ 27, đồng thời nằm cách sân bay Cam Ranh khoảng 60 km, thuận tiện cho việc giao lưu phát triển kinh tế xã hội của tỉnh. Năm 2018, Ninh Thuận là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 58 về số dân, xếp thứ 57 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 45 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 10 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 611,8 nghìn dân, GRDP đạt 24.288 tỉ Đồng (tương ứng với 1,0549 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 39,7 triệu đồng (tương ứng với 1.724 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 10,25%. Trong suốt lịch sử Văn minh Chăm Pa - Chiêm Thành, lãnh thổ Ninh Thuận ngày nay luôn là trung tâm của Tiểu quốc Panduranga. Trong đó, dưới thời kỳ nhà nước Hoàn Vương, Ninh Thuận còn là đất định đô của một nhà nước Chăm thống nhất trong hơn 1 thế kỷ. Từ thế kỷ XV, người Chăm mất 4/5 lãnh thổ và chỉ còn giữ lại Kauthara và Panduranga (bao gồm Phú Yên, Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay), thì Ninh Thuận lại tiếp tục trở thành trung tâm chính trị của người Chăm. Sang thế kỷ XVIII, kinh đô Chiêm Thành mới được dời xuống khu vực Phan Rí Thành thuộc Bình Thuận ngày nay, vì lúc đó phía Bắc Ninh Thuận đã mất vào tay các chúa Nguyễn. Địa danh "Ninh Thuận" lần đầu tiên được sử dụng vào năm 1832, khi vua Minh Mạng cho xoá bỏ Thuận Thành trấn để lập ra tỉnh Bình Thuận, gồm 2 phủ là Ninh Thuận và Hàm Thuận. Địa giới phủ Ninh Thuận lúc bấy giờ bao gồm phần lãnh thổ phía Nam của sông Phan Rang cho đến phía Bắc tỉnh Bình Thuận hiện nay. Phần lãnh thổ phía Bắc Ninh Thuận vào thời điểm đó vẫn thuộc phủ Diên Khánh của tỉnh Khánh Hoà. Ngày 20 tháng 5 năm 1901, tỉnh Phan Rang được thành lập. Năm 1913, tỉnh Phan Rang bị xóa bỏ, phần phía Bắc nhập vào tỉnh Khánh Hòa, còn phần phía Nam thuộc tỉnh Bình Thuận như trước đây. Năm 1958, dưới thời Việt Nam Cộng hoà, tỉnh Ninh Thuận được thành lập với địa giới tương đương với tỉnh Ninh Thuận hiện nay. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Ninh Thuận dự kiến sáp nhập với Bình Thuận, Tuyên Đức, Lâm Đồng để thành lập một tỉnh mới có tên là Thuận Lâm. Nhưng đến tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã điều chỉnh việc sáp nhập cho sát với thực tế. Theo đó, các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Chia tỉnh Thuận Hải thành 2 tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận. Trong Từ điển Bách khoa nước Việt Nam hay Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam đều xếp Ninh Thuận vào vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Tuy nhiên, Tổng cục Thống kê Việt Nam và Website của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam lại xếp 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận vào Đông Nam Bộ. Một phần khác Bộ Kế hoạch & đầu tư Việt Nam lại xếp Bình Thuận và Ninh Thuận vào vùng Duyên hải miền Trung. Các nhà khảo cổ đã phát hiện được ở Nhơn Hải của Ninh Thuận các mộ cổ chôn cùng với đồ đá, đồ sắt thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh cách đây khoảng 2500 năm. Ninh Thuận còn là nơi gìn giữ được nhiều di sản quý báu của nền văn hoá Chămpa, bao gồm chữ viết, dân ca và nghệ thuật múa, trang phục và nghề dệt thổ cẩm, nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc. Tỉnh có 22 làng người Chăm, trong đó có những làng vẫn duy trì các tập quán của chế độ mẫu hệ. Ninh Thuận có gần như còn nguyên vẹn hệ thống tháp Chăm xây dựng trong nhiều thế kỷ trước, tiêu biểu là cụm tháp Hòa Lai (Ba Tháp) xây dựng thế kỷ thứ 9, cụm tháp Po Klong Garai xây dựng thế kỷ 13 và cụm tháp Po Rome xây dựng thế kỷ 17. Địa lý. Ninh Thuận thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ có hình thể giống như một hình bình hành, hai góc nhọn ở về phía tây bắc và đông nam với toạ độ địa lý từ 1118'14" đến 1209'15" vĩ độ Bắc, 10809'08" đến 10914'25" kinh độ Đông, có vị trí địa lý: Khi gió mùa Tây Nam mang mưa vào đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, thì hệ thống núi ở Tây Nguyên, Bình Thuận đã làm cho những cơn gió mùa tây nam này không đến được Ninh Thuận. Cũng như cơn gió mùa đông bắc, cơn gió mùa tây nam vào Ninh Thuận cũng bị tù túng. Cho nên trong khi nó mang mưa đến các vùng trong nước nhưng vào Ninh Thuận thì biến thành khô hanh. Điều kiện tự nhiên. Ninh Thuận là vùng đất cuối của dãy Trường Sơn với nhiều dãy núi đâm ra biển Đông, có địa hình thấp dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Lãnh thổ tỉnh được bao bọc bởi 3 mặt núi với 3 dạng địa hình gồm núi, đồi gò bán sơn địa và đồng ven biển. Trong đó, đồi núi chiếm 63,2% diện tích của tỉnh, chủ yếu là núi thấp, cao trung bình từ 200 – 1.000 mét. Vùng đồi gò bán sơn địa chiếm 14,4% và vùng đồng bằng ven biển chiếm 22,4% diện tích đất tự nhiên. Ninh Thuận có từ khí hậu nhiệt đới Xavan đến cận hoang mạc với đặc trưng khô nóng, gió nhiều, bốc hơi mạnh. Chính vì vậy thời tiết Ninh Thuận phân hóa thành 2 mùa rõ rệt gồm mùa mưa và mùa khô. Trong đó, mùa mưa bắt đầu từ tháng 9 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 8 năm sau. Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26-27C, lượng mưa trung bình 700–800 mm. Nguồn nước phân bổ không đều, tập trung chủ yếu ở khu vực phía Bắc và trung tâm tỉnh. Nguồn nước ngầm trong địa bàn tỉnh chỉ bằng 1/3 mức bình quân cả nước. Nên Ninh Thuận mệnh danh là vùng đất của nắng và gió. Ninh Thuận có 3 cửa khẩu ra biển là Đông Hải, Cà Ná, Khánh Hải, có đường bờ biển dài 105 km với vùng lãnh hải rộng trên 18.000 km, có trên 500 loài cá, tôm. Do thuộc vùng có nhiệt độ cao, cường độ bức xạ lớn nên Ninh Thuận có điều kiện lý tưởng để sản xuất muối công nghiệp. Khoáng sản nơi đây tương đối phong phú về chủng loại bao gồm nhóm khoáng sản kim loại có wolfram, molipđen, thiếc gốc. Nhóm khoáng sản phi kim loại có thạch anh tinh thể, cát thủy tinh, muối khoáng thạch anh. Nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng có cát kết vôi, sét phụ gia, đá xây dựng… Lịch sử. Văn minh Champa – Chiêm Thành. Đến nửa đầu thế kỷ XVII, phần lãnh thổ tỉnh Ninh Thuận hiện nay vẫn nằm dưới quyền cai trị của các vua người Chăm và vùng đất này được gọi là Panduranga, địa giới của nó bao trùm 2 tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận ngày nay. Panduranga là một tiểu quốc/địa khu tồn tại trong giai đoạn từ 757–1832, nó cùng với các địa khu khác như Kauthara, Vijaya, Amaravati và Indrapura cấu thành nên Nhà nước Champa thống nhất, và cũng là phần lãnh thổ cuối cùng mất vào tay người Việt trong quá trình Nam tiến. Nhà nước Hoàn Vương (757–859). Sau khi nhà nước Lâm Ấp phân rả, năm 757, tiểu vương Panduranga đã lật đổ vị vua cuối cùng của Lâm Ấp là "Bhadravarman II", lên ngôi vua tự xưng là "Prithi Indravarman" và chấm dứt sự cai trị của "triều đại Gangaraja" ở phía Bắc. Theo bia ký đọc được, Prithi Indravarman là người đã thống nhất lãnh thổ Chăm Pa một cách chính danh nhất, vì được triều thần công nhận là "người thống lãnh toàn bộ đất nước như Indra, thần của các vị thần". Tên của vương quốc thống nhất này được đặt là Hoàn Vương (tức vương quyền trở về quê cũ), kinh đô được dời từ Thành phố Sư tử (Trà Kiệu, Quảng Nam ngày nay) về Hùng Tráng thành, địa điểm đó ngày nay là xã Phước Nam, huyện Thuận Nam, tỉnh Ninh Thuận. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập quốc, người Chăm đặt kinh đô trên lãnh thổ tỉnh Ninh Thuận. Hoàn Vương được lịch sử ghi nhận là một nhà nước giàu có và phát triển thịnh trị, nhưng nó lại trở thành nạn nhân của chính sự giàu có này. Các vương quốc xứ Nam Đảo và cả Đế quốc Khmer đã liên tục xua quân xâm lược và cướp phá. Sau cái chết của vua Vikrantavarman III vào năm 854, không để lại người kế vị, nội bộ triều đình xảy ra tranh chấp. Một vị tướng có nhiều chiến công người Chăm được đưa lên ngôi vua vào năm 859, lấy vương hiệu là Jaya Indravarman II, quốc hiệu từ Hoàn Vương đổi thành Chiêm Thành (theo tiếng Phạn cổ có nghĩa là: "Đất nước của người Chăm"), cho dời đô từ Hùng Tráng thành về Lôi Điện thành, ngày nay là Đồng Dương, Thăng Bình, Quảng Nam. Năm 1190, vương quốc Chiêm Thành bị chia thành 2 tiểu quốc riêng: Vương quốc Vijaya và Vương quốc Panduranga, nhưng đến năm 1192 thì lại hợp nhất. Nhà nước Chiêm Thành – Panduranga (1471–1832). Năm 1471, sau khi vua Lê Thánh Tông của Đại Việt thân chinh đi đánh Chiêm Thành, hạ thành Đồ Bàn, bắt vua Trà Toàn, cho sáp nhập lãnh thổ phía Bắc Chiêm Thành từ Phú Yên đến Quảng Nam vào Đế chế Đại Việt. Tướng Chiêm là Bồ Trì Trì ở Phan Rang tự xưng vương vào năm 1472, giữ được 1/5 lãnh thổ cũ của Chiêm Thành từ đèo Cù Mông đến hết xứ Panduranga và kinh đô được đặt ở "Băl Cau", được xác định là Tp. Phan Rang-Tháp Chàm ngày nay. Vương triều Chiêm Thành-Panduranga định đô ở đây trong gần 1,5 thế kỷ (từ năm 1471–1613). Năm 1611, do quân Chiêm Thành liên tục quấy nhiễu vùng biên giới Hoa Anh thuộc Bắc tỉnh Phú Yên ngày nay. Chúa Nguyễn Hoàng sai tướng người Chăm là Văn Phong đi dẹp. Quân Chăm nhanh chóng bị đánh bại, Vua Po Nit đã cho rút quân xuống phía Nam đèo Cả, bỏ lại đất Phú Yên cho Chúa Nguyễn.. Sau sự kiện này, đúng 2 năm sau, triều đình Chiêm Thành cho dời đô từ Phan Rang/Băl Cau về "Băl Canar" thuộc Phan Rí Cửa, Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận ngày nay, và đây cũng là kinh đô cuối cùng của người Chiêm, trước khi bị người Việt sáp nhập toàn bộ. Phan Rang/Băl Cau thuộc Ninh Thuận trở thành kinh đô áp chót của một nhà nước độc lập do người Chăm dựng lên ở miền Trung (Việt Nam). Thời Chúa Nguyễn. Năm Qúy Tỵ (1653), Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc dẫn theo 3000 quân đánh sang đất Chiêm Thành. Quân đến đất Phú Yên, tiếp tục vượt Núi Đá Bia đánh thẳng vào thành, vua Chiêm Po Nraup sai con là Xác Bà Ân dâng thư xin hàng. Chúa Hiền Vương ưng thuận, cho lấy bờ Bắc sông Phan Rang (phía Bắc tỉnh Ninh Thuận ngày nay) làm ranh giới giữa 2 nước. Để cai quản vùng đất mới này, Chúa cho lập Dinh Thái Khang, gồm hai phủ: phủ Thái Khang và phủ Diên Ninh, đồng thời khuyến khích di dân vào vùng đất mới này. Tất cả đất ấy được giao cho tướng Hùng Lộc làm Thái thú. Lãnh thổ phía Bắc tỉnh Ninh Thuận cùng với Diên Khánh, Cam Lâm, Khánh Sơn, Tp. Cam Ranh, Tp. Nha Trang (tỉnh Khánh Hoà ngày nay) thuộc quyền quản hạt của Phủ Diên Ninh. Phía Nam sông Phan Rang cho đến hết tỉnh Bình Thuận ngày nay vẫn thuộc quyền cai quản của các chúa Chiêm Thành. Tháng 8 năm Nhâm Thân (1692), vua Chiêm là Po Saot (Bà Tranh), hợp quân cướp giết lưu dân ở phủ Diên Ninh. Chúa Nguyễn Phúc Chu đã sai cai cơ Nguyễn Hữu Cảnh mang quân chinh phạt. Năm 1693, Nguyễn Hữu Cảnh bắt được vua Chiêm và nhiều thân thuộc của hoàng gia Chiêm đưa về Phú Xuân. Chúa Nguyễn cho đổi đất Chiêm Thành thành trấn Thuận Thành và lập ra phủ Bình Thuận, có nghĩa là phần phía Nam của tỉnh Ninh Thuận hiện nay thuộc về trấn Thuận Thành, trong khi đó phần phía Bắc thì thuộc phủ Diên Ninh. Năm 1742, phủ Diên Ninh được đổi tên thành Diên Khánh. Thời Nhà Nguyễn. Năm 1802, Nguyễn Ánh thống nhất sơn hà, lên ngôi lấy hiệu là Gia Long, chính thức lập ra Nhà Nguyễn. Để đền đáp công lao cho một số người Chăm dấn thân vào phong trào chống Tây Sơn, Gia Long quyết định tái lập lại vương hiệu Panduranga và phong cho Po Saong Nyung Ceng, một chiến sĩ gốc người Chăm (tức là tổ tiên của Bà Thềm ở Phan Rí) đã từng theo ông trong buổi ban đầu chống quân Tây Sơn, lên làm vua của tiểu vương quốc này. Bên cạnh đó, vua Gia Long còn ban cho Lê Văn Duyệt chức Tổng Trấn Gia Định Thành và giao cho ông quyền bảo trợ vương quốc Champa ở phía nam của triều đình Huế. Kể từ đó, nền hòa bình và thịnh vượng trở lại trên vương quốc Champa, một quốc gia đặt dưới quyền bảo hộ của triều đình Huế qua trung gian của Lê Văn Duyệt. Nhưng tình hình dần thay đổi khi Minh Mạng lên ngôi, vị vua trẻ xung đột với Lê Văn Duyệt trong việc đưa ai lên kế vị sau cái chết của Po Saong Nyung Ceng, đặc biệt là sau cái chết của Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt, Vua Minh Mạng đã xoá bỏ tiểu quốc của người Chăm, biến lãnh thổ này thành đất được cai trị trực tiếp của Nhà Nguyễn. Năm 1832, niên hiệu Minh Mạng thứ 12 của Nhà Nguyễn, trấn Thuận Thành đổi thành tỉnh Bình Thuận, gồm 2 phủ: Ninh Thuận và Hàm Thuận. Cột mốc này cũng đánh dấu sự ra đời của địa danh "Ninh Thuận" như hiện nay. Phủ Ninh Thuận gồm 2 huyện là An Phước và Tuy Phong. Năm 1886, niên hiệu Đồng Khánh thứ nhất thì triều đình Huế lấy các tổng thượng du (miền núi) của huyện An Phước đặt thành 2 huyện gọi là Huyện Man (huyện người dân tộc thiểu số miền núi) và Huyện Thổ An Phước (huyện người Chăm), có nghĩa là Phủ Ninh Thuận từ 2 huyện ban đầu được nâng lên thành 4 huyện. Năm 1888, niên hiệu Đồng Khánh thứ 3, Nhà Nguyễn cho cắt huyện An Phước, 7 xã của huyện Tuy Phong (thuộc phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận) và 2 tổng của huyện Hòa Đa (phủ Hàm Thuận, tỉnh Bình Thuận) nhập vào tỉnh Khánh Hòa. Thời Pháp thuộc. Ngày 20 tháng 5 năm 1901, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Phan Rang, tỉnh lị cũng có tên là Phan Rang. Công sứ đầu tiên là Odend'hal. Năm 1913, thời viên Công sứ Paul Giran, tỉnh Phan Rang bị xóa bỏ, phần phía bắc nhập vào tỉnh Khánh Hòa, còn phần phía nam gọi là đại lý hành chính Phan Rang, thuộc tỉnh Bình Thuận. Ngày 5 tháng 7 năm 1922, tỉnh Phan Rang, còn gọi là tỉnh Ninh Thuận, được tái lập. Tỉnh gồm phủ Ninh Thuận và huyện An Phước (nơi người Chăm cư trú), do một Công sứ Pháp cai trị. Dưới Công sứ còn có một Quản đạo. Năm 1945, Pháp và chính quyền Trần Trọng Kim thay lần lượt các công sứ: De Maystre (1942? - 1945), Ưng Phố và Phan Văn Phúc. Tháng 11/1948 Pháp cho sáp nhập Ninh Thuận gồm 4 quận: Tháp Chàm, Ninh Chử, Đồng Mé, Phan Rang vào Chi khu Nha Trang. Thời Việt Nam Cộng hòa. Năm 1958, tỉnh Ninh Thuận gồm có 3 quận (24 xã): Thanh Hải (quận lỵ Khánh Hải), An Phước (quận lỵ Hậu Phước), Bửu Sơn (quận lỵ An Sơn). Ngày 6 tháng 4 năm 1960, thành lập quận Du Long, do tách một phần đất quận Bửu Sơn và một phần đất của quận Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa, quận lị đặt tại Karom, xã Cam Ly (nay thuộc xã Công Hải, huyện Thuận Bắc). Trước ngày 16 tháng 4 năm 1975, Ninh Thuận gồm có 5 quận là Thanh Hải, An Phước, Bửu Sơn, Du Long và Sông Pha. Tỉnh lỵ đặt tại Phan Rang, về mặt hành chính thuộc xã Phan Rang, quận Thanh Hải. Sau giải phóng. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, tỉnh Ninh Thuận dự kiến sáp nhập với các tỉnh Bình Thuận, Tuyên Đức và Lâm Đồng để thành lập tỉnh mới Thuận Lâm. Nhưng đến tháng 2 năm 1976, do có sự điều chỉnh từ trung ương cho sát với thực tế, các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy hợp nhất thành tỉnh Thuận Hải. Địa bàn tỉnh Ninh Thuận cũ bao gồm thị xã Phan Rang và 3 huyện: Ninh Sơn, Ninh Hải, An Phước. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 124-CP về việc giải thể thị xã Phan Rang và 3 huyện: An Phước, Ninh Hải, Ninh Sơn để thành lập 2 huyện: An Sơn (huyện lỵ là thị trấn Tháp Chàm, được thành lập từ một phần thị xã Phan Rang cũ) và Ninh Hải mới (huyện lỵ là thị trấn Phan Rang, được thành lập từ phần còn lại của thị xã Phan Rang cũ). Ngày 1 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 45-HĐBT, chia lại huyện An Sơn và huyện Ninh Hải thành 4 đơn vị hành chính: thị xã Phan Rang – Tháp Chàm và 3 huyện: Ninh Hải, Ninh Phước và Ninh Sơn. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội thông qua nghị quyết chia lại tỉnh Thuận Hải thành hai tỉnh Bình Thuận và Ninh Thuận. Khi tách ra, tỉnh Ninh Thuận có thị xã Phan Rang – Tháp Chàm (tỉnh lỵ) và 3 huyện: Ninh Hải, Ninh Phước, Ninh Sơn. Ngày 6 tháng 11 năm 2000, chia huyện Ninh Sơn thành 2 huyện: Ninh Sơn và Bác Ái. Ngày 7 tháng 7 năm 2005, chia huyện Ninh Hải thành 2 huyện: Ninh Hải và Thuận Bắc. Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định 21/2007/NĐ-CP chuyển thị xã Phan Rang – Tháp Chàm thành thành phố trực thuộc tỉnh Ninh Thuận.<ref name="21/2007/NĐ-CP"></ref> Ngày 10 tháng 6 năm 2009, chia huyện Ninh Phước thành 2 huyện: Ninh Phước và Thuận Nam. Tỉnh Ninh Thuận có 1 thành phố và 6 huyện như ngày nay. Ngày 26 tháng 2 năm 2015, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Ninh Thuận<ref name="252/QĐ-TTg"></ref>. Hành chính. Tỉnh Ninh Thuận có 7 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố và 6 huyện; 65 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 47 xã, 15 phường và 3 thị trấn. Kinh tế. Về nông nghiệp, Ninh Thuận nổi tiếng với những sản phẩm như: Nho, táo, hành, tỏi, tôm giống, muối... đây là địa phương có quy mô trồng nho nhiều nhất nước, được trồng chủ yếu tại huyện Ninh Phước và huyện Thuận Nam. Hành và tỏi cũng là một trong những thế mạnh của Ninh Thuận, được trồng nhiều tại thành phố Phan Rang – Tháp Chàm và huyện Ninh Hải. Ngoài ra, địa phương này còn là trung tâm tôm giống lớn của cả nước với quy mô sản xuất trong năm 2019 ước đạt 33,9 tỷ con tôm giống. Về công nghiệp, Ninh Thuận hiện có cụm công nghiệp Thành Hải (đang hoạt động). Khu công nghiệp Du Long đang được đầu tư xây dựng. Ngoài ra còn có quy hoạch khu công nghiệp Phước Nam và Cà Ná. Trong năm 2012, GDP tăng 10,3%, thu nhập bình quân đầu người đạt 19,1 triệu đồng/người/năm, thu ngân sách đạt 1.320 tỷ đồng, đạt 100,2% dự toán… Năm 2014, tốc độ tăng trưởng GDP ước đạt 12,4%;Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn ước đạt 1.700 tỷ đồng (đạt 113,3% kế hoạch); GDP bình quân đầu người 26,8 triệu đồng; về cơ cấu kinh tế: Nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 38,5%, công nghiệp và xây dựng chiếm 23,8%, dịch vụ chiếm 37,7%; tổng vốn đầu tư toàn xã hội ước đạt 7.615 tỷ đồng; giá trị kim ngạch xuất khẩu ước đạt 55 triệu USD (đạt 78,6% kế hoạch). Tổng sản phẩm trong Tỉnh (GRDP) năm 2019 ước tăng 13,18% so với năm 2018; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 6%, đóng góp 2,14 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 39,7%, đóng góp 7,29 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,87%, đóng góp 2,67 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 14,95%, đóng góp 1,08 điểm phần trăm. Trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản; ngành nông nghiệp tăng 6,22% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 1,05 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; ngành lâm nghiệp giảm 19,26%, đóng góp giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành thủy sản tăng 6,2%, đóng góp 1,14 điểm phần trăm. Trong khu vực công nghiệp và xây dựng; ngành công nghiệp tăng 34,92% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 0,5%, đóng góp giảm 0,01 điểm phần trăm mức tăng trưởng chung; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 0,7%, đóng góp giảm 0,04 điểm phần trăm; ngành công nghiệp sản xuất và phân phối điện,khí đốt… tăng 217,6%, đóng góp 3,2 điểm phần trăm. Ngành xây dựng tăng 44,61%, đóng góp 4,04 điểm phần trăm. Trong khu vực dịch vụ, đóng góp của một số ngành có tỷ trọng lớn vào mức tăng trưởng chung như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 8,47% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 0,51 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; vận tải kho bãi tăng 9,38%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm; dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 6,56%, đóng góp 0,29 điểm phần trăm; hoạt động thông tin và truyền thông tăng 7,73%, đóng góp 0,52 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 8,36%, đóng góp 0,27 điểm phần trăm; hoạt động giáo dục và đào tạo, đạt mức tăng 5,01%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm… Về cơ cấu kinh tế (VA) năm 2019, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 36,96%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 24,7%; khu vực dịch vụ chiếm 38,34%; (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2018 là: 39,72%; 19,37% và 40,91%). "+ Kim ngạch xuất khẩu đạt 100 triệu USD, tăng 17,65% so cùng kỳ 2018." "+ Chỉ số giá hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2019 tăng 2,66% so với cùng kỳ năm 2018." "+ Dân số trung bình là 591nghìn ngư­­­ời, tăng 0,37% so với năm 2018." "+ Tỉ lệ tăng tự nhiên 11,25%o, giảm 0,05% so cùng kỳ năm 2018." Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh đạt 590.467 người, mật độ dân số đạt 181 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 211.109 người, chiếm 35,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 379.358 người, chiếm 64,2%. Dân số nam đạt 296.026 người, trong khi đó nữ đạt 294.441 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,44 ‰. Đây cũng là tỉnh ít dân nhất vùng duyên hải Nam Trung Bộ với gần 600.000 dân. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 44%. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, Trên địa bàn toàn tỉnh có 34 dân tộc và 3 người nước ngoài cùng sinh sống. Trong đó, người Kinh đông nhất với 432.399 người, tiếp sau đó là người Chăm với 67.274 người, xếp ở vị trí thứ ba là Raglay với 58.911 người, người Cơ Ho có 2.860 người, 1.847 người Hoa, cùng một số dân tộc ít người khác như Chu Ru, Nùng, Tày... Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Ninh Thuận có 10 Tôn giáo khác nhau chiếm 251.292 người. Trong đó, nhiều nhất là Công giáo với 97.560 người, tiếp theo đó là Phật giáo với 44.226 người, thứ 3 là Bà La Môn 62.699 người, Hồi Giáo có 44.990 người, Tin Lành có 11.220 người, cùng các tôn giáo ít người khác như Cao Đài 1.784 người, Bahá'í có 26 người, Minh Sư Đạo có năm người, Phật giáo Hòa Hảo và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có một người. Các làng Chăm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Hiện nay, ở Ninh Thuận còn 22 làng Chăm, phân bố ở 12 xã và 6 huyện thị: Thuận Bắc, Ninh Hải, Ninh Sơn, thành phố Phan Rang – Tháp Chàm, Ninh Phước, Thuận Nam. Trong đó, hai huyện có người Chăm cư trú đông nhất là huyện Ninh Phước và huyện Thuận Nam (tách lập từ huyện Ninh Phước năm 2009), với dân số là 51.527 người (1/4/2009). Phần lớn các làng Chăm đều theo đạo Bà-la-môn, số còn lại là Hồi giáo với 2 nhánh Bàni và Islam. Du lịch. Bờ biển Ninh Thuận có nhiều bãi tắm đẹp nổi tiếng và nhiều sông suối phục vụ du lịch như suối Vàng, thác Tiên... Các bãi biển tại Ninh Thuận như Bãi biển Bình Tiên, Bãi biển Ninh Chử, Bãi biển Bình Sơn, Bãi biển Cà Ná. Nơi đây còn lưu giữ, bảo tồn nhiều công trình văn hóa kiến trúc cổ Chămpa gắn với các lễ hội văn hóa dân tộc Chăm. Nhiều tháp Chăm như Pôklong Grai (Tháp Chăm), tháp Pôrômê (Ninh Phước). Hiện Ninh Thuận còn 3 tháp Chăm, được xây dựng cách đây khoảng 400–1100 năm gồm có Tháp Hòa Lai (Ba Tháp), Tháp Po Klong Garai, Tháp Po Rome. Các làng nghề Chăm cổ gồm Làng gốm Bàu Trúc và Làng thổ cẩm Mỹ Nghiệp. Ngoài ra trên địa bàn tỉnh còn có 2 khu du lịch sinh thái gồm Vườn quốc gia Núi Chúa và Vườn quốc gia Phước Bình. Y tế & Giáo dục. Giáo dục. Trên địa bàn toàn tỉnh có 288 trường học ở cấp phổ thông, trong đó Trung học phổ thông có 18 trường, Trung học cơ sở có 63 trường, Tiểu học có 147 trường, bên cạnh đó còn có 110 trường mẫu giáo. Bậc đào tạo cao sau cấp phổ thông gồm có: Bậc đào tạo sau đại học gồm có: Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Ninh Thuận cũng đang dần tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Xây dựng nguồn nhân lực bản địa có trình độ khoa học cao, cho mục tiêu phát triển của tỉnh Ninh Thuận. Y tế. Theo thống kê về y tế năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Ninh Thuận có 80 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 6 Bệnh viện, 7 phòng khám đa khoa khu vực và 65 Trạm y tế phường xã, 1 Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng, với 1.565 giường bệnh và 298 bác sĩ, 454 y sĩ, 482 y tá và khoảng 209 nữ hộ sinh. Giao thông. Thành phố Phan Rang – Tháp Chàm là nơi giao nhau của 3 trục giao thông chiến lược là Quốc lộ 1, đường sắt Bắc Nam và Quốc lộ 27. Tỉnh Ninh Thuận có Quốc lộ 1, Quốc lộ 27 và các tuyến đường khác như tỉnh lộ 702, tỉnh lộ 703 đều đạt tiêu chuẩn cấp IV, các tuyến đường huyện và liên xã được nâng cấp và đảm bảo giao thông cơ giới thuận tiện quanh năm. Quốc lộ 1A được mở rộng đạt quy mô 4 làn xe cơ giới + 2 làn xe hỗn hợp, bề rộng nền đường 20,5m. Đoạn qua đô thị có hệ thống thoát nước dọc. Đoạn ngoài đô thị theo tiêu chuẩn đường cấp III – đồng bằng; tốc độ thiết kế 80 km/h; đoạn qua khu đô thị theo tiêu chuẩn đường phố chính đô thị thứ yếu, tốc độ thiết kế 60 km/h. Trước đây trên địa bàn tỉnh còn có tuyến đường sắt Tháp Chàm – Đà Lạt được người Pháp thiết kế và xây dựng từ năm 1908 đến năm 1932, trong toàn tuyến có 16 km đường ray trên đèo Ngoạn Mục với hệ thống răng cưa rất độc đáo, giúp tàu không bị tuột phanh khi vượt độ cao 1.600m với độ dốc thường xuyên là 12%. Năm 1986, Liên hiệp Đường sắt Việt Nam đã cho công nhân tháo ray và tà vẹt để phục vụ sửa chữa đường sắt Thống Nhất. Hiện nay, một phần của tuyến đường sắt đoạn Đà Lạt – Trại Mát dài 7 km vẫn còn hoạt động để phục vụ khách du lịch. Về hàng không thì tỉnh có sân bay Thành Sơn là sân bay quân sự cấp 1.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Vĩnh Long là một tỉnh thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Ý nghĩa tên gọi. "Vĩnh Long" viết theo chữ Hán là (永隆). ("Vĩnh" trong "vĩnh viễn", "vĩnh hằng", nghĩa là "mãi mãi"; "Long" trong "long trọng", nghĩa là "thịnh vượng, giàu có"). Tên "Vĩnh Long" thể hiện mong muốn nơi đây luôn được thịnh vượng muôn đời. Tuy nhiên do không hiểu nghĩa, tên Vĩnh Long bị một bộ phận giới trẻ gọi là "Vĩnh Dragon" (không biết nghĩa của chữ "Vĩnh" và nhầm với chữ "Long" 龍 mang nghĩa là "rồng"). Địa lý. Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai nhánh sông chính của sông Cửu Long là sông Tiền và sông Hậu. Tỉnh lỵ Vĩnh Long cách Thành phố Hồ Chí Minh 100 km về phía Nam theo Quốc lộ 1, cách Cần Thơ 33 km về phía Bắc theo Quốc lộ 1. Tỉnh Vĩnh Long nằm trong tọa độ từ 9°52’40’’ đến 10°19’48’’ độ vĩ bắc và 105041’18’’ đến 106017’03’’ độ kinh đông. Nhìn bao quát, tỉnh Vĩnh Long như một hình thoi nằm ở vị trí trung tâm của đồng bằng châu thổ hạ lưu sông Cửu Long: Điều kiện tự nhiên. Tỉnh Vĩnh Long có dạng địa hình khá bằng phẳng với độ dốc nhỏ hơn 2°, có cao trình khá thấp so với mực nước biển, Với dạng địa hình đồng bằng ngập lụt cửa sông, tiểu địa hình của tỉnh có dạng lòng chảo ở giữa trung tâm tỉnh và cao dần về 2 hướng bờ sông Tiền, sông Hậu, sông Mang Thít và ven các sông rạch lớn. Tỉnh Vĩnh Long nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Lượng mưa bình quân hàng năm từ 1.400 - 1.450 mm kéo dài từ tháng 4 đến tháng 11, chiếm 85% lượng mưa cả năm, nhiệt độ tương đối cao, ổn định, nhiệt độ trung bình là 27 °C, biên độ nhiệt trung bình năm nhỏ, độ ẩm trung bình 79,8%, số giờ nắng trung bình năm lên tới 2.400 giờ. Vĩnh Long có cấu trúc địa chất tương đồng với khu vực, chủ yếu là trầm tích biển của kỉ Đệ Tứ trong Đại Tân sinh. Vĩnh Long tuy có diện tích đất phèn lớn, tầng sinh phèn ở rất sâu, tỉ lệ phèn ít, song đất có chất lượng cao, màu mỡ vào bậc nhất so với các tỉnh trong vùng. Đặc biệt tỉnh có hàng vạn ha đất phù sa ngọt ven sông Tiền và sông Hậu (lượng phù sa trung bình là 374 g/m³ nước sông vào mùa lũ), đất tốt, độ phì nhiêu cao, trồng được hai vụ lúa trở lên, cho năng suất cao, sinh khối lớn lại thuận lợi về giao thông kể cả thủy và bộ. Vĩnh Long còn có lượng cát sông và đất sét làm vật liệu xây dựng khá dồi dào. Cát sông với trữ lượng khoảng 100 - 150 triệu m³, được sử dụng chủ yếu cho san lấp và đất sét với trữ lượng khoảng 200 triệu m³, là nguyên liệu sản xuất gạch và làm gốm. Vĩnh Long là tỉnh đặc biệt nghèo về tài nguyên khoáng sản, cả về số lượng lẫn chất lượng. Tỉnh chỉ có nguồn cát và đất sét làm vật liệu xây dựng, đây là nguồn thu có ưu thế lớn nhất của tỉnh Vĩnh Long so với các tỉnh trong vùng về giao lưu kinh tế và phát triển thương mại - du lịch. Tỉnh Vĩnh Long nằm giữa hai con sông lớn nhất của đồng bằng sông Cửu Long, nên có nguồn nước ngọt quanh năm, đó là tài nguyên vô giá mà thiên nhiên ban tặng. Vĩnh Long có mạng lưới sông ngòi chằng chịt, hình thành hệ thống phân phối nước tự nhiên khá hoàn chỉnh, cùng với lượng mưa trung bình năm lớn đã tạo điều kiện cho sản xuất và sinh hoạt của người dân.. Lịch sử. Năm 1732, vùng đất Vĩnh Long thời ấy được Nguyễn Phúc Chú thành lập, với tên gọi đầu tiên của tỉnh là Châu Định Viễn, thuộc dinh Long Hồ. Năm 1779, đổi tên thành Hoằng Trấn dinh. Giai đoạn từ năm 1780 đến năm 1805, đổi thành Vĩnh Trấn, từ năm 1806 đến năm 1832, Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Từ năm 1832 đến năm 1950, tên gọi Vĩnh Long được hình thành với vai trò là một tỉnh. Giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1954, Vĩnh Long được đổi thành tỉnh Vĩnh Trà. Từ năm 1954 đến 1975, tỉnh Vĩnh Long được tái lập lần thứ 2. Từ năm năm 1976 đến tháng 5 năm 1992, mang tên là tỉnh Cửu Long, Cuối cùng là từ ngày 5 tháng 5 năm 1992 tỉnh Vĩnh Long được sử dụng đến ngày hôm nay. Năm 1698, khi Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lược, toàn bộ vùng đất mới phương Nam chính thức trở thành một đơn vị hành chính mang tên phủ Gia Định. Năm 1714, đời chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu), lúc này Vĩnh Long là trung tâm của châu Định Viễn, bao gồm một phần của Bến Tre ở mạn trên và Trà Vinh ở mạn dưới thuộc Long Hồ Dinh. Năm 1732, dưới thời Nguyễn Phúc Chú đã lập ở phía nam dinh Phiên Trấn đơn vị hành chính mới là Dinh Long Hồ, Châu Định Viễn, đất Vĩnh Long thuộc Dinh Long Hồ. Đến năm Đinh Sửu (1757) thì chuyển đến xứ Tầm Bào (thuộc địa phận thôn Long Hồ, nay là Thành phố Vĩnh Long). Thành Long Hồ được xây dựng tại xứ Tầm Bào là thủ phủ của một vùng rộng lớn. Nhờ đất đai màu mỡ, giao thông thuận lợi, dân cư đông đúc, việc buôn bán thông thương phát đạt, địa thế trung tâm…, dinh Long Hồ trở thành một trung tâm quan trọng thời bấy giờ. Để bảo đảm an ninh quốc gia, Chúa Nguyễn đã thiết lập ở đây nhiều đồn binh như: Vũng Liêm, Trà Ôn... Đến giữa thế kỷ XVIII, dinh Long Hồ là thủ phủ của vùng đất phía nam và là đại bản doanh của quân đội chúa Nguyễn có nhiệm vụ phòng thủ, ổn định và bảo vệ đất nước. Sử cũ còn ghi: Nơi đây, trong khoảng 10 năm (1776–1787), cũng từng là chiến trường diễn ra nhiều cuộc giao chiến ác liệt giữa nghĩa quân Tây Sơn với quân (chúa Nguyễn và Nguyễn Ánh), từ trận đầu tiên là trận tập kích Long Hồ của Nguyễn Lữ. Năm 1784, tại sông Mang Thít (Vĩnh Long) nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút (Tiền Giang), làm liên quân Xiêm La do Nguyễn Ánh cầu viện đại bại. Năm Canh Tý (1780), Nguyễn Ánh đổi dinh Long Hồ, châu Định Viễn thành dinh Vĩnh Trấn. Năm Mậu Thân (1788), sau khi lấy lại đất Nam Bộ từ tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh lập 2 đạo Long Xuyên và Kiên Giang của trấn Hà Tiên nhập vào dinh Vĩnh Trấn. Thời nhà Nguyễn, năm Quý Hợi (1803), Gia Long (Nguyễn Ánh) cắt đất dinh Long Hồ xưa lập thành dinh Hoằng Trấn. Năm Gia Long thứ 7 (1808), Vĩnh Trấn, Hoằng Trấn được đổi làm trấn Vĩnh Thanh thuộc tổng trấn Gia Định, đồng thời thăng châu Định Viễn làm phủ với 3 huyện: Vĩnh Bình, Vĩnh An và Tân An. Năm 1810, lại cắt 2 đạo Kiên Giang với Long Xuyên về trấn Hà Tiên như cũ. Năm 1813, Gia Long lập thêm huyện Vĩnh Định thuộc trấn Vĩnh Thanh. Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh là quan Hiệp trấn Vĩnh Thanh, với chức phó là quan Tham Hiệp. Các quan Trấn thủ Vĩnh Thanh gồm: Nguyễn Văn Thoại. Năm Minh Mạng thứ 4 (1823), Minh Mạng chia huyện Tân An thành 2 huyện Tân An và Bảo An thuộc phủ mới lập tên là Hoằng An. Năm 1832, Minh Mạng đổi tên trấn Vĩnh Thanh thành Vĩnh Long, lấy thêm 2 huyện Tuân Nghĩa, Trà Vinh của phủ Lạc Hóa thành Gia Định nhập vào Vĩnh Long và đổi trấn thành tỉnh Vĩnh Long (chữ Hán:永隆). Nhưng đồng thời, lại cắt các huyện Vĩnh Định, An Định và đạo Châu Đốc sang tỉnh An Giang. Cùng năm 1832, Minh Mạng cho lập thêm huyện Vĩnh Trị thuộc phủ Định Viễn tỉnh Vĩnh Long. Đặt chức tổng đốc Long-Tường để thống lĩnh 2 tỉnh Vĩnh Long và Định Tường, cùng với các chức Án sát và Bố chính lo các công việc thuộc chức năng của Bộ Hình và Bộ Hộ ở cấp tỉnh, giúp cho Tổng đốc. Quần đảo Côn Lôn (tức Côn Đảo) thuộc tỉnh Vĩnh Long nhà Nguyễn. Năm 1833, tỉnh Vĩnh Long bị quân Lê Văn Khôi nổi dậy chiếm đóng, nhà Nguyễn phải điều binh đánh dẹp, cuối cùng án sát Vĩnh Long là Doãn Uẩn lấy lại được tỉnh thành (thành Long Hồ) từ tay quân của Khôi. Năm 1837, Minh Mạng lập thêm ở Vĩnh Long 1 phủ Hoằng Trị và 2 huyện (Bảo Hựu, Duy Minh). Năm Tự Đức thứ 4 (1851), nhà Nguyễn bỏ phủ Hoằng An, gộp các huyện của phủ này vào phủ Hoằng Trị. Thời vua Tự Đức cho đến khi Pháp chiếm Vĩnh Long (1851-1862), tỉnh Vĩnh Long gồm 3 phủ là Hoằng An, Định Viễn, Lạc Hóa, Cùng với 8 huyện là huyện Vĩnh Bình, huyện Vĩnh Trị, huyện Bảo Hựu, huyện Tân Minh, huyện Bảo An, huyện Duy Minh, huyện Tuân Nghĩa, huyện Trà Vinh, đồng thời Quần Đảo Côn Lôn (Côn Đảo) cũng thuộc sự quản hạt của tỉnh Vĩnh Long. Ngày 6 tháng 8 năm 1867, hạt thanh tra Định Viễn đổi thành hạt thanh tra Vĩnh Long. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt thanh tra Vĩnh Long được đổi thành hạt tham biện Vĩnh Long, có 14 tổng. Ngày 12 tháng 5 năm 1879, giải thể tổng Vĩnh Trung, nhập các làng vào tổng Bình Long. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, hạt tham biện Vĩnh Long được đổi thành tỉnh Vĩnh Long. Ngày 25 tháng 1 năm 1908, địa bàn tỉnh Vĩnh Long được chia thành 5 quận là Long Châu, Chợ Lách, Cái Nhum, Vũng Liêm, Ba Kè. Ngày 9 tháng 2 năm 1913, tỉnh Vĩnh Long nhận thêm địa bàn tỉnh Sa Đéc giải thể. Ngày 1 tháng 12 năm 1913, lập thêm 2 quận Cao Lãnh, Sa Đéc. Ngày 1 tháng 4 năm 1916, lập quận Lai Vung. Ngày 29 tháng 6 năm 1916, đổi tên quận Ba Kè thành quận Chợ Mới. Ngày 9 tháng 2 năm 1917, địa bàn tỉnh Vĩnh Long được sắp xếp lại, gồm 7 quận gồm có Châu Thành, Chợ Lách, Vũng Liêm, Chợ Mới, Sa Đéc, Cao Lãnh, Lai Vung. Ngày 7 tháng 11 năm 1917, quận Chợ Mới được đổi thành quận Tam Bình. Ngày 29 tháng 2 năm 1924, tách 3 quận Sa Đéc, Lai Vung, Cao Lãnh ra khỏi tỉnh Vĩnh Long để lập lại tỉnh Sa Đéc, tỉnh Vĩnh Long lúc này còn 4 quận. Ngày 11 tháng 8 năm 1942, tỉnh Vĩnh Long còn 3 quận là Châu Thành, Tam Bình, Vũng Liêm. Trước năm 1948, hai huyện Cầu Kè, Trà Ôn thuộc tỉnh Cần Thơ, từ năm 1948 đến năm 1950, hai huyện này thuộc tỉnh Vĩnh Long. Từ năm 1951 đến năm 1954, thuộc tỉnh Vĩnh Trà (Chính quyền Cách Mạng). Từ năm 1954 đến năm 1971, Trà Ôn thuộc huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh. Thời kỳ 1971 đến năm 1975 huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long. Sang thời Việt Nam Cộng hòa, chính quyền Đệ Nhất Cộng hòa chia tỉnh Vĩnh Long làm 6 quận, 22 tổng, 81 xã (Nghị định số 308-BNV/NC/NĐ của Bộ trưởng Bộ Nội vụ ngày 8 tháng 10 năm 1957): Các quận là Châu Thành, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Sa Đéc. Ngày 10 tháng 3 năm 1961, quận Cái Nhum được tái lập và đến ngày 31 tháng 5 năm 1961 thì đổi tên thành quận Minh Đức. Ngày 11 tháng 7 năm 1962, 2 quận là Đức Tôn, Đức Thành được thành lập. Ngày 24 tháng 9 năm 1966, 4 quận gồm Lấp Vò, Sa Đéc, Đức Tôn, Đức Thành được tách ra để tái lập tỉnh Sa Đéc. Ngày 14 tháng 1 năm 1967, tỉnh Vĩnh Long nhận thêm quận Trà Ôn, Vũng Liêm từ tỉnh Vĩnh Bình. Đến ngày 2 tháng 8 năm 1969, Theo Nghị định số 856-NĐ/NV của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa, thì Vĩnh Long có 7 quận, 18 tổng, 65 xã. Các quận là Châu Thành - Vĩnh Long, Chợ Lách, Tam Bình, Bình Minh, Minh Đức, Trà Ôn, Vũng Liêm. Đầu năm 1976, Vĩnh Long đã sáp nhập với Trà Vinh thành tỉnh Cửu Long. Nhưng đến ngày 26 tháng 12 năm 1991 lại tách ra thành hai tỉnh riêng như cũ. Khi tách ra, tỉnh Vĩnh Long, gồm thị xã Vĩnh Long và 5 huyện: Bình Minh, Long Hồ, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm. Ngày 13 tháng 2 năm 1992, tái lập huyện Mang Thít trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của huyện Long Hồ. Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 125/2007/NĐ-CP, thành lập huyện Bình Tân trên cơ sở tách 11 xã phía bắc của huyện Bình Minh, huyện lị đặt tại xã Tân Quới. Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP, về việc thành lập thành phố Vĩnh Long trực thuộc tỉnh Vĩnh Long, trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số và các đơn vị hành chính trực thuộc của thị xã Vĩnh Long. Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết 89/NQ-CP thành lập thị xã Bình Minh trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Bình Minh. Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh và các huyện: Bình Tân, Long Hồ, Mang Thít, Tam Bình, Trà Ôn, Vũng Liêm. Hành chính. Tỉnh Vĩnh Long có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện với 107 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 6 thị trấn, 14 phường và 87 xã. Kinh tế. Năm 2018, Vĩnh Long là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 41 về số dân, xếp thứ 42 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 35 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 62 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.051.800 người dân, GRDP đạt 47.121 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0465 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 44,8 triệu đồng (tương ứng với 1.946 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 6,17%. Năm 2011, GRDP tỉnh Vĩnh Long tăng trưởng hơn 10% và cao hơn bình quân cả nước, GDP bình quân đầu người của tỉnh đạt gần 24 triệu đồng. Lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu của tỉnh đạt mức cao nhất từ trước đến nay với gần 390 triệu USD, tăng 50% so kế hoạch năm. Các ngành hàng nông sản tiếp tục khẳng định là thế mạnh chủ lực của tỉnh như: nấm rơm, trứng vịt muối, thủy sản đông lạnh, v.v … Trong đó lúa gạo là mặt hàng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu. Lần đầu tiên sau nhiều năm Vĩnh Long có sản lúa vượt trên 1 triệu tấn. Năng suất lúa bình quân 5,6 tấn/ha, theo định hướng của chính phủ và đưa Vĩnh Long trở thành một trong những tỉnh xuất khẩu gạo lớn của cả nước với sản lượng xuất khẩu đạt gần 438.000 tấn. Trong năm 2011, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu tiêu dùng xã hội ước thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng. Vĩnh Long đã đón 750.000 lượt khách đến tham quan. Giá trị sản xuất công nghiệp đạt gần 6.500 tỷ đồng. Tổng dư nợ cho vay năm 2011 là 13.350 tỷ đồng, nguồn vốn huy động ước đạt 12.000 tỷ đồng, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản trên địa bàn tỉnh đạt hơn 1.500 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách ước đạt hơn 2.200 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách ước thực hiện được trên 3.600 tỷ đồng. Năm 2012, mặc dù gặp nhiều khó khăn như lạm phát tăng cao, thời tiết diễn biến phức tạp, dịch bệnh xuất hiện nhiều, tuy nhiên tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 vẫn đạt khá, ước đạt 10,2%. Tỉnh Vĩnh Long thực hiện đạt và vượt 17/23 chỉ tiêu đề ra. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh ước đạt 9.255 tỷ đồng, tăng gần 8% so với năm 2011, GDP bình quân đầu người đạt gần 32 triệu đồng trên năm. Giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh vẫn khá lạc quan, với mức tăng trên 15%. Tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện gần 400 triệu USD. Trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, cơ cấu nội bộ ngành tiếp tục chuyển dịch đúng hướng và hiệu quả. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản ước đạt 6.552 tỷ đồng, tăng hơn 3% so với năm 2011. Diện tích vườn cây ăn trái của tỉnh hiện có trên 47.000 ha,trong đó hơn 40.000 ha đang cho sản phẩm. Sản lượng thu hoạch cả năm đạt trên 493 ngàn tấn. Năm 2019, nền kinh tế của tỉnh Vĩnh Long duy trì đà tăng trưởng, tổng sản phẩm trong tỉnh (GRDP) tăng 6,22%. Các mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2019 của tỉnh Vĩnh Long cơ bản được hoàn thành, ước có 20/22 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch đề ra, trong đó có 7 chỉ tiêu vượt kế hoạch. Cụ thể, tổng thu ngân sách nhà nước cả năm ước đạt 6.794 tỷ đồng, đạt 110,1% dự toán và tăng 12,1% so với cùng kỳ năm trước. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội ước đạt 14.117 tỷ đồng, đạt 102,29% kế hoạch và tăng 8,46% so với năm 2018. Cùng với đó, tạo thêm việc làm mới cho 25.242 lao động, đạt 126,21% kế hoạch và tăng 8,82% so với năm 2018; thu nhập bình quân đầu người (theo giá thực tế) đạt 50,65 triệu đồng, tăng 2,55 triệu đồng so với năm 2018 (năm 2018 là 48,1 triệu đồng)... Xã hội. Y tế. Theo thông tin từ Tổng cục Thống kê năm 2008, tỉnh Vĩnh Long có 116 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 17 bệnh viện, 101 trạm y tế phường xã và 6 phòng khám đa khoa khu vực. Năm 2008, tỉnh có 471 bác sĩ, 500 y tá, 623 y sĩ, 51 dược sĩ cao cấp, 192 dược sĩ trung cấp và 80 dược tá. Các địa phương có trạm y tế đạt chuẩn đặc biệt là tại thành phố Vĩnh Long, thị xã Bình Minh, Vĩnh Long, các huyện Mang Thít và Trà Ôn. Danh sách các bệnh viện thuộc tỉnh Vĩnh Long: Giáo dục. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Vĩnh Long có 371 trường học ở cấp phổ thông trong đó có Trung học phổ thông có 31 trường, Trung học cơ sở có 92 trường, Tiểu học có 239 trường, trung học có 9 trường, bến cạnh đó còn có 124 trường mẫu giáo và 3 trường Đại học, 5 trường Cao đẳng và 1 trường văn hóa nghệ thuật. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long: Tỷ lệ người lớn biết chữ là 94,6%, cao hơn mức trung bình của khu vực và cả nước. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn tỉnh Vĩnh Long tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Dân cư. Theo thống kê năm 2020, tỉnh Vĩnh Long có diện tích 1.525,73 km², dân số năm 2019 là 1.022.619 người, mật độ dân số đạt 670 người/km². Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Vĩnh Long đạt 1.023.069 người (xếp thứ 10 trong tổng số 13 tỉnh thành Đồng bằng sông Cửu Long), mật độ dân số đạt 687 người/km². Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 169.862 người, chiếm 16,6% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 852.929 người, chiếm 83,4% dân số. Dân số nam đạt 503.878 người, trong khi đó nữ đạt 518.913 người. Nhóm tuổi từ 15 đến 59 tuổi chiếm 69,83% dân số Vĩnh Long, hai nhóm tuổi còn lại là từ 0 đến 14 tuổi và trên 60 tuổi lần lượt chiếm 9,09% và 21,08% dân số toàn tỉnh. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,02‰, tỉ suất gia tăng dân số tự nhiên là 0,87%. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 là 23,26%. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Vĩnh Long có 20 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 997.792 người, người Khmer có 21.820 người, người Hoa có 4.987 người, còn lại là những dân tộc khác như Tày, Thái, Chăm, Mường... Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, Toàn tỉnh Vĩnh Long có 11 tôn giáo khác nhau chiếm 262.280 người, nhiều nhất là Phật giáo có 77.660 người, Phật giáo Hòa Hảo có 66.269 người, Công giáo có 66.220 người, đạo Cao Đài có 46.226 người, các tôn giáo khác như Tin Lành có 3.641 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 1.842 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 327 người, Hồi giáo 56 người, Minh Sư Đạo có 22 người, Bửu Sơn Kỳ Hương có 16 người, còn lại là đạo Bà-la-môn chỉ có một người. Văn hóa. Do địa thế và lịch sử hình thành, từ ba dân tộc Kinh, Khmer, Hoa cùng sinh sống lâu đời ở đây đã hòa quyện và tạo nên một nền văn hóa đặc trưng cho vùng đất này. Vĩnh Long có khá nhiều loại hình văn học dân gian như: nói thơ Vân Tiên, nói tuồng, nói vè, hát Huê Tình, cải lương... Vĩnh Long cũng là nơi có nhiều di tích lịch sử văn hóa như: thành Long Hồ, Công Thần Miếu Vĩnh Long, đình Tân Giai, đình Tân Hoa, Văn Thánh Miếu Vĩnh Long, Khu tưởng niệm cố Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Hùng. Truyền thông. Là đài phát thanh và truyền hình trực thuộc Tỉnh ủy, Sở thông tin truyền thông & Ủy ban Nhân dân tỉnh Vĩnh Long. Tên viết tắt của đài là THVL và có trong biểu trưng của đài. Đài Phát thanh - Truyền hình Vĩnh Long được rất nhiều khán giả tại Nam Bộ yêu thích với các chương trình giải trí và phim truyện hấp dẫn. Nhạc hiệu của đài là bài hát "Nam Bộ kháng chiến", được sử dụng tới năm 2012. Giao thông. Vĩnh Long có Quốc lộ 1 đi ngang qua, cùng với các quốc lộ khác như Quốc lộ 53, Quốc lộ 54, Quốc lộ 57 và Quốc lộ 80. Các tuyến đường tỉnh: 901, 902,903, 904, 905, 906, 907, 908, 909 và 910. Các tuyến giao thông đường thủy của tỉnh cũng khá thuận lợi, các tuyến giao thông này nối liền tỉnh Vĩnh Long với các tỉnh trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và cả nước, tạo cho Vĩnh Long một vị thế rất quan trọng trong chiến lược phát triển và hợp tác kinh tế với cả vùng. Danh nhân. Vùng đất Vĩnh Long đã sản sinh ra nhiều chính khách và lãnh đạo của nhiều chế độ khác nhau trong lịch sử, ví dụ như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thừa Thiên Huế (còn được viết là Thừa Thiên – Huế) là một tỉnh ven biển nằm ở cực nam của vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam. Năm 2018, Thừa Thiên Huế là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 36 về số dân, xếp thứ 39 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 42 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 52 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.163.500 người dân, GRDP đạt 47.428 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0600 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 40,76 triệu đồng (tương ứng với 1.770 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,08%. Diện tích của tỉnh là 4.902,4 km², dân số tính đến năm 2020 là 1.133.700 người. Thành phố Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế từng là kinh đô Phú Xuân thời kỳ cận đại của Việt Nam từ năm 1802 đến năm 1945 dưới triều Nguyễn. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Thừa Thiên Huế nằm ở dải đất ven biển miền Trung Việt Nam, thuộc Bắc Trung Bộ, bao gồm phần đất liền và phần lãnh hải thuộc thềm lục địa biển Đông, có tọa độ địa lý ở 16° – 16,8° vĩ độ Bắc và 107,8° – 108,2° kinh độ Đông. Thừa Thiên Huế cách thủ đô Hà Nội 675 km về phía Bắc, cách thành phố Đà Nẵng 94 km về phía Nam với ranh giới tự nhiên là dãy núi Bạch Mã. Có vị trí địa lý: Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Khu vực phía tây của tỉnh nằm trên dãy núi Trường Sơn. Những ngọn núi đáng kể là: núi Động Ngai cao 1.774 m, Động Truồi cao 1.154 m, Co A Nong cao 1.228 m, Bol Droui cao 1.438 m, Tro Linh cao 1.207 m, Hói cao 1.166 m (nằm giữa ranh giới tỉnh Quảng Nam), Cóc Bai cao 787 m, Bạch Mã cao 1.444 m, Mang cao 1.708 m, Động Chúc Mao 514 m, Động A Tây 919 m. Sông ngòi thường ngắn nhưng lại lớn về phía hạ lưu. Những sông chính là Ô Lâu, Rào Trăng, Rào Lau, Rào Mai, Tả Trạch, Hữu Trạch, An Cựu, An Nong, Nước Ngọt, Lăng Cô, Bồ, Rau Bình Điền, Đá Bạc, Vân Xá, Sông Truồi... Đặc biệt có Hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn nhất Đông Nam Á. Và hai cửa biển quan trọng là cửa Thuận An và cửa Tư Hiền. Khí hậu. Khí hậu Thừa Thiên Huế gần giống như Quảng Trị với kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa. Những tháng đầu năm có nắng ấm. Thỉnh thoảng lụt vào tháng 5. Các tháng 6, 7 và 8 có gió mạnh. Mưa lũ và có gió đông vào tháng 9 và 10. Tháng 11 thường có lụt. Cuối năm mưa kéo dài. Nhưng hiện nay do chịu tác động của biến đổi khí hậu nên từ tháng 3 đến tháng 8 nắng nóng lên đến đỉnh điểm. Các tháng 9, 10, 11 thường xuyên có bão. Từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau là giai đoạn gió mùa đông bắc kéo về gây mưa to kèm theo đó lũ trên các sông tăng nhanh. Khí hậu có 2 mùa chính: Chế độ mưa ở Thừa Thiên Huế lớn, trung bình trên 2700 mm, tập trung từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, có nơi trên 4000 mm, chiếm 70% tổng lượng mưa trong năm, riêng tháng 11 chiếm 30% lượng mưa cả năm. Mùa mưa ở Huế lệch với hai miền Nam – bắc, khi 2 miền này mưa thì Huế nắng nóng và ngược lại. Đặc điểm mưa ở Huế là mưa không đều, lượng mưa tăng dần từ Đông sang Tây, từ Bắc vào Nam và tập trung vào một số tháng với cường độ mưa lớn do đó dễ gây lũ lụt, xói lở. Độ ẩm trung bình 85%-86%. Hành chính. Tỉnh Thừa Thiên Huế có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã, 6 huyện với 141 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 95 xã, 39 phường, 7 thị trấn. Lịch sử. Vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân. Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế là vùng đất có lịch sử lâu đời. Những phát hiện khảo cổ học gần đây cho thấy rõ dấu vết của người xưa trên mảnh đất này. Những di vật như rìu đá, đồ gốm được tìm thấy ở Phụ Ổ, Bàu Đưng (Hương Chữ, Hương Trà) cho phép khẳng định đây là các di tích có niên đại cách đây trên dưới 4.000 năm. Những chiếc rìu đá được phát hiện trên nhiều địa bàn khác nhau, đặc biệt tại các xã Hồng Bắc, Hồng Vân, Hồng Hạ, Hồng Thủy, Bắc Sơn (A Lưới); Phong Thu (Phong Điền) đã chứng minh sự có mặt của con người ở vùng đất này trên dưới 5.000 năm. Di tích khảo cổ quan trọng gắn liền với nền văn hóa Sa Huỳnh được tìm thấy lần đầu tiên tại Thừa Thiên Huế năm 1987 là di tích Cồn Ràng (Phụ Ổ, Hương Chữ, Hương Trà) nói lên rằng chủ nhân của nền văn hóa này đã đạt đến trình độ cao trong đời sống vật chất lẫn tinh thần cách đây trên dưới 2.500 năm. Dấu ấn này còn được tìm thấy ở Cửa Thiềng năm 1988 (Phú Ốc, Tứ Hạ, Hương Trà). Cùng với văn hóa Sa Huỳnh, tại Thừa Thiên Huế còn có sự hiện diện của văn hóa Đông Sơn. Năm 1994, trống đồng loại một đã được phát hiện ở Phong Mỹ, Phong Điền. Đây là một trong những di vật độc đáo của nền văn hóa Việt cổ. Các cứ liệu xưa cho biết, từ xa xưa, Thừa Thiên Huế từng là địa bàn giao tiếp của những cộng đồng cư dân mang nhiều sắc thái văn hóa khác nhau, cùng cư trú và cùng phát triển... Trong thời kỳ phát triển của Văn Lang – Âu Lạc, tương truyền Thừa Thiên Huế vốn là một vùng đất của bộ Việt Thường. Trong thời kỳ nước Nam Việt lại thuộc về Tượng Quận. Năm 116 TCN, quận Nhật Nam ra đời thay thế cho Tượng Quận. Thời kỳ Bắc thuộc, trong suốt thời gian dài gần 12 thế kỷ, vùng đất này là địa đầu phía Bắc của Vương quốc Chămpa độc lập. Sau chiến thắng Bạch Đằng lịch sử của Ngô Quyền (năm 938), Đại Việt trở thành quốc gia độc lập và qua nhiều thế kỷ phát triển, biên giới Đại Việt đã mở rộng dần về phía Nam. Năm 1306, công chúa Huyền Trân, em gái vua Trần Anh Tông, "nước non ngàn dặm ra đi" làm dâu vương quốc Chămpa, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Rí (Lý) để làm sính lễ. Năm sau, vua Trần đổi hai châu này thành châu Thuận, châu Hóa và đặt chức quan cai trị. Thừa Thiên Huế trở thành địa bàn giao thoa giữa hai nền văn hóa lớn của phương Đông với nền văn hóa của các cư dân bản địa. Từ khi trở thành một phần của Đại Việt, Châu Hóa và vùng đất Thuận Hóa đã từng là nơi ghi dấu những công cuộc khai phá mở làng, lập ấp, nơi Đặng Tất xây dựng đồn lũy chống quân Minh, nơi cung cấp "kho tinh binh" cho Lê Thái Tổ bình định giang sơn. Với lời sấm truyền "Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân" (một dải Hoành sơn, có thể yên thân muôn đời); năm 1558, Nguyễn Hoàng xin vào trấn giữ xứ Thuận Hoá mở đầu cho cơ nghiệp của các chúa Nguyễn. Sự nghiệp mở mang của 9 đời chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã gắn liền với quá trình phát triển của vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân. Hơn 3 thế kỷ từ khi trở về với Đại Việt, Thuận Hóa là vùng đất của trận mạc, ít có thời gian hòa bình nên chưa có điều kiện hình thành được những trung tâm sinh hoạt sầm uất theo kiểu đô thị. Sự ra đời của thành Hóa Châu (khoảng cuối TK XV, đầu TK XVI) có lẽ chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn với tư cách là một tòa thành phòng thủ chứ chưa phải là nơi sinh hoạt đô thị của xứ Thuận Hóa thời ấy. Mãi cho đến năm 1636, chúa Nguyễn Phúc Lan dời phủ đến Kim Long là bước khởi đầu cho quá trình đô thị hóa trong lịch sử hình thành và phát triển của thành phố Huế sau này. Hơn nửa thế kỷ sau, năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Thái lại dời phủ chính đến làng Thụy Lôi, đổi là Phú Xuân, ở vị trí Tây Nam trong kinh thành Huế hiện nay, tiếp tục xây dựng và phát triển Phú Xuân thành một trung tâm đô thị phát đạt của xứ Đàng Trong. Chỉ trừ một thời gian ngắn (1712–1738) phủ chúa dời ra Bác Vọng, song khi Võ Vương lên ngôi lại cho dời phủ chính vào Phú Xuân nhưng dựng ở "bên tả phủ cũ", tức góc Đông Nam của Kinh thành Huế hiện nay. Sự nguy nga bề thế của Đô thành Phú Xuân dưới thời Nguyễn Phúc Khoát đã được Lê Quý Đôn mô tả trong "Phủ biên tạp lục" năm 1776 và trong "Đại Nam nhất thống chí", với tư cách là một đô thị phát triển thịnh vượng trải dài hai bờ châu thổ Sông Hương, từ Kim Long – Dương Xuân đến Bao Vinh – Thanh Hà. Phú Xuân là thủ phủ của xứ Đàng Trong (1687–1774); rồi trở thành Kinh đô của nước Đại Việt thống nhất dưới triều đại Quang Trung (1788–1801) và cuối cùng là Kinh đô của nước Việt Nam gần hai thế kỷ dưới triều đại nhà Nguyễn (1802–1945). Phú Xuân đã trở thành trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa quan trọng của đất nước từ những thời kỳ đó. Lịch sử hành chính. Năm Tân Dậu 1801, Nguyễn Ánh lấy lại được Phú Xuân từ nhà Tây Sơn, ông cho tách ba huyện Hương Trà, Quảng Điền và Phú Vang thuộc phủ Triệu Phong đặt làm dinh Quảng Đức. Năm Gia Long thứ năm (1806), Quảng Đức và Quảng Trị được đặt làm dinh trực lệ. Đến năm 1822, vua Minh Mạng đổi dinh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên, địa danh Thừa Thiên có từ đây. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), tách một số tổng của ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền để lập thêm ba huyện Hương Thủy, Phú Lộc và Phong Điền. Năm Tự Đức thứ 6 (1853), tỉnh Quảng Trị hạ xuống thành đạo Quảng Trị thuộc phủ Thừa Thiên. Tuy nhiên đến năm 1876, tỉnh Quảng Trị lại được tái lập. Ngày 20 tháng 10 năm 1898, vua Thành Thái ban hành dụ thành lập thị xã Huế. Ngày 30 tháng 8 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định chuẩn y đạo dụ này. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, phủ Thừa Thiên đổi thành tỉnh Thừa Thiên (còn có bí danh là tỉnh Nguyễn Tri Phương), gồm thị xã Thuận Hóa (Huế) và 6 huyện: Hương Thủy, Hương Trà, Phong Điền, Phú Lộc, Phú Vang, Quảng Điền. Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Thừa Thiên ban đầu gồm 9 quận: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc, Vinh Lộc, Nam Hòa và 3 tổng: Nguồn Hữu, Nguồn Tả, Nguồn Bồ. Đến năm 1965 thành lập thêm quận Phú Thứ trên cơ sở 7 xã phía nam của quận Phú Vang. Thị xã Huế lúc này là đơn vị hành chính độc lập và ngang cấp với tỉnh Thừa Thiên, tuy nhiên tỉnh lỵ Thừa Thiên vẫn đặt tại Huế. Sau năm 1975, tỉnh Thừa Thiên hợp nhất với hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và khu vực Vĩnh Linh thành tỉnh Bình Trị Thiên, với tỉnh lỵ là thành phố Huế. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ban hành nghị quyết chia tách tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Tỉnh Thừa Thiên Huế có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thành phố Huế (tỉnh lỵ) và 4 huyện: A Lưới, Hương Điền, Hương Phú, Phú Lộc. Ngày 29 tháng 9 năm 1990, điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Huế; chia huyện Hương Phú thành hai huyện Hương Thủy và Phú Vang; chia huyện Hương Điền thành ba huyện Hương Trà, Phong Điền và Quảng Điền; chia huyện Phú Lộc thành hai huyện Phú Lộc và Nam Đông. Ngày 24 tháng 9 năm 1992, thành phố Huế được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng công nhận là đô thị loại II và đến ngày 24 tháng 8 năm 2005 được Thủ tướng Chính phủ công nhận là đô thị loại I trực thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Ngày 9 tháng 2 năm 2010, thành lập thị xã Hương Thủy trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Thủy. Ngày 15 tháng 11 năm 2011, thành lập thị xã Hương Trà trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Trà. Tỉnh Thừa Thiên Huế có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay. Dân cư. Theo kết quả điều tra dân số toàn quốc, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019 toàn tỉnh có 1.128.620 người. Trên địa bàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 746.935 người, nhiều nhất là Phật giáo có 680.290 người, tiếp theo là Công Giáo có 65.997 người, đạo Tin Lành có 392 người, đạo Cao Đài có 220 người. Còn lại các tôn giáo khác như Phật giáo Hòa Hảo có 18 người, Hồi giáo, Minh Sư đạo mỗi tôn giáo có sáu người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam, Baha'i giáo và Bà La Môn mỗi tôn giáo có hai người. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 56%. Văn hoá. Thừa Thiên Huế là trung tâm văn hoá lớn và đặc sắc của Việt Nam. Thừa Thiên Huế có 5 danh hiệu UNESCO (1 di sản văn hoá thế giới, 1 di sản văn hóa phi vật thể, 3 di sản tư liệu thế giới) là: Hiện nay, tỉnh đang xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá Huế gắn với bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hoá truyền thống, là khâu đột phá để phát triển du lịch. Nghiên cứu, từng bước hoàn thiện bản sắc văn hoá Huế, đặc trưng văn hoá Huế để xây dựng Huế trở thành trung tâm văn hoá đặc sắc của Việt Nam; xem đây là lợi thế so sánh lâu dài để phát triển Huế, làm cho Huế ngày càng đặc sắc, thúc đẩy các ngành du lịch, dịch vụ phát triển. Trong đó quy hoạch, xây dựng hệ thống công viên, tượng, các công trình văn hoá, trọng tâm là: Trung tâm hội nghị, Bảo tàng Lịch sử Cách mạng, Bảo tàng thiên nhiên các tỉnh Duyên hải miền Trung, Trung tâm Điện ảnh, Địa đạo Khu ủy Trị Thiên. Phối hợp chặt chẽ với Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch tập trung đầu tư hoàn thành cơ bản trùng tu Đại Nội và một số di tích quan trọng để xứng đáng là trung tâm du lịch đặc sắc của Việt Nam. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của các kỳ Festival Huế, các hoạt động đối ngoại để tăng cường quảng bá các giá trị văn hóa Việt Nam, văn hoá Huế, nhất là Nhã nhạc cung đình Huế, quần thể di tích Cố đô Huế, Mộc bản triều Nguyễn, Châu bản triều Nguyễn, Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế, vịnh đẹp Lăng Cô. Giao thông. Đường bộ. Toàn tỉnh có hơn 2.500 km đường bộ, Quốc lộ 1 chạy xuyên qua tỉnh từ Bắc xuống Nam cùng với các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ chạy song song và cắt ngang như quốc lộ 49 (tuyến đường huyết mạch nối từ cảng Thuận An qua thành phố Huế lên huyện miền núi A Lưới, quốc lộ 49B (kết nối các xã, phường ven biển), tỉnh lộ 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8A, 8B, 10A, 10B, 10C, 11A, 11B, 15, 18 và các tỉnh lộ khác. Đường biển và đường thủy. Tổng chiều dài 563 km sông, đầm phá. Tỉnh có cảng biển là cảng nước sâu Chân Mây và cảng Thuận An. Cảng Thuận An nằm cách trung tâm thành phố Huế khoảng 13 km về phía đông bắc. Trong nhiều năm tỉnh đã tập trung đầu tư cho cảng Thuận An  5 cầu tầu dài 150m, có khả năng tiếp nhận tầu 1.000 tấn, được nhà nước công nhận là cảng biển quốc gia. Cảng nước sâu Chân Mây cách thành phố Huế 49 km về phía Nam đang được triển khai xây dựng một số  hạng mục hạ tầng kỹ thuật đầu tiên  nhằm khai thác lợi thế trục giao thông Bắc – Nam và tuyến hành lang Đông – Tây, tạo động lực phát triển kinh tế những năm sau. Đường hàng không. Thừa Thiên Huế có Sân bay Quốc tế Phú Bài nằm trên Quốc lộ 1, cách phía Nam thành phố Huế khoảng 15 km. Những năm qua, bộ mặt và cơ sở hạ tầng của sân bay Phú Bài đã có những thay đổi đáng kể; đảm bảo cho máy bay Airbus A320, Boeing 747 cất hạ cánh an toàn. Đường sắt. Tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua tỉnh Thừa Thiên Huế dài 101,2 km đóng một vai trò quan trọng trong giao thông của tỉnh. Kinh tế. Thừa Thiên Huế là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ – công nghiệp – nông nghiệp (năm 2008, tỷ trọng ngành Công nghiệp – Xây dựng chiếm 36,5%, ngành dịch vụ 45,3%, ngành nông nghiệp giảm còn 18,2%). Thu ngân sách tăng bình quân đạt 18,3%/năm. Tỷ lệ huy động ngân sách từ GDP đạt trên 12%, xếp thứ 20/63 tỉnh, thành cả Việt Nam. Thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nằm trong nhóm 20 tỉnh, thành dẫn đầu toàn quốc. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh từ vị thứ 15 (năm 2007) đã vươn lên đứng thứ 10 toàn quốc trong năm 2008. Quy mô doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh còn nhỏ, và siêu nhỏ. Ngân sách đạt thấp, thu ngân sách chưa bền vững, đến nay chưa cân đối được ngân sách, hằng năm ngân sách nhà nước phải bù vào ngân sách địa phương khoảng 1.500 (tỷ đồng). Thừa Thiên Huế quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế – xã hội gắn với bảo tồn, phát huy các giá trị văn hoá. Thành phố Huế vừa mang dáng dấp hiện đại, vừa mang nét đẹp cổ kính với di sản văn hoá thế giới, đóng vai trò hạt nhân đô thị hoá lan toả và kết nối với các đô thị vệ tinh. Môi trường thu hút đầu tư lành mạnh và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư có năng lực. Hạ tầng giao thông ngày càng hiện đại, chống được chia cắt vùng miền, tạo ra động lực phát triển giữa nông thôn và thành thị. Năng lực sản xuất mới hình thành và mở ra tương lai gần sẽ có bước tăng trưởng đột phá: phía Bắc có các khu công nghiệp Phong Điền, Tứ Hạ, xi măng Đồng Lâm; phía Nam có khu công nghiệp Phú Bài, Khu Kinh tế – Đô thị Chân Mây – Lăng Cô sôi động; phía Tây đã hình thành mạng lưới công nghiệp thủy điện Tả Trạch, Hương Điền, Bình Điền, A Lưới, xi măng Nam Đông; phía Đông phát triển mạnh khai thác và nuôi trồng thủy sản và Khu kinh tế tổng hợp Tam Giang – Cầu Hai. "Tốc độ tăng trưởng kinh tế" năm 2019 ước đạt 7,18% với giá trị tổng  sản phẩm trong tỉnh – GRDP ước đạt gần 31.330,53 tỷ đồng "(theo giá so sánh 2010"), chưa đạt kế hoạch đề ra. "Đây là mức tăng khá so với các tỉnh trong khu vực miền Trung nói chung, cao hơn mức tăng trưởng bình quân của 5 tỉnh vùng kinh tế trọng điểm miền Trung" "và cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước 6,8%/năm". Khu vực dịch vụ duy trì đà tăng trưởng ổn định, ước đạt 7,39%, đóng góp lớn nhất là khu vực dịch vụ du lịch khoảng 30–40% tổng giá trị tăng thêm của ngành. Khu vực công nghiệp và xây dựng tăng trưởng khá, đạt khoảng 11,32%, nhờ đóng góp của các dự án mới và mở rộng công suất của một số nhà máy. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng tình hình thời tiết hạn hán và dịch tả lợn Châu Phi lây lan trên diện rộng, tăng trưởng âm ước đạt – 4,13%. Trong đó, thủy sản ước tăng 4%; ngành lâm nghiệp tăng khoảng 3%; nông nghiệp giảm 10%, trong đó chăn nuôi giảm 42%. "Cơ cấu các khu vực kinh tế:" dịch vụ chiếm ưu thế với tỷ trọng 48,40%; công nghiệp – xây dựng 31,81%; nông, lâm, thủy sản 11,38%; Thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 8,41%. " Tổng sản phẩm trong tỉnh" (GRDP) bình quân đầu người đến năm 2019 ước đạt 46,7 triệu đồng, tương đương 2.007 USD, vượt kế hoạch ("1.915 USD/người"). "Thu ngân sách ước đạt 7.787 tỷ đồng", bằng 108% dự toán, bằng cùng kỳ, trong đó thu nội địa 7.300 tỷ đồng ("chiếm 94% tổng thu NS"), bằng 110,1% so với dự toán, tăng 7,3%[3]; thu thuế từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 455 tỷ đồng, bằng 82% dự toán, giảm 17%. Chi ngân sách ước đạt 10.044,11 tỷ đồng, bằng 99,2% dự toán, trong đó chi đầu tư phát triển 2.779,6 tỷ đồng, bằng 93% dự toán; Chi sự nghiệp 6.809 tỷ đồng, bằng 105,1% dự toán. "Tổng vốn đầu tư toàn xã hội" ước đạt 22.700 tỷ đồng, tăng 15%, đạt kế hoạch. Trong đó, Vốn ngân sách Nhà nước "(chiếm 20% tổng vốn"), bằng kế hoạch, tăng 29%; Vốn tín dụng "(chiếm 44%"), đạt 99% kế hoạch, tăng 14%; Vốn đầu tư của doanh nghiệp "(chiếm 14%"), đạt 103% KH, tăng 11%; Vốn viện trợ "(chiếm 5%"), bằng 76% kế hoạch, giảm 13%; Vốn đầu tư nước ngoài "(chiếm 5%"), đạt 60% kế hoạch, tăng 48%. " Kim ngạch xuất khẩu" ước đạt 950 triệu USD, đạt 90% kế hoạch, tăng 10%. Y tế. Thừa Thiên Huế là trung tâm y tế chuyên sâu của khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước với 3 đơn vị đang được nhà nước đầu tư triển khai thực hiện dự án Trung tâm Y tế chuyên sâu khu vực miền Trung – Tây Nguyên và cả nước là: Bệnh viện Trung ương Huế, Trường Đại học Y Dược Huế và Trung tâm Kiểm nghiệm dược phẩm, hóa mỹ phẩm Trung ương. Giáo dục và đào tạo. Thừa Thiên Huế từ lâu đã được biết đến là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn của khu vực miền trung và cả nước. Các trường đại học – cao đẳng – trung cấp trên địa bàn: Các trường THPT. Tính đến ngày 10/8/2022, toàn tỉnh có 35 trường THPT công lập: Thành phố kết nghĩa. Qua các kì festival và nhiều hoạt động hợp tác,ngày càng nhiều thành phố, tỉnh, vùng kết nghĩa với Thừa Thiên Huế như: Người nổi tiếng. Phần lớn các vua, chúa nhà Nguyễn
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Trà Vinh là một tỉnh ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Trà Vinh là một tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long; vị trí địa lý giới hạn từ "9°31'46"" đến "10°4'5" vĩ độ Bắc và từ "105°57'16" đến "106°36'04"" kinh độ Đông. Trà Vinh cách Thành phố Hồ Chí Minh 200 km đi bằng quốc lộ 53 qua tỉnh Vĩnh Long, khoảng cách rút ngắn thời gian chỉ còn 130 km nếu đi bằng quốc lộ 60 qua tỉnh Bến Tre, cách thành phố Cần Thơ 50 km. Được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cung Hầu và Định An nên giao thông đường thủy có điều kiện phát triển. Trà Vinh là tỉnh duyên hải Đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí địa lý: Địa hình. Trà Vinh nằm ở cuối cù lao, nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Địa hình chủ yếu là đất bằng phẳng với độ cao dưới 1m so với mực nước biển. Vì nằm ở vùng đồng bằng ven biển, có nhiều giồng cát chạy dọc theo bờ biển, tạo thành các đường cong song song. Các giồng càng gần biển càng cao và rộng hơn. Với sự chia cắt bởi các giồng và mạng lưới đường lộ, kinh rạch, địa hình Trà Vinh khá phức tạp. Có các vùng trũng xen kẹp giữa các giồng cao, và độ dốc chỉ thể hiện trên từng cánh đồng. Đặc biệt, phần nam tỉnh có đất thấp, bị chia cắt bởi các giồng cát hình cánh cung thành nhiều vùng trũng nhỏ, với độ cao chỉ từ 0,5-0,8m. Do đó, hàng năm, vùng này thường bị ngập mặn trong khoảng thời gian từ 3-5 tháng. Sông ngòi. Trên địa bàn Trà Vinh có hệ thống sông chính với tổng chiều dài 578 km, trong đó có các sông lớn là sông Hậu và sông Cổ Chiên. Các sông ngòi, kênh rạch trên địa bàn Trà Vinh hợp lưu đổ ra biển chủ yếu qua hai cửa sông chính là cửa Cổ Chiên hay còn gọi là cửa Cung Hầu và cửa Định An. Khí hậu. Nằm trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, tỉnh Trà Vinh cũng có những thuận lợi chung như: có điều kiện ánh sáng bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ổn định, Tuy nhiên, do đặc thù của vùng khí hậu ven biển, tỉnh Trà Vinh có một số hạn chế về mặt khí tượng như gió chướng mạnh, bốc hơi cao, mưa ít. Trà Vinh nằm trong vùng nhiệt đới có khí hậu ôn hòa, nhiệt độ trung bình từ 20 - 27 °C, độ ẩm trung bình 80 - 8000%/năm, ít bị ảnh hưởng bởi bão, lũ. Mùa mưa từ tháng 5 - tháng 11, mùa khô từ tháng 12 - tháng 4 năm sau, lượng mưa trung bình từ 1.400 - 1.600mm, có điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư sản xuất, kinh doanh và du lịch. Hàng năm, hạn hán thường xảy ra gây khó khăn cho sản xuất với số ngày không mưa liên tục từ 10 đến 18 ngày, trong đó các huyện như Cầu Kè, Càng Long, Trà Cú là các huyện ít bị hạn. Huyện Tiểu Cần hạn đầu vụ khoảng tháng 6 và tháng 7 là quan trọng, trong khi các huyện còn lại như Châu Thành, Cầu Ngang, Duyên Hải hạn giữa vụ nhưng tháng 7 và 8 thường nghiêm trọng hơn. Trà Vinh cũng gặp một khó khăn hiện nay đó chính là bị ngập mặn vào một số mùa khô trong năm. Tài nguyên thiên nhiên. Tỉnh Trà Vinh có khoảng 24.000ha diện tích rừng và đất rừng, chủ yếu nằm dọc bờ biển tại thị xã Duyên Hải và các huyện Duyên Hải, Cầu Ngang, Trà Cú với các loại cây như bần, đước, mắm, dừa nước, chà là… đất bãi bồi có diện tích 1.138ha. Diện tích đất 229.200ha, trong đó đất nông nghiệp chiếm 186.170ha, đất lâm nghiệp chiếm 6.922ha, đất chuyên dùng chỉ có 9.936ha, còn lại là đất ở nông thôn chiếm 3.108ha, đất ở thành thị chiếm 586ha, đất chưa sử dụng chiếm 85ha... Trà Vinh có 3 nhóm đất chính trong đó đất cát giồng chiếm 6,65%, đất phù sa chiếm 58,29% và đất phèn chiếm 24,44%. Diện tích nuôi trồng thủy sản chiếm 62.000ha trong đó diện tích nuôi tôm sú 25.000ha. Hiện nay sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản của tỉnh có bước phát triển, nên nhu cầu về đầu tư nhà máy chế biến thủy hải sản xuất khẩu rất cần thiết. Khoáng sản chủ yếu của tỉnh Trà Vinh là những loại cát dùng trong công nghiệp và xây dựng. Trong đó, trữ lượng cát sông đạt 151.574.000m3. Đất Sét gạch ngói được Phân viện nghiên cứu địa chất công nhận là đạt yêu cầu dùng trong xây dựng, phục vụ cho công nghiệp chế biến vật liệu xây dựng. Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có Mỏ nước khoáng đạt tiêu chuẩn khoáng cấp quốc gia, nhiệt độ 38,5oC, khả năng khai thác cấp trữ lượng 211 đạt sản lượng 240m3/ngày, cấp tài nguyên 333 đạt 19.119m3/ngày phân bổ tại thị xã Duyên Hải. Lịch sử. Nguồn gốc tên gọi. Trước đây, vùng đất Trà Vinh còn được gọi là xứ Trà Vang. Tên Trà Vang vốn có nguồn gốc từ ngôn ngữ Môn-Khmer cổ mà dân gian thường gọi là Trah Păng. Tên gọi ấy phản ánh đặc điểm cảnh quan thuở xa xưa của một vùng đất mới được bồi đắp ở ven sông, ven biển, có nhiều vùng trũng, đầm lầy... Vì vậy, Trà Vinh là tỉnh còn tương đối non trẻ. Thời nhà Nguyễn độc lập. Thời nhà Nguyễn, Trà Vinh là tên 1 huyện (trước đó là phủ) thuộc phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long được lập ra năm 1832. Vùng đất và tên gọi "Trà Vang", tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này đã có từ trước khi Chúa Nguyễn lập Châu Định Viễn, dựng Dinh Long Hồ vào năm 1732. Như vậy, lúc bấy giờ đất Trà Vinh thuộc Châu Định Viễn. Năm 1802, sau khi lên ngôi, vua Gia Long bắt tay ngay vào việc sắp xếp và phân định lại ranh giới các đơn vị hành chính trên toàn quốc. Từ đó, Gia Định phủ được đổi thành Gia Định Trấn. Lãnh thổ Gia Định Trấn được phân chia thành 4 dinh và 1 trấn phụ, vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Vĩnh Trấn. Năm 1803, vua Gia Long cho lập địa đồ các dinh thuộc Gia Định Trấn và đổi Dinh Vĩnh Trấn thành Dinh Hoằng Trấn. Vùng đất Trà Vinh lúc này thuộc Dinh Hoằng Trấn. Năm 1808, Gia Long đổi Gia Định Trấn thành Gia Định Thành, Dinh Vĩnh Trấn được đổi thành Trấn Vĩnh Thanh. Lúc bấy giờ, vùng đất Trà Vinh thuộc Trấn Vĩnh Thanh. Năm 1825, vùng đất Trà Vinh được Vua Minh Mạng lập thành Phủ Lạc Hóa trực thuộc Gia Định Thành gồm hai huyện Trà Vinh và Tuân Mỹ. Đến năm 1832, Trấn Vĩnh Thanh được đổi tên là Trấn Vĩnh Long. Sau đó, Vua Minh Mạng cho đổi các trấn thành tỉnh. Vùng đất Nam Bộ được chia thành sáu tỉnh, gọi là "Nam Kỳ lục tỉnh" gồm: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Lúc này, Trà Vinh là một huyện thuộc Phủ Lạc Hóa tỉnh Vĩnh Long. Thời Pháp thuộc. Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ ra nghị định phân chia toàn bộ Nam Kỳ thành 4 khu vực hành chính lớn. Trên cơ sở phân chia đó, khu vực hành chính lớn Vĩnh Long gồm 4 tiểu khu: Vĩnh Long, Trà Vinh, Bến Tre, Sa Đéc. Tiểu khu Trà Vinh là tiền thân của tỉnh Trà Vinh sau này. Trà Vinh được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi "tiểu khu" hay "hạt tham biện" (arrondissement) thành tỉnh (province) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1900. Tỉnh Trà Vinh là một trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ. Năm 1917, tỉnh Trà Vinh có năm quận là Châu Thành, Bắc Trang, Bàng Đa, Càn Long (ban đầu chữ Càn Long được viết như vậy) và Ô Lắc. Tháng 8 năm 1928, Thống đốc Nam kỳ ra Nghị định phân chia lại địa giới hành chính. Theo đó, tỉnh Trà Vinh bãi bỏ quận Bàng Đa (nhập vào quận Châu Thành) - lỵ sở đặt tại làng Minh Đức, đổi thành Long Đức); đổi tên quận Ô Lắc thành quận Cầu Ngan (ban đầu chữ Cầu Ngan viết như vậy) - lỵ sở dời từ Ô Lắc về làng Minh Thuận; lập quận Tiểu Cần, lỵ sở đặt tại làng Tiểu Cần; dời lỵ sở quận Bắc Trang từ Bắc Trang về Thanh Xuyên; lỵ sở của quận Càng Long đặt tại An Trường (phần đất này nay thuộc thị trấn Càng Long). Tháng 11 năm 1940, Thống đốc Nam kỳ lại có Nghị định đổi tên quận Bắc Trang thành quận Trà Cú. Ngày 27 tháng 6 năm 1951, Ủy ban Kháng chiến Hành chính Nam Bộ thuộc chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định nhập 2 tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh thành một tỉnh có tên là tỉnh Vĩnh Trà. Huyện Tiểu Cần được nhập vào huyện Càng Long. Tuy nhiên, tên gọi tỉnh Vĩnh Trà không được chính quyền Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại và chính quyền Việt Nam Cộng hòa công nhận. Tỉnh Vĩnh Trà tồn tại đến năm 1954, sau đó lại trả về tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ. Thời Việt Nam Cộng hòa. Sau năm 1954, theo phân cấp hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, tỉnh Trà Vinh vẫn gồm 5 huyện là: Càng Long, Châu Thành, Cầu Ngang, Tiểu Cần và Trà Cú. Trong khi đó, theo sự phân chia hành chính của chính quyền kháng chiến ngoài 5 huyện này, tỉnh Trà Vinh lại có thêm thị xã Trà Vinh. Ngày 9 tháng 2 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ban hành Sắc lệnh 16-NV thành lập tỉnh Tam Cần trên cơ sở các quận Vũng Liêm, Trà Ôn, Cầu Kè của tỉnh Vĩnh Long (Trà Ôn, Cầu Kè được tách ra từ tỉnh Cần Thơ và nhập về tỉnh Vĩnh Long từ năm 1948) và quận Tiểu Cần của tỉnh Trà Vinh. Ngày 21 tháng 7 năm 1956, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa thành lập quận Long Toàn thuộc tỉnh Trà Vinh, quận lỵ đặt tại xã Long Toàn. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh 143-NV về việc giải thể và sáp nhập tỉnh Tam Cần vào tỉnh Trà Vinh, đồng thời đổi tên tỉnh Trà Vinh thành tỉnh Vĩnh Bình; đổi tên xã Long Đức thành xã Phú Vinh và chọn làm lỵ sở của quận Châu Thành, tỉnh Vĩnh Bình. Theo đó, Vĩnh Bình là một trong 43 tỉnh của "lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa" và là một trong 22 tỉnh của Nam phần Việt Nam Cộng hòa. Lúc này, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình cũng bị đổi tên tên là "Phú Vinh", do lấy theo tên xã Phú Vinh thuộc quận Châu Thành là nơi đặt tỉnh lỵ. Năm 1957, tỉnh Vĩnh Bình (Trà Vinh) có 9 quận là Trà Ôn, Vũng Liêm, Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đến ngày 14 tháng 1 năm 1967 theo sắc lệnh số 06/SL/ĐUHC chính quyền Đệ Nhị Cộng hoà, tách hai quận Vũng Liêm và Trà Ôn ra khỏi tỉnh Vĩnh Bình để nhập vào tỉnh Vĩnh Long, do đó tỉnh Vĩnh Bình cho đến năm 1975 chỉ còn lại bảy quận: Càng Long, Cầu Kè, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Long Toàn. Đồng thời, tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh Bình vẫn giữ nguyên tên là "Phú Vinh" cho đến năm 1975. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Vĩnh Bình mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Trà Vinh. Tháng 4 năm 1957, xuất phát từ yêu cầu củng cố lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định sáp nhập huyện Tiểu Cần vào huyện Cầu Kè. Tháng 2 năm 1961, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định tách xã Long Đức (chính quyền Việt Nam Cộng Hòa gọi là xã Phú Vinh) ra khỏi huyện Châu Thành để nhập vào thị xã Trà Vinh. Tháng 2 năm 1962, Tỉnh ủy Trà Vinh quyết định thành lập huyện Duyên Hải có địa giới trùng với quận Long Toàn của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1967, Liên Tỉnh ủy Miền Tây cũng quyết định tách hai huyện Vũng Liêm và Trà Ôn từ tỉnh Trà Vinh để nhập về tỉnh Vĩnh Long. Từ giai đoạn này, tỉnh Trà Vinh cơ bản có địa giới hành chính trùng với hiện nay, bao gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện là thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Cầu Kè, Càng Long, Châu Thành, Tiểu Cần, Trà Cú, Cầu Ngang và Duyên Hải. Thời Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn duy trì tỉnh Trà Vinh cho đến đầu năm 1976. Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất tỉnh Trà Vinh và tỉnh Vĩnh Long để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Cửu Long, tỉnh lỵ đặt tại thị xã Vĩnh Long. Năm 1986, sau nhiều lần sáp nhập và chia tách, tỉnh Cửu Long bao gồm thị xã Vĩnh Long (tỉnh lỵ tỉnh Cửu Long), thị xã Trà Vinh và 12 huyện: Bình Minh, Cầu Kè, Cầu Ngang, Càng Long, Châu Thành, Duyên Hải, Long Hồ, Tam Bình, Tiểu Cần, Trà Cú, Trà Ôn, Vũng Liêm. Ngày 05 tháng 5 năm 1992, kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết giải thể tỉnh Cửu Long để tái lập tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh như cũ. Khi tách ra, tỉnh Trà Vinh có diện tích 2363,03 km², dân số 961.638 người, bao gồm thị xã Trà Vinh và 7 huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú.. Ngày 4 tháng 3 năm 2010, chuyển thị xã Trà Vinh thành thành phố Trà Vinh trực thuộc tỉnh Trà Vinh. Ngày 15 tháng 5 năm 2015, thành lập thị xã Duyên Hải trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Duyên Hải. Ngày 15 tháng 2 năm 2016, thành phố Trà Vinh được công nhận là đô thị loại II. Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm thành phố Trà Vinh, thị xã Duyên Hải và các huyện: Càng Long, Cầu Kè, Cầu Ngang, Châu Thành, Duyên Hải, Tiểu Cần, Trà Cú. Hành chính. Tỉnh Trà Vinh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện với 106 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 11 phường, 10 thị trấn và 85 xã. Ngày 20 tháng 7 năm 2022, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 859/QĐ-TTg về việc công nhận xã An toàn khu tại tỉnh Trà Vinh Ngày 27 tháng 7 năm 2022, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định 1372/QĐ-UBND về việc công bố Danh mục văn bản quy phạm pháp luật do Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành hết hiệu lực toàn bộ Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Năm 2018, Trà Vinh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 42 về số dân, xếp thứ 43 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 36 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 14 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.049.800 người dân, GRDP đạt 45.778 tỉ Đồng (tương ứng với 2,0061 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 44,00 triệu đồng (tương ứng với 1.911 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,56%. Năm 2012, tỉnh đặt mục tiêu tăng trưởng GDP từ 13,5% trở lên. Trong đó, giá trị nông nghiệp tăng 2%, lâm nghiệp tăng 5,7%, thủy sản tăng 9%, công nghiệp tăng 15%, xây dựng tăng 27,3% và dịch vụ tăng 20%. Thu nhập bình quân đầu người đạt 19,325 triệu đồng, tương đương 920 USD. Giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 200 triệu USD, tăng 15,4% so với năm 2011. Thu ngân sách 827 tỷ đồng, tăng 27,2% so năm 2011. Tổng chi ngân sách 4.169 tỷ đồng. Huy động vốn đầu tư toàn xã hội 8.700 tỷ đồng. Ngoài ra, tỉnh đặt mục tiêu một số chỉ tiêu xã hội như tạo việc làm mới cho 22.000 lao động, trong đó có 200 lao động đi làm việc ở nước ngoài. Tỷ lệ lao động qua đào tạo, bồi dưỡng chiếm 35%. Phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo 3%, trong đồng bào dân tộc Khmer 4%... Giáo dục. Hiện tại toàn tỉnh Trà Vinh có tổng cộng 402 trường học các cấp phổ thông; trong đó, có 184 trường Tiểu học, 143 trường THCS, 75 trường THPT. Ngoài ra, tỉnh còn có 223 trường mẫu giáo, 1 trường liên cấp. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trên địa bàn tỉnh Trà Vinh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần làm giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Dưới đây là danh sách các trường Đại học, Cao đẳng và một số trường nổi tiếng tại Trà Vinh: Dân cư. Trên địa bàn Trà Vinh có 3 dân tộc, đó là người Kinh (69%), người Khmer (29%) và người Hoa (2%). Dân số Trà Vinh là 1.009.168 người, chiếm 5,84% Đồng bằng sông Cửu Long (theo điều tra dân số năm 2019), trong đó: 17,2% dân số sống ở khu vực đô thị và 82,8% dân số sống ở khu vực nông thôn. Mật độ dân số 414 người/km², tỷ lệ tăng dân số năm 2019 là 0,06%. Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2022 đạt 29,35%. Theo tài liệu tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 1999, trên địa bàn Trà Vinh có trên 290,9 nghìn người Khmer, chiếm 30,1% dân số toàn tỉnh và chiếm 27,6% số người Khmer của cả nước. Đây là địa bàn cư trú lâu đời của cộng đồng dân tộc người Khmer có nền văn hóa dân tộc đặc trưng tiếng nói, chữ viết, món ăn và đặc biệt là hệ thống chùa rất đặc thù. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 12 tôn giáo khác nhau, đạt 913.541 người, nhiều nhất là Phật giáo có 769.990 người, tiếp theo là Công giáo đạt 76.992 người, đạo Cao Đài có 45.226 người, đạo Tin Lành có 634 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có 318 người, Hồi giáo chiếm 195 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 142 người. Còn lại các tôn giáo khác như Bửu Sơn Kỳ Hương có 19 người, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có 16 người, Minh Sư Đạo có bảy người Minh Lý Đạo và tôn giáo Baha'i mỗi đạo chỉ có một người. Văn hóa. Tuy là vùng đất trẻ nhưng Trà Vinh có kho tàng văn hóa đa dạng, đặc biệt là văn hóa vật thể và phi vật thể của người Khmer. Người Khmer có chữ viết riêng, các lễ hội truyền thống như "Chol chnam thmay" (mừng năm mới), "Dolta" (lễ cúng ông bà), "Ok Om Bok" (lễ cúng trăng), Dâng bông, Dâng phước và các phong tục tập quán có giá trị văn hóa khác của người Kinh, người Hoa như Lễ hội nghinh Ông tại Mỹ Long (lễ hội nghinh ông diễn ra vào ngày 10 đến 12 tháng 5 hằng năm), Vu lan thắng hội, Tiết Trùng Cửu... Người Khmer còn xây dựng trên địa bàn Trà Vinh nhiều chùa có kiến trúc độc đáo và hòa quyện thiên nhiên, tiêu biểu là chùa Âng, toạ lạc trên khu đất rộng 4ha, trong thắng cảnh Ao Bà Om.Theo thống kê, trên địa bàn Trà Vinh có tới 142 chùa Khmer, vượt xa số lượng của người Kinh, người Hoa và của các dân tộc khác hiện có trên địa bàn Trà Vinh cộng lại. Đặc điểm chung của văn hóa người Khmer Trà Vinh thường gắn bó với các ngôi chùa Nam tông Khmer và sống rất gần gũi với cây xanh. Riêng tại Thành phố Trà Vinh, có tới trên dưới 15.000 cây, với nhiều chủng loại và trong số đó có rất nhiều cây cổ thụ, với khoảng gần 1.000 cây trên trăm tuổi, được trồng từ thời Pháp. Nhờ cây cối bao bọc, khí hậu ở đây rất mát mẻ, dễ chịu. Vì vậy, với nền văn hóa gắn liền với cây xanh, Trà Vinh được mệnh danh là “thành phố trong rừng xanh”, “thành phố công viên” hay “thành phố cây cổ thụ”. Ngoài ra có chùa Hang, ở khu đất 10ha với những cây cổ thụ xum xuê rộn tiếng chim gọi bầy; chùa Nôdol còn gọi là chùa Cò vì trên khuôn viên chùa rộng 3ha đã hơn 100 năm nay trở thành nơi cư trú của hàng ngàn con cò và nhiều loại con chim quý khác; chùa Samrônge, tương truyền được xây dựng lần đầu vào năm 642 và xây dựng lại năm 1850 với nhiều biểu tượng bằng đá quý và những tấm bia cổ khắc chữ Khmer. Lễ hội cúng ông (Phúc Đức Chính Thần, địa phương gọi là "ông Bổn", tiếng Hoa là Bửng Thào Côn) của người Hoa gốc Triều Châu vào rằm tháng 7 hàng năm tại huyện Cầu Kè. Vài nơi tập trung khu xóm theo Thiên Chúa Giáo như Bãi San, Đức Mỹ... Nhà thờ tại thành phố Trà vinh có kiến trúc đẹp và cổ điển. Giáo xứ Nhị Long huyện Càng Long. Đặc sản ẩm thực. Trà Vinh có nhiều món ăn và thức uống đã trở thành đặc sản địa phương như Rượu Xuân Thạnh; Bánh tét Trà Cuôn; Dừa sáp Cầu Kè; Bún nước lèo; Tôm khô Vinh Kim; Bánh canh Bến Có; Bánh ống lá dứa; Nước mắm rươi; Bánh xèo; Cốm dẹp trộn dừa kiểu Khmer; Các món đuông như đuông chà là, đuông đất và đuông dừa; Bánh tráng Ba Se; Mắm kho; Lươn um lá cách; Cá cháy Cầu Quan; Tôm càng nấu lẩu chua cơm mẻ; Chuột đồng khìa nước dừa; Vọp chong nướng lụi; Bánh tráng nướng Giáo Loan (Bánh tráng béo nước cốt dừa); v.v. Giao thông. Giao thông đường bộ. Toàn tỉnh có 03 quốc lộ chính là 53, 54 và 60, hiện nay đã được nâng cấp lên cấp 3 đồng bằng nối Trà Vinh với TP. Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Hai tuyến cầu nối tỉnh Sóc Trăng - Trà Vinh - Bến Tre bao gồm Cầu Đại Ngãi ( chưa hoàn thành) nối 2 tỉnh Sóc Trăng và Trà Vinh, Cầu Cổ Chiên ( đã hoàn thành) nối 2 tỉnh Trà Vinh và Bến Tre. Đồng thời cũng là 2 trong 4 cầu quan trọng trên tuyến quốc lộ 60, các cầu khác là cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông. Từ tỉnh lỵ Trà Vinh đi đường bộ đến Thành phố Hồ Chí Minh 200 km ( theo tuyến QL.53, đường sang tỉnh Vĩnh Long) và 120km ( tuyến QL.60, đường sang tỉnh Bến Tre) , đến thành phố Cần Thơ 80 km, đến khu du lịch Biển Ba Động 60 km. Quốc lộ 53 nối liền các thị trấn trong tỉnh với Thành phố Trà Vinh và thành phố Vĩnh Long. Đây là một trong những tuyến đường bộ nối Trà Vinh với các tỉnh thuộc Đồng bằng Sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Giao thông đường thủy. Trà Vinh có bờ biển dài trên 65 km, được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu với 02 cửa Cổ Chiên (Cung Hầu) và Định An rất thuận lợi để phát triển giao thông đường thủy. Từ Trà Vinh đi Bến Tre, Tiền Giang, TP. Hồ Chí Minh theo tuyến sông Tiền rất thuận lợi, từ biển Đông đi qua kênh đào Trà Vinh đến cảng Cần Thơ là tuyến vận tải đường thủy chính của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long để thông thương với quốc tế.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Sóc Trăng là một tỉnh ven biển, nằm trong vùng hạ lưu Nam sông Hậu thuộc đồng bằng sông Cửu Long, Việt Nam. Năm 2018, Sóc Trăng là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 22 về số dân, xếp thứ 38 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 51 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 47 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.315.900 người dân, GRDP đạt 49.346 tỉ Đồng (tương ứng với 2,1432 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 37,5 triệu đồng (tương ứng với 1.628 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,20%. Nguồn gốc tên gọi. Tên gọi Sóc Trăng do từ "Srok Kh'leang" của tiếng Khmer mà ra. "Srok" (ស្រុក) tức là "xứ", "cõi", "Kh'leang" (ឃ្លាំង) là "kho", "vựa", "chỗ chứa bạc". "Srok Kh'leang" (ស្រុកឃ្លាំង) mang ý nghĩa là xứ có kho chứa bạc của nhà vua. Tiếng Việt phiên âm ra là "Sốc-Kha-Lang" rồi sau đó thành Sóc Trăng. Dưới triều Minh Mạng, Sóc Trăng đổi thành "Sông Trăng", dịch theo Hán tự là "Nguyệt Giang" (月江), nên Sóc Trăng gọi là "Nguyệt Giang tỉnh". Đại Nam nhất thống chí viết về sông Ba Xuyên thuộc địa bàn tỉnh An Giang nhà Nguyễn như sau: Cũng theo Lê Hương, tên gọi Sóc Trăng đọc trại từ "Srok Tréang" trong tiếng Khmer, có nghĩa là "vùng đất lau sậy" hay "Bãi Sậy". Lí do là vì xưa kia lau sậy hoang mọc nhiều ở vùng này. Lịch sử. Thời phong kiến. Vùng Sóc Trăng tiền thân vốn là đất Ba Thắc, phường 10 nửa cuối thế kỷ 18 đã bắt đầu được sáp nhập vào lãnh thổ xứ Đàng Trong của Việt Nam. Ban đầu vùng Sóc Trăng (Ba Thắc) thuộc dinh Vĩnh Trấn, (sau đổi thành trấn Vĩnh Thanh), phủ Gia Định của Đàng Trong. Đại Nam nhất thống chí viết rằng: Đất Ba Thắc (sau là phủ Ba Xuyên tỉnh An Giang) nguyên là đất Cao Miên, đến đầu thời trung hưng cơ nghiệp chúa Nguyễn của Nguyễn Ánh (tức là khoảng sau năm 1788, sau khi lấy lại được vùng đất Nam Hà (Miền Nam Việt Nam) từ tay nhà Tây Sơn), Nguyễn Ánh lập đất đó thành phủ An Biên và cho người Man (người Cao Miên) lập đồn điền ở đây. Đến năm Nhâm Tý (1792) Nặc Ấn (Ang Eng tức Narayanaraja III (1779-1796)) từ Xiêm La trở về Cao Miên. Nguyễn Ánh cắt đất Ba Thắc trả về cho Nặc Ấn. Năm Minh Mạng thứ 16 (1835), quan phiên (người Cao Miên) là Trà Long xin đặt quan cai trị [đất ấy], Minh Mạng liền đổi tên phủ là Ba Xuyên và cho đặt chức an phủ sứ để quản phủ này. (Phủ An Biên (thuộc dinh Vĩnh Trấn (Long Hồ)) này là khác với phủ An Biên của tỉnh Hà Tiên nhà Nguyễn chỉ mới đặt ra vào năm Minh Mạng thứ 7 (1826)) Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu viết: Như vậy, đất Ba Thắc của Cao Miên, bắt đầu thuộc chúa Nguyễn (do Nặc Ong Nhuận (Ang Tong tức vua Ramathipadi II), (khoảng năm 1756-1757) dâng cho chúa Nguyễn Phúc Khoát cùng với đất Trà Vinh) giai đoạn 1757-1792; rồi lại về Cao Miên giai đoạn 1792-1835 (cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19); từ sau năm 1835 vùng đất Ba Thắc (tiền thân của Sóc Trăng) mới hoàn toàn thuộc vào lãnh thổ Đại Nam (tức Việt Nam) (giai đoạn 1835-1867 đất Ba Thắc trở thành phủ Ba Xuyên thuộc tỉnh An Giang nhà Nguyễn). Năm 1840, vua Minh Mạng đổi chức An phủ sứ thành Tri phủ, cử người Kinh đảm trách. Phủ Ba Xuyên lúc này tục gọi là Sóc Trăng, có 3 huyện Phong Nhiêu, Phong Thạnh và Vĩnh Định. Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Sơn Nam viết: Thời Pháp thuộc. Đầu thời Pháp thuộc, phủ Ba Xuyên đổi thành hạt thanh tra Ba Xuyên. Ngày 15 tháng 7 năm 1867, Pháp đổi hạt thanh tra Ba Xuyên thành hạt thanh tra Sóc Trăng, gồm 11 tổng; do Bertaux Levillain làm Chủ hạt đầu tiên (1867 - 1868). Ngày 05 tháng 6 năm 1871, Chủ hạt Sóc Trăng là Lahagre đồng ý nhận thêm hạt Long Xuyên tách ra từ hạt Rạch Giá. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, hạt Long Xuyên được trả về cho hạt Rạch Giá. Từ ngày 05 tháng 1 năm 1876, các hạt thanh tra được đổi thành hạt tham biện, các thôn được gọi là làng. Chủ tỉnh lúc đó là Rossigneux. Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899 của Toàn quyền Đông Dương đổi tất cả các hạt tham biện thành tỉnh thì từ ngày 1 tháng 1 năm 1900 hạt tham biện Sóc Trăng trở thành tỉnh Sóc Trăng.. Tỉnh lỵ Sóc Trăng đặt tại làng Khánh Hưng thuộc tổng Nhiêu Khánh, quận Châu Thành. Viên chủ tỉnh đầu tiên là Gustave H. Delanoue (1900 - 1901). Ngày 10 tháng 9 năm 1906, tỉnh Sóc Trăng có 3 quận là Phú Lộc, Kế Sách, Bàng Long; chủ tỉnh là Laffont. Ngày 30 tháng 8 năm 1916, quận Châu Thành thuộc tỉnh Sóc Trăng được thành lập. Ngày 01 tháng 3 năm 1926, quận Bàng Long được đổi tên thành quận Long Phú. Ngày 10 tháng 12 năm 1926, Chủ tỉnh Sóc Trăng là Maurice Esquivillon đổi tên quận Phú Lộc thành quận Thạnh Trị. Ngày 19 tháng 11 năm 1929, Pháp hủy bỏ tất cả các Nghị định thành lập quận trước đó, giao cho một ban nghiên cứu chia lại các quận. Ngày 1 tháng 1 năm 1930, tỉnh Sóc Trăng được chia thành 3 quận là Châu Thành, Kế Sách và Long Phú. Năm 1941, Thống đốc Nam Kỳ quyết định thành lập lại quận Thạnh Trị thuộc tỉnh Sóc Trăng. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Năm 1948, tỉnh Sóc Trăng nhận thêm huyện Vĩnh Châu do tỉnh Bạc Liêu giao cho. Chính quyền Việt Minh nhập huyện Vĩnh Châu vào địa bàn huyện Thạnh Trị. Trong kháng chiến chống Pháp, tỉnh Sóc Trăng còn nhận thêm một số xã của tỉnh Rạch Giá và tỉnh Cần Thơ giao qua như: Mỹ Qưới, Hương Qưới, Vĩnh Qưới, Lộc Hòa, Long Trị, Long Tân, Tân Long, Long Phú, Phương Bình, Phương Phú (của tỉnh Rạch Giá) và Tân Phước Hưng (của tỉnh Cần Thơ). Năm 1954, tỉnh Sóc Trăng lại trao trả huyện Vĩnh Châu về cho tỉnh Bạc Liêu quản lý trở lại như trước. Giai đoạn 1954-1975. Việt Nam Cộng hòa. Ban đầu, chính quyền Quốc gia Việt Nam và sau đó là Việt Nam Cộng hòa vẫn duy trì tên gọi tỉnh Sóc Trăng và tỉnh lỵ Sóc Trăng như thời Pháp thuộc. Năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Sóc Trăng thành 8 quận: Châu Thành, Kế Sách, Long Phú, Thạnh Trị, Long Mỹ, Bãi Xàu, Bố Thảo và Lịch Hội Thượng. Trong đó, quận Long Mỹ được tỉnh Sóc Trăng nhận từ tỉnh Rạch Giá. Tuy nhiên, không lâu sau quận Long Mỹ lại được giao cho tỉnh Cần Thơ quản lý. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ra Sắc lệnh số 143-NV để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Nam Phần của Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Ba Xuyên được thành lập bao gồm phần đất tỉnh Sóc Trăng và tỉnh Bạc Liêu trước đó, tỉnh lỵ đặt tại Sóc Trăng nhưng lúc này lại đổi tên là Khánh Hưng. Tỉnh lỵ Khánh Hưng lấy theo tên xã Khánh Hưng thuộc quận Châu Thành (sau năm 1958 là quận Mỹ Xuyên) vốn là nơi đặt tỉnh lỵ tỉnh Ba Xuyên. Năm 1957, tỉnh Ba Xuyên gồm 8 quận: Châu Thành, Thạnh Trị, Long Phú, Lịch Hội Thượng, Bố Thảo (cùng thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ), Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Giá Rai, Phước Long (cùng thuộc tỉnh Bạc Liêu cũ). Ngày 23 tháng 2 năm 1957, tỉnh trưởng Ba Xuyên là Huỳnh Văn Tư giao quận Kế Sách cho tỉnh Phong Dinh (tức tỉnh Cần Thơ trước đó) quản lý. Ngày 13 tháng 1 năm 1958, theo Nghị định số 9-BNV/NC/NP của chính quyền Việt Nam Cộng hòa, địa giới hành chính tỉnh Ba Xuyên có sự điều chỉnh. Theo đó, quận Châu Thành đổi tên thành quận Mỹ Xuyên, quận Bố Thảo đổi tên thành quận Thuận Hoà, giải thể quận Lịch Hội Thượng và quận Vĩnh Châu. Các tổng và xã của các quận cũng có sự điều chỉnh quận Thạnh Trị còn 2 tổng Thạnh An, Thạnh Lộc, quận Long Phú có thêm tổng Định Phước. Ngày 16 tháng 9 năm 1958, tỉnh trưởng Ba Xuyên là Trần Thanh Bền nhận lại quận Kế Sách từ tỉnh Phong Dinh. Ngày 5 tháng 12 năm 1960, tái lập quận Vĩnh Châu. Ngày 21 tháng 12 năm 1961, quận Phước Long được chính quyền Việt Nam Cộng hòa giao cho tỉnh Chương Thiện. Lúc này, quận Phước Long cũng bị chia ra thành hai quận có tên là quận Phước Long và quận Kiến Thiện cùng thuộc tỉnh Chương Thiện. Sắc lệnh số 245-NV ngày 8 tháng 9 năm 1964 của Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa quy định kể từ ngày 1 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Bạc Liêu, trên cơ sở tách các quận Vĩnh Lợi, Giá Rai, Vĩnh Châu của tỉnh Ba Xuyên và quận Phước Long của tỉnh Chương Thiện. Phần đất còn lại tương ứng với tỉnh Sóc Trăng trước năm 1956, tuy nhiên Việt Nam Cộng hòa vẫn giữ tên tỉnh Ba Xuyên cho vùng đất này đến năm 1975. Ngày 11 tháng 12 năm 1965, tái lập quận Lịch Hội Thượng. Ngày 11 tháng 7 năm 1968, lập quận Hòa Tú. Ngày 16 tháng 6 năm 1969, lập quận Ngã Năm. Năm 1973, tỉnh Ba Xuyên gồm 8 quận: Mỹ Xuyên, Thuận Hòa, Long Phú, Thạnh Trị, Kế Sách, Ngã Năm, Lịch Hội Thượng, Hòa Tú. Tỉnh lỵ tỉnh Ba Xuyên vẫn giữ nguyên tên là "Khánh Hưng" cho đến năm 1975. Các viên Chủ tỉnh Ba Xuyên (1950 - 1975): Chính quyền Cách mạng. Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cùng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không công nhận tên gọi tỉnh Ba Xuyên mà vẫn gọi theo tên cũ là tỉnh Sóc Trăng. Năm 1957, Liên Tỉnh uỷ miền Tây giải thể tỉnh Bạc Liêu, đồng thời đưa các huyện Giá Rai, Vĩnh Lợi, Vĩnh Châu, Hồng Dân, thị xã Bạc Liêu về tỉnh Sóc Trăng quản lý. Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định hợp nhất huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi, lấy tên là huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu. Năm 1958, huyện Kế Sách của tỉnh Sóc Trăng được giao về cho tỉnh Cần Thơ quản lý đến năm 1976. Đầu năm 1961, chính quyền Cách mạng thành lập thêm huyện Mỹ Xuyên trên cơ sở tách một số xã của huyện Thạnh Trị và huyện Châu Thành. Năm 1962, huyện Giá Rai được giao cho tỉnh Cà Mau. Năm 1963, Tỉnh uỷ Sóc Trăng quyết định giải thể huyện Vĩnh Lợi - Vĩnh Châu, tái lập huyện Vĩnh Châu và huyện Vĩnh Lợi. Tháng 8 năm 1966, huyện Long Phú được chia thành 2 huyện: Long Phú và Lịch Hội Thượng. Trong giai đoạn 1964-1973, địa bàn tỉnh Bạc Liêu của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Sóc Trăng của chính quyền cách mạng quản lý. Tháng 11 năm 1973, Khu uỷ Tây Nam Bộ quyết định tái lập tỉnh Bạc Liêu, gồm 4 đơn vị hành chính cấp huyện: Vĩnh Lợi, Giá Rai, Hồng Dân và thị xã Bạc Liêu. Tuy nhiên, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng cho đến năm 1976. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Sóc Trăng cho đến đầu năm 1976. Lúc này, chính quyền Cách mạng cũng bỏ danh xưng "quận" có từ thời Pháp thuộc và lấy danh xưng "huyện" (quận và phường dành cho các đơn vị hành chánh tương đương khi đã đô thị hóa). Ngày 20 tháng 9 năm 1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 245-NQ/TW về việc bỏ khu, hợp tỉnh trong toàn quốc "nhằm xây dựng các tỉnh thành những đơn vị kinh tế, kế hoạch và đơn vị hành chính có khả năng giải quyết đến mức cao nhất những yêu cầu về đẩy mạnh sản xuất, tổ chức đời sống vật chất, văn hóa của nhân dân, về củng cố quốc phòng, bảo vệ trị an, và có khả năng đóng góp tốt nhất vào sự nghiệp chung của cả nước". Theo Nghị quyết này, tỉnh Vĩnh Long, tỉnh Trà Vinh, tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ sẽ hợp nhất lại thành một tỉnh, tên gọi tỉnh mới cùng với nơi đặt tỉnh lỵ sẽ do địa phương đề nghị lên. Nhưng đến ngày 20 tháng 12 năm 1975, Bộ Chính trị lại ra Nghị quyết số 19/NQ điều chỉnh lại việc hợp nhất tỉnh ở miền Nam Việt Nam cho sát với tình hình thực tế, theo đó tỉnh Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng và thành phố Cần Thơ được tiến hành hợp nhất lại thành một tỉnh. Từ năm 1976 đến nay. Theo Nghị định số 03/NĐ-76 ngày 24 tháng 2 năm 1976 và Quyết định số 17/QĐ-76 ngày 24 tháng 3 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định hợp nhất ba đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau là tỉnh Sóc Trăng, tỉnh Cần Thơ và thành phố Cần Thơ để thành lập một tỉnh mới có tên là tỉnh Hậu Giang. Lúc này, huyện Châu Thành (thuộc tỉnh Sóc Trăng cũ) được đổi tên thành huyện Mỹ Tú, do tỉnh Hậu Giang lúc này đã có huyện Châu Thành vốn trước đó thuộc tỉnh Cần Thơ. Tỉnh Hậu Giang lúc này gồm có thành phố Cần Thơ (tỉnh lỵ), thị xã Sóc Trăng và 12 huyện: Châu Thành, Kế Sách, Long Mỹ, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Ô Môn, Phụng Hiệp, Thạnh Trị, Thốt Nốt, Vị Thanh, Vĩnh Châu. Tỉnh lỵ tỉnh Hậu Giang lúc đó là thành phố Cần Thơ. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, Quốc hội ban hành nghị quyết chia tỉnh Hậu Giang thành hai tỉnh Cần Thơ và tỉnh Sóc Trăng. Tỉnh Sóc Trăng có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Sóc Trăng (tỉnh lỵ) và 6 huyện: Kế Sách, Long Phú, Mỹ Tú, Mỹ Xuyên, Thạnh Trị, Vĩnh Châu. Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/2002/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính huyện Long Phú để thành lập huyện Cù Lao Dung. Ngày 31 tháng 10 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 127/2003/NĐ-CP về việc thành lập huyện Ngã Năm trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Thạnh Trị. Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 22/2007/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sóc Trăng. Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 02/NĐ-CP về việc thành lập huyện Châu Thành trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mỹ Tú. Ngày 23 tháng 12 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 64/NQ-CP về việc thành lập huyện Trần Đề trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của hai huyện Long Phú và Mỹ Xuyên. Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP về việc thành lập thị xã Vĩnh Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Châu. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 133/NQ-CP về việc thành lập thị xã Ngã Năm trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ngã Năm. Tỉnh Sóc Trăng có 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện như hiện nay. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Sóc Trăng nằm ở cửa Nam sông Hậu, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 231 km, cách Cần Thơ 62 km, nằm trên tuyến Quốc lộ 1 nối liền các tỉnh Hậu Giang, Thành phố Cần Thơ, Bạc Liêu, Cà Mau. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí tọa độ 9012’ - 9056’ vĩ Bắc và 105033’ - 106023’ kinh Đông. Đường bờ biển dài 72 km và 3 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề, Mỹ Thanh đổ ra Biển Đông. Tỉnh Sóc Trăng có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Sóc Trăng Địa hình. Địa hình trong tỉnh Sóc Trăng thấp và tương đối bằng phẳng, có dạng lòng chảo, cao ở phía sông Hậu và biển Đông thấp dần vào trong, vùng thấp nhất là phía Tây và Tây Bắc, với Độ cao cốt đất tuyệt đối từ 0,4 - 1,5m, độ dốc thay đổi khoảng 45 cm/km chiều dài. Tiểu địa hình có dạng gợn sóng không đều, xen kẽ là những giồng cát địa hình tương đối cao và những vùng thấp trũng nhiễm mặn, phèn. Sóc Trăng có hệ thống kinh rạch chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, đồng thời còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên. Khí hậu. Sóc Trăng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa chịu ảnh hưởng gió mùa, chia thành mùa là mùa khô và mùa mưa, trong đó: Các điều kiện khí hậu như trên thuận lợi phát triển trồng cây lúa và các loại hoa màu khác. Sông ngòi. Sóc Trăng có hệ thống kênh rạch chịu ảnh hường của chế độ thủy triều ngày lên xuống 2 lần, mực triều dao động trung bình từ 0,4 m đến 1 m. Thủy triều vùng biển không những gắn liền với các hoạt động sản xuất, sinh hoạt của cư dân địa phương, mà còn mang lại nhiều điều kỳ thú cho du khách khi đến tham quan, du lịch và tìm hiểu hệ sinh thái rừng tự nhiên. Nhờ vào địa thế đặc biệt, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển Đông, vùng có nhiều trữ lượng tôm cá, Sóc Trăng có đủ điều kiện thuận lợi để cũng như phát triển kinh tế biển tổng hợp. Tài nguyên đất. Đất đai của Sóc Trăng có độ màu mỡ cao, thích hợp cho việc phát triển cây lúa nước, cây công nghiệp ngắn ngày như: mía, đậu nành, bắp... các loại rau màu như: hành, tỏi... các loại cây ăn trái như: bưởi, xoài, sầu riêng... Hiện đất nông nghiệp chiếm 82,89%, trong đó: Đất nông nghiệp trong địa bàn tỉnh chủ yếu sử dụng cho canh tác lúa, cây hàng năm khác và diện tích đất còn lại dùng trồng cây lâu năm và cây ăn trái, ngoài ra cũng có nhiều diện tích đất tự nhiên chưa được sử dụng. Đất đai tại Sóc Trăng có thể chia thành 4 nhóm chính: nhóm đất cát, nhóm đất phù sa, nhóm đất mặn, nhóm đất nhân tác. Điều kiện tự nhiên trong địa bàn tỉnh nhìn chung cũng đang gặp phải khó khăn như thiếu nước ngọt và bị xâm nhập mặn trong Mùa khô, một số khu vực bị nhiễm phèn, nhưng việc sử dụng đất ở Sóc Trăng lại có nhiều thuận lợi cơ bản để phát triển nông, ngư nghiệp đa dạng và trên cơ sở đó hình thành những khu du lịch sinh thái phong phú. Đặc biệt, Sóc Trăng còn có dải cù lao thuộc huyện Kế Sách, Long Phú và Cù Lao Dung chạy dài ra tận cửa biển với nhiều cây trái nhiệt đới, không khí trong lành như cồn Mỹ Phước, Khu du lịch Song Phụng, Cù Lao Dung... là địa điểm lý tưởng để phát triển loại hình du lịch sinh thái. Tài nguyên rừng. Sóc Trăng còn có nguồn tài nguyên rừng với các loại cây chính như Tràm, bần, giá, vẹt, đước, dừa nước. Rừng của Sóc Trăng thuộc hệ rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm ở khu vực đất nhiễm phèn. Tài nguyên biển. Sóc Trăng còn có 72 km bờ biển với 2 cửa sông lớn là sông Hậu và sông Mỹ Thanh, có nguồn hải sản đáng kể bao gồm cá đáy, cá nổi và tôm. Sóc Trăng có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế biển tổng hợp, thủy hải sản, nông - lâm nghiệp biển, công nghiệp hướng biển, thương cảng, cảng cá, dịch vụ cảng biển, xuất nhập khẩu, du lịch và vận tải biển. Hành chính. Tỉnh Sóc Trăng có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện với 109 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 12 thị trấn và 80 xã. Kinh tế. Năm 2018, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh chuyển biến tích cực; tăng trưởng kinh tế đạt 7,2%; có 16/20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội đạt và vượt chỉ tiêu nghị quyết và 3/20 chỉ tiêu đạt 99% chỉ tiêu nghị quyết năm. Sản xuất nông nghiệp tương đối ổn định, trong đó diện tích lúa đặc sản chiếm 50% tổng diện tích, tổng sản lượng lúa cả năm là 2,13 triệu tấn; chăn nuôi từng bước phát triển theo hướng tập trung, ứng dụng công nghệ cao, quy mô đàn giảm nhưng tập trung phát triển và chất lượng; sản lượng thủy, hải sản đều tăng so với cùng kỳ. Giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội đều tăng so cùng kỳ; hoạt động thu hút đầu tư có nhiều khởi sắc, năm 2018 tỉnh đã tiếp xúc và làm việc với 141 lượt nhà đầu tư đến tìm hiểu, đăng ký thực hiện 141 dự án; thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh vượt dự toán. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ; các hoạt động văn hóa được tổ chức sôi nổi, thiết thực chào mừng các ngày lễ, kỷ niệm và sự kiện chính trị quan trọng của tỉnh và cả nước; chất lượng dạy và học từng bước được nâng lên; giáo dục mầm non, giáo dục dân tộc tiếp tục được quan tâm đầu tư và đẩy mạnh; công tác phòng, chống dịch, khám chữa bệnh được chủ động triển khai thực hiện, tình hình dịch bệnh ở người cơ bản được kiểm soát. Các chính sách an sinh xã hội, chính sách đối với người có công, người nghèo, người dân tộc thiểu số được quan tâm thực hiện; giải quyết việc làm, giảm nghèo vượt chỉ tiêu kế hoạch; trong năm 2018 toàn tỉnh có 11.281 hộ thoát nghèo, hiện nay còn 27.267 hộ nghèo, chiếm tỉ lệ 8,43%. An ninh - quốc phòng, trật tự an toàn xã hội tiếp tục được giữ vững; công tác thanh tra, tư pháp, cải cách hành chính được các ngành, các cấp quan tâm thực hiện. Năm 2019, tỉnh đạt và vượt 20 chỉ tiêu kinh tế - xã hội, trong đó có 12 chỉ tiêu vượt Nghị Quyết, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,3%. Cơ cấu kinh tế khu vực I - II - III tương ứng là 37,77% - 17,82% - 44,41%; trong đó, khu vực I tăng 4,8%, khu vực II tăng 10,82%, khu vực III tăng 8,14%. Các địa phương gieo trồng 61.004 ha hoa màu và cây công nghiệp ngắn ngày, tăng 2,62% so cùng kỳ; diện tích sản xuất theo tiêu chuẩn VietGAP tăng 11,6 ha. Diện tích cây ăn trái 31.370 ha, tăng 6,37%; trong đó có 265,8 ha áp dụng mô hình sản xuất VietGAP, với 5 ha vú sữa và 10 ha bưởi áp dụng mô hình liên kết tiêu thụ. Trên địa bàn tỉnh có 302 trang trại chăn nuôi; trong đó có 2 trang trại nuôi gà và 1 trang trại nuôi heo ứng dụng công nghệ cao. Toàn tỉnh có trên 687 ha diện tích nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao với mật độ khoảng 200-500 con/m2. Tổng sản lượng thủy sản 281.352 tấn, tăng 7,81%, trong đó sản lượng tôm nước lợ là 150.350 tấn, tăng 12,4%. Trong năm, tỉnh tập trung đẩy nhanh tiến độ thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới; tính đến nay, toàn tỉnh có 42 xã đạt 19/19 tiêu chí nông thôn mới, có 26 xã đạt từ 15 tiêu chí trở lên; 12 xã còn lại đạt từ 12 đến 14 tiêu chí. Tính bình quân trên toàn tỉnh, mỗi xã đạt 16,85 tiêu chí. Xã hội. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Sóc Trăng đạt 1.199.555 người, mật độ dân số đạt 300 người/km².Trong đó dân số sống tại thành thị đạt gần 388.550 người, chiếm 32,4% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 811.103 người, chiếm 67,6% dân số. Dân số nam đạt 597.922 người, trong khi đó nữ đạt 601.731 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương giảm 0,75 ‰ Sóc Trăng là địa bàn cư trú của ba dân tộc chính là dân tộc Kinh (774.807 người), Hoa, Khmer cùng với nhiều dân tộc khác Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 10 tôn giáo khác nhau đạt 688.461 người, nhiều nhất là Phật giáo có 662.990 người, tiếp theo là Công giáo đạt 13.607 người, đạo Cao Đài có 7.260 người, đạo Tin Lành có 3.770 người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam chiếm 468 người, Phật giáo Hòa Hảo đạt 255 người. Còn lại là các tôn giáo khác như Hồi giáo có 99 người, Minh Lý Đạo có tám người, Minh Sư Đạo và Bửu Sơn Kỳ Hương mỗi đạo chỉ có hai người. Y tế. Ngành y tế tại tỉnh Sóc Trăng tương đối đồng nhất. Ở các đơn vị hành chính cấp huyện đều có các trung tâm y tế, trạm y tế. Các bệnh viện lớn và Trung tâm y tế huyện như: Trên địa bàn toàn tỉnh có 125 cơ sở khám chữa bệnh trực thuộc Sở Y tế. Trong đó có 05 bệnh viện, 11 trung tâm y tế và 109 trạm y tế phường xã, tổng số giường bệnh là 2.231 giường, trong đó các bệnh viện có 1.460 giường, phòng khám phòng khám đa khoa khu vực có 190 giường, trạm y tế có 581 giường . Giáo dục - đào tạo. Hệ thống giáo dục - đào tạo tại Sóc Trăng có cơ sở hạ tầng khá đầy đủ, đáp ứng giảng dạy cho nhiều đối tượng khác nhau. Tính đến ngày 30 tháng 9 năm 2008, toàn tỉnh Sóc Trăng có 422 trường học ở các cấp phổ thông, đứng thứ 4 ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đến thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2008: Các trường Cao đẳng ở Sóc Trăng gồm: Văn hóa. Với một nền văn hóa đặc sắc và khá riêng biệt mà có thể gọi là: "văn hoá xứ giồng", thể hiện qua các mặt trong đời sống hằng ngày của người Sóc Trăng, từ ngôn ngữ, mối quan hệ xã hội, tên đất, tên làng đến tín ngưỡng tôn giáo, ẩm thực và lễ hội của người Kinh, Hoa, Khmer và số ít người Chăm. Lễ hội. Năm 2013, tỉnh Sóc Trăng tổ chức Festival Đua Ghe Ngo Đồng bằng sông Cửu Long được tổ chức 2 năm một lần. Lễ kỳ yên ở các đình chùa. Mỗi làng xã người Việt, người Hoa thường có đình chùa và được tổ chức vào khoảng 3 ngày liên tiếp trong năm tùy đình chùa đó. Lễ hội chính là cúng thần và trình diễn cải lương. Di tích. Sóc Trăng là tỉnh có hơn 200 ngôi chùa của cả ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer. Nổi tiếng thì phải kể đến Chùa Dơi (chùa Mã Tộc, Mahatup), Chùa Đất Sét (Bửu Sơn tự), Chùa Khléang, chùa Chén Kiểu (chùa Salon), chùa La Hán, chùa Bốn Mặt (chùa Barai), chùa Quan Âm linh ứng, Chùa Khánh Sơn, chùa Hương Sơn, chùa Đại Giác... Ngoài ra còn còn có đền thờ, đình, miếu, nhà thờ, thánh thất... Bửu Sơn tự (hay chùa Đất Sét): Đây là một am thờ đã qua nhiều đời của dòng tộc họ Ngô, có tất cả tượng Phật đến linh thú, bảo tháp, đỉnh trầm đều được làm từ đất sét. Phần lớn do ông Ngô Kim Tòng sáng tạo trong suốt 42 năm (1928-1970). Ngoài ra, trong chùa còn có 6 cây nến lớn hai cây nặng 200 kg hai cây nến nhỏ nặng 100 kg và ba cái đỉnh bằng đất mỗi cái cao 2m. Hai cây nến nhỏ đã đốt liên tục trong 40 năm kể từ năm 1970 khi ông Ngô Kim Tòng qua đời. Sáu cây nến lớn chưa đốt, mỗi cây sẽ có thời gian cháy liên tục khoảng 70 năm. Chùa Mã Tộc (hay chùa Dơi): Chùa được xây dựng cách đây hơn 400 năm . Chùa còn có tên là chùa Dơi vì ngôi chùa này từ lâu đã là nơi trú ẩn của khoảng 1 triệu con dơi, phần lớn có sải cánh 1-1h,2 m, những con lớn nhất có sải cánh lên tới 1,5 m. chúng treo mình trên những cành cây chung quanh chùa để ngủ suốt ngày,đến chiều tối mới bắt đầu lần lượt bay đi kiếm ăn ở những nơi có nhiều vườn trái cây cách xa Hòa An Hội Quán (chùa Ông Bổn): Chùa được xây dựng vào năm 1875, chùa thờ ông bổn (Bổn Đầu Công).Chùa được xây dựng với kiến trúc độc đáo của người Hoa chất liệu toàn bằng đá, gỗ quý từ Trung Quốc chở qua. Di tích này được trải qua 7 đợt trùng tu nhưng vẫn giữ được những giá trị nghệ thuật kiến trúc.Rằm tháng giêng hàng năm nhân tết nguyên tiêu chùa đều có tổ chức lễ hội đấu đèn lồng. Khu căn cứ tỉnh ủy Sóc Trăng, xã Mỹ Phước, huyện Mỹ Tú. Đền thờ Bác Hồ, xã An Thạnh Đông, huyện Cù Lao Dung Đặc sản. Sóc Trăng có nền văn hóa ẩm thực hết sức phong phú và đa dạng, trong đó có thể kể đến như: Du lịch. Ngoài chùa chiền và các lễ hội đặc sắc. Sóc Trăng còn có những địa điểm tham quan như: Hồ Nước Ngọt: khu công viên văn hóa này rộng khoảng 20ha, tọa lạc trên đường Hùng Vương, thành phố Sóc Trăng. Chợ nổi Ngã Năm: nằm tại trung tâm thị xã Ngã Năm. Vườn cò Tân Long: nằm tại xã Long Bình, thị xã Ngã Năm, tỉnh Sóc Trăng, vườn cò này do gia đình ông Huỳnh Văn Mười quản lý. Với diện tích rộng khoảng 1,5ha, được che phủ bởi những bụi tre, hàng dừa đã tạo nên một môi trường tự nhiên lí tưởng cho loài cò. Cùng với sự chăm nom của ông Mười, nơi này hình thành một sân chim với hàng vạn con cò, vạc sinh sống hòa thuận. Đại gia đình chim gồm: cò gà, cò trắng tinh, cò đầu đỏ, cò trâu, cồng cộc, vạc... Cồn Mỹ Phước: nằm gần cuối hạ lưu sông Hậu, thuộc địa phận xã Nhơn Mỹ, huyện Kế Sách. Với khí hậu, thổ nhưỡng, sông nước đặc thù khu vực đồng bằng sông Cửu Long nên cồn Mỹ Phước là môi trường thích hợp để các loại cây ăn trái phát triển. Thời điểm cồn Mỹ Phước đón nhiều du khách nhất là dịp diễn ra Lễ hội Sông nước Miệt vườn (trong 2 ngày mồng 4 và mồng 5 tháng 5 (âm lịch) hàng năm), với các hoạt động như: nghi thức, nghi lễ cúng Tết Đoan Ngọ, hội thi làm bánh xèo, hội chợ đưa hàng Việt về nông thôn, hội thảo về cây ăn trái, hội thảo sông nước miệt vườn, đua thuyền rồng, đua ca nô, đua vỏ lãi, nhảy bao, đập nồi... Hồ Bể: Thuộc xã Vĩnh Hải, thị xã Vĩnh Châu, Hồ Bể là một bãi biển vừa được khai phá giữa vùng trồng rừng phòng hộ ven biển. Bãi biển dài 5 cây số, vẫn còn mộc mạc, hoang sơ, thích hợp cho những chuyến thư giãn cuối tuần. Khu vực Hồ Bể còn là nơi trú ngụ và sinh sản của nhiều giống loài thủy sản có giá trị. Từ lâu, khu vực này đã hình thành nên những bãi cua biển, nghêu, sò huyết giống... đem lại nguồn thu nhập đáng kể cho người dân địa phương. Sự phong phú về nguồn lợi thủy sản nơi đây luôn được gắn liền với công tác trồng và bảo vệ rừng phòng hộ ven biển. Điểm du lịch sinh thái Mỏ Ó cách trung tâm tỉnh lỵ Sóc Trăng khoảng 30km về phía Đông Nam, nằm gần cửa sông Mỹ Thanh và Trần Đề thuộc khu vực biển Đông, thuộc xã Trung Bình, huyện Trần Đề, nơi đây có diện tích rừng tự nhiên trên 260 ha, là nơi trú ngụ của nhiều loài chim chóc,  bò sát và hải sản quý hiếm (rắn, rùa, cua, cò, cá...). Giao thông. Sóc Trăng là tỉnh có vị trị địa lý khá thuận lợi cho việc giao thương và phát triển kinh tế, xã hội. Trên địa bàn 5 tuyến Quốc lộ: Quốc lộ 1, Quốc lộ 60, Đường Nam Sông Hậu, Quốc lộ Quản Lộ - Phụng Hiệp, Quốc lộ 61B và 14 tuyến tỉnh lộ với tổng chiều dài hơn 600 km, hệ thống đường huyện, đường giao thông nông thôn có hơn 3.700 km. Mạng lưới đường ô tô khá dài chiếm khoảng 129 km. Toàn tỉnh hiện có 8 tuyến xe buýt, trong đó các tuyến gồm: Toàn tỉnh có 72 km bờ biển, có 3 cửa sông lớn là Định An, Trần Đề của Sông Hậu và Mỹ Thanh của Sông Mỹ Thanh đổ ra biển Đông rất thuận lợi cho giao thông đường thủy, đường bộ và phát triển kinh tế du lịch.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.760803
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Ngãi là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam. Tỉnh lỵ là Thành phố Quảng Ngãi, cách thành phố Hồ Chí Minh 820 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 146 km về phía Bắc và cách Hà Nội 908 km về phía Bắc tính theo đường Quốc lộ 1. Năm 2018, Quảng Ngãi là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 19 về số dân, xếp thứ 27 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 20 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 13 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.272.800 người dân, GRDP đạt 73.568 tỉ đồng (tương ứng với 3,1951 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 57,8 triệu đồng (tương ứng với 2.510 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 9,60% Đường bờ biển Quảng Ngãi có chiều dài khoảng 129 km với vùng lãnh hải rộng lớn 11.000 km và 6 cửa biển vốn giàu nguồn lực hải sản với nhiều bãi biển đẹp. Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Nam Trung Bộ được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất (Bình Sơn - Quảng Ngãi) để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam. Tỉnh Quảng Ngãi được tái lập vào ngày 1 tháng 7 năm 1989 trên cơ sở tách tỉnh Nghĩa Bình thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Tỉnh Quảng Ngãi bao gồm 1 thành phố trực thuộc (Quảng Ngãi), 1 thị xã (Đức Phổ) và 11 huyện trong đó có 1 huyện đảo (Lý Sơn), 5 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi. Các huyện của Quảng Ngãi gồm huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tây, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa. Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Quảng Ngãi trải dài từ 14°32′B đến 15°25′B, từ 108°06′Đ đến 109°04′Đ, tựa vào dãy núi Trường Sơn và có vị trí địa lý: Nằm ở vị trí trung độ của cả nước, Quảng Ngãi cách thủ đô Hà Nội 884 km về phía Bắc và cách Thành phố Hồ Chí Minh 836 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1. Điều kiện tự nhiên. Quảng Ngãi có địa hình tương đối phức tạp, có xu hướng thấp dần từ tây sang đông với các dạng địa hình đồi núi, đồng bằng ven biển, phía tây của tỉnh là sườn Đông của dãy Trường Sơn, tiếp đến là địa hình núi thấp và đồi xen kẽ đồng bằng, có nơi núi chạy sát biển. Khí hậu ở Quảng Ngãi là khí hậu nhiệt đới và gió mùa, nên nhiệt độ cao và ít biến động. Chế độ ánh sáng, mưa ẩm phong phú, nhiệt độ trung bình 25-26,9 °C. Khí hậu nơi đây phân hóa thành 2 mùa rõ rệt, gồm có mùa mưa và mùa nắng. Đất đai trong địa bàn tỉnh được chia làm 9 nhóm đất chính với 25 đơn vị đất và 68 đơn vị đất phụ. Các nhóm đất chính là cồn cát, đất cát ven biển, đất mặn, đất phù sa, đất giây, đất xám, đất đỏ vàng, đất đen, đất nứt nẻ, đất xói mòn trơ trọi đá. Trong đó, nhóm đất xám có vị trí quan trọng với hơn 74,65% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với cây công nghiệp dài ngày, cây đặc sản, dược liệu, chăn nuôi gia súc và nhóm đất phù sa thuộc hạ lưu các sông chiếm 19,3% diện tích đất tự nhiên, thích hợp với trồng lúa, cây công nghiệp ngắn ngày, rau đậu… Đất Quảng Ngãi có thành phần cơ giới nhẹ, hơi chặt, thích hợp với trồng mía và các cây công nghiệp ngắn theo ngày. Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số tỉnh Quảng Ngãi là 1.231.697 người, mật độ dân số đạt 237 người/km² trong đó dân sống tại thành thị là 201.019 người, chiếm 16,3% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn là 1.030.678 người, chiếm 83,7%. Dân số nam là 611.914 người, trong khi đó nữ là 619.783 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,12 ‰ Tỷ lệ đô thị hóa ở Quảng Ngãi tính đến năm 2023 là 37%. Theo thống kê của tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống, trong đó dân tộc Việt chiếm đông nhất với 1.055.154 người, thứ hai là người Hrê với 115.268 người, thứ ba là người Co với 28.110 người, người Xơ Đăng có 17.713 người, cùng với các dân tộc ít người khác như Hoa, Mường, Tày, Thái... Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Quảng Ngãi có 10 tôn giáo khác nhau chiếm 70.454 người, trong đó nhiều nhất là Đạo Tin Lành có 31.996 người, Phật giáo với 23.220 người, Công giáo có 9.226 người, Đạo Cao Đài có 6.000 người, còn lại các tôn giáo khác như Hồi giáo, Phật giáo Hòa Hảo mỗi đạo có ba người, Bà la môn và Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam mỗi đạo có hai người, ít nhất là Bửu sơn kỳ hương và Bahá'í mỗi đạo có một người.. Lịch sử. Thời nhà Lê. Năm 1471, quân Đại Việt lấy lại Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa, chiếm kinh đô Chà Bàn (nay thuộc tỉnh Bình Định) của Vương quốc Chămpa. Tháng 6 âm lịch, thiết lập đạo thừa tuyên Quảng Nam (nay là các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng), gồm 3 phủ Thăng Hoa, Tư Nghĩa, Hoài Nhân. Tỉnh Quảng Ngãi thuộc Phủ Tư Nghĩa. Năm 1527, Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Lê, lập nên nhà Mạc. Năm 1533, Nguyễn Kim nổi lên chống nhà Mạc, tôn Lê Ninh lên làm vua, lấy hiệu là vua Lê Trang Tông, hình thành cục diện Nam- Bắc triều. Năm 1545, Tướng của Nguyễn Kim là Bùi Tá Hán được giao nhiệm vụ trấn thủ Quảng Nam "(nay là vùng đất thuộc các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định và thành phố Đà Nẵng)". Năm 1558, Nguyễn Hoàng nhận nhiệm vụ trấn thủ Thuận Hóa. Năm 1602, Trấn Quảng Nam đổi thành dinh Quảng Nam, phủ Tư Nghĩa (thuộc dinh Quảng Nam) đổi thành phủ Quảng Nghĩa (Ngãi) (danh xưng Quảng Nghĩa (Ngãi) lần đầu tiên xuất hiện, phủ Quảng Nghĩa nay là tỉnh Quảng Ngãi). Năm 1771, Khởi nghĩa Tây Sơn. Năm 1776, Nhà Tây Sơn đổi tên phủ Quảng Nghĩa thành phủ Hòa Nghĩa. Năm 1803, Nhà Nguyễn đổi phủ Hòa Nghĩa trở lại tên cũ là phủ Quảng Nghĩa. Năm 1807, Xã Cù Mông (sau đổi là xã Chánh Mông rồi Chánh Lộ) được chọn làm nơi xây dựng tỉnh Quảng Ngãi. Năm 1832, Tỉnh Quảng Ngãi được thành lập. Cả nước lúc này có 30 tỉnh và 1 phủ (kinh đô Thừa Thiên). Năm 1834, Lấy kinh sư (Thừa Thiên) làm trung tâm, triều đình nhà Nguyễn chia cả nước thành các trực kỳ trong đó tả trực gồm 2 tỉnh Quảng Nam và Quảng Ngãi. Năm 1884, với 2 hiệp ước Quý Mùi và Giáp Thân, nước Việt Nam, trong đó có tỉnh Quảng Ngãi, đã trở thành thuộc địa của Pháp. Từ thời các chúa Nguyễn (lúc còn là cấp phủ) đến thời nhà Nguyễn độc lập (thời đã là tỉnh Quảng Ngãi), thì Quảng Ngãi luôn là địa phương quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (thời đó còn chưa được phân biệt rõ ràng và trực thuộc huyện Bình Sơn Quảng Ngãi), bằng các đội Hoàng Sa và Bắc Hải. Thế kỷ 20. Từ năm 1909 (thời M. Dodey làm công sứ Quảng Ngãi từ 1907 - 1912) đến cuối của triều Nguyễn (1945) miền Trung châu Quảng Ngãi được chia thành 4 phủ là Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa và Mộ Đức, 2 huyện Nghĩa Hành, Đức Phổ gồm 21 tổng, 403 làng. Miền thượng được chia thành 4 nha gồm Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long và Ba Tơ với 27 tổng, 199 "nóc". Từ ngày 9 tháng 3 năm 1945 đến 19 tháng 8 năm 1945, tổ chức hành chánh ít thay đổi, nhưng thay đổi trên danh từ Tuần vũ gọi là tỉnh trưởng (lúc này gồm Bửu Trưng, Lê Văn Định), ở huyện gọi là huyện trưởng, chức Chánh, Phó sứ thời Pháp do một cơ quan hiến binh Nhật đảm trách. Thời kỳ đầu của cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân năm 1945, tỉnh Quảng Ngãi được đổi tên là tỉnh Lê Trung Đình, phủ Tư Nghĩa đổi thành phủ Nguyễn Thụy(Sụy), xã Chánh Lộ lấy tên xã Nguyễn Viện v.v... Về tổ chức, lập liên xã, bỏ các làng cũ. Nhưng, sau một thời gian thay danh hiệu tỉnh, huyện, tổng, xã đều lấy lại tên cũ. Các phủ, huyện, nha trong tỉnh đều gọi tên thống nhất là huyện, gồm tất cả 10 huyện, tổng, 124 liên xã. Đảo Lý Sơn nhập vào huyện Bình Sơn nhưng năm 1952 bị quân Pháp chiếm đóng sáp nhập hải đảo vào thị xã Đà Nẵng. Dưới chế độ Việt Nam Cộng hòa. Từ 1 tháng 11 năm 1954 đến năm 1971, tỉnh Quảng Ngãi được chia thành 10 quận gồm Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ, Trà Bồng, Sơn Hà, Minh Long, Ba Tơ. Số xã trong toàn tỉnh có thay đổi, năm 1968 có 158 xã, năm 1970 theo sự sáp nhập của Bộ Nội vụ 122 xã, 319 ấp. Sau Thống nhất đất nước năm 1975. Ngày 24 tháng 3 năm 1975, tỉnh lỵ Quảng Ngãi và các huyện Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Mộ Đức, Đức Phổ được giải phóng. Ngày 25 tháng 3 năm 1975, tiếp tục giải phóng các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh. Ngày 31 tháng 3 năm 1975, đảo Lý Sơn nay là huyện Lý Sơn cũng giải phóng. Tỉnh Nghĩa Bình. Ngày 20 tháng 9 năm 1975, theo Nghị quyết số 245/NQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc bãi bỏ cấp khu, hợp nhất các tỉnh, hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định hợp nhất thành tỉnh Nghĩa Bình. Tháng 12 năm 1975, Quốc hội khoá V thông qua Nghị quyết thành lập các tỉnh hợp nhất, trong đó có tỉnh Nghĩa Bình. Đồng thời, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã Quảng Nghĩa, hai huyện Nghĩa Hành và Minh Long hợp nhất thành huyện Nghĩa Minh. Lúc này, địa bàn tỉnh Quảng Ngãi cũ có thị xã Quảng Nghĩa và 8 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Mộ Đức, Nghĩa Minh, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng. Ngày 24 tháng 8 năm 1981, chia thị xã Quảng Nghĩa thành thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa, chia lại huyện Nghĩa Minh thành hai huyện Nghĩa Hành và Minh Long. Tái lập tỉnh Quảng Ngãi. Ngày 30 tháng 6 năm 1989, Quốc hội ra Nghị quyết chia tỉnh Nghĩa Bình thành hai tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi. Khi tách ra, tỉnh Quảng Ngãi có 11 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm thị xã Quảng Ngãi và 10 huyện: Ba Tơ, Bình Sơn, Đức Phổ, Minh Long, Mộ Đức, Nghĩa Hành, Sơn Hà, Sơn Tịnh, Trà Bồng, Tư Nghĩa. Ngày 1 tháng 1 năm 1993, thành lập huyện đảo Lý Sơn trên cơ sở tách 2 xã thuộc huyện Bình Sơn. Ngày 6 tháng 8 năm 1994, chia huyện Sơn Hà thành hai huyện Sơn Hà và Sơn Tây. Ngày 1 tháng 12 năm 2003, chia huyện Trà Bồng thành hai huyện Trà Bồng và Tây Trà. Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 112/2005/NĐ-CP chuyển thị xã Quảng Ngãi thành thành phố Quảng Ngãi. Tỉnh Quảng Ngãi có 1 thành phố và 13 huyện trực thuộc. Ngày 24 tháng 9 năm 2015, thành phố Quảng Ngãi được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Ngãi.<ref name="1654/QĐ-TTg"></ref> Ngày 1 tháng 2 năm 2020, chuyển huyện Đức Phổ thành thị xã Đức Phổ; sáp nhập huyện Tây Trà vào huyện Trà Bồng. Hành chính. Tỉnh Quảng Ngãi có 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 1 thị xã và 11 huyện (gồm 1 huyện đảo, 5 huyện đồng bằng, 5 huyện miền núi) với 173 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 8 thị trấn và 148 xã. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Tỉnh Quảng Ngãi nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền Trung được Chính phủ chọn khu vực Dung Quất để xây dựng nhà máy lọc dầu đầu tiên của cả nước, góp phần đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế tỉnh theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 ước đạt 51.224,84 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 9,6% so với năm 2017 và đạt 103,47% kế hoạch năm. Mức tăng trưởng GRDP năm 2018 khá cao nguyên nhân chính là do trong năm 2018 Nhà máy lọc dầu Dung Quất đảm bảo thời gian hoạt động 24/24, không tạm dừng để bảo trì, bảo dưỡng tổng thể như năm 2017 (làm cho sản lượng sản phẩm lọc hoá dầu năm 2017 đạt thấp, kéo theo GRDP năm 2017 đạt thấp). Ngoài ra, các ngành còn lại cũng đạt được những kết quả tích cực, đóng góp đáng kể vào mức tăng chung GRDP năm 2018 của tỉnh. Trong mức tăng chung 9,6% của toàn nền kinh tế năm 2018, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.629,25 tỷ đồng, tăng 4,5%, đóng góp 0,80 điểm phần trăm vào mức tăng chung; khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 26.868,27 tỷ đồng, tăng 12,07%, đóng góp 6,19 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ ước đạt 15.727,3 tỷ đồng, tăng 8,4%, đóng góp 2,61 điểm phần trăm. 1 Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 34.157,2 tỷ đồng (theo giá so sánh năm 2010), tăng 8,51% so với năm 2017 và đạt kế hoạch năm (KH: 8,5-9%). Quy mô GRDP theo giá hiện hành năm 2018 ước đạt 73.618,48 tỷ đồng, bình quân đầu người đạt 57,81 triệu đồng/năm (tương đương 2.514 USD). Cơ cấu kinh tế năm 2018 có sự chuyển dịch nhưng chậm, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 17,82% trong GRDP, giảm 1,15 điểm phần trăm so với năm trước; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 52,01%, tăng 1,65 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ chiếm 30,17%, giảm 0,50 điểm phần trăm Về ngành đánh cá, tỉnh có gần 5.500 tàu cá với 7 nghiệp đoàn nghề cá gồm 2.350 đoàn viên (2014). Trong đó 405 tàu đánh bắt tại Hoàng Sa, Trường Sa. Giai đoạn 6 tháng đầu năm 2012, tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 4.880 tỷ đồng, tăng 6,7% so với cùng kỳ năm 2011 và bằng 47,3% so với kế hoạch năm 2012. Trong đó, sản xuất nông lâm thủy sản đạt 806,4 tỷ đồng, công nghiệp - xây dựng đạt 2.721,0 tỷ đồng, khu vực dịch vụ đạt 1.352,6 tỷ đồng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 12.780,25 tỷ đồng, Kim ngạch xuất khẩu ước đạt 196,07 triệu USD, Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn 6 tháng ước đạt 9.070 tỷ đồng. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 3.342,34 tỷ đồng. Ước đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, trên địa bàn tỉnh có 3.638 doanh nghiệp, trong đó có 3.529 doanh nghiệp nhỏ và vừa. Về lĩnh vực chăn nuôi, tại thời điểm ngày 01 tháng 4 tháng 2012, đàn lợn của Quảng Ngãi ước đạt 481 ngàn con, đàn trâu có 60.889 con, đàn bò có 270.395 con, đàn gia cầm có 3,37 triệu con. So với thời điểm 01 tháng 4 năm 2011, đàn lợn giảm 3,9%, đàn trâu tăng 6,8%, đàn bò giảm 3,2%. Bò lai chiếm 48,3% tổng đàn. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) theo giá so sánh 2010 ước đạt 55.102 tỷ đồng tăng 6,7% so với năm 2018, đạt kế hoạch năm. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng ước đạt 29.162,9 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực dịch vụ ước đạt 16.948,8 tỷ đồng, tăng 7,3%; khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 8.990,3 tỷ đồng, tăng 3,5% so với năm 2018. GRDP không tính sản phẩm lọc hóa dầu ước đạt 37.710,5 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 2018. GRDP bình quân đầu người đạt 67,4 triệu đồng/người, tương đương 2.868 USD/người, vượt kế hoạch (kế hoạch: 2.682 USD). Về cơ cấu kinh tế: công nghiệp - xây dựng chiếm tỷ trọng 53,64%; dịch vụ 29,17%; nông, lâm nghiệp và thủy sản 17,19%. Thu ngân sách nhà nước ước đạt 20.496 tỷ đồng, vượt 2,5% so với dự toán HĐND tỉnh giao. Công tác xúc tiến đầu tư, huy động vốn cho đầu tư phát triển đạt kết quả khá. Công tác phát triển doanh nghiệp đạt kết quả tích cực, đã thành lập mới 756 doanh nghiệp. Giáo dục. Tính đến ngày 30 tháng 6 năm 2012, số trường trên địa bàn tỉnh được công nhận trường đạt chuẩn Quốc gia gồm có Mầm non 23/206 trường, tiểu học 121/224 trường, Trung học cơ sở là 63/165 trường, Trung học phổ thông là 13/39 trường. Thực hiện phổ cập mầm non cho trẻ em 05 tuổi đạt 97% kế hoạch. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Quảng Ngãi có 437 trường học ở cấp phổ, trong đó có Trung học phổ thông có 35 trường, Trung học cơ sở có 166 trường, Tiểu học có 222 trường, trung học có 4 trường và 10 trường phổ thông cơ sở, bên cạnh đó còn có 210 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Quảng Ngãi cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Hệ thống giáo dục Đại học của tỉnh Quảng Ngãi bao gồm: Ngoài ra còn có các Trường Cao đẳng bao gồm: Đặc biệt, tỉnh Quảng Ngãi có Trường IEC (thành phố giáo dục quốc tế) với cơ sở hạ tầng hiện đại với triết lý giáo dục lãng mạn, hiện đại và có tính quốc tế hóa cao. Ngoài ra còn có một số trường Trung cấp nghề khác... Giao thông. Quảng Ngãi là đầu mối giao thông quan trọng xuyên suốt trên địa bàn tỉnh, có Quốc lộ 1, tuyến đường sắt Bắc - Nam (gồm 10 ga trên địa bàn tỉnh) và đường cao tốc Quảng Ngãi - Đà Nẵng chạy qua tỉnh. Trong đó chiều dài Quốc lộ 1 qua tỉnh dài 98 km. Quốc lộ 24 nối liền Quốc lộ 1 đoạn qua nút giao tại thôn Thạch Trụ, xã Đức Lân, huyện Mộ Đức, qua thị xã Đức Phổ, huyện Ba Tơ nối với tỉnh Kon Tum dài 69 km và Quốc lộ 24B dài 18 km, đây là tuyến giao thông quan trọng đối với Kon Tum và Quảng Ngãi trong quan hệ kinh tế, văn hoá giữa duyên hải và Tây Nguyên, giao lưu trao đổi hàng hoá, phát triển kinh tế miền núi gắn với an ninh quốc phòng. Phía Bắc tỉnh, giáp sân bay Chu Lai thuộc huyện Núi Thành (tỉnh Quảng Nam). Tỉnh Quảng Ngãi có cảng Dung Quất (Bình Sơn). Đây là cảng biển tổng hợp Quốc gia có độ sâu và kín gió lý tưởng, có tổng sản lượng hàng hóa xếp dỡ lớn thứ 5 toàn quốc (năm 2019), có khả năng xếp dỡ hàng lỏng (lọc hóa dầu) và hàng rời. Cụm cảng này có khả năng cho phép đón các loại tàu với các kích cỡ khác nhau tùy theo bến. Đặc biệt, Cảng Hòa Phát Dung Quất đã cho phép cập cảng với tàu có kích thước lên đến đến 200000 DWT nhờ độ sâu và luồng tàu lý tưởng. Ngoài ra, với bờ biển dài 144 km, Quảng Ngãi có nhiều cửa biển, cảng quy mô nhỏ như Sa Kỳ, Sa Cần, Cửa Đại, Mỹ Á, Sa Huỳnh, Bến Đình (Lý Sơn)… có tiềm năng về giao thông đường thủy, thương mại và du lịch​. Văn hóa. Quảng Ngãi là mảnh đất có bề dày lịch sử về Văn hóa Sa Huỳnh và Văn hóa Chăm Pa, đặc biệt là hệ thống thành lũy Chàm. Bên cạnh đó là hai danh thắng nổi tiếng là "núi Ấn sông Trà". Quảng Ngãi là quê hương của Tả Tướng Lê Văn Duyệt, người đã 2 lần làm Tổng Trấn Thành - Gia Định; Anh hùng Dân tộc Trương Định, Trương Đăng Quế, Bạch Văn Vĩnh, Lê Trung Đình; nhiều nhà trí thức, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, nghệ sĩ tên tuổi: Nguyễn Vĩ, Bích Khê,Thanh Thảo, Tế Hanh, Trà Giang, Trương Quang Lục, Thế Bảo, Nhất Sinh; Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng; các vị tướng trong Quân đội Nhân dân Việt Nam như: Trung tướng Phạm Kiệt, Thượng tướng Trần Văn Trà, Nguyễn Chánh, Thiếu tướng Võ Bẩm ... Các Lễ hội gồm "Lễ hội nghinh cá Ông, Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa (Lý Sơn), Lễ hội đâm trâu, Lễ hội cầu ngư, Lễ hội đua thuyền truyền thống..." Du lịch. Quảng Ngãi là vùng đất có bề dày lịch sử với nền văn hoá lâu đời như khu du lịch văn hoá Sa Huỳnh, dấu vết văn hoá cổ xưa như thành cổ Châu Sa, Gò Vàng…, có di tích lịch sử Ba Tơ, Sơn Mỹ, Ba Gia, Trà Bồng, Vạn Tường, nhiều cảnh đẹp như "Thiên Ấn Niêm Hà, Thiên Bút Phê Vân, Thạch Bích Tà Dương, Cổ Luỹ Cô Thôn, Nước Trong – Cà Đam…", nhiều bãi biển như Mỹ Khê, Sa Huỳnh,… những tiềm năng trên là điều kiện để phát triển du lịch nghỉ dưỡng với nhiều loại hình, sản phẩm du lịch đa dạng. Năm 2015 nhà đầu tư Vingroup đầu tư Trung tâm Thương mại Vincom tại Thành phố Quảng Ngãi nay đã hoàn thành. Năm 2019, nhà đầu tư FLC đã khởi công xây Khu nghỉ dưỡng vùng đất ven biển xã Bình Phú, Bình Châu, huyện Bình Sơn. Dự án này của FLC hiện nay đang bị UBND Tỉnh Quảng Ngãi tiến hành thu hồi. Ngày 23/06/2022, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức lễ công bố biểu trưng (logo) du lịch Quảng Ngãi. Bộ nhận diện thương hiệu du lịch Quảng Ngãi với khẩu hiệu thương hiệu (Tagline) “KHÁM PHÁ QUẢNG NGÃI” - “EXPLORE QUANG NGAI” cùng với hình ảnh đặc trưng du lịch Quảng Ngãi là đảo Lý Sơn và Văn hóa Sa Huỳnh được xây dựng nhằm tạo ra nhận biết về thương hiệu du lịch Quảng Ngãi; tạo ra tương tác, trải nghiệm của du lịch Quảng Ngãi với các nhóm khách hàng mục tiêu trên nhiều nền tảng, nhiều hoạt động, sự kiện thu hút truyền thông; tăng cường liên kết, quảng bá thương hiệu du lịch; lan tỏa hình ảnh du lịch Quảng Ngãi và duy trì hiệu ứng truyền thông dài hạn.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Bình là một tỉnh ven biển nằm ở phía nam khu vực Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Nơi đây cũng là nơi có con sông Gianh - chia tách Đàng Trong, Đàng Ngoài và Luỹ Thầy do chúa Nguyễn xây dựng trong thời kì Trịnh-Nguyễn phân tranh. Tỉnh Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện (6 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã), 159 đơn vị hành chính cấp xã (136 xã, 16 phường và 7 thị trấn). Địa lý. Vị trí địa lý. Tỉnh Quảng Bình nằm trải dài từ 16°55’ đến 18°05’ vĩ Bắc và từ 105°37’ đến 107°00’ kinh Đông, cách thủ đô Hà Nội 500 km về phía Nam, cách thành phố Đà Nẵng 267 km về phía Nam theo đường Quốc lộ 1. Có vị trí địa lý: Các điểm cực của tỉnh Quảng Bình:. Tỉnh Quảng Bình có diện tích 8.065,3 km², dân số là 936.607 (2018), mật độ dân số đạt 110 người/km². Tỉnh lị của Quảng Bình là thành phố Đồng Hới. Tỉnh nằm ở nơi hẹp nhất theo chiều đông - tây của Việt Nam (50 km theo đường ngắn nhất tính từ biên giới Lào ra biển Đông). Tỉnh Quảng Bình giáp Hà Tĩnh về phía bắc với dãy Hoành Sơn là ranh giới tự nhiên; giáp Quảng Trị về phía nam; giáp Biển Đông về phía đông; phía tây là tỉnh Khăm Muộn và tây nam là tỉnh Savannakhet của Lào với dãy Trường Sơn là biên giới tự nhiên. Địa hình. Địa hình Quảng Bình hẹp và dốc từ phía Tây sang phía Đông. 85% Tổng diện tích tự nhiên là đồi núi. Toàn bộ diện tích được chia thành vùng sinh thái cơ bản: Vùng núi cao, vùng đồi và trung du, vùng đồng bằng, vùng cát ven biển. Địa hình có đặc trưng chủ yếu là hẹp và dốc, nghiêng từ tây sang đông, đồi núi chiếm 85% diện tích toàn tỉnh và bị chia cắt mạnh. Hầu như toàn bộ vùng phía tây tỉnh là núi cao 1.000-1.500 m, trong đó cao nhất là đỉnh Phi Co Phi 2017 m, kế tiếp là vùng đồi thấp, phân bố theo kiểu bát úp. Gần bờ biển có dải đồng bằng nhỏ và hẹp. Sau cùng là những tràng cát ven biển có dạng lưỡi liềm hoặc dẻ quạt. Khí hậu. Quảng Bình nằm ở vùng nhiệt đới gió mùa và luôn bị tác động bởi khí hậu của phía Bắc và phía Nam và được chia làm hai mùa rõ rệt: Nhiệt độ bình quân các tháng trong năm của thành phố Đồng Hới, tỉnh lỵ tỉnh Quảng Bình. Sông ngòi. Trên địa bàn tỉnh có 5 sông lớn là sông Gianh, sông Roòn, sông Nhật Lệ (là hợp lưu của sông Kiến Giang và sông Long Đại), sông Lý Hòa và sông Dinh với tổng lưu lượng 4 tỷ m³/năm. Các sông này do nhiều lưu vực hợp thành và đều bắt nguồn từ dãy Trường Sơn đổ ra biển. Đất đai. Diện tích tự nhiên của tỉnh Quảng Bình năm 2007 là 8.065,27 km² (tổng diện tích: 806.527 ha), chia ra như sau: Tài nguyên đất được chia thành hai hệ chính: Đất phù sa ở vùng đồng bằng và hệ pheralit ( nhóm đất đỏ vàng ) ở vùng đồi và núi với 15 loại và các nhóm chính như sau: nhóm đất cát, đất phù sa và nhóm đất đỏ vàng. Trong đó nhóm đất đỏ vàng chiếm hơn 80% diện tích tự nhiên, chủ yếu ở địa hình đồi núi phía Tây, đất cát chiếm 5,9% và đất phù sa chiếm 2,8% diện tích. Hệ động, thực vật. Quảng Bình nằm trong khu vực đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn - nơi có khu hệ thực vật, động vật đa dạng, độc đáo với nhiều nguồn gen quý hiếm. Đặc trưng cho đa dạng sinh học ở Quảng Bình là vùng Karst Phong Nha - Kẻ Bàng. Về động vật có: 493 loài, 67 loài thú, 48 loài bò sát, 297 loài chim, 61 loài cá... có nhiều loài quý hiếm như voọc Hà Tĩnh, gấu, hổ, sao la, mang lớn, gà lôi lam đuôi trắng, gà lôi lam mào đen, trĩ... Về đa dạng thực vật: Với diện tích rừng 486.688 ha, trong đó rừng tự nhiên 588.582,92 ha, rừng 543.048,92 ha, rừng trồng chưa thành rừng 45.534,07 ha. Thực vật ở Quảng Bình đa dạng về giống loài: có 138 họ, 401 chi, 640 loài khác nhau. Rừng Quảng Bình có nhiều loại gỗ quý như lim, gụ, mun, huỵnh, thông và nhiều loại mây tre, lâm sản quý khác. Quảng Bình là một trong những tỉnh có trữ lượng gỗ cao trong toàn quốc. Hiện nay trữ lượng gỗ là 31 triệu m3. Biển, đảo. Tỉnh có bờ biển dài 116,04 km (dài thứ 3 cả nước) ở phía Đông với 5 cửa sông, trong đó có hai cửa sông lớn, có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh, cảng Hòn La, Vịnh Hòn La có diện tích mặt nước 4 km², có độ sâu trên 15 mét và xung quanh có các đảo che chắn: Hòn La, Hòn Cọ, Hòn Chùa có thể cho phép tàu 3-5 vạn tấn vào cảng mà không cần nạo vét. Trên đất liền có diện tích khá rộng (trên 400 ha) thuận lợi cho việc xây dựng khu công nghiệp gắn với cảng biển nước sâu Quảng Bình có vùng thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế rộng trên 2 vạn km². Ngoài khơi lại có các đảo Hòn La, Hòn Gió, Hòn Nồm, Hòn Cỏ, Hòn Chùa nên đã hình thành các ngư trường với trữ lượng 10 vạn tấn hải sản các loại. Bờ biển có nhiều thắng cảnh đẹp, cùng với thềm lục địa rộng gấp 2,6 lần diện tích đất liền tạo cho Quảng Bình có một ngư trường rộng lớn với trữ lượng khoảng 10 vạn tấn và phong phú về loài (1650 loài), trong đó có những loại quý hiếm như tôm hùm, tôm sú, mực ống, mực nang, san hô. Phía Bắc Quảng Bình có bãi san hô trắng với diện tích hàng chục ha, đó là nguồn nguyên liệu quý cho sản xuất hàng mỹ nghệ và tạo ra vùng sinh thái của hệ san hô. Điều đó cho phép phát triển nền kinh tế tổng hợp vùng ven biển. Mặt nước nuôi trồng thủy sản: Với 5 cửa sông, Quảng Bình có vùng mặt nước có khả năng nuôi trồng thủy sản khá lớn. Tổng diện tích 15.000 ha. Độ mặn ở vùng mặt nước từ cửa sông vào sâu khoảng 10–15 km dao động từ 8-30%o và độ pH từ 6,5- 8 rất thuận lợi cho nuôi tôm cua xuất khẩu. Chế độ bán nhật triều vùng ven biển thuận lợi cho việc cấp thoát nước cho các ao nuôi tôm cua. Thủy văn. Quảng Bình có hệ thống sông suối khá lớn với mật độ 0,8 - 1,1 km/km². Có năm sông chính là sông Roòn, sông Gianh, sông Lý Hòa, sông Dinh và sông Nhật Lệ. Có khoảng 160 hồ tự nhiên và nhân tạo với dung tích ước tính 243,3 triệu m3. Khoáng sản. Quảng Bình có nhiều loại khoáng sản như vàng, sắt, titan, pyrit, chì, kẽm... và một số khoáng sản phi kim loại như cao lanh, cát thạch anh, đá vôi, đá mable, đá granit... Trong đó, đá vôi và cao lanh có trữ lượng lớn, đủ điều kiện để phát triển công nghiệp xi măng và vật liệu xây dựng với quy mô lớn. Có suối nước khoáng nóng 105 °C. Trữ lượng vàng tại Quảng Bình có khả năng để phát triển công nghiệp khai thác và chế tác vàng. Hành chính. Tỉnh Quảng Bình có 8 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 1 thành phố, 1 thị xã, 6 huyện với 151 đơn vị hành chính cấp xã, gồm 8 thị trấn, 15 phường và 128 xã. - Thành Phố Đồng Hới có 16 ​đơn vị hành chính cấp xã, phường bao gồm 6 xã và 10 phường: Phường Hải Thành, Phường Đồng Phú, Phường Bắc Lý, Phường Đồng Mỹ, Phường Nam Lý, Phường Hải Đình, Phường Đồng Sơn, Phường Phú Hải, Phường Bắc Nghĩa, Phường Đức Ninh Đông, Xã Quang Phú, Xã Lộc Ninh, Xã Bảo Ninh, Xã Nghĩa Ninh, Xã Thuận Đức, Xã Đức Ninh. - Huyện Minh Hóa có 16 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 1 thị trấn và 15 xã: Thị trấn Quy Đạt, Xã Dân Hóa, Xã Trọng Hóa, Xã Hóa Phúc, Xã Hồng Hóa, Xã Hóa Thanh, Xã Hóa Tiến, Xã Hóa Hợp, Xã Xuân Hóa, Xã Yên Hóa, Xã Minh Hóa, Xã Tân Hóa, Xã Hóa Sơn, Xã Quy Hóa, Xã Trung Hóa, Xã Thượng Hóa. - Huyện Tuyên Hóa có 20 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 1 thị trấn và 19 xã: Thị trấn Đồng Lê, Xã Hương Hóa, Xã Kim Hóa, Xã Thanh Hóa, Xã Thanh Thạch, Xã Thuận Hóa, Xã Lâm Hóa, Xã Lê Hóa, Xã Sơn Hóa, Xã Đồng Hóa, Xã Ngư Hóa, Xã Nam Hóa, Xã Thạch Hóa, Xã Đức Hóa, Xã Phong Hóa, Xã Mai Hóa, Xã Tiến Hóa, Xã Châu Hóa, Xã Cao Quảng, Xã Văn Hóa. - Huyện Quảng Trạch có 18 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 17 xã và 1 thị trấn: Thị Trấn Roòn, Xã Quảng Hợp, Xã Quảng Kim, Xã Quảng Đông, Xã Quảng Phú, Xã Quảng Châu, Xã Quảng Thạch, Xã Quảng Lưu, Xã Quảng Tùng, Xã Cảnh Dương, Xã Quảng Tiến, Xã Quảng Hưng, Xã Quảng Xuân, Xã Cảnh Hóa, Xã Liên Trường, Xã Quảng Phương, Xã Phù Hóa, Xã Quảng Thanh. - Huyện Bố Trạch có 31 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 3 thị trấn và 28 xã: Thị Trấn Phong Nha, Thị trấn Hoàn Lão, Thị trấn NT Việt Trung, Xã Xuân Trạch, Xã Mỹ Trạch, Xã Hạ Trạch, Xã Bắc Trạch, Xã Lâm Trạch, Xã Thanh Trạch, Xã Liên Trạch, Xã Phúc Trạch, Xã Cự Nẫm, Xã Hải Trạch, Xã Thượng Trạch, Xã Sơn Lộc, Xã Phú Trạch, Xã Hưng Trạch, Xã Đồng Trạch, Xã Đức Trạch, Xã Sơn Trạch, Xã Vạn Trạch, Xã Hoàn Trạch, Xã Phú Định, Xã Trung Trạch, Xã Tây Trạch, Xã Hòa Trạch, Xã Đại Trạch, Xã Nhân Trạch, Xã Tân Trạch, Xã Nam Trạch, Xã Lý Trạch. - Huyện Quảng Ninh có 15 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 1 thị trấn và 14 xã: Thị trấn Quán Hàu, Xã Trường Sơn, Xã Lương Ninh, Xã Vĩnh Ninh, Xã Võ Ninh, Xã Hải Ninh, Xã Hàm Ninh, Xã Duy Ninh, Xã Gia Ninh, Xã Trường Xuân, Xã Hiền Ninh, Xã Tân Ninh, Xã Xuân Ninh, Xã An Ninh, Xã Vạn Ninh. - Huyện Lệ Thủy có 28 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 2 thị trấn và 26 xã: Thị trấn NT Lệ Ninh, Thị trấn Kiến Giang, Xã Hồng Thủy, Xã Ngư Thủy Bắc, Xã Hoa Thủy, Xã Thanh Thủy, Xã An Thủy, Xã Phong Thủy, Xã Cam Thủy, Xã Ngân Thủy, Xã Sơn Thủy, Xã Lộc Thủy, Xã Ngư Thủy Trung, Xã Liên Thủy, Xã Hưng Thủy, Xã Dương Thủy, Xã Tân Thủy, Xã Phú Thủy, Xã Xuân Thủy, Xã Mỹ Thủy, Xã Ngư Thủy Nam, Xã Mai Thủy, Xã Sen Thủy, Xã Thái Thủy, Xã Kim Thủy, Xã Trường Thủy, Xã Văn Thủy, Xã Lâm Thủy. - Thị xã Ba Đồn có 16 ​đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn bao gồm 6 phường và 10 xã: Phường Ba Đồn, Phường Quảng Long, Phường Quảng Thọ, Xã Quảng Tiên, Xã Quảng Trung, Phường Quảng Phong, Phường Quảng Thuận, Xã Quảng Tân, Xã Quảng Hải, Xã Quảng Sơn, Xã Quảng Lộc, Xã Quảng Thủy, Xã Quảng Văn, Phường Quảng Phúc, Xã Quảng Hòa, Xã Quảng Minh. Lịch sử. Trong thời kỳ Bắc thuộc, khu vực ngày nay là Quảng Bình có giai đoạn thuộc quận Tượng Lâm, có giai đoạn thuộc quận Nhật Nam. Năm 192, Quảng Bình nằm trong lãnh thổ Lâm Ấp. Đến năm 758 Lâm Ấp đổi tên là Chiêm Thành, Quảng Bình nằm trong 2 châu: Châu Bố Chính và Châu Địa Lý. Khu vực này đã thuộc về Đại Việt sau cuộc chiến tranh Việt Chiêm 1069. Lý Thường Kiệt là người đã xác định và đặt nền móng đầu tiên của vùng đất Quảng Bình trọn vẹn trong cương vực lãnh thổ Đại Việt. Trong thời kỳ Trịnh - Nguyễn phân tranh, đất nước bị chia cắt tại sông Gianh phía bắc tỉnh Quảng Bình. Đồng Hới đã trở thành tiền đồn quan trọng của chúa Nguyễn với Lũy Thầy và thành Đồng Hới. Từ ngày 20 tháng 9 năm 1975 đến ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Bình được sáp nhập vào tỉnh Bình Trị Thiên (xứ Thuận Hóa cũ). Ngày 30 tháng 6 năm 1989, kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa VIII ra nghị quyết chia tỉnh Bình Trị Thiên để tái lập tỉnh Quảng Bình, tỉnh Quảng Trị và tỉnh Thừa Thiên Huế. Tỉnh Quảng Bình mang tên từ đó đến nay. Các khai quật khảo cổ ở khu vực đã chứng tỏ rằng đã có loài người sinh sống ở khu vực này từ thời kỳ đồ đá. Nhiều hiện vật như bình sử, sành, công cụ lao động đã được phát hiện ở đây. Năm 1926, một vị nữ khảo cổ người Pháp Madeleine Colani đã phát hiện nhiều di vật ở các hang động phía tây Quảng Bình. Bà đã kết luận rằng đã có sự hiện diện của văn hóa Hòa Bình ở khu vực này. Thời nhà nước Văn Lang, Quảng Bình nói riêng và vùng Bình Trị Thiên nói chung thuộc bộ Việt Thường, là địa điểm cực nam của nước Văn Lang. Thời Hán, Quảng Bình thuộc quận Nhật Nam. Sau khi nhà nước Lâm Ấp (tiền thân của nhà nước Chăm Pa) giành được độc lập năm 192 (thuộc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định ngày nay), các triều vua Champa thường vượt đèo Hải Vân tiến ra cướp phá đất Nhật Nam và Cửu Chân và họ đã làm chủ vùng đất từ đèo Ngang trở vào khi nhà Tấn (Trung Quốc) suy yếu. Từ đó Quảng Bình là vùng đất địa đầu của Champa đối với các triều đại Trung Hoa cũng như các triều đại Việt khi người Việt đã giành được độc lập. Năm 1069, Lý Thánh Tông - vua của Đại Việt đánh Champa bắt được vua Champa đưa về Thăng Long, để được tha vua Champa đã dâng đất (Địa Ly, Bố Chính, Ma Linh) tương ứng với tỉnh Quảng Bình và các huyện Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, bắc Hướng Hóa của Quảng Trị ngày nay cho Đại Việt và Quảng Bình chính thức thuộc về Đại Việt từ năm 1069. Đời Lê Trung Hưng có tên là Tiên Bình. Năm 1604, đổi tên là Quảng Bình. Chúa Nguyễn Phúc Khoát chia Quảng Bình thành 3 dinh: dinh Bố Chính (trước là dinh Ngói), dinh Mười (hay dinh Lưu Đồn), dinh Quảng Bình (hay dinh Trạm). Tỉnh được thành lập năm 1831, đặt phủ Quảng Ninh, sau đặt thêm phủ Quảng Trạch. Năm 1976 ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên hợp nhất thành tỉnh Bình Trị Thiên, đến năm 1989 lại tách ra như cũ. Khi tách ra, tỉnh Quảng Bình có 5 đơn vị hành chính gồm thị xã Đồng Hới và 4 huyện Bố Trạch, Lệ Ninh, Quảng Trạch, Tuyên Hóa. Ngày 1 tháng 6 năm 1990, chia huyện Lệ Ninh thành 2 huyện: Lệ Thủy và Quảng Ninh; tái lập huyện Minh Hóa từ huyện Tuyên Hóa. Ngày 16 tháng 8 năm 2004, chuyển thị xã Đồng Hới thành thành phố Đồng Hới. Ngày 20 tháng 12 năm 2013, thành lập thị xã Ba Đồn trên cơ sở tách một số diện tích và dân số của huyện Quảng Trạch. Tỉnh Quảng Bình có 1 thành phố, 1 thị xã và 6 huyện như hiện nay. Ngày 30 tháng 7 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 1270/QĐ-TTg công nhận thành phố Đồng Hới là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Quảng Bình. Kinh tế - xã hội. Năm 2018, Quảng Bình là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 47 về số dân, xếp thứ 50 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 51 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 55 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 887,6 nghìn dân, GRDP đạt 33.282 tỉ Đồng (tương ứng với 1,444 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 37,5 triệu đồng (tương ứng với 1.628 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 7,03%. Cơ cấu kinh tế: năm 2016: nông, lâm nghiệp và thủy sản: 22,9%, công nghiệp - xây dựng: 25,7%, dịch vụ: 51,4%. Tổng mức đầu tư toàn tỉnh năm 2016 là 10.824 tỷ đồng. Tỉnh Quảng Bình có dự án cảng Hòn La và khu công nghiệp Hòn La đang xây dựng, khi hoàn thành sẽ là động lực phát triển kinh tế cho tỉnh này. Cảng Hòn Là được xây dựng trên diện tích 32,3 ha với công suất thiết kế 10-12 triệu tấn/năm. Ngoài ra, ở đây còn có khu công nghiệp Hòn La, Nhà máy đóng tàu với tổng mức đầu tư 4.500 tỷ đồng; Nhà máy Nhiệt điện có tổng mức đầu tư hơn 1 tỷ USD có công suất 1.200 MW. Tỉnh Quảng Bình có hai khu kinh tế đặc biệt, Khu kinh tế Hòn La và Khu Kinh tế cửa khẩu Cha Lo và 6 khu công nghiệp khác. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,01%. Thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đạt 45.976 tỉ đồng, trong đó thu nội địa đạt 34.323 tỉ đồng, thu xuất nhập khẩu đạt 11.600 tỉ đồng (không bao gồm 365 tỉ đồng ghi thu ghi chi và 53 tỉ đồng thu huy động đóng góp). Giáo dục. Quảng Bình xếp thứ 22 về tỉ lệ hộ nghèo của cả nước, dân số không đông, nhưng lại là nơi mà con người luôn chịu khó, cần cù học tập từ đời này sang đời khác, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau để tạo nên truyền thống hiếu học, học có hiệu quả để mong thoát cảnh nghèo khổ, phục vụ cho quê hương, phụng sự quốc gia. Năm học 2017 - 2018 toàn tỉnh có 590 trường. Trong đó có 182 trường và cơ sở giáo dục mầm non; 209 trường tiểu học; 147 trường trung học cơ sở; 19 trường phổ thông cơ sở; 6 trường phổ thông trung học và 27 trường trung học phổ thông. Tổng số phòng học các cấp học mầm non và phổ thông 7.205 (trong đó, có 5.146 phòng kiên cố, tỷ lệ 71,4%; 1.940 phòng bán kiên cố, tỷ lệ 26,9%). Tổng số cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên cấp học mầm non và phổ thông có: 19.435 người (cán bộ quản lý: 1.472 người, giáo viên 14.055 người và nhân viên 3.908 người). Quy mô học sinh đầu năm học các cấp học mầm non và phổ thông, toàn tỉnh có 219.791 học sinh; trong đó, giáo dục mầm non 61.620 cháu; tiểu học 73.754 học sinh; trung học cơ sở 54.647 học sinh; trung học phổ thông 29.770 học sinh. - Đào tạo: Quảng Bình có 1 trường Đại học, 4 trường Cao đẳng, 2 trường Trung cấp: Năm học 2017 - 2018 Trường Đại học Quảng Bình, trường Đại học duy nhất có trụ sở ở tỉnh này có chỉ tiêu tuyển sinh là 2.090 chỉ tiêu, bao gồm 1.330 chỉ tiêu đại học và 300 cao đẳng sư phạm và 460 chỉ tiêu cao đẳng ngoài sư phạm; thời gian xét tuyển được trình tự theo kế hoạch hướng dẫn của Bộ giáo dục và đào tạo. Qua các đợt xét tuyển từ kết quả của kỳ thi Quốc gia, Trường Đại học Quảng Bình đã tuyển mới và nhập học tại trường là 833 sinh viên; trong đó: hệ đại học 412 sinh viên, hệ cao đẳng 110 sinh viên, hệ liên thông 291 sinh viên và học văn bằng hai hệ đại học là 20 sinh viên. Sinh viên Đại học, Cao đẳng chính quy chỉ tuyển được khoảng 1/3 so với chỉ tiêu được giao. Dân cư. Theo tổng điều tra dân số tính đến ngay 1 tháng 4 năm 2019, dân số Quảng Bình đạt 895.430 người. Trên địa bàn tỉnh có 24 dân tộc anh em cùng sinh sống, nhưng chủ yếu là người Kinh, khoảng 97%. Dân tộc ít người thuộc hai nhóm chính là Chứt và Bru-Vân Kiều gồm những tộc người chính là: Khùa, Mã Liềng, Rục, Sách, Vân Kiều, Mày, Arem, v.v... sống tập trung ở hai huyện miền núi Tuyên Hóa và Minh Hóa và một số xã miền Tây Bố Trạch, Quảng Ninh, Lệ Thủy. Dân cư phân bố không đều do địa hình dốc hẹp, 60% sống ở vùng nông thôn và 30% sống ở thành thị. Quảng Bình có nguồn lao động dồi dào với 530.064 người, chiếm khoảng 60,72% dân số. Trong đó tỷ lệ lao động nam/ nữ lần lượt là 265.206/ 264.858 người. Về chất lượng nguồn nhân lực cho đến cuối năm 2016: có 4 Phó giáo sư, 63 Tiến sĩ, 69 Bác sĩ Chuyên khoa II, 168 Bác sĩ Chuyên khoa I, 2015 Thạc sĩ, 30653 người có trình độ Đại học, 20664 có trình độ Cao đẳng-Trung cấp. Lực lượng lao động đã qua đào tạo chiếm 63,1 % tổng số lao động. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh có 6 tôn giáo khác nhau đạt 101.946 người, nhiều nhất là Công giáo có 101.246 người, tiếp theo là Phật giáo có 680 người. Còn lại các tôn giáo khác như đạo Tin Lành có 16 người, Hồi giáo có hai người, Phật giáo Hòa Hảo và đạo Cao Đài mỗi tôn giáo chỉ có một người. Văn hóa. Quảng Bình là vùng đất văn vật, nổi tiếng với di chỉ văn hóa Bàu Tró, các di chỉ thuộc nền văn hóa Hòa Bình,Đông Sơn và Sa Huỳnh, nhiều di tích lịch sử như: Quảng Bình Quan, Luỹ Thầy, Rào Sen, Thành Nhà Ngo, Thành Khu Túc-Chămpa, thành quách của thời Trịnh - Nguyễn, nhiều địa danh nổi tiếng trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược của dân tộc như Cự Nẫm, Cảnh Dương, Cha Lo, Cổng Trời, Xuân Sơn, Long Đại, đường Hồ Chí Minh v.v... Trong quá trình lịch sử, đã hình thành nhiều làng văn hóa nổi tiếng và được truyền tụng từ đời này sang đời khác như "Bát danh hương": "Sơn- Hà- Cảnh - Thổ- Văn- Võ- Cổ - Kim". Nhiều danh nhân tiền bối học rộng, đỗ cao và nổi tiếng xưa và nay trên nhiều lĩnh vực quân sự, văn hoă - xã hội như Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, Tuy Lộc hầu Đặng Đại Lược, Lãnh Đức hầu Đặng Đại Độ, Sư bảo Nguyễn Đăng Tuân, Nguyễn Hàm Ninh, Hoàng Kế Viêm, Võ Nguyên Giáp, Ngô Đình Diệm, Quảng Bình là vùng giao thoa của hai nền văn hóa cổ Việt - Chămpa, thể hiện ở những di chỉ có niên đại 5 nghìn năm đã khai quật được ở Bàu Tró, phía bắc Đồng Hới. Ẩm thực. Các đặc sản Quảng Bình đậm nét ẩm thực vùng miền như: hải sản Quảng Bình, khoai deo, nhút tép Lệ Thủy, bánh mè xát Tân An, cam mật Hiền Ninh, ốc đực, sò huyết sông Ròn, muối cheo, rượu sim Lệ Thủy, bánh xoài, rượu cần Ma Coong Thượng Trạch, bánh gai Lệ Thủy, cơm gà thúng Lạc Sơn, măng, nước mắm Bảo Ninh, bánh khoái, rượu Võ Xá, gỏi cá nghéo, nếp than Ngân Thủy, bánh bột lọc, nhộng tằm lá sắn Xuân Hóa, thịt lợn khùa, bánh xèo Quảng Hòa, đẻn biển, mật mía làng Khiên, bánh cuốn ruốc tôm, dưa hấu Hàm Ninh, mật ong rừng, chắt chắt sông Gianh, rượu đoác, trứng kiến nấu lá bún Minh Hóa, sim rừng, nước mắm Cảnh Dương, cá mát, cháo hàu Quán Hàu, rau dớn, sâm Bố Chính, thịt trâu lá trơng, cháo canh Quảng Bình, bánh bèo, cơm bồi Minh Hóa, hạt tiêu, cháo măng rừng Lâm Hóa, tỏi tía Quảng Minh, cá trắm sông Son, nấm tràm, bánh bèo tôm chấy. Danh lam thắng cảnh. Quảng Bình nổi tiếng với di sản thiên nhiên thế giới Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và Hang Sơn Đoòng - Hang động tự nhiên lớn nhất thế giới Hang Sơn Đoòng cách Đồng Hới 70 km và là một dải kỳ quan nằm sâu trong lòng núi, cách đỉnh núi 800 – 900 m. Dài 7729 m, động có 14 hang do dòng sông ngầm dài 13.969 m hòa tan đá vôi tạo thành. Vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng đã UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới năm 2003. Động Phong Nha là một động đẹp có sông ngầm và có bảy cái nhất: (1) Hang nước dài nhất; (2) Cửa hang cao và rộng nhất; (3) Bãi cát, đá rộng và đẹp nhất; (4) Hồ ngầm đẹp nhất; (5) Thạch nhũ tráng lệ và kỳ ảo nhất; (6) Dòng sông ngầm dài nhất Việt Nam; (7) Hang khô rộng và đẹp nhất. Di tích lịch sử. Quảng Bình có nhiều di tích danh thắng cấp Quốc gia được Nhà nước công nhận, nhiều di tích được UBND tỉnh ra quyết định bảo vệ, và nhiều di tích ở địa phương cơ sở chưa được xếp hạng. Có thể phân theo các loại hình sau đây: Du lịch. Dải đất Quảng Bình như một bức tranh tuyệt đẹp, có rừng, có biển với nhiều cảnh quan thiên nhiên đẹp, thắng cảnh nổi tiếng: đèo Ngang, đèo Khe Nét, cửa bãi biển Nhật Lệ, Bãi biển Đá nhảy, phá Hạc Hải, Cổng Trời… và Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng được công nhận là Di sản thiên nhiên thế giới đây cũng được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam. Hang Sơn Đoòng được công nhận là hang động lớn nhất thế giới. Với hệ thống hang động phong phú tìm thấy cho đến nay, Quảng Bình đã được mọi người gọi là Vương quốc hang động. Ngày 13/5/2015, Hang Sơn Đoòng của Quảng Bình xuất hiện trên chương trình Good Morning American trên kênh ABC của nước Mỹ đã đưa Quảng Bình và du lịch Quảng Bình đến gần hơn với bạn bè quốc tế. Gần đây đoàn làm phim bom tấn nổi tiếng thế giới Kong: Skull Island đến từ Hollywood Mỹ đã thực hiện nhiều cảnh quay tại hệ thống hang động Quảng Bình ra mắt những thước phim mãn nhãn vào ngày 10/3/2017. Quảng Bình có một dải dài bãi biển tuyệt đẹp với cát trắng, nước biển xanh, song do quy hoạch chưa rõ ràng và giao thông chưa tốt nên chưa phát huy được tiềm năng. Tháng 1 năm 2009, báo Los Angeles Times của Mỹ đã chọn Đồng Hới và vườn quốc gia Phong Nha-Kẻ Bàng vào danh sách 29 điểm đến trong năm 2009 Năm 2014 cùng với Động Sơn Đoòng, Quảng Bình đã được The New York Times bầu chọn là điểm đến hấp dẫn nhất châu Á. Quảng Bình cũng được nhiều tờ báo nổi tiếng bầu chọn là một trong những điểm đến hấp dẫn và giá rẻ. Năm 2015, Quảng Bình đón trên 3 triệu tăng 8,9% và doanh thu đạt 3.300 tỷ đồng tăng 8% so với cùng kỳ 2014. Nhằm thúc đẩy tiềm năng du lịch với đối tượng khách nước ngoài, tháng 2 năm 2017, Quảng Bình cho ra mắt website du lịch bằng tiếng Anh tại địa chỉ với các nội dung hấp dẫn và cập nhật về các địa điểm du lịch Quảng Bình trong tỉnh. Hang Sơn Đoòng là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới, là kỳ quan thiên nhiên và địa chất của nhân loại,thuộc quần thể hang động Phong Nha - Kẻ Bàng, tọa lạc tại xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình nước ta. Cho tới nay, đây luôn được coi là hang động tự nhiên lớn nhất thế giới từng được phát hiện. Kích thước của hang Sơn Đoòng rất lớn với chiều dài ít nhất là 5 km, tương đương sức chứa khoảng 68 chiếc máy bay Boeing 777. Thậm chí, con số này có thể lớn hơn bởi theo các nhà khoa học, những phương tiện hiện đại nhất ngày nay cũng chưa khám phá được hết chiều dài thực sự của hang động này.Trong hang Sơn Đoòng, các chuyên gia phát hiện những vị trí có kích thước rất lớn. Một bức ảnh do nhiếp ảnh gia Carten Peter chụp tháng 5/2010 ghi nhận đoạn hang có bề rộng 91,44m và vòm cao gần 243,84m - hoàn toàn "“nhét”" vừa một tòa nhà cao 40 tầng ở New York.Trang National Geographic thậm chí còn so sánh rằng, hang cao tới mức xếp chồng 25 chiếc xe bus hai tầng vào vẫn thoải mái.Sự hùng vĩ và đồ sộ về cảnh quan của hang Sơn Đoòng khiến nó được thế giới vinh danh là “"The Great Wall of Viet Nam” (hiểu là "Vạn Lý Trường Thành" của Việt Nam, giống như “The Great Wall of China” là Vạn Lý Trường Thành của Trung Quốc). Đồng Hới là thành phố trẻ được ví như là Nha Trang ở phía bắc Đèo Hải Vân, có đường bờ biển dài 14 km với hàng loại Khách sạn Và Resort Cao cấp ven biển.Trong tương lai gần đây sẽ là Thành phố du lịch Mới của Việt Nam.Cùng với Vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng đây sẽ là một tổ hợp du lịch hấp dẫn hàng đầu Châu Á. Giao thông. Giao thông Quảng Bình gần như hội tụ đầy đủ tất cả các loại hình giao thông quan trọng, bao gồm: Quảng Bình là đầu mối giao thông, nằm ở trung điểm và nơi hẹp nhất của Việt Nam với khoảng cách chưa đến 50 km từ mép biển Đông đến biên giới Việt - Lào. Giao thông đường thủy có Cảng Hòn La (12 triệu tấn/năm) do Tổng công ty Dịch vụ kỹ thuật Dầu khí (PTSC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam quản lý vận hành và phát triển. Ngoài ra còn có cảng Nhật Lệ, cảng Gianh.. Giao thông đường bộ có Quốc lộ 1 dài 122 km (dài thứ 5 cả nước), Đường Hồ Chí Minh (dài nhất nước) với nhánh Đông dài 200 km và nhánh Tây dài 197 km, Quốc lộ 12A, Quốc lộ 12C, Quốc lộ 9B, Quốc lộ 15A. Giao thông đường sắt có tuyến đường sắt Bắc Nam chạy qua tỉnh tổng cộng 174,5 km (một trong hai tỉnh dài nhất nước) với 21 ga trong đó có ga Đồng Hới là một trong 8 ga chính của cả nước và 3 ga:Đồng Lê, Minh Lệ và Mỹ Đức có tàu Thống Nhất dừng đổ đón trả khách. Giao thông đường hàng không có Sân bay Đồng Hới, cùng với Sân bay quốc tế Phú Bài, Sân bay Vinh và Sân bay Thọ Xuân là một trong bốn sân bay chính của Vùng Bắc Trung Bộ, với tuyến bay nối Sân bay quốc tế Nội Bài (Hà Nội), và Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất (Thành phố Hồ Chí Minh, sân bay Cát Bi (Hải Phòng), sân bay quốc tế Chiang Mai (Chiang Mai) của các hãng hàng không: Vietnam Airlines, VietJet Air, Jetstar Pacific Airlines, Bamboo Airways. Năm 2016, Sân bay Đồng Hới đón 365.820 lượt khách (tăng 39,96% so với 261.372 lượt khách năm 2015), năm 2017 đạt 468.000 lượt khách. Năm 2018, Tập đoàn FLC đã đề xuất thực hiện dự án đầu tư nâng cấp mở rộng sân bay Đồng Hới. Dự án đầu tư nâng cấp sân bay này sẽ được tiến hành từ quý 4/2018 và hoàn thành công tác nâng cấp vào năm 2020, lúc đó đường băng sân bay này sẽ đạt cấp 4E với chiều dài 3.600m và chiều rộng 45 m, có thể phục vụ các loại tàu bay dân dụng lớn nhất như A350, Boeing 787 Dreamliner, với hai nhà ga (quốc tế và nội địa), tổng công suất thiết kế 10 triệu lượt khách/năm. Sau khi hoàn thành nâng cấp, sẽ có nhiều tuyến bay nội địa và quốc tế sẽ được mở tại sân bay này. Quốc lộ 12A, Quốc lộ 12C, Quốc lộ 9B là những tuyến đường chính nối với Lào - Thái Lan qua cửa khẩu quốc tế Cha Lo và một số cửa khẩu phụ khác đến các cảng biển Vũng Áng, Gianh, Hòn La... Danh nhân. Một số người Quảng Bình nổi tiếng: Dương Văn An, Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh, tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên, Phó đô đốc Mai Xuân Vĩnh, Trung tướng Phạm Hồng Thanh, Trung tướng Nguyễn Hoa Thịnh, Trung tướng Võ Minh Lương, Trung tướng Cao Ngọc Oánh, Đại tá Trần Đình Xu, Giáo sư Trần Thanh Vân, Giáo sư Hoàng Tuệ, Giáo sư Phan Ngọc Minh, Nhà thơ Hàn Mặc Tử, Nhà văn Nguyễn Quang Lập, Kiến trúc sư Võ Trọng Nghĩa, Nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ ... Bài chi tiết về các chính trị gia, tướng lĩnh, nhà khoa học, tác gia, nghệ sĩ... sinh ra ở Quảng Bình xin xem ở Danh nhân Quảng Bình.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Tây Ninh là một tỉnh thuộc vùng Đông Nam Bộ, Việt Nam. Tây Ninh nằm ở vị trí cầu nối giữa Thành phố Hồ Chí Minh và thủ đô Phnôm Pênh, vương quốc Campuchia và là một trong những tỉnh nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Tỉnh có thành phố Tây Ninh nằm cách Thành phố Hồ Chí Minh 99 km theo đường Quốc lộ 22, cách biên giới Campuchia 40 km về phía Tây Bắc. Tỉnh lỵ của Tây Ninh nằm ở thành phố Tây Ninh. Vùng đất Tây Ninh từ thời xưa vốn là một vùng đất thuộc Thủy Chân Lạp, với tên gọi là Romdum Ray, có nghĩa là "Chuồng Voi" vì nơi đây chỉ có rừng rậm với muôn thú dữ như cọp, voi, beo, rắn... cư ngụ. Những người thổ dân ở đây sống rất thiếu thốn, cơ cực cho đến khi người Việt đến khai hoang thì vùng đất này mới trở nên phát triển. Địa lý. Tây Ninh nối cao nguyên Nam Trung Bộ với đồng bằng sông Cửu Long, vừa mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng, tọa độ của tỉnh từ 10°57’08’’ đến 11°46’36’’ vĩ độ Bắc và từ 105°48’43" đến 106°22’48’’ kinh độ Đông, có vị trí địa lý: Tỉnh Tây Ninh có đường biên giới dài 240 km với 3 cửa khẩu quốc tế Mộc Bài, Xa Mát và Tân Nam, các cửa khẩu quốc gia: Chàng Riệc, Kà Tum, Phước Tân và nhiều cửa khẩu tiểu ngạch. Điều kiện tự nhiên. Địa hình. Như các tỉnh thành Đông Nam Bộ khác, Tỉnh Tây Ninh cũng là vùng có địa hình chuyển tiếp từ cao nguyên Nam Trung Bộ xuống đồng bằng sông Cửu Long, đất đai tương đối bằng phẳng. Địa hình vừa mang đặc điểm của một cao nguyên, vừa có dáng dấp, sắc thái của vùng đồng bằng, Tây Ninh có nhiều vùng địa hình khác nhau như: Nhìn chung địa hình của Tây Ninh bằng phẳng hơn so với các tỉnh thuộc Đông Nam Bộ khác (trừ thành phố Hồ Chí Minh), cao độ trung bình toàn tỉnh khoảng 35m so với mực nước biển. Khí hậu. Khí hậu Tây Ninh tương đối ôn hoà thuộc dạng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia thành 2 mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Mùa khô thường kéo dài từ tháng 12 năm trước đến tháng 4 năm sau, mùa mưa bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 11. Nhiệt độ tương đối ổn định, đầu mùa khô đến giữa mùa thời tiết thường se lạnh và khô hanh ở phía bắc và trung tâm ở mức ban đêm thường dưới 20 °C ở tỉnh cuối mùa thời tiết nóng khô có thể lên trên 38 °C biên độ nhiệt ngày và đêm cao khoảng 10~14 °C vào mùa mưa độ ẩm cao mưa nhiều nhiệt độ ban ngày thường ở mức 30~34 °C và ban đêm ở mức 23~ 26 °C biên độ nhiệt thấp, với nhiệt độ trung bình năm là 25,5– 27 °C, thấp kỷ lục là 11,3 °C và cao kỷ lục là 40 °C và thấp nhất là 17,6 °C vào tháng 12 đến tháng 2 năm sau cao nhất là 38 °C kéo dài từ tháng 4 đến tháng 5 ít thay đổi,nhiệt độ thấp gần đây 11,3 độ C năm 1999 và gần đây nhất là 2021 với nhiệt độ đo được là 16 độ C Lượng mưa trung bình hàng năm từ 1800 – 2200 mm. Mặt khác, Tây Ninh nằm sâu trong lục địa, có địa hình cao núp sau Dãy Trường Sơn chính vì vậy ít chịu ảnh hưởng của bão vào tháng 6 -> 8 gió tây nam hoạt động mạnh kéo theo nhưng cơn bão, gió rất mạnh kèm theo mưa đá ở những vùng cao phía bắc và trung tâm và những yếu tố thuận lợi khác. Với lợi thế đó là những điều kiện thuận lợi để phát triển nền nông nghiệp đa dạng, đặc biệt là các loại cây ăn quả, cây công nghiệp, cây dược liệu và chăn nuôi gia súc. Thổ nhưỡng. Tây Ninh có tiềm năng dồi dào về đất, trên 96% quỹ đất thuận lợi cho phát triển cây trồng các loại, từ cây trồng nước đến cây công nghiệp ngắn ngày và dài ngày, cây ăn quả các loại. Đất đai Tây Ninh có thể chia làm 5 nhóm đất chính với 15 loại đất khác nhau. Trong đó, nhóm đất xám chiếm trên 84%, đồng thời là tài nguyên quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp. Ngoài ra, còn có nhóm đất phèn chiếm 6,3%, nhóm đất cỏ vàng chiếm 1,7%, nhóm đất phù sa chiếm 0,44%, nhóm đất than bùn chiếm 0,26% tổng diện tích. Đất lâm nghiệp chiếm hơn 10% diện tích tự nhiên. Sông ngòi. Tây Ninh có hồ Dầu Tiếng giúp cân bằng sinh thái, phục vụ tưới tiêu trong nông nghiệp, cung cấp nước cho nuôi trồng thủy sản, sinh hoạt tiêu dùng và cho sản xuất công nghiệp. Nguồn nước ngầm ở Tây Ninh phân bố rộng khắp trên địa bàn, bảo đảm chất lượng cho sản xuất và đời sống của người dân. Cách thành phố Tây Ninh 20 km là điểm du lịch nằm tuyến liên hoàn giữa thành phố Tây Ninh - Toà Thánh Tây Ninh - núi Bà Đen. Hồ có diện tích 27.000 ha, có sức chứa 1,5 tỷ m³ nước tưới cho đồng ruộng tỉnh và các tỉnh lân cận. Lịch sử. Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, đồng thời đổi tên phủ Gia Định thành trấn Gia Định. Năm 1808, trấn Gia Định đổi lại đổi là thành Gia Định, gồm có 5 trấn là Phiên An, Biên Hòa, Vĩnh Thanh, Định Tường và Hà Tiên. Năm 1832, vua Minh Mạng định tiếp tục tổ chức hành chánh ở Gia Định, từ 5 trấn chia thành 6 tỉnh gồm có Phiên An tỉnh thành "(tức trấn Phiên An cũ)", Tỉnh Biên Hòa "(trấn Biên Hòa cũ)", Tỉnh Định Tường "(trấn Định Tường cũ)", Tỉnh Vĩnh Long "(trấn Vĩnh Thanh cũ)", Tỉnh An Giang, Tỉnh Hà Tiên. Lúc bấy giờ, vùng đất Tây Ninh thuộc Phiên An tỉnh thành. Năm 1836, chuẩn tấu lời tâu của đình thần Trương Minh Giảng và Trương Đăng Quế, vua Minh Mạng cho đổi tỉnh Phiên An thành tỉnh Gia Định gồm có 3 phủ, 7 huyện. Các phủ là Phủ Tân Bình có 3 huyện, Phủ Tân An có 2 huyện, Phủ Tây Ninh có 2 huyện là: huyện Tân Ninh và huyện Quang Hóa. Phủ Tây Ninh: phía Bắc giáp Cao Miên (qua núi Chiêng, tức núi Bà Đen), phía Đông giáp huyện Bình Long phủ Tân Bình, phía Nam giáp huyện Bình Dương phủ Tân Bình và huyện Cửu An phủ Tân An, nguyên là đạo Quang Phong. Năm Minh Mạng thứ 19 (1838), bỏ đạo lập phủ với tên gọi phủ Tây Ninh, quản lý 2 huyện (với 7 tổng có 56 làng xã): Năm 1890, sau khi lập Liên bang Đông Dương, người Pháp trích một phần đất hạt Tây Ninh (hạt Tây Ninh nguyên là toàn bộ phủ Tây Ninh) là phần đất dọc theo rạch Ngã Bát cho Campuchia thuộc Pháp, trong đó có lẽ gồm cả phần đất tỉnh Svay Rieng (tức tỉnh Soài Riêng) đề cập đến ở trên. Các bản đồ của người Pháp thể hiện xứ Nam Kỳ thuộc Pháp, vẽ với kỹ thuật Tây phương khá chính xác, vào các năm 1872 và 1886 (trước khi thành lập Liên bang Đông Dương năm 1887) đều thể hiện vùng lồi Svay Rieng thuộc đất Nam Kỳ (Cochinchine). Theo Đại Nam thực lục thì vào khoảng tháng 3 âm lịch năm 1845, Cao Hữu Dực (quyền Tuyên phủ sứ Tây Ninh) cho chiêu mộ dân trong phủ Tây Ninh lập ra 26 thôn làng: Tiên Thuận, Phúc Hưng, Phúc Bình, Vĩnh Tuy, Phúc Mỹ, Long Thịnh, Long Khánh, Long Giang, Long Thái, An Thịnh, Khang Ninh, Vĩnh An, An Hòa, Gia Bình, Long Bình, Hòa Bình, Long Định, Phú Thịnh, Thái Định, Hòa Thuận, An Thường, Thuận Lý, Thiên Thiện, Hướng Hóa, Định Thái, Định Bình, đều thuộc phủ Tây Ninh. Vua Thiệu Trị phê chuẩn quyết định này. Năm 1861, Sau khi thực dân Pháp chiếm Tây Ninh, việc cai quản ở 2 huyện được thay thế bằng 2 Đoàn Quân sự đặt tại Trảng Bàng và Tây Ninh. Năm 1868, hai đoàn Quân sự được thay thế bằng hai Ty Hành chánh. Sau nhiều lần thay đổi, năm 1897 Tây Ninh gồm có 2 quận là Thái Bình, Trảng Bàng, trong đó có 10 tổng, 50 làng. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, Toàn quyền Paul Doumer cho áp dụng nghị định ký ngày 20 tháng 12 năm 1899 đổi các khu tham biện (inspections) là tỉnh (province). Thời Pháp thuộc, Nam Kỳ được chia làm 20 tỉnh để cai trị và sau đó Cap St. Jacques (Vũng Tàu) tách ra thành tỉnh thứ 21. Tây Ninh lúc đó là tỉnh thứ 12. Ngày 9 tháng 12 năm 1942, Thống đốc Nam kỳ ban hành Nghị định số 8345 ấn định ranh giới Tây Ninh. Sau Cách mạng Tháng Tám tỉnh Tây Ninh vẫn giữ nguyên ranh giới cũ. Năm 1950, cắt một phần đất của xã Thái Hiệp Thạnh cũ thành lập thị xã Tây Ninh, nhưng do chưa đủ điều kiện hoạt động nên sau đó giải thể. Sau hiệp định Giơnevơ năm 1954, thành lập lại Thị xã Tây Ninh trên địa bàn cũ, do Võ Văn Truyện làm Bí thư Đảng kiêm Chủ tịch Uỷ ban hành chính. Năm 1957, tỉnh Tây Ninh chia thành 3 quận gồm có Châu Thành, Gò Dầu Hạ, Trảng Bàng. Năm 1959, quận Châu Thành chia thành 2 quận Phước Ninh và Phú Khương; quận Gò Dầu Hạ chia thành 2 quận Hiếu Thiện và Khiêm Hanh. Năm 1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam được thành lập tại làng Tân Lập, Tây Ninh. Đây cũng là trụ sở của Mặt trận từ năm 1960 đến 1966 Năm 1961, quận Trảng Bàng đổi tên thành quận Phú Đức. Năm 1963, quận Phú Đức được giao cho tỉnh Hậu Nghĩa và đổi lại tên cũ là Trảng Bàng. Từ đó đến năm 1975, tỉnh Tây Ninh có 4 quận: Năm 1968, Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam cũng được thành lập tại Tây Ninh Năm 1969, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ra đời tại Tây Ninh và được xem là thủ đô đầu tiên. Sau năm 1975, tỉnh Tây Ninh có thị xã Tây Ninh và 7 huyện: Bến Cầu, Châu Thành, Dương Minh Châu, Gò Dầu, Phú Khương, Tân Biên, Trảng Bàng. Ngày 14 tháng 3 năm 1979, đổi tên huyện Phú Khương thành huyện Hòa Thành. Ngày 13 tháng 5 năm 1989, tách một phần các huyện Tân Biên và Dương Minh Châu để thành lập huyện Tân Châu. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 135/NQ-CP thành lập thành phố Tây Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tây Ninh. Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 865/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập hai thị xã Hòa Thành và Trảng Bàng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của hai huyện có tên tương ứng. Kể từ ngày hôm đó, tỉnh Tây Ninh có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay. Hành chính. Tỉnh Tây Ninh có 9 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện với 94 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 17 phường, 6 thị trấn và 71 xã. Theo quyết định Quy hoạch số 241/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính trong giai đoạn 2021 – 2025: thành phố Tây Ninh sẽ từ đô thị loại III lên đô thị loại II; thị xã Hòa Thành và thị xã Trảng Bàng từ đô thị loại IV lên đô thị loại III; thị trấn Gò Dầu huyện Gò Dầu và thị trấn Bến Cầu huyện Bến Cầu sẽ đô thị loại IV. Trong đó, huyện Bến Cầu sẽ thành lập thị xã Bến Cầu. Đến giai đoạn 2026 – 2030, thị trấn Gò Dầu huyện Gò Dầu tiếp tục tiến lên đô thị loại III và huyện Dương Minh Châu thành lập thị xã Dương Minh Châu. Kinh tế - xã hội. Kinh tế. Năm 2018, Tây Ninh là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 37 về số dân, xếp thứ 28 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 14 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 32 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 1.133.400 người dân, GRDP đạt 71.166 tỉ Đồng (tương ứng với 3,0908 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 62,79 triệu đồng (tương ứng với 2.727 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,01%. Trong kỳ họp đánh giá tình hình phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh Tây Ninh năm 2022, tổng sản phẩm trong tỉnh ước tính đạt 55.914 tỷ đồng, tăng 8,84% so với cùng kỳ. GRDP bình quân đầu người đạt 3.700 USD. Định hướng phát triển thời gian tới, tỉnh Tây Ninh xác định mục tiêu phấn đấu đến năm 2025 đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng và đến năm 2030 phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Tỉnh Tây Ninh được xem là một trong những cửa ngõ giao lưu về quốc tế quan trọng giữa Việt Nam với Campuchia, Thái Lan,… Đồng thời tỉnh có vị trí quan trọng trong mối giao lưu trao đổi hàng hoá giữa các tỉnh vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và các tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong năm 2022, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội của Tây Ninh đạt 9,56%, xếp thứ 16 cả nước và đứng thứ nhất trong các vùng kinh tế trọng điểm Nam bộ. Trong đó, tổng doanh thu du lịch tăng 130%, đạt 1.400 tỷ đồng và lượng khách du lịch tăng 200%, đạt 4,5 triệu lượt. Khu du lịch quốc gia núi Bà Đen cũng trở thành 1 trong 5 điểm đến thu hút nhiều khách du lịch nhất cả nước. Nông nghiệp. Trong 3 tháng đầu năm 2012, phát triển ở mức tương đối, lĩnh vực nông nghiệp vẫn tiếp tục là thế mạnh, một số lĩnh vực đạt kết quả khả quan như thu ngân sách đạt dự toán, đảm bảo tiến độ thực hiện và đáp ứng các nhiệm vụ chi theo dự toán được giao, chỉ số giá tiêu dùng được kéo giảm, đầu tư phát triển trên địa bàn do được tập trung chỉ đạo nên thực hiện có hiệu quả, các dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư đẩy nhanh tiến độ triển khai. Thu ngân sách nhà nước đạt trên 1.133 tỷ đồng, Tổng nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng ước trên 21.880 tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ, Tổng kim ngạch xuất khẩu ước thực hiện 287 triệu USD, tăng trên 22% so với cùng kỳ. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Tây Ninh hàng năm đạt 14%, GDP bình quân đầu người đạt năm 2010 đạt 1.390 USD. Công nghiệp. Ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của Tây Ninh ngày càng phát triển vững chắc đồng thời đã xây dựng được hệ thống các nhà máy chế biến nông sản tại các vùng chuyên canh như các nhà máy mía đường, các nhà máy chế biến bột củ mì, các nhà máy chế biến mủ cao su, từng bước xây dựng các khu công nghiệp trong tỉnh. Giáo dục. Tính đến thời điểm ngày 30 tháng 9 năm 2011, trên địa bàn toàn tỉnh Tây Ninh có 410 trường học ở cấp phổ trong đó có Trung học phổ thông có 31 trường, Trung học cơ sở có 106 trường, Tiểu học có 271 trường, chuyên 1 trường, bên cạnh đó còn có 116 trường mẫu giáo. Với hệ thống trường học như thế, nền giáo dục trong địa bàn Tỉnh Tây Ninh cũng tương đối hoàn chỉnh, góp phần giảm thiểu nạn mù chữ trong địa bàn tỉnh. Tây Ninh có một trường chuẩn Quốc tế Cambridge là trường Liên cấp IGC Tây Ninh (Chánh Môn A, Khu phố 1, Phường 4, TP. Tây Ninh), từ bậc Mầm non - Tiểu học - THCS - THPT, hệ bán trú và nội trú. Có một trường chuyên là THPT chuyên Hoàng Lê Kha tại số 368 Trường Chinh, phường 3, thành phố Tây Ninh (địa chỉ cũ là 23 Võ Thị Sáu, phường 3, thành phố Tây Ninh). Một số trường đứng top đầu của tỉnh: Văn hóa. Kiến trúc Chàm, nền văn minh Chàm và dân tộc Khmer được đánh giá cao như là một xã hội văn minh sớm xuất hiện ở miền Nam Việt Nam. Tây Ninh hiện còn 2 trong 3 tháp cổ ở vùng đất nam bộ của nền văn hóa Óc Eo (Vương quốc Phù Nam tồn tại từ thế kỷ I đến thế kỷ VIII) hầu như còn nguyên vẹn là tháp Chót Mạt ở xã Tân Phong huyện Tân Biên và tháp Bình Thạnh ở xã Phước Bình thị xã Trảng Bàng. Theo thống kê của ban Dân tộc tỉnh Tây Ninh hiện Tây Ninh có 21 dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Tà Mun (được cho là hậu duệ của Vương quốc Phù Nam) ở Tây Ninh đang làm thủ tục để công nhận là dân tộc thứ 55 của Việt Nam. Tây Ninh còn nổi tiếng với các lễ hội: Du lịch. Định hướng phát triển thời gian tới, đến năm 2030, Tây Ninh sẽ phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thậm chí, trong dịp Tết Nguyên đán 2022, ngành du lịch Tây Ninh đứng đầu cả nước. Theo báo cáo từ Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Tây Ninh, du lịch Tây Ninh có đến gần 90% du khách đến Tây Ninh để thăm quan Khu du lịch Núi Bà Đen và Tòa Thánh Tây Ninh. Tây Ninh nổi tiếng với những phong cảnh thiên nhiên hùng vĩ và những công trình nhân tạo hoành tráng: Ngoài ra còn nhiều địa điểm du lịch khác như: thung lũng Ma Thiên Lãnh, chùa Cao Sơn Tự ở huyện Gò Dầu... Ẩm thực. Tây Ninh nổi tiếng với các loại đặc sản sau đây: Dân cư. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh Tây Ninh đạt 1.169.165 người, mật độ dân số đạt 268 người/km² Trong đó dân số sống tại thành thị đạt 207.569 người, chiếm 17,8% dân số toàn tỉnh, dân số sống tại nông thôn đạt 961.596 người, chiếm 82,2% dân số. Dân số nam đạt 584.180 người, nữ đạt 584.985 người. Tỷ lệ tăng tự nhiên dân số phân theo địa phương tăng 0,92 % Tỷ lệ đô thị hóa tính đến năm 2021 đạt 42%. Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, toàn tỉnh Tây Ninh có 9 tôn giáo khác nhau, nhiều nhất là Đạo Cao Đài có 415.920 người, Công giáo có 45.992 người, Phật giáo có 38.336 người, các tôn giáo khác như Hồi giáo 3.337 người, Tin Lành có 684 người, Phật giáo hòa hảo có 236 người, Minh Sư Đạo có bốn người, Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam có hai người, Bà-la-môn có một người. Theo thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, toàn tỉnh Tây Ninh có đủ 29 dân tộc cùng người nước ngoài sinh sống. Trong đó dân tộc Kinh có 1.050.376 người, người Khmer có 7.578 người, người Chăm có 3.250 người, người Xtiêng có 1.654 người, người Hoa có 2.495 người, còn lại là những dân tộc khác như Mường, Thái, Tày... Giao thông. Tây Ninh có đường Xuyên Á đi qua với chiều dài gần 28 km, nối Thành phố Hồ Chí Minh với Campuchia thông qua cửa khẩu Mộc Bài. Tây Ninh có 2 tuyến sông chính là tuyến sông Sài Gòn và tuyến sông Vàm Cỏ Đông. Ngoài ra địa bàn tỉnh Tây Ninh còn có cảng sông Bến Kéo nằm trên sông Vàm Cỏ Đông. Hiện nay, Tây Ninh còn có hai tuyến cao tốc đã được Thủ tướng phê duyệt và đang chờ xây dựng bao gồm: Đường cao tốc Thành phố Hồ Chí Minh – Mộc Bài và Đường cao tốc Gò Dầu – Xa Mát. Năm 2022, UBND tỉnh Tây Ninh đã trình Thủ tướng và Bộ Giao thông vận tải đề xuất bổ sung quy hoạch sân bay Tây Ninh vào quy hoạch sân bay toàn quốc thời kỳ 2030, tầm nhìn 2050. Danh nhân. ➢ Văn hóa - nghệ thuật : Ca sĩ nguyễn kha (Sinh năm 1981)
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Phú Yên là một tỉnh ven biển nằm ở phía bắc khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Năm 2018, Phú Yên là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 45 về số dân, xếp thứ 43 về Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP), xếp thứ 30 về GRDP bình quân đầu người, đứng thứ 25 về tốc độ tăng trưởng GRDP. Với 961,1 nghìn dân, GRDP đạt 36.352 tỉ Đồng (tương ứng với 1,5790 tỉ USD), GRDP bình quân đầu người đạt 39,97 triệu đồng (tương ứng với 1.736 USD), tốc độ tăng trưởng GRDP đạt 8,3%. Địa lý. Phú Yên trải dài từ 12°42'36" đến 13°41'28" vĩ Bắc và từ 108°40'40" đến 109°27'47" kinh Đông, phía Bắc giáp tỉnh Bình Định, phía Nam giáp Khánh Hòa, phía Tây giáp Đắk Lắk và Gia Lai, phía Đông giáp Biển Đông. Phú Yên có vị trí địa lý và giao thông tương đối thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Phú Yên nằm ở miền Trung Việt Nam, tỉnh lỵ Phú Yên là thành phố Tuy Hòa, cách thủ đô Hà Nội 1.160 km về phía Bắc, cách Thành phố Hồ Chí Minh 560 km về phía Nam và cách Đà Nẵng 438 km về phía Bắc theo đường Quốc lộ 1. Diện tích tự nhiên: 5.045 km², chiều dài bờ biển: 189 km. Địa hình. Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc có dãy Đèo Cù Mông, phía Nam là dãy Đèo Cả, phía Tây là mạn sườn đông của dãy Trường Sơn, và phía Đông là biển Đông. Phú Yên được biết đến nơi có đồng bằng Tuy Hòa, được xem là vựa lúa của miền Trung. Khí hậu. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm và chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương. Có 2 mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8. Nhiệt độ trung bình hằng năm 26,5 °C, lượng mưa trung bình hằng năm khoảng 1.600 - 1.700mm. Sông, suối. Có hệ thống Sông Đà Rằng, sông Bàn Thạch, sông Kỳ Lộ với tổng diện tích lưu vực là 16.400 km², tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m3, đảm bảo đủ nước tưới cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt. Phú Yên có nhiều suối nước khoáng nóng như: Phú Sen, Triêm Đức, Trà Ô, Lạc Sanh. Ngoài ra còn có nhiều tài nguyên trong lòng đất như Diatomite (90 triệu m3), đá hoa cương nhiều màu (54 triệu m3), vàng sa khoáng (300 nghìn tấn) (số liệu năm 2006 theo Cẩm nang xúc tiến thương mại du lịch Phú Yên) Hành chính. Tỉnh Phú Yên có 9 đơn vị hành chính cấp huyện, bao gồm 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện với 110 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 21 phường, 6 thị trấn và 83 xã. Lịch sử. Phú Yên là nơi có các di tích từ thời Văn hóa Hòa Bình , Sa Huỳnh. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông thân chinh cầm quân đánh Chăm Pa đến tận đèo Cả. Tuy nhiên sau đó Lê Thánh Tông chỉ sáp nhập vùng đất từ đèo Hải Vân tới đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) vào lãnh thổ Đại Việt. Vùng đất Phú Yên vẫn thuộc quyền quản lý của Chăm Pa với tên gọi Ayaru (Êa Ryu). Từ năm 1570, Nguyễn Hoàng là trấn thủ vùng Thuận Hóa và Quảng Nam của Đại Việt. Năm 1578 ông sai tướng dưới quyền Lương Văn Chánh tấn công vào thành Hồ, là thủ phủ của Chăm Pa tại vùng Ayaru "Êa Ryu" (Phú Yên), thành Hồ bị thất thủ, từ đó vùng đất Ayaru là nơi tranh chấp thường xuyên giữa người Việt và người Chăm. Theo chính sách của chúa Nguyễn ông đã chiêu tập và đưa lưu dân từ các vùng Thanh - Nghệ, Thuận - Quảng vào đây để khẩn hoang lập ấp, tạo dựng cơ nghiệp. Năm 1611, Nguyễn Hoàng sai viên tướng dưới quyền là Văn Phong tấn công vào Aryaru, Chăm Pa thất bại. Nguyễn Hoàng sáp nhập Ayaru vào lãnh thổ Đàng Trong với tên gọi Phú Yên và giao cho Văn Phong cai quản đất Phú Yên. Tên gọi nầy do chúa Nguyền Hoàng đặt với ước nguyện về một miến đất trù phú, thanh bình trong tương lai. Tới năm 1629, Văn Phong chống lại chính quyền Đàng Trong, lúc này Nguyễn Hoàng đã chết, người nối nghiệp là Nguyễn Phúc Nguyên đã sai tướng Nguyễn Phúc Vinh vào đánh dẹp. Sau khi đánh bại được Văn Phong, Phúc Vinh được giao cai quản đất Phú Yên Với một vị trí chiến lược quan trọng, vào thế kỷ 18 Phú Yên là nơi đối đầu quyết liệt giữa nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn; nơi Nguyễn Huệ, vào tháng 7 năm 1775, đã đánh bại 2 vạn quân ngũ dinh (Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn và Long Hồ) của Tống Phước Hiệp. Năm Minh Mạng thứ 13, tại Gia Định Thành 1832, vua đã lập 12 tỉnh phía Nam đèo Hải Vân, trong đó có Phú Yên. Năm 1954, Phú Yên chịu sự quản lý của Chính thể Việt Nam Cộng Hoà. Năm 1976, sau khi thống nhất đất nước, Phú Yên nằm trong địa phận tỉnh Phú Khánh. Ngày 1 tháng 7 năm 1989, tỉnh Phú Yên được tái lập và tồn tại cho đến ngày nay. Khi tách ra, tỉnh Phú Yên có 7 đơn vị hành chính gồm thị xã Tuy Hòa và 6 huyện: Đồng Xuân, Sơn Hòa, Sông Cầu, Sông Hinh, Tuy An, Tuy Hòa. Ngày 4 tháng 3 năm 2002, chia thị xã Tuy Hòa thành thị xã Tuy Hòa và huyện Phú Hòa. Ngày 5 tháng 1 năm 2005, chuyển thị xã Tuy Hòa thành thành phố Tuy Hòa. Ngày 16 tháng 5 năm 2005, chia huyện Tuy Hòa thành 2 huyện: Đông Hòa và Tây Hòa. Ngày 27 tháng 8 năm 2009, chuyển huyện Sông Cầu thành thị xã Sông Cầu. Ngày 11 tháng 3 năm 2013, thành phố Tuy Hòa được công nhận là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Phú Yên. Ngày 4 tháng 3 năm 2019, Bộ Xây dựng quyết định công nhận thị xã Sông Cầu là đô thị loại III. Ngày 1 tháng 6 năm 2020, chuyển huyện Đông Hòa thành thị xã Đông Hòa. Tỉnh Phú Yên có 1 thành phố, 2 thị xã và 6 huyện như hiện nay. Dân số. Kinh Tế Diện tích đất nông nghiệp 72.390 ha, đất lâm nghiệp khoảng 209.377 ha, đất chuyên dùng 12.297 ha, đất dân cư 5.720 ha, đất chưa sử dụng 203.728 ha; có nhiều loại gỗ và lâm sản quý hiếm. Trong bảng xếp hạng về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của Việt Nam năm 2011, tỉnh Phú Yên xếp ở vị trí thứ 50/63 tỉnh thành. Phú Yên nằm ở sườn Đông dãy Trường Sơn, đồi núi chiếm 70% diện tích đất tự nhiên. Địa hình dốc mạnh từ Tây sang Đông, dải đồng bằng hẹp và bị chia cắt mạnh, có hai đường cắt lớn từ dãy Trường Sơn là cánh đèo Cù Mông và cánh đèo Cả. Bờ biển dài gần 200 km có nhiều dãy núi nhô ra biển hình thành các eo vịnh, đầm phá có lợi thế phát triển du lịch, vận tải đường thủy, đánh bắt và nuôi trồng hải sản xuất khẩu. Ngoài ra còn có Khu bảo tồn thiên nhiên Quốc gia Krông-Trai rộng 20.190 ha với hệ động vật và thực vật phong phú đa dạng. Năm 2019, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 8,94%, trong đó: khu vực Nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,26%; Công nghiệp và xây dựng tăng 18,73%; dịch vụ tăng 5,72%. Tổng thu ngân sách Nhà nước (NSNN) trên địa bàn tỉnh năm 2019 là 6.993 tỷ đồng, vượt 27,1% dự toán tỉnh giao, tăng gấp 1,5 lần so năm 2018. Trong đó: Thu nội địa 6.414 tỷ đồng, vượt 18,2% dự toán, tăng 42% so năm trước; thu thuế xuất nhập khẩu 578,8 tỷ đồng, gấp 8 lần dự toán (do nhập khẩu thiết bị để triển khai các dự án điện mặt trời). Trong đó, khối tỉnh thực hiện thu 4.821 tỷ đồng (vượt 26,1% dự toán tỉnh và tăng 68% so với năm 2018), khối huyện thực hiện thu 2.171 tỷ đồng (vượt 29,4% dự toán, tăng 27,4% so với cùng kỳ); có 9/9 huyện, thị xã, thành phố thu đạt và vượt dự toán giao, đặc biệt huyện Phú Hòa thu vượt 92,7%, thị xã Sông Cầu thu vượt 136,1%. Tổng chi ngân sách địa phương năm 2019 là 9.231 tỷ đồng, bằng 85,1% dự toán chi điều hành, tăng 14,4% so với năm 2018. Nhìn chung, các lĩnh vực chi đều đảm bảo theo dự toán giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chi, đảm bảo đúng mục đích, đúng nội dung, có hiệu quả, phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh của tỉnh. Giao thông. Hệ thống giao thông đường bộ trọng yếu gồm có: Phú yên cũng có đường sắt Bắc-Nam đi qua với ga chính là Ga Tuy Hòa. Về hàng không, Phú Yên hiện đang vận hành Sân bay Đông Tác (Hoạt động từ tháng 4/2003) với 2 đường bay chính: Tuy Hòa - Hà Nội và Tuy Hòa - Thành phố Hồ Chí Minh. Cơ sở hạ tầng. Tổng số bưu cục, đại lý, kiốt trên toàn Tỉnh là 133 đơn vị, tổng số máy điện thoại 14.716 máy; dịch vụ bưu chính cũng phát triển mạnh. Phú Yên nằm trong vùng ảnh hưởng của vùng kinh tế trọng điểm miền trung, trong các tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ, Phú Yên là nơi có điều kiện thuận lợi nhất trong việc xây dựng tuyến đường sắt lên Tây Nguyên. Đây là một trong những điều kiện thuận lợi đưa Phú Yên trở thành đầu mối giao lưu kinh tế Bắc Nam và Đông Tây; cụ thể: "Giao thông đường bộ", có mạng lưới giao thông rộng khắp, gồm Quốc lộ 1, Quốc lộ 1D, Quốc lộ 25, Quốc lộ 29 và các tuyển tỉnh lộ nối vùng đồng bằng với vùng miền núi. Có trục giao thông phía Tây nối 03 huyện miền núi Phú Yên với huyện Vân Canh (tỉnh Bình Định) và huyện Ma D'răk (tỉnh Đắk Lắk); có trục giao thông ven biển nằm trong tuyến đường bộ ven biển Việt Nam nối các huyện vùng biển và ven biển; "Giao thông đường sắt", có tuyến đường sắt Bắc - Nam đi qua với chiều dài đoạn tuyến là 117 km, có 2 ga chính là Tuy Hòa và Đông Tác, trong tương lai khi tuyến đường sắt lên Tây Nguyên được hình thành mở ra triển vọng hợp tác, giao thương hàng hóa giữa Phú Yên và các tỉnh Tây Nguyên; "Hàng không", Phú Yên có sân bay Tuy Hòa cách thành phố Tuy Hòa 5 km về phía Đông Nam, diện tích sân bay: 700ha, hiện đang nâng cấp cảng hàng không Tuy Hòa theo tiêu chuẩn 4C; "Cảng Vũng Rô," Vũng Rô là cảng biển nước sâu có thể đón nhận tàu trọng tải 30 nghìn DWT. Du lịch. Du lịch là một trong những ngành ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong quá trình đi lên của Phú Yên. Mặc dầu có xuất phát điểm thấp, nhưng đến nay du lịch Phú Yên đã vươn lên trở thành một trong những mũi nhọn kinh tế của tỉnh. Với thương hiệu "Xứ sở hoa vàng trên cỏ xanh". Nông nghiệp. Chủ yếu là lúa, mía,cây hoa màu với trình độ thâm canh khá. Với cánh đồng Tuy Hòa, cánh đồng lúa rộng nhất miền Trung, lương thực, đặc biệt là lúa, nhân dân đã tự túc và có phần sản xuất ra các tỉnh lân cận. Sản lượng lúa bình quân hàng năm ước trên 320000 tấn, đáp ứng nhu cầu địa phương và bán ra tỉnh ngoài. Mặc dù không phải là trọng tâm nhưng đây là ngành kinh tế thu hút nhiều lao động của tỉnh, giải quyết công ăn việc làm cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Do khí hậu nóng ẩm, nhiệt đới gió mùa, chịu ảnh hưởng của khí hậu đại dương và chia làm hai mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12 và mùa nắng từ tháng 1 đến tháng 8, thích hợp nhiều loại cây lương thực và hoa màu như: lúa, bắp, đậu, rau, dưa, bầu, bí, khoai, sắn, mía...; phát triển tốt ở Tây Hòa, Tuy An, Phú Hòa. Cây mía trồng nhiều ở Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân, Tuy An, và Tây Hòa. Dừa là loại cây công nghiệp trồng nhiều ở Sông Cầu. Thủy - hải sản. Phú Yên có diện tích vùng biển trên 6.900 km² với trữ lượng hải sản lớn: trên 500 loài cá, 38 loài tôm, 15 loài mực và nhiều hải sản quý. Sản lượng khai thác hải sản của Phú Yên năm 2005 đạt 35.432 tấn, tăng bình quân 5%/năm. Trong đó sản lượng cá ngừ đạt 5.040 tấn (thông tin từ Cẩm nang xúc tiến thương mại - du lịch Phú Yên). Nuôi trồng thủy sản là một trong những ngành kinh tế mạnh của tỉnh, với tổng diện tích thả nuôi là 2.950ha, sản lượng thu hoạch 3.570 tấn, bên cạnh đó có nhiều loại hải sản có giá trị kinh tế cao như sò huyết, cá ngừ đại dương, tôm sú, tôm hùm. Các địa phương nuôi trồng hải sản tập trung ở khu vực đầm Cù Mông, Vịnh Xuân Đài (Thị xã Sông Cầu), Đầm Ô Loan (Huyện Tuy An)... Đây là những địa phương nuôi trồng có tình chiến lược của tỉnh, thu hút nhiều lao động. Đặc biệt, ngay tại Đầm Cù Mông, việc nuôi trồng và chế biến được thực hiện khá đầy đủ các công đoạn nhờ Khu công nghiệp Đông bắc Sông Cầu nằm ngay tại đó. Môi trường - Tài nguyên thiên nhiên. Tài nguyên đất. Tài nguyên đất Phú Yên khá đa dạng về nhóm, các loại đất phân bố trên nhiều dạng địa hình khác nhau tạo ra những tiểu vùng sinh thái nông – lâm nghiệp thích hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây trồng lâu năm vùng đồi núi. Có 8 nhóm đất chính: Nhóm đất đỏ vàng: Là nhóm đất có diện tích lớn nhất. 336.579 ha, chiếm tỷ lệ 66,71%; Nhóm đất cát biển: 15.009 ha chiếm 2,97%. Nhóm đất mặn, phèn: 7.899 ha, chiếm 1,57%.  Nhóm đất Phù sa: 55.752 ha, chiếm 11.05%. Nhóm đất xám: 39.552 ha, chiếm 7,84%, Nhóm đất đen: 18.831 ha, chiếm 3,73%.. Nhóm đất vàng đỏ trên núi: 11.300 ha, chiếm 2,5%. Nhóm đất thung lũng dốc tụ: 1.246 ha;  Các loại đất khác: 21.192 ha, chiếm tỷ lệ 4,21%. Sông ngòi - Biển. Sông. Phú Yên có hệ thống sông ngòi phân bổ tương đối đều trên toàn tỉnh, các sông đều bắt nguồn từ phía Đông của dãy Trường Sơn, chảy trên địa hình đồi, núi ở trung và thượng lưu, đồng bằng nhỏ hẹp ở hạ lưu rồi đổ ra biển. Phú Yên có trên 50 con sông lớn nhỏ, đáng chú ý là 3 con sông chính: sông Kỳ Lộ, Sông Ba, Sông Bàn Thạch với với tổng diện tích lưu vực là 16.400 km², tổng lượng dòng chảy 11.8 tỷ m³, phục vụ nước tưới cho nông nghiệp, thủy điện và sinh hoạt của người dân Phú Yên. Nguồn nước mặt: Mạng lưới sông suối ở Phú Yên phần lớn bắt nguồn từ dãy núi Trường Sơn ở phía Tây, dãy Cù Mông ở phía Bắc và dãy đèo Cả ở phía Nam. Sông suối của tỉnh thường ngắn, dốc nên tốc độ dòng chảy lớn. Nguồn nước sông Ba có trữ lượng lớn nhất tỉnh, lượng nước đổ ra biển hàng năm là 9,7 tỷ m³. Nguồn nước sông Bàn Thạch với tổng lượng dòng chảy của sông 0,8 tỷ m3/năm. Sông Kỳ Lộ là con sông lớn thứ 2 trong tỉnh, diện tích lưu vực sông Kỳ Lộ là 1.950 km², trong đó phần trong tỉnh là 1.560 km². "Nguồn nước ngầm:" Trữ lượng động tự nhiên khai thác tiềm năng nguồn nước ngầm của tỉnh khoảng 1,2027 x 106m³/ngày. "Nước khoáng:" Nguồn tài nguyên nước khoáng ở Phú Yên khá phong phú, trên địa bàn tỉnh có 4 điểm nước khoáng nóng ở Sơn Thành (huyện Tây Hòa), Phước Long ở xã Xuân Long, Triêm Đức (huyện Đồng Xuân) và Phú Sen (huyện Phú Hòa). Biển. Với bờ biển dài 189 km, có nhiều vịnh, bãi, vũng, đầm phá, gành còn mang vẻ đẹp hoang sơ tạo nên những cảnh quan sinh thái phong phú, đa dạng là tiềm năng rất lớn cho du lịch biển, du lịch nghỉ dưỡng và du lịch sinh thái. Bên cạnh đó, Phú Yên có nhiều vùng bãi triều nước lợ, cửa sông, đầm phá, vịnh rất thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản xuất khẩu. Đây là tiềm năng, lợi thế để Phú Yên phát triển kinh tế biển. Tài nguyên rừng. Huyện Sơn Hòa có hàng vạn hecta rừng với nhiều gỗ quí như: Bằng Lăng, Chang gà, Côn, Ba thưa, Chò, Gõ, Sơn, Kiền kiền, Lim, Trắc... cùng nhiều loại thú như: gấu, nai, mang, hươu, cheo, chồn, thỏ, nhím...; đang là nơi phát triển các giống cây công nghiệp như: cà phê, điều, thuốc lá cùng nhiều loại cây ăn trái (thơm, mít, chuối, cam, bưởi...).  Toàn tỉnh có 3 kiểu rừng chính là rừng kín lá rộng thường xanh, đây là kiểu rừng phổ biến ở Phú Yên chiếm 96,5% diện tích rừng tự nhiên; rừng rụng lá (khộp), kiểu rừng này chiếm tỷ lệ 3,5% diện tích rừng tự nhiên toàn tỉnh; rừng trồng, hiện có 20.963,0 ha rừng trồng và khoảng 8,4 triệu cây phân tán (tương đương 4.200 ha), gồm các loại cây chủ yếu như keo tai tượng, xà cừ, phi lao, điều, dầu rái, sao đen, gõ đỏ, muồng đen, giáng hương và một số loại khác. Hệ động thực vật rừng Phú Yên khá phong phú có 43 họ chim với 114 loài ("trong đó có 7 loài quý hiếm"). Thú có 20 họ với 51 loài ("trong đó có 21 loài quý hiếm"), Bò sát có 3 họ với 22 loài ("trong đó có 2 loài quý hiếm"). Phú Yên có nguồn khoáng sản dồi dào, trữ lượng lớn như đá Granite màu, Diatomite, Bauxit, Fluorit, nước khoáng, than bùn vàng sa khoáng. Thực trạng. Ngày 26-4, thông tin từ Văn phòng Chính phủ cho biết Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc vừa chỉ đạo Thanh tra Chính phủ kiểm tra, làm rõ các vấn đề báo Tuổi trẻ phản ánh về vấn đề phá rừng phòng hộ ở Phú Yên. Theo đó, hơn 100ha rừng phòng hộ ở Phú Yên đang bị phá để làm sân golf, khách sạn, resort nhưng đến nay vẫn chưa có hồ sơ xin phép Thủ tướng Chính phủ cho chuyển mục đích sử dụng đất theo quy định. Ngoài ra, Phú Yên còn dành hơn 1.000ha rừng cho 20 dự án đầu tư khác. Phá rừng nhiều nhất là các dự án nuôi bò, thủy điện, trường đua ngựa và nhà máy lọc dầu. Giáo dục. Phú Yên có hệ thống các trường đại học (Phú Yên, xây dựng số 3) đào tạo 300 SV, Cao đẳng (Công nghiệp) mỗi năm đào tạo khoảng 1200 học viên, 1 chi nhánh học viện ngành tài chính ngân hàng đào tạo trên 300 học viên và các trường và trung tâm đào tạo nghề (mỗi năm đào tạo khoảng 1.400 kỹ thuật viên và trên 800 công nhân có tay nghề cao - từ bậc 3/7 trở lên). Trường Đại học Xây dựng Miền Trung đào tạo Kỹ sư xây dựng và Kiến trúc (mỗi năm đào tạo 1500 học viên). Các trường. Hệ Đại học: Hệ Cao đẳng: Văn hóa. Dân Phú Yên thường được gọi là dân xứ "nẫu", đó là tiếng nói đặc trưng của họ, tiếng nẫu (nẫu = người ta). Dân Phú Yên còn có thể loại hát chòi, đó là một thể loại hát dân gian từng rất phổ biến ở Phú Yên. Phú Yên cũng chính là nơi đã phát hiện ra nhiều di sản văn hoá, như bộ trường ca quý giá của các dân tộc thiểu số, bộ đàn đá Tuy An có độ chuẩn về cung bậc thuộc loại chính xác nhất và những chiếc kèn đá có một không hai. Lễ hội. Ngoài các lễ hội chung của cả nước, còn có nhiều lễ hội riêng biệt, đặc trưng của vùng, được nhà nước công nhận như là di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam: Lịch một số lễ hội ở Phú Yên (cấu trúc: Tên lễ hội: thời gian (âm lịch), địa điểm.) Ẩm thực ở Phú Yên. Bánh ướt ở Phú Yên có cách tráng mỏng tương tự như cách tráng bánh cuốn nóng ở miền Bắc. Bánh ướt thường được phục vụ nóng ngay tại chỗ. Ngoài ra còn có bánh bèo nóng, ăn khi bánh vừa xuống lò. Bánh được hấp cách thủy trong chén nhỏ và được phục vụ tại chỗ. Các loại bánh trên thường được rải chà bông tôm (hay ruốc tôm theo cách gọi người miền Bắc), phục vụ cùng nước mắm ớt pha ngọt và nếu có yêu cầu có thêm lòng lợn đi kèm và cháo lòng. - Trong đó có thể kể đến các món: + Cá ngừ cắt lát ăn với mù tạt. Món ngày được chế biến từ các lát cá ngừ sống cắt nhở đường kính 4, 5 cm sau khi được đông lạnh để sắc cá chuyển từ đỏ sang hồng sẽ được dọn ra ăn kèm với các loại rau thường thấy là: cải xanh, ngò tàu, ngổ, é quế, é ta, húng dũi, húng đứng...và cùng món nước chấm đặc biệt được pha bởi xì dầu, mù tạt và tương ớt. Thực khách có thể ăn lát cá với nước chấm kể trên hoặc cuộn lát cá với cải ăn cùng nước chấm. + Mắt cá ngừ chưng cách thủy:(món "đèn biển") Cách chế biến: Mắt cá mua về rửa sạch. Chú ý cát lẫn vào mắt. Ướp các loại gia vị như hành, tiêu, ớt, tỏi, muối, bột ngọt... để cho thấm đều khoảng 15 - 20 phút thì cho vào nồi đất chưng cách thủy độ nửa giờ thì ăn được. Khi chưng cho thêm mấy vị thuốc bắc để khử mùi tanh và tăng chất bổ dưỡng. Ăn món này thường kèm với các loại rau thơm và kèm một vài ly rượu mạnh thì càng hợp khẩu... + Gỏi bao tử cá ngừ: Đây là món hiếm, ít được bày bán ở hàng quán, bởi ngư dân đánh bắt cá ngừ thường dùng món này trong lúc họ còn lênh đênh trên biển hoặc về "lưu hành nội bộ". Chỉ cần rửa sạch bao tử rồi bỏ vào nước lã luộc chín, sau đó rửa lại nước lạnh cho giòn, xắt thành miếng vừa ăn ướp với hành tây, tiêu, ớt, muối đường, mì chính... trộn đều là có món gỏi bao tử cá ngừ. + Cháo đầu cá: Đầu cá mua về rửa sạch, xẻ làm tư rồi cho vào nồi nấu cháo như các loại cá khác. Sau những lúc chén tạc, chén thù với bạn bè mà có được chén cháo đầu cá ngừ đang bốc hơi thì không mấy chốc hơi men sẽ thoát ra khỏi người và có được giấc ngủ sâu, khi dậy cảm thấy người vô cùng khoan khoái... + Ức cá ngừ: Ức cá ngừ sau khi tẩm ướt được hấp, kho và thậm chí xào và có mùi vị như thịt bò hoặc thịt lợn nếu có nhiều mỡ cá. Các truyền thuyết, huyền thoại. Phú Yên có rất nhiều câu chuyện truyền thuyết và huyền thoại gắn liền với lịch sử hơn 400 năm của minh. Một số truyện tiêu biểu: Du lịch. Phú Yên được biết đến là một vùng đất hoang sơ, xinh đẹp với nhiều bãi biển, đầm vũng, di tích lịch sử văn hoá như Núi Nhạn, Núi Đá Bia,Vũng Rô, Bãi Môn - Mũi Điện, Đầm Ô Loan,Gành Đá Đĩa, Nhà thờ Mằng Lăng, Vịnh Xuân Đài, Đập Đồng Cam. Ngoài ra Phú Yên còn rất nhiều danh thắng khác như Bãi Xép, biển Vịnh Hoà, đồi cát Từ Nham, hòn Nưa, hòn Chùa, Nhất Tự Sơn, bãi Bàu, hòn Yến, Gành Đèn, thác Cây Đu, thác H’Ly, Cao nguyên Vân Hòa... Sự kiện bộ phim “Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh” đã tạo động lực cho du lịch Phú Yên phát triển mạnh mẽ và đang trở thành điểm dừng chân đầy thú vị trên bản đồ du lịch Việt Nam. Hiện tại Tp. Tuy Hoà và Tx. Sông Cầu có nhiều nhà hàng, khách sạn, Resort tiêu chuẩn du lịch phục vụ du khách. Năm 2019, Phú Yên đón gần 1,8 triệu lượt khách tham quan.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thị xã là một đơn vị hành chính cấp huyện ở Việt Nam, dưới tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Theo cách phân loại đô thị hiện nay, thị xã là đô thị loại IV hoặc loại III. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2008, Việt Nam có 47 thị xã. Đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 52 thị xã. Tất cả các tỉnh lỵ của Việt Nam hiện nay trước kia đều là thị xã, đến nay các thị xã tỉnh lỵ đều đã được nâng cấp lên thành phố thuộc tỉnh. Về quy mô, thị xã thường nhỏ hơn các thành phố và lớn hơn thị trấn; là nơi tập trung đông dân cư, sinh sống chủ yếu nhờ các hoạt động trong các lĩnh vực như: công nghiệp, dịch vụ, thương nghiệp, tiểu thủ công nghiệp. Về loại hình, thị xã là một đô thị và dân cư tại đó được xếp là dân thành thị; mặc dù có thể vẫn còn một phần dân cư sống bằng nông nghiệp. Một thị xã được chia thành nhiều phường (phần nội thị) và xã (phần ngoại thị). Nhưng cũng có trường hợp ngoại lệ là thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An với tất cả các đơn vị hành chính chỉ có phường mà không có xã trực thuộc. Quy định trong luật pháp. Cấp hành chính. "1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:" "Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;" "Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;" "Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường." "Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập." "Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:" "1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);" "2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);" "3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);" "4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt." Như vậy, thị xã nằm ở cấp hành chính thứ hai trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, ) của Việt Nam. Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính. Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại "Điều 6", "Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị", "Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính" thì một thị xã cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau: "Điều 6. Tiêu chuẩn của thị xã" "1. Quy mô dân số từ 100.000 người trở lên." "2. Diện tích tự nhiên từ 200 km² trở lên." "3. Đơn vị hành chính trực thuộc:" "a) Số đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc có từ 10 đơn vị trở lên;" "b) Tỷ lệ số phường trên tổng số đơn vị hành chính cấp xã từ 50% trở lên." "4. Đã được công nhận là đô thị loại III hoặc loại IV; hoặc khu vực dự kiến thành lập thị xã đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại III hoặc loại IV." "5. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Nghị quyết này." Thống kê. Tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, cả nước có: Thị xã có diện tích lớn nhất: thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) với 1.195,7 km². Thị xã có diện tích nhỏ nhất: thị xã Cửa Lò (Nghệ An) với 27,81 km². Thị xã có dân số đông nhất: thị xã Bến Cát (Bình Dương) với 355.663 người. Thị xã có dân số ít nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) với 11.162 người. Thị xã có nhiều đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) với 16 phường và 15 xã. Thị xã có ít đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) với 2 phường và 1 xã. Thị xã có nhiều xã nhất: thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa) với 20 xã. Thị xã Cửa Lò (Nghệ An) là thị xã duy nhất ở Việt Nam hiện nay chỉ có phường, không có xã trực thuộc. Thị xã có nhiều phường nhất: thị xã Nghi Sơn (Thanh Hóa) với 16 phường. Thị xã có ít phường nhất: thị xã Mường Lay (Điện Biên) và thị xã Duyên Hải (Trà Vinh) với 2 phường ở mỗi thị xã. Lịch sử. Trước năm 1945. Giai đoạn 1945 - 1975 Thị xã của chính quyền Việt Nam Cộng hòa (1955-1975). Tại miền Nam thời Việt Nam Cộng hòa, các xã ở trung tâm tỉnh lỵ có mức độ đô thị hóa cao được gọi là thị xã (xã thành thị) và tất cả đều trở thành các thị xã tự trị (không còn phụ thuộc vào đơn vị cấp "quận trực thuộc tỉnh"). Chính phủ Việt Nam Cộng hòa không xây dựng quy chế thành phố mà thành lập hai cấp tương đương là Đô thành Sài Gòn và 10 thị xã tự trị trong đó có Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Cam Ranh, Đà Lạt, Vũng Tàu, Mỹ Tho, Cần Thơ và Rạch Giá Về phân cấp hành chính các thị xã tự trị được tổ chức không giống nhau tùy theo ý nghĩa về quân sự và văn hóa. Đơn vị hành chính trong các thị xã Các thị xã được chia thành các quận đô thị (khác quận trực thuộc tỉnh vì thị xã tương đương quận trực thuộc tỉnh, có khi tương đương cấp tỉnh): Sau năm 1975. Sau năm 1975, cả nước có 64 thị xã, bao gồm: Bạc Liêu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Bến Tre, Biên Hòa, Buôn Ma Thuột, Cà Mau, Cam Đường, Cam Ranh, Cao Bằng, Cẩm Phả, Châu Đốc, Cao Bằng, Đà Lạt, Đồ Sơn, Đông Hà, Đồng Hới, Gò Công, Hà Đông, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hòa Bình, Hồng Gai, Hội An, Huế, Hưng Yên, Kiến An, Kon Tum, Lai Châu (cũ), Lạng Sơn, Lào Cai, Long Xuyên, Nghĩa Lộ, Nha Trang, Ninh Bình, Phan Rang, Phan Thiết, Phú Thọ, Phúc Yên, Pleiku, Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Rạch Giá, Sa Đéc, Sóc Trăng, Sơn La, Sơn Tây, Tam Kỳ, Tân An, Tây Ninh, Thái Bình, Thanh Hóa, Thủ Dầu Một, Trà Vinh, Tuy Hòa, Tuyên Quang, Uông Bí, Vị Thanh, Vĩnh Long, Vĩnh Yên, Vũng Tàu, Yên Bái. Tháng 6 năm 1975, chuyển thị xã Huế thành thành phố Huế thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1976, thành lập thành phố Biên Hòa thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Biên Hòa. Ngày 10 tháng 3 năm 1976, tỉnh Bạc Liêu - Cà Mau đổi tên thành tỉnh Minh Hải, đồng thời thị xã Bạc Liêu cũng được đổi tên thành thị xã Minh Hải thuộc tỉnh Minh Hải. Ngày 26 tháng 6 năm 1976, sáp nhập thị xã Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phú vào huyện Yên Lãng. Ngày 20 tháng 11 năm 1976, sáp nhập thị xã Tam Kỳ với hai huyện Bắc Tam Kỳ và Nam Tam Kỳ thành huyện Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngày 10 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 49-CP. Theo đó, thành lập thành phố Nha Trang thuộc tỉnh Phú Khánh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Nha Trang cùng với 7 xã thuộc huyện Vĩnh Xương, hợp nhất thị xã Cam Ranh và huyện Khánh Sơn thành huyện Cam Ranh, hợp nhất thị xã Tuy Hòa với huyện Tuy Hòa thành huyện Tuy Hòa. Đồng thời, ngày 10 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 51-CP. Theo đó, thành phố Đà Lạt gồm có 6 phường và xã Lát thuộc huyện Đức Trọng chuyển sang. Ngày 26 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 77-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang vào huyện Gò Công. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành 2 quyết định: Ngày 30 tháng 8 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 228-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ ba quận I, II, III của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (các quận này trước đây thuộc thị xã Đà Nẵng trực thuộc trung ương, sau khi thị xã sáp nhập với tỉnh Quảng Nam thì ba quận trên trực thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng). Ngày 15 tháng 12 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 330-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang (cũ) vào huyện Long Mỹ. Ngày 4 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 56-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn vào huyện Văn Chấn. Ngày 22 tháng 9 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 241-CP. Theo đó, tái lập thị xã Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Khánh từ huyện Tuy Hòa. Ngày 17 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 168-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn vào thị xã Lào Cai. Ngày 30 tháng 5 năm 1979, Quốc hội ban hành Nghị quyết thành lập đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo trực thuộc trung ương. Theo đó, thị xã Vũng Tàu sáp nhập với một số đơn vị hành chính khác thành đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo. Đến cuối năm 1979, cả nước có 48 thị xã. Ngày 5 tháng 3 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 72-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng với một phần huyện An Thụy để thành lập huyện Đồ Sơn, sáp nhập thị xã Kiến An với phần còn lại của huyện An Thụy thành huyện Kiến An. Ngày 9 tháng 4 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 151-CP. Theo đó, tái lập thị xã Hà Nam thuộc tỉnh Hà Nam Ninh từ huyện Kim Thanh, tái lập thị xã Ninh Bình từ huyện Hoa Lư. Ngày 24 tháng 8 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 41-HĐBT. Theo đó, chia thị xã Quảng Nghĩa thuộc tỉnh Nghĩa Bình thành thị xã Quảng Ngãi và huyện Tư Nghĩa. Ngày 1 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 145-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Phan Rang thuộc tỉnh Thuận Hải từ hai huyện Ninh Hải và An Sơn với tên gọi mới là thị xã Phan Rang – Tháp Chàm. Ngày 18 tháng 12 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 157-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quảng Xương và thành lập thị xã Bỉm Sơn trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hà Trung. Ngày 18 tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 200-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Tam Điệp thuộc tỉnh Hà Nam Ninh trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của huyện Tam Điệp. Ngày 23 tháng 2 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 13-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Cao Lãnh. Ngày 3 tháng 12 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 144-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng từ huyện Tam Kỳ. Ngày 17 tháng 5 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 75-HĐBT. Theo đó, đổi tên thị xã Minh Hải thành thị xã Bạc Liêu thuộc tỉnh Minh Hải. Ngày 11 tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 113-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Sông Công thuộc tỉnh Bắc Thái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Phổ Yên. Ngày 23 tháng 12 năm 1985, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 284-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Vĩnh An thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Cửu. Đến cuối năm 1985, cả nước có 56 thị xã. Ngày 3 tháng 7 năm 1986, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 81-HĐBT. Theo đó, thành lập thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Quy Nhơn. Ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 37-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang từ hai huyện Gò Công Đông và Gò Công Tây. Ngày 6 tháng 6 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 100-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng từ huyện Đồ Sơn và tái lập thị xã Kiến An từ huyện Kiến An. Ngày 16 tháng 9 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 134-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Quảng Trị thuộc tỉnh Quảng Trị trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Triệu Hải. Đến cuối năm 1989, cả nước có 59 thị xã. Ngày 16 tháng 7 năm 1990, Hội đồng bộ trưởng ban hành Quyết định số 262-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Bắc Kạn thuộc tỉnh Bắc Thái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Bạch Thông. Ngày 2 tháng 3 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 67-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Hồng Lĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của các huyện Đức Thọ và Can Lộc. Ngày 18 tháng 4 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 130-HĐBT. Theo đó, thành lập thị xã Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Điện Biên. Ngày 9 tháng 6 năm 1992, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 205-HĐBT. Theo đó, tái lập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của thị xã Lào Cai. Ngày 27 tháng 12 năm 1993, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 102-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Gai. Ngày 1 tháng 5 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 37-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thanh Hóa thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thanh Hóa. Ngày 2 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 45-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Châu Thành. Ngày 11 tháng 7 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 65-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Bảo Lộc. Ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ ban hành 3 nghị định: Ngày 21 tháng 1 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 08-CP. Theo đó, thành lập thành phố Buôn Ma Thuột thuộc tỉnh Đắk Lắk trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Buôn Ma Thuột. Ngày 15 tháng 5 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định số 31-CP. Theo đó, tái lập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Văn Chấn. Đến cuối năm 1995, cả nước có 62 thị xã. Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính một số tỉnh. Theo đó, tái lập tỉnh Hà Nam và đổi tên thị xã Hà Nam thành thị xã Phủ Lý. Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 88-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hải Dương thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hải Dương. Ngày 8 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 47/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hà Tiên. Ngày 20 tháng 7 năm 1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 52/NĐ-CP. Theo đó, tái lập thị xã Móng Cái thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hải Ninh. Ngày 1 tháng 3 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 09/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Long Xuyên thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Xuyên. Ngày 14 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cà Mau thuộc tỉnh Cà Mau trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cà Mau. Ngày 1 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 45/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Vị Thanh thuộc tỉnh Cần Thơ trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Vị Thanh. Ngày 24 tháng 4 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 29/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Pleiku thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Pleiku. Ngày 25 tháng 8 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 81/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phan Thiết thuộc tỉnh Bình Thuận trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phan Thiết. Ngày 1 tháng 9 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 90/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Đồng Phú. Đến cuối năm 1999, cả nước có 61 thị xã. Ngày 7 tháng 7 năm 2000, Chính phủ ban hành Nghị định số 21/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Cam Ranh. Ngày 11 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 05/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Yên Bái thuộc tỉnh Yên Bái trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Yên Bái. Ngày 31 tháng 1 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 16/NĐ-CP. Theo đó, sáp nhập thị xã Cam Đường thuộc tỉnh Lào Cai vào thị xã Lào Cai. Ngày 17 tháng 10 năm 2002, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lạng Sơn thuộc tỉnh Lạng Sơn trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lạng Sơn. Ngày 21 tháng 8 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Long Khánh. Ngày 26 tháng 9 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 110/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Điện Biên Phủ. Ngày 9 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 29 tháng 4 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 117/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thái Bình thuộc tỉnh Thái Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thái Bình. Ngày 16 tháng 8 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 156/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Đồng Hới thuộc tỉnh Quảng Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Hới. Ngày 10 tháng 10 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 176/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Lai Châu (mới) thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Tam Đường. Ngày 30 tháng 11 năm 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 195/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lào Cai thuộc tỉnh Lào Cai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lào Cai. Ngày 5 tháng 1 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 03/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tuy Hòa thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tuy Hòa. Ngày 2 tháng 3 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 25/NĐ-CP. Theo đó, đổi tên thị xã Lai Châu cũ thuộc tỉnh Điện Biên thành thị xã Mường Lay. Ngày 7 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành nghị định số 75/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Giang thuộc tỉnh Bắc Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Giang. Ngày 27 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 82/2005/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Gia Nghĩa thuộc tỉnh Đắk Nông trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Đắk Nông. Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 26 tháng 8 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 112/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Quảng Ngãi thuộc tỉnh Quảng Ngãi trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Quảng Ngãi. Ngày 5 tháng 9 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số 114/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã La Gi thuộc tỉnh Bình Thuận trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Hàm Tân. Đến cuối năm 2005, cả nước có 58 thị xã. Ngày 26 tháng 1 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 15/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bắc Ninh thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bắc Ninh. Ngày 29 tháng 9 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 113/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Tam Kỳ. Ngày 27 tháng 10 năm 2006, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 1 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 146/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vĩnh Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vĩnh Yên. Ngày 27 tháng 12 năm 2006, Chính phủ ban hành Nghị định số 155/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Đông thuộc tỉnh Hà Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Đông. Ngày 16 tháng 1 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cao Lãnh thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cao Lãnh. Ngày 7 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 19/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Ninh Bình thuộc tỉnh Ninh Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Ninh Bình. Ngày 8 tháng 2 năm 2007, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 26 tháng 4 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 50/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ayun Pa thuộc tỉnh Gia Lai trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Ayun Pa. Ngày 28 tháng 5 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 89/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tĩnh thuộc tỉnh Hà Tĩnh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tĩnh. Ngày 2 tháng 8 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 130/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn Tây. Ngày 12 tháng 9 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/NĐ-CP. Theo đó, thành lập quận Đồ Sơn thuộc thành phố Hải Phòng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồ Sơn. Ngày 15 tháng 11 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 164/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Thái Hòa thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Nghĩa Đàn. Ngày 9 tháng 1 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 10/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hội An thuộc tỉnh Quảng Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hội An. Ngày 9 tháng 6 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định số 72/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Phủ Lý thuộc tỉnh Hà Nam trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phủ Lý. Ngày 3 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 98/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sơn La thuộc tỉnh Sơn La trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sơn La. Ngày 24 tháng 9 năm 2008, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 23 tháng 12 năm 2008, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 19 tháng 1 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 04/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hưng Yên thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hưng Yên. Ngày 10 tháng 4 năm 2009, Chính phủ ban hành 2 nghị định: Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP. Theo đó, chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội. Ngày 11 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành 3 nghị quyết: Ngày 24 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành 2 nghị quyết: Ngày 27 tháng 8 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 42/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Sông Cầu thuộc tỉnh Phú Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Sông Cầu. Đến cuối năm 2009, cả nước có 46 thị xã. Ngày 9 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hương Thủy thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Thủy. Ngày 12 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chí Linh. Ngày 4 tháng 3 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Trà Vinh thuộc tỉnh Trà Vinh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Trà Vinh. Ngày 8 tháng 4 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bảo Lộc thuộc tỉnh Lâm Đồng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bảo Lộc. Ngày 2 tháng 7 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 27/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Tuyên Quang thuộc tỉnh Tuyên Quang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Tuyên Quang. Ngày 27 tháng 8 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 32/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bạc Liêu thuộc tỉnh Bạc Liêu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bạc Liêu. Ngày 23 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Vị Thanh thuộc tỉnh Hậu Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Vị Thanh. Ngày 27 tháng 9 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 35/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Hà Giang thuộc tỉnh Hà Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Giang. Ngày 25 tháng 10 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 41/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ninh Hòa thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Ninh Hòa. Ngày 23 tháng 12 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 65/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cam Ranh thuộc tỉnh Khánh Hòa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cam Ranh. Ngày 13 tháng 1 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Dĩ An và thị xã Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của các huyện Dĩ An và Thuận An. Ngày 25 tháng 2 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 12/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Uông Bí thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Uông Bí. Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 90/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Vĩnh Châu thuộc tỉnh Sóc Trăng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Vĩnh Châu. Ngày 15 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 99/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hương Trà thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Hương Trà. Ngày 25 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 100/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Quảng Yên thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Yên Hưng. Ngày 28 tháng 11 năm 2011, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 101/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã An Nhơn thuộc tỉnh Bình Định trên cơ sở toàn bộ diên tích và dân số của huyện An Nhơn. Ngày 21 tháng 2 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 04/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cẩm Phả thuộc tỉnh Quảng Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cẩm Phả. Ngày 2 tháng 5 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thủ Dầu Một. Ngày 22 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 43/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Bà Rịa thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Bà Rịa. Ngày 25 tháng 8 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Cao Bằng thuộc tỉnh Cao Bằng trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Cao Bằng. Ngày 28 tháng 12 năm 2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 89/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Bình Minh thuộc tỉnh Vĩnh Long trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân só của huyện Bình Minh. Ngày 18 tháng 3 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 33/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Kiến Tường thuộc tỉnh Long An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Mộc Hóa. Ngày 3 tháng 4 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 47/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Hoàng Mai thuộc tỉnh Nghệ An trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quỳnh Lưu. Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Châu Đốc. Ngày 14 tháng 10 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 113/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Sa Đéc thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sa Đéc. Ngày 20 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 125/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Ba Đồn thuộc tỉnh Quảng Bình trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Quảng Trạch. Ngày 26 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 130/NQ-CP. Theo đó, thành lập thị xã Cai Lậy thuộc tỉnh Tiền Giang trên cơ sở một phần diện tích và dân số của huyện Cai Lậy. Ngày 27 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 131/NQ-CP. Theo đó, thành lập thành phố Lai Châu thuộc tỉnh Lai Châu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Lai Châu. Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành 3 nghị quyết: Ngày 11 tháng 3 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết: Ngày 10 tháng 4 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết: Ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết: Cuối năm 2015, cả nước có 51 thị xã. Ngày 19 tháng 4 năm 2017, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 368/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Sầm Sơn thuộc tỉnh Thanh Hóa trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Sầm Sơn. Ngày 7 tháng 2 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 484/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Phúc Yên thuộc tỉnh Vĩnh Phúc trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phúc Yên. Ngày 12 tháng 4 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 492/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Phú Mỹ thuộc tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Tân Thành. Ngày 11 tháng 9 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 573/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hà Tiên. Ngày 16 tháng 10 năm 2018, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 587/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Đồng Xoài thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Đồng Xoài. Ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 623/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Chí Linh. Ngày 12 tháng 3 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 656/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thị xã Mỹ Hào thuộc tỉnh Hưng Yên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Mỹ Hào. Ngày 10 tháng 4 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 673/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Long Khánh. Ngày 11 tháng 9 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết: Ngày 17 tháng 12 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành 2 nghị quyết: Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết: Ngày 22 tháng 4 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 3 nghị quyết: Ngày 18 tháng 9 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1003/NQ-UBTVQH14. Theo đó, thành lập thành phố Hồng Ngự thuộc tỉnh Đồng Tháp trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Hồng Ngự. Ngày 22 tháng 9 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 387/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Từ Sơn thuộc tỉnh Bắc Ninh trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Từ Sơn. Ngày 15 tháng 2 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 469/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thành phố Phổ Yên thuộc tỉnh Thái Nguyên trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Phổ Yên. Ngày 11 tháng 8 năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 570/NQ-UBTVQH15. Theo đó, thành lập thị xã Chơn Thành thuộc tỉnh Bình Phước trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của huyện Chơn Thành. Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành 4 nghị quyết: Cả nước có 52 thị xã như hiện nay. Trường hợp đặc biệt là huyện đảo Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang được nâng cấp lên thẳng thành phố mà không trải qua cấp thị xã như các thành phố trực thuộc tỉnh khác trên cả nước. Phát triển. Một số huyện đã được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV và đang định hướng trở thành thị xã: Một số huyện đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch nâng cấp đô thị giai đoạn 2021 - 2030 và cũng có định hướng thành lập thị xã:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Thị trấn là một đơn vị hành chính cấp xã tại Việt Nam. Tất cả thị trấn tại Việt Nam đều trực thuộc các huyện. Thị trấn có thể là huyện lỵ nếu các cơ quan quản lý nhà nước cấp huyện được đặt tại thị trấn đó. Tuy nhiên, không phải thị trấn nào cũng là huyện lỵ và không phải huyện nào cũng có thị trấn. Đặc biệt, có một số huyện lỵ không đặt ở thị trấn cùng tên với chính mình, chủ yếu do giao thông không thuận lợi với các xã khác trong huyện như huyện Nhà Bè (Thành phố Hồ Chí Minh), huyện Tam Đảo (Vĩnh Phúc), huyện Chi Lăng (Lạng Sơn), huyện Đức Hòa (Long An). Hầu hết những huyện không có thị trấn nào là những huyện mới chia tách. Quy định trong luật pháp. Cấp hành chính. "1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:" "Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;" "Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;" "Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường." "Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập." "Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:" "1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);" "2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);" "3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);" "4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt." Như vậy, thị trấn nằm ở cấp hành chính thứ ba trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, ) của Việt Nam. Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính. Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại "Điều 9", "Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị", "Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính" thì một thị trấn cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau: "Điều 9. Tiêu chuẩn của thị trấn" "1. Quy mô dân số từ 8.000 người trở lên." "2. Diện tích tự nhiên từ 14 km² trở lên." "3. Đã được công nhận là đô thị loại IV hoặc loại V; hoặc khu vực dự kiến thành lập thị trấn đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại IV hoặc loại V." "4. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Nghị quyết này." Thống kê. Tính đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 10.598 đơn vị hành chính cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn), trong đó có 620 thị trấn. Tỉnh có nhiều thị trấn nhất là Thanh Hóa với 30 thị trấn, tiếp theo là thành phố Hà Nội với 21 thị trấn. Tỉnh Ninh Thuận có 3 thị trấn còn thành phố Đà Nẵng là đơn vị hành chính cấp tỉnh duy nhất không có thị trấn nào. Danh sách các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xếp theo số lượng thị trấn: Hiện nay, cả nước có: Thông thường tên các thị trấn thường có 2 âm tiết, nhưng có một số thị trấn mà tên gọi chỉ có 1 âm tiết, chủ yếu tập trung ở vùng Đồng bằng sông Hồng: Thị trấn có diện tích lớn nhất: thị trấn Thạnh Mỹ (huyện Nam Giang) với 206,58 km². Thị trấn có diện tích nhỏ nhất: thị trấn Trường Sa (huyện Trường Sa) với 0,15 km². Phân loại đô thị. Đa số thị trấn tại Việt Nam được xếp vào đô thị loại V. Một số thị trấn lớn được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại IV như: Phân biệt với xã. Tiêu chí để xét một khu vực dân cư là thị trấn hay xã thông thường gắn với tỷ lệ ngành nghề. Tại khu vực xã, tỷ lệ dân số làm nông nghiệp (lâm nghiệp, ngư nghiệp) cao hơn so với một thị trấn. Tại địa bàn một huyện, mật độ dân số tại các thị trấn thông thường cũng cao hơn so với mật độ dân số tại các xã. Các tiêu chí khác như số lượng dân số, đóng góp cho ngân sách (qua thuế chẳng hạn), diện tích đất đai không rõ nét trong trường hợp này. Một thị trấn có thể đông dân và nộp ngân sách nhiều hơn một xã, song cũng không ít trường hợp ngược lại. Thị tứ. Các sách báo gần đây đề cập nhiều đến khái niệm thị tứ. Tuy nhiên, thị tứ không phải là một đơn vị hành chính nhà nước chính thức. Một thị tứ thông thường được hiểu là trung tâm của một tiểu vùng kinh tế (bao gồm phạm vi nhiều xã với lượng dân cư khoảng 4-5 nghìn người, nhưng không phải trong phạm vi toàn huyện); trong đó các ngành nghề như thương mại, dịch vụ, công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển hơn so với các vùng phụ cận. Dân cư sống trong khu vực đó cũng sống tập trung và có mật độ cao hơn. Một thị tứ được hình thành khi ở khu vực đó có sự thuận lợi về các điều kiện hạ tầng cơ sở hơn so với khu vực phụ cận. Nó có thể nằm trong khu vực thuộc nhiều xã giáp ranh. Nó là tiền đề để hình thành nên các thị trấn mới trong tương lai, khi nó phát triển đủ lớn để chính quyền có thể công nhận.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Huyện là thuật ngữ để chỉ một đơn vị hành chính bậc hai của một quốc gia (đơn vị bậc một là tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương như ở Việt Nam). Huyện được chia thành các xã và ít nhất là một thị trấn nơi chính quyền huyện đặt cơ quan hành chính. Cấp huyện là một thuật ngữ khác được dùng để chỉ các đơn vị hành chính tương đương với huyện gồm có huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh. Gần như trong tiếng Việt, "huyện" được dùng để chỉ đơn vị hành chính ở Việt Nam, Trung Quốc và có thể các quốc gia láng giềng như Lào, Campuchia trong khi "quận" được dùng khá rộng rãi hơn để chỉ các đơn vị hành chính tương đương ở các quốc gia khác như Hoa Kỳ, Pháp. Việt Nam. Phân chia cấp đơn vị hành chính. Hiện nay, tại Việt Nam thì các đơn vị hành chính được phân chia một cách chính thức thành 3 cấp là cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Các đơn vị hành chính cấp dưới. Một huyện thông thường được chia ra thành nhiều xã và có thể có một vài thị trấn. Tuy nhiên, hiện nay tại Việt Nam cũng có trường hợp huyện không có các đơn vị hành chính cấp dưới như: Phân loại đơn vị hành chính cấp huyện. Theo nghị định của Chính phủ số 15/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 1 năm 2007 "Về phân loại đơn vị hành chính cấp tỉnh và cấp huyện" thì dơn vị hành chính cấp huyện được phân làm ba loại: loại I, loại II và loại III. Thành phố thuộc tỉnh, quận thuộc thủ đô Hà Nội và quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh là các đơn vị hành chính cấp huyện loại I. Quận thuộc Thủ đô Hà Nội và quận thuộc Thành phố Hồ Chí Minh có dân số và mật độ dân số cao, tính chất quản lý nhà nước về đô thị phức tạp và khó khăn, đạt tỷ lệ thu chi cân đối ngân sách hàng năm cao, là đơn vị hành chính cấp huyện thuộc đô thị loại đặc biệt. Các đơn vị hành chính cấp huyện còn lại được tính điểm để phân loại theo các tiêu chí: Trung Quốc. Trong phân cấp hành chính của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, huyện là cấp hành chính thứ ba sau cấp tỉnh và cấp địa khu, các đơn vị "cấp huyện" bao gồm huyện, huyện tự trị, thành phố cấp huyện, kỳ, kỳ tự trị, và khu. Có 1467 huyện ở Trung Quốc đại lục trong tổng số 2861 đơn vị cấp huyện.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hoàng Mai là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, Việt Nam. Đây là quận có diện tích lớn thứ tư của thành phố (sau các quận Long Biên, Hà Đông và Bắc Từ Liêm) và có dân số đông nhất trong số 30 quận, huyện, thị xã thuộc thành phố Hà Nội. Địa lý. Quận Hoàng Mai nằm ở phía đông nam nội thành thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý: Quận Hoàng Mai có diện tích tự nhiên là 4.104,1ha (41 km²), dân số là 365.759 người. Quận Hoàng Mai có đường giao thông thủy trên sông Hồng. Quận có các đường giao thông quan trọng đi qua gồm: Quốc lộ 1, đường vành đai 2,5, đường vành đai 3, đường cao tốc Pháp Vân – Cầu Giẽ, cầu Thanh Trì. Lịch sử. Cuối thời Lê – đầu thời Nguyễn, Hoàng Mai là tên một tổng và một xã thuộc huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam Thượng (đến năm 1831 thuộc tỉnh Hà Nội). Theo "Đồng Khánh địa dư chí", tổng Hoàng Mai có 10 xã, thôn: Năm 1899, vùng đất Hoàng Mai thuộc Khu vực Ngoại thành Hà Nội (từ 1915 là huyện Hoàn Long thuộc tỉnh Hà Đông), đến năm 1942 lại thuộc Đại lý đặc biệt Hà Nội. Năm 1954, thành phố Hà Nội được chia thành 4 quận nội thành với 34 khu phố và 4 quận ngoại thành với 46 xã, phần lớn địa bàn quận Hoàng Mai lúc bấy giờ thuộc Quận VII. Ngày 31 tháng 5 năm 1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 78-CP chia Hà Nội thành 4 khu phố nội thành và 4 huyện ngoại thành, địa bàn quận Hoàng Mai lúc này tương ứng với 10 xã: Đại Kim, Định Công, Đoàn Kết (không kể phố Giáp Bát), Hoàng Liệt, Hoàng Văn Thụ (bao gồm cả thôn Mai Động, không kể phố Mai Động), Lĩnh Nam, Thanh Trì, Trần Phú, Vĩnh Tuy (không kể thôn Đoài), Yên Sở thuộc huyện Thanh Trì. Năm 1964, xã Đoàn Kết đổi tên thành xã Thịnh Liệt. Ngày 9 tháng 8 năm 1973, hai thôn Giáp Bát, Giáp Lục của xã Thịnh Liệt, thôn Tương Mai và một phần đất thôn Mai Động thuộc xã Hoàng Văn Thụ, huyện Thanh Trì được cắt về khu phố Hai Bà Trưng. Ngày 13 tháng 10 năm 1982, thành lập phường Mai Động thuộc quận Hai Bà Trưng và tách xóm Mã Cả của xã Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì về phường Tương Mai, quận Hai Bà Trưng. Ngày 14 tháng 3 năm 1984, chia phường Giáp Bát thuộc quận Hai Bà Trưng thành 2 phường Giáp Bát và Tân Mai. Ngày 26 tháng 10 năm 1990, chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Thanh Trì về quận Hai Bà Trưng quản lý và chuyển thành phường Hoàng Văn Thụ. Ngày 6 tháng 11 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 132/2003/NĐ-CP. Theo đó: Sau khi thành lập, quận Hoàng Mai có 4.104,10 ha diện tích tự nhiên và 187.332 người với 14 phường trực thuộc. Hành chính. Quận Hoàng Mai có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường: Đại Kim, Định Công, Giáp Bát, Hoàng Liệt, Hoàng Văn Thụ, Lĩnh Nam, Mai Động, Tân Mai, Thanh Trì, Thịnh Liệt, Trần Phú, Tương Mai, Vĩnh Hưng, Yên Sở. Hạ tầng. Quận Hoàng Mai là quận có tốc độ đô thị hóa và xây dựng cơ sở hạ tầng lớn trong số các quận huyện mới của thủ đô, với hàng loạt khu đô thị như Linh Đàm, Bắc Linh Đàm, Định Công, Đại Kim, Đền Lừ I - II, Kim Văn - Kim Lũ, Vĩnh Hoàng, Hoàng Văn Thụ, Ao Sao, Thịnh Liệt, Đại Kim - Định Công, Tây Nam hồ Linh Đàm, Tây Nam Kim Giang, Ao Mơ, Thịnh Liệt… cùng hàng loạt chung cư trên đường Lĩnh Nam, đường Tam Trinh, đường Pháp Vân, đường Nghiêm Xuân Yêm như Gamuda City, Hateco Yên Sở, khu đô thị Pháp Vân - Tứ Hiệp, The Manor Central Park… Các dự án đường sắt đi qua địa bàn quận là các tuyến số 1 (Ngọc Hồi - Yên Viên), tuyến số 3 (Trôi - Nhổn - Hoàng Mai), tuyến số 4 (Liên Hà - Bắc Thăng Long), tuyến số 8 (An Khánh - Dương Xá); trong đó tuyến số 3 đoạn Ga Hà Nội - Hoàng Mai (một phần của tuyến Trôi - Nhổn - Hoàng Mai) và tuyến số 1 hiện đang được đầu tư xây dựng. Văn hóa. Nét đẹp vùng đất tổ nghề kim hoàn Khoảng thế kỷ II - III, người Việt đã biết dùng vàng bạc làm đồ trang sức. Đất tổ của nghề vàng là Định Công (nay thuộc vùng đô thị hóa đông đúc phường Định Công, quận Hoàng Mai). Riêng đất tổ của nghề bạc thì ở Đồng Xâm (Thái Bình), tổ đúc thì là Châu Khê (Hải Dương). Đây là nghề gia công đồ trang sức, hàng mỹ nghệ bằng kim loại quý hiếm. Thực ra có mấy nghề khác nhau: nghề "chạm" tức là nổi các hình, hoa văn lên mặt đồ kim loại vàng bạc; "trổ" tức là tạo hoa văn thủng; "đậu tức là kéo vàng bạc đã nấu chảy thành những sợi chỉ rồi uốn ghép thành hình chim thú, hoa lá...; "trơn" là những hàng chỉ có đánh bóng. Các nghề này phối hợp với nhau tạo nên sản phẩm hoàn chỉnh. Những nét chạm trổ uyển chuyển mềm mại, những sợi chỉ vàng chỉ bạc uốn lượn hài hòa kết hợp với màu sắc của vàng, độ bóng ánh của bạc đã làm tăng độ hấp dẫn, sang trọng cho những chiếc dây chuyền, vòng tay, hoa tai, nhẫn, đĩa bạc, chén bạc, hộp đồ trang sức... trên đôi tay khéo léo của con người Định Công một vùng đất tổ của nghề kim hoàn. Quận Hoàng Mai có nhiều làng nghề ẩm thực nh­ư làng nghề bánh cuốn Thanh Trì (ph­ường Thanh Trì), rượu Hoàng Mai, làng bún Tứ Kỳ, bún ốc Pháp Vân (ph­ường Hoàng Liệt), đậu phụ Mơ (phường Mai Động). Ngoài ra, ph­ường Vĩnh Hư­ng và phường Lĩnh Nam có nghề trồng hoa, rau sạch; phường Yên Sở có làng cá Yên Sở.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quảng Châu (chữ Hán giản thể: 广州, phồn thể: 廣州, pinyin: "Guǎngzhōu", Wade-Giles: "Kuang-chou", việt phanh: "Gwong2zau1", Yale: "Gwóngjaū") là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Quảng Đông ở miền Nam Trung Quốc. Nằm trên sông Châu Giang, thành phố cách Hồng Kông 120 km (75 dặm) về phía Tây Bắc và cách Ma Cao 145 km (90 dặm) về phía Bắc. Quảng Châu có lịch sử hơn 2.200 năm và là một điểm cuối chính của con đường tơ lụa hàng hải và tiếp tục là cảng và trung tâm vận tải chính ngày nay, đây là một trong ba thành phố lớn nhất của Trung Quốc. Quảng Châu nằm ở trung tâm của khu đô thị được xây dựng có số dân đông nhất ở Trung Hoa đại lục, một khu vực mở rộng đến các thành phố Phật Sơn, Đông Hoản và Thâm Quyến láng giềng, tạo thành một trong những vùng đô thị lớn nhất hành tinh. Về mặt hành chính, thành phố là thủ phủ của tỉnh. Vào năm 2015 khu vực hành chính của thành phố được ước tính có dân số 13.501.100. Quảng Châu được xếp hạng là một thành phố toàn cầu. Trong những năm gần đây, số lượng người nhập cư từ Đông Nam Á, Trung Đông, Đông Âu, và đặc biệt là từ châu Phi đã tăng lên nhanh chóng. Điều này đã dẫn tới nó được đặt tên là "Thủ đô của thế giới thứ ba". Dân số di cư từ các tỉnh khác của Trung Quốc ở Quảng Châu là 40% tổng dân số của thành phố trong năm 2008. Cùng với Thượng Hải, Bắc Kinh và Thâm Quyến, Quảng Châu là một trong những thị trường bất động sản đắt nhất ở Trung Quốc. Quảng Châu có một lịch sử hai thế kỷ liên quan đến tầm quan trọng của nó đối với thương mại nước ngoài. Là cảng Trung Quốc duy nhất có thể tiếp cận được với hầu hết các thương nhân nước ngoài, thành phố này đã rơi vào tay người Anh trong chiến tranh nha phiến lần thứ nhất. Không còn hưởng thụ độc quyền sau chiến tranh, nó đã mất thương mại với các cảng khác như Hồng Kông (gần) và Thượng Hải, nhưng vẫn tiếp tục phục vụ như một trung tâm thương mại quan trọng. Trong thương mại hiện đại, Quảng Châu nổi tiếng với Hội chợ Hàng Châu hàng năm, hội chợ thương mại lâu đời và lớn nhất ở Trung Quốc. Trong ba năm liên tiếp 2013-2015, tạp chí Forbes xếp hạng Quảng Châu là thành phố thương mại tốt nhất Trung Quốc. Lịch sử. Thời sơ khai. Vị trí hiện nay của thành phố được sử dụng ở bờ phía đông của con sông Châu Giang vào năm 214 trước công nguyên để làm căn cứ cho cuộc xâm lược không thành công đầu tiên của nhà Tần ở vùng đất Bạch Vân, miền nam Trung Quốc. Một số ý kiến cho rằng thành phố đầu tiên được xây dựng trên địa điểm nơi Quảng Châu hiện diện ngày nay là Phiên Ngung (番禺). Các sử sách thời xưa cho biết những người lính canh gác ở Phiên Ngung rất cảnh giác rằng họ đã không tháo áo giáp trong ba năm. Sau khi triều Tần bị lật đổ, năm 207 trước Công nguyên, tướng nhà Tần là Triệu Đà thành lập vương quốc Nam Việt của riêng mình và đóng đô ở Phiên Ngung năm 204 trước Công nguyên. Nó vẫn độc lập trong giai đoạn chiến tranh Hán-Sở, mặc dù Triệu đã đàm phán công nhận sự độc lập của mình để đổi lấy danh nghĩa danh giá của ông trước nhà Hán vào năm 196 TCN. Các bằng chứng khảo cổ cho thấy Phiên Ngung là một trung tâm thương mại mở rộng: ngoài những vật phẩm từ miền Trung Trung Quốc, các nhà khảo cổ học còn tìm thấy những thân cây có nguồn gốc từ Đông Nam Á, Ấn Độ và thậm chí ở Châu Phi. Triệu Đà được kế vị bởi Triệu Văn Vương và Triệu Minh Vương. Sau cái chết của Văn Vương vào năm 115 TCN, cậu con trai Triệu Ai Vương của ông được đặt tên là người kế nhiệm ông vì vi phạm nguyên tắc chủ đạo của người Trung Quốc. Vào năm 113 trước công nguyên, mẹ ông, Hoàng thái hậu 樛 Jiu (樛) đã nghe theo lời dụ của sứ thần nhà Hán khi đồng ý sẽ nộp Phiên Ngung cho nhà Hán. Thừa tướng Lữ Gia (呂嘉) đưa ra một cuộc đảo chính, giết chết bà và các sứ nhà Hán cùng với nhà vua, và những người ủng hộ bà ta. Để trả thù cũng như muốn thôn tính Nam Việt, vua Hán Vũ đế phát động một cuộc xâm lăng lớn trên sông và biển, giao cho Lộ Bác Đức chỉ huy và thôn tính thành công Nam Việt vào năm 111 TCN. Thời phong kiến. Được sáp nhập vào lãnh thổ triều Hán, Phiên Ngung trở thành thủ phủ của tỉnh. Năm 226, nó đã trở thành trụ sở của tỉnh Quảng Đông, cái tên Quảng Châu vốn là tên châu, tên tỉnh, người dân quen với việc gọi tên thành phố theo tên tỉnh trong một khoảng thời gian dài khiến cho cái tên Phiên Ngung dần bị lãng quên. Trong thời Ngũ Đại Thập Quốc, viên thống đốc thời nhà Hậu Lương là Lưu Nghiễm đã sử dụng căn cứ của ông tại Phiên Ngung để thành lập đế chế "Đại Hán" hay "Nam Hán", kéo dài từ năm 917 đến 971. Khu vực đạt được thành công đáng kể về văn hoá và kinh tế trong giai đoạn này. Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 12, có nhiều ghi nhận rằng các cộng đồng nước ngoài lớn không chỉ là đàn ông, mà còn bao gồm cả "phụ nữ Ba Tư". Quảng Châu được du khách người Ma rốc Ibn Battuta đến thăm trong suốt thế kỳ 14, ông đã mô tả chi tiết quá trình mà Trung Quốc xây dựng các tàu lớn của họ trong các xưởng đóng tàu của cảng. Thời nhà Minh, Minh Thái Tổ đã đảo ngược sự ủng hộ trước đó của ông đối với thương mại nước ngoài và áp đặt lệnh đầu tiên của một loạt lệnh cấm biển (haijin). Những điều cấm buôn bán nước ngoài tư nhân khi bị tử hình vì buôn bán và lưu vong cho gia đình và hàng xóm của mình. Các kế hoạch hàng hải thời nhà Nguyên của Quảng Châu, Tuyền Châu và Ninh Ba đã được đóng cửa vào năm 1384 và thương mại hợp pháp đã trở nên giới hạn đối với các phái đoàn cống gửi cho hoặc bởi các đại diện chính thức của các chính phủ nước ngoài. Các chính sách đã làm trầm trọng thêm các cuộc tấn công cướp biển "Nhật Bản" (các cuộc tấn công nanobu) trong khu vực cho đến khi chúng được dỡ bỏ vào năm 1567. Sau khi Phúc Châu thất thủ vào tháng 10 năm 1646, anh trai của hoàng đế Chu Duật Kiện là Chu Duật Việt trốn chạy bằng đường biển đến Quảng Châu. Vào ngày 11 tháng 12, ông tuyên bố xưng đế và đã lãnh đạo một hành vi phạm tội thành công đối với anh em Chu Do Lang của mình nhưng bị tống xuất và hành quyết vào ngày 20 tháng 1 năm 1647 khi nhà Minh phản đối Lý Thành Đô (李成東) phản bội theo nhà Thanh. Nhà Thanh trở nên cởi mở hơn đối với thương mại nước ngoài sau khi giành quyền kiểm soát Đài Loan vào năm 1683. Người Bồ Đào Nha từ Ma Cao và Tây Ban Nha từ Manila trở lại, cũng như các thương nhân tư nhân Hồi giáo, Armenia và Anh. Năm 1711, Công ty Đông Ấn của Đế quốc Anh thiết lập trạm giao dịch ở thành phố khởi đầu cho sự có mặt của những người châu Âu. Triều đình vua Càn Long buộc những thương nhân nước ngoài phải dồn vào một quận riêng, việc này dẫn đến nhiều biến động cho số phận thành phố về sau. Từ năm 1699 đến năm 1714, các công ty Đông Ấn của Pháp và Anh đã gửi một chiếc tàu mỗi năm hai lần, Tổng công ty Áo Ostend của Áo đến năm 1717, Công ty Đông Ấn Hà Lan năm 1729, Công ty Asiatic Đan Mạch vào năm 1731, và Công ty Đông Ấn Thụy Điển vào năm tới. Những chiếc tàu này được kết hợp bởi tàu Thổ hay Trieste. Chiếc tàu độc lập đầu tiên của Hoa Kỳ đã đến năm 1784 và chiếc đầu tiên của Úc vào năm 1788. Lúc đó, Quảng Châu là một trong những cảng lớn của thế giới, được tổ chức theo hệ thống Canton. Xuất khẩu chính là chè và đồ sứ. Là nơi gặp gỡ của các thương gia từ khắp nơi trên thế giới, Quảng Châu đã trở thành một phần đóng góp lớn cho sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu hiện đại. Trong thế kỷ 19, hầu hết các tòa nhà của thành phố vẫn chỉ có một hoặc hai tầng. Các cấu trúc chính là Tháp bằng đồng của Nhà thờ Hồi giáo Huaisheng, Chùa Hoa chùa của Sáu cây Banyan, và tháp canh được gọi là chùa 5 tầng. Các ngọn đồi phía bắc, kể từ khi thành thị, đã được trần truồng và phủ đầy các ngôi mộ truyền thống. Các bức tường thành phố gạch là khoảng 6 dặm (10 km) trong chu vi, 25 feet (8 m) cao, và 20 feet (6 m) rộng. Tám cổng chính và hai cổng nước đều giữ các vệ sĩ trong ngày và đóng cửa vào ban đêm. Bức tường bao gồm một ngọn đồi ở phía bắc của nó và được bao quanh bởi ba con khác bởi một con hào, cùng với các kênh rạch, hoạt động như cống của thành phố, được đóng băng hàng ngày bằng dòng thủy triều của sông. Một bức tường phân chia với bốn cửa chia thành "thị trấn cổ" phía bắc từ "thị trấn mới" phía nam gần sông; vùng ngoại ô của Xiguan ("West Gate") lây lan ra ngoài và những chiếc thuyền của ngư dân, người buôn bán, và Tanka ("thuyền nhân") gần như hoàn toàn che giấu bờ sông khoảng 4 dặm (6 km). Việc nhà cửa phải đối mặt với đường phố và đối xử với sân của họ như một loại kho hàng là điều phổ biến. Thành phố này là một phần của một mạng lưới các tháp tín hiệu rất hiệu quả những thông điệp có thể được chuyển tiếp đến Bắc Kinh-khoảng 1.200 dặm (1.931 km), trong vòng chưa đầy 24 tiếng đồng hồ. Hệ thống Canton được duy trì cho đến khi cuộc chiến tranh nha phiến lần thứ nhất nổ ra ở Canton đã diễn ra hai tháng sau đó. Sau Hiệp ước Nam Kinh 1842, Quảng Châu trở thành "nhượng cảng", cùng với Ninh Ba, Hạ Môn, Phúc Châu và Thượng Hải phải mở cửa cho thương nhân phương Tây tự do giao dịch. Quảng Châu bị mất vị thế thương mại đặc quyền vì các cảng hiệp ước ngày càng mở rộng ra nhiều nước hơn nữa, thường là các khu vực ngoại vi. Trong sự suy giảm uy tín của nhà Thanh và sự hỗn loạn của Cuộc nổi dậy ở Taiping, Punti và Hakka đã tiến hành một loạt các cuộc chiến tranh gia tộc từ năm 1855 đến năm 1867, trong đó có 1 triệu người chết. Sự nhượng bộ cho Đường sắt Canton-Hankow đã được trao cho Công ty Phát triển Trung Quốc Hoa Kỳ vào năm 1898. Nó hoàn thành nhánh chi nhánh phía tây đến Phật Sơn và Sanshui trước khi bị khủng hoảng ngoại giao sau khi một tập đoàn Bỉ đã mua một quyền kiểm soát và nhà Thanh đã hủy bỏ nhượng bộ. J.P. Morgan đã được trao hàng triệu thiệt hại và tuyến đường đến Vũ Xương đã không hoàn thành cho đến năm 1936 và một tuyến đường sắt Bắc Kinh - Quảng Châu thống nhất chờ cho đến khi hoàn thành cầu sông Dương Tử ở Vũ Hán năm 1957. Thời hiện đại. Thời Quốc dân đảng cầm quyền. Quốc dân Đảng lên cầm quyền tại Trung Quốc sau thắng lợi ở cuộc cách mạng Tân Hợi. Đến năm 1918, thành phố được mang tên chính thức là Quảng Châu. Vào những năm 1930 và 1953, người ta đề xuất trao cho Quảng Châu quy chế thành phố tự trị nhưng những đề xuất trên đều bị huỷ bỏ ngay trong năm. Sau vụ ám sát Tống Giáo Nhân và những nỗ lực của Viên Thế Khải để loại bỏ những người theo chủ nghĩa Quốc gia khỏi quyền lực, lãnh đạo Quảng Đông Hồ Hán Dân đã gia nhập Cuộc Cách mạng thứ hai năm 1913 chống lại ông nhưng bị buộc phải chạy trốn sang Nhật Bản cùng Tôn Trung Sơn sau khi thất bại. Thành phố này lại trở nên nổi bật trong năm 1917, khi Thủ tướng Đoàn Kỳ Thụy hủy bỏ hiến pháp gây ra Phong trào Bảo vệ Hiến pháp. Tôn Trung Sơn đã lên nắm quyền Chính phủ quân sự Quảng Châu được các thành viên của quốc hội giải tán và các lãnh chúa miền tây phương ủng hộ. Chính quyền Quảng Châu đã tan rã vì các lãnh chúa đã rút lại sự ủng hộ của họ. Tôn đã chạy trốn đến Thượng Hải vào tháng 11 năm 1918 cho đến khi ông Trần Quýnh Minh, lãnh chúa tỉnh Quảng Đông, đã hồi phục ông vào tháng 10 năm 1920 trong cuộc chiến Yuegui. Vào ngày 16 tháng 6 năm 1922, Tôn đã bị lật đổ trong một cuộc đảo chính và trốn khỏi tàu chiến Yongfeng sau khi Chen đứng về phía chính phủ Bắc Kinh của Zhili Clique. Trong những tháng tiếp theo, Sun đã tổ chức một cuộc phản công vào Quảng Đông bằng cách tập hợp những người ủng hộ từ Vân Nam và Quảng Tây, vào tháng một thành lập chính phủ ở thành phố lần thứ ba. Từ năm 1923 đến năm 1926, Tôn và Quốc Dân Đảng đã sử dụng thành phố như một căn cứ để truy tố một cuộc cách mạng mới ở Trung Quốc bằng cách chinh phục các lãnh chúa ở phía bắc. Mặc dù trước đây Sun phụ thuộc vào các lãnh chúa cơ hội, người đã dẫn ông ta tới thành phố, với sự lãnh đạo của Tưởng Giới Thạch, Quốc Dân Đảng đã phát triển sức mạnh quân sự của mình để phục vụ cho tham vọng của mình. Những năm Canton đã chứng kiến ​​sự tiến triển của Quốc Dân Đảng vào một phong trào cách mạng với sự tập trung quân sự mạnh mẽ và cam kết về ý thức hệ, tạo ra âm điệu của ĐCSTQ của Trung Quốc vượt ra ngoài năm 1927. Năm 1924, Quốc Dân Đảng đã đưa ra quyết định trọng đại để liên minh với Đảng Cộng sản Trung Quốc và Liên Xô. Với sự giúp đỡ của Liên Xô, Quốc Dân Đảng lại tổ chức lại theo đường lối của Lênin và áp dụng lập trường thân thiện và ủng hộ nông dân. Sự hợp tác của Quốc Dân đảng Cộng sản Trung Quốc đã được khẳng định trong Đại hội lần thứ nhất của Quốc Dân Đảng và những người cộng sản được chỉ thị để tham gia Quốc Dân Đảng. Chính phủ liên minh thành lập Viện Đào tạo Phong trào Nông dân ở thành phố, trong đó Mao Trạch Đông là giám đốc một nhiệm kỳ. Sun và chỉ huy quân đội ông Tưởng đã sử dụng quỹ và vũ khí của Liên Xô để xây dựng một lực lượng vũ trang do các ủy ban cộng sản thuê, đào tạo cán bộ của mình trong Học viện Quân sự Whampoa. Vào tháng Tám, quân đội non trẻ đã đàn áp cuộc nổi dậy Quân đội Thương binh Quảng Đông (Canton Merchants 'Corps Uprising). Năm sau, phong trào chống đế chế tháng Năm mươi đã quét đất nước này, và chính phủ Quốc Dân Đảng kêu gọi đình công ở Canton và Hong Kong. Sự căng thẳng của các cuộc đình công và phản kháng lớn đã dẫn tới vụ thảm sát Shakee. Sau cái chết của Tôn Trung Sơn vào năm 1925, tâm trạng thay đổi trong đảng đối với cộng sản. Vào tháng Tám, lãnh đạo Quốc hội Liao Zhongkai bị ám sát, và lãnh đạo cánh hữu Hồ Hán Dân, kẻ bị nghi ngờ là người đứng đầu, đã bị lưu đày tới Liên Xô, để lại cho ông Uông Tinh Vệ, một người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản. Chống lại sự lấn chiếm của cộng sản, nhóm cánh hữu Western Hills cánh hữu đã thề sẽ trục xuất những người cộng sản khỏi Quốc Dân Đảng. "Canton Coup" vào ngày 20 tháng 3 năm 1926 cho thấy Chiang đã củng cố sự kiểm soát của mình đối với những người theo chủ nghĩa quốc gia và quân đội của họ chống lại Wang Jingwei, cánh tả của đảng, các đồng minh Cộng sản và các cố vấn Liên Xô của họ. Đến tháng 5, ông đã chấm dứt cuộc kiểm soát dân sự của quân đội và bắt đầu chuyến thám hiểm Bắc của mình chống lại các lãnh chúa miền Bắc. Thành công của nó đã dẫn đến sự chia tách của Quốc Dân Đảng giữa Vũ Hán và Nam Kinh và sự thanh trừng của các cộng sản trong vụ thảm sát Thượng Hải. Ngay sau đó Canton tham gia thanh trừng dưới sự bảo trợ của Li Jishen, dẫn đến việc bắt giữ những người cộng sản và đình chỉ các bộ máy của Quốc Dân Đảng và các nhóm lao động cánh tả. Sau đó vào năm 1927 khi Zhang Fakui, một người ủng hộ chung của phe Vũ Hán đã chiếm Canton và thành lập phe Wang Jingwei trong thành phố, cộng sản đã chứng kiến ​​một sự mở đầu và đưa ra cuộc nổi dậy Quảng Châu. Các nhà lãnh đạo quân sự nổi bật của Đảng Cộng sản Ye Ting và Ye Jianying đã lãnh đạo việc bảo vệ thành công thành phố. Chẳng bao lâu, sự kiểm soát của thành phố đã trở lại Lý Tế Thâm. Lý bị lật đổ trong cuộc chiến giữa Chiang và Quảng Tây Clique. Đến năm 1929, Trần Tế Đường đã thành lập chính ông làm chủ quyền của Quảng Đông. Vào năm 1931, ông ta đã cống hiến cho mình quyền lực sau cuộc phân tranh chống Giang bằng cách tổ chức một chính phủ quốc gia riêng biệt tại Quảng Châu. Phản đối chế độ độc tài bị cáo buộc của Giang, những người ly khai bao gồm các nhà lãnh đạo Quốc Dân Đảng như Wang Jingwei, Sun Fo và những người khác từ các phe phái khác nhau. Các cuộc đàm phán hòa bình giữa sự nổi dậy vũ trang đã dẫn đến Quốc hội Quốc gia 4 của Quốc Dân Đảng được tổ chức riêng biệt bởi ba phe phái ở Nam Kinh, Thượng Hải và Canton. Từ chức tất cả các vị trí của mình, Chiang đã đưa ra một thỏa hiệp chính trị đoàn tụ tất cả các phe phái. Trong khi bộ phận nội bộ được giải quyết, Chen giữ quyền lực của mình cho đến khi ông bị đánh bại bởi Chiang vào năm 1936. Đảng Cộng sản nắm quyền. Quân đội Nhật Bản chiếm đóng thành phố này từ năm 1938 đến 1945 trong chiến tranh thế giới thứ hai. Trong những tháng cuối cùng của cuộc Nội chiến Trung Quốc, Quảng Châu như là thủ đô của Quốc dân đảng sau khi giải phóng Nam Kinh của PLA vào tháng 4 năm 1949. Quân Giải phóng Nhân dân đã vào thành phố vào ngày 14 tháng 10 năm 1949. Trong số cuộc di dân to lớn sang Hồng Kông và Ma Cao, người dân lên cầu Haizhu qua sông Châu Giang rút lui. Cách mạng Văn hoá đã có ảnh hưởng lớn đến thành phố với nhiều ngôi đền, nhà thờ và các công trình khác bị phá hủy trong thời kỳ hỗn loạn này. Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã khởi xướng các dự án xây dựng bao gồm nhà ở mới trên bờ sông Châu Giang để điều chỉnh con thuyền của thành phố sống trên đất liền. Kể từ những năm 1980, thành phố gần Hồng Kông và Thẩm Quyến và mối liên hệ với người Hoa ở nước ngoài đã làm cho nó trở thành một trong những người hưởng lợi đầu tiên của việc mở cửa của Trung Quốc dưới thời Đặng Tiểu Bình. Các cải cách thuế lợi ích trong những năm 1990 cũng đã giúp cho sự phát triển và công nghiệp hóa của thành phố. Địa lý. Khu phố cổ của Quảng Châu là gần núi Bạch Vân trên bờ phía đông của sông Châu Giang (Zhujiang) khoảng 80 dặm (129 km) từ ngã ba với Biển Đông và khoảng 300 dặm (483 km) ở phía dưới khu hàng hải. Thành phố trải dài 7.434,4 km vuông (2,870.4 sq²) ở cả hai bên bờ sông từ 112 ° 57 'đến 114 ° 03' độ kinh Đông và vĩ độ từ 22 ° 26 'đến 23 ° 56' N. Châu Giang là con sông lớn thứ ba của Trung Quốc. Núi Bạch Vân hiện nay được gọi là "phổi" (市 肺) của thành phố. Độ cao của tỉnh thường tăng từ hướng tây nam đến đông bắc, với các dãy núi tạo thành xương sống của thành phố và đại dương bao gồm phía trước. Đỉnh Tiantang (天堂 顶, "Đỉnh trên trời") là điểm cao nhất có độ cao 1.210 m so với mực nước biển. Khí hậu. Mặc dù nằm ở phía Nam so với chí tuyến Bắc, Quảng Châu có khí hậu ôn đới ẩm ướt (Köppen Cfa) chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Á. Mùa hè ẩm ướt với nhiệt độ cao, độ ẩm cao và chỉ số nhiệt cao. Mùa đông khá ôn hòa và tương đối khô. Quảng Châu có mùa mưa kéo dài, kéo dài từ tháng Tư đến tháng Chín. Nhiệt độ mức trung bình hàng tháng dao động từ 13,6 °C (56,5 °F) vào tháng Giêng đến 28,6 °C (83,5 °F) vào tháng 7, trong khi trung bình năm là 22,6 °C (72,7 °F). Mùa thu, từ tháng 10 đến tháng 12, có khí hậu rất dễ chịu, mát mẻ và nhiều gió, và là thời gian đi du lịch thành phố tốt nhất. Độ ẩm tương đối khoảng 68 %, trong khi lượng mưa hàng năm trong khu vực đô thị là hơn 1.700 mm (67 inch). Với mức ánh sáng mặt trời hàng tháng có thể dao động từ 17% trong tháng 3 và tháng 4 đến 52% vào tháng 11, thành phố này nhận được 1,628 giờ ánh nắng mặt trời hàng năm, ít hơn đáng kể so với Thâm Quyến và Hồng Kông. Nhiệt độ cực đại dao động từ 0 °C (32 °F) đến 39,1 °C (102,4 °F). Lần tuyết rơi cuối cùng được ghi lại trong thành phố là vào ngày 24 tháng 1 năm 2016, đó là lần đầu tiên thành phố có tuyết sau 87 năm. Hành chính. Quảng Châu được chia thành 11 quận. Kinh tế. Quảng Châu là trung tâm kinh tế của Đồng bằng châu thổ Châu Giang, đồng thời cũng là trái tim của vùng kinh tế chế xuất hàng đầu Trung Quốc. Năm 2006, GDP của thành phố đạt khoảng hơn 600 tỷ nhân dân tệ (tương đương 76,8 tỷ Đô la Mỹ), GDP bình quân đầu người vào khoảng 85.000 nhân dân tệ (11.000 Đô la Mỹ), đứng đầu trong 659 thành phố ở Trung Quốc. Nhưng do công nghiệp hóa nhanh chóng, nó cũng được coi là một trong những thành phố ô nhiễm nhất Trung Quốc. "Hội chợ hàng xuất khẩu Trung Quốc" còn gọi là "Hội chợ Quảng Châu" được tổ chức thường niên vào mùa xuân và mùa thu (bắt đầu từ năm 1957) là một sự kiện thường niên quan trọng của Quảng Châu. Hội chợ là một sự kiện lớn cho thành phố. Đây là hội chợ thương mại có lịch sử lâu nhất, có quy mô lớn nhất, lớn nhất ở Trung Quốc. Từ phiên họp thứ 104 trở đi, hội chợ chuyển đến Trung tâm Triển lãm và Hội nghị Quốc tế Quảng Châu (广州 国际 会展 中心) tại Bà Châu (琶洲), từ khu phức hợp cũ ở Liuhua. GICEC được phục vụ bởi hai trạm trên Tuyến Metro 8. Kể từ phiên họp thứ 104, Hội chợ Canton đã được bố trí thành ba giai đoạn thay vì hai giai đoạn. Quảng Châu là một trong những trung tâm thương mại thuốc phiện lớn nhất của Trung Quốc. Nhân khẩu. Cuộc điều tra dân số năm 2010 cho thấy dân số Quảng Châu là 12,78 triệu người. Tính đến năm 2014, ước tính khoảng 13.080.500, với 11.264.800 cư dân đô thị. Mật độ dân số của nó là khoảng 1.800 người/km2. Diện tích xây dựng của Quảng Châu thích hợp kết nối trực tiếp với một số thành phố khác. Khu vực được xây dựng của Khu kinh tế sông Châu Giang bao gồm khoảng 17.573 cây số vuông (6.785 dặm vuông) và ước tính có 22 triệu người, bao gồm 9 quận của Quảng Châu, Thẩm Quyến (5.36m), Đông Hoản (3.22m) Trung Sơn (3.12m), hầu hết Phật Sơn (2.2m), Giang Môn (1.82m), Chu Hải (890k) và Huệ Châu (760k). Tổng dân số của những khu vực này này là hơn 28 triệu sau khi tính cả dân số của vùng đặc quyền hành chính Hồng Kông liền kề. Nền kinh tế đang phát triển nhanh và nhu cầu lao động cao đã tạo ra một "số dân trôi nổi" khổng lồ của lao động di cư. Khoảng 10 triệu người di cư cư trú trong khu vực ít nhất sáu tháng mỗi năm. Năm 2008, khoảng 5 triệu người dân thường trú tại Quảng Châu là những người di cư không có người di dân. Dân tộc. Hầu hết dân số Quảng Châu là người Hán. Hầu như tất cả người Quảng Đông địa phương nói tiếng Quảng Châu là ngôn ngữ đầu tiên của họ, trong khi hầu hết người di cư nói tiếng Quan Thoại. Trong năm 2010, mỗi ngôn ngữ là tiếng mẹ đẻ của khoảng một nửa dân số của thành phố, mặc dù con số nhỏ nhưng cũng có một số lượng người đáng kể nói các giọng khác. Cũng như các nơi khác ở Trung Quốc, hệ thống đăng ký hộ khẩu (hukou) hạn chế người di cư tiếp cận nhà ở, cơ sở giáo dục và các lợi ích công cộng khác. Vào tháng 5 năm 2014, những người nhập cư hợp pháp ở Quảng Châu được phép nhận thẻ hộ khẩu cho phép họ kết hôn và được phép mang thai trong thành phố, thay vì phải quay về quê hương chính thức như trước đây. Về mặt lịch sử, người Quảng Đông đã chiếm một phần đáng kể trong cộng đồng người Hoa gốc XIX và thế kỷ 20 và nhiều người Trung Quốc ở nước ngoài có quan hệ với Quảng Châu. Điều này đặc biệt đúng ở Hoa Kỳ, Canada, và Australia. Về mặt nhân khẩu học, người Trung Quốc ở nước ngoài chỉ nhập cư vào Trung Quốc, nhưng Quảng Châu cho thấy nhiều khách du lịch, công nhân và cư dân nước ngoài đến từ các địa điểm thông thường như Hoa Kỳ. Đáng chú ý, đây cũng là quê hương của hàng ngàn người nhập cư châu Phi, bao gồm cả những người từ Nigeria, Angola và Cộng hòa Dân chủ Congo. Vùng đô thị. Khu đô thị bao gồm khu vực đô thị được ước tính bởi Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế của OECD, tính đến năm 2010, dân số 25 triệu người. Văn hóa. Ở Trung Quốc, văn hoá của người Quảng Đông là một tập hợp các khu vực văn hoá "Nam" hoặc "Lĩnh Nam" lớn hơn. Các khía cạnh nổi bật của di sản văn hoá Quảng Châu bao gồm: Nhà hát Opera và Dàn nhạc Giao hưởng Quảng Châu cũng biểu diễn nhạc cổ điển phương Tây và các tác phẩm Trung Quốc theo phong cách của họ. Âm nhạc Quảng Đông là một phong cách truyền thống của nhạc cụ Trung Quốc, trong khi Cantopop là hình thức địa phương của nhạc pop và rock-and-roll được phát triển từ vùng lân cận Hồng Kông. Tôn giáo. Dưới thời nhà Thanh, Quảng Châu đã có khoảng 124 trung tâm tôn giáo, tháp và đền thờ. Ngày nay, ngoài hiệp hội Phật giáo, Quảng Châu còn có một Hiệp hội Đạo giáo, một cộng đồng người Do Thái, và một lịch sử với Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Phật giáo là tôn giáo nổi bật nhất ở Quảng Châu. Thể thao. Từ ngày 12-27 tháng 11 năm 2010, Quảng Châu đã đăng cai tổ chức Đại hội Thể thao châu Á 2010. Cùng năm đó, thành phố đã tổ chức Asian Para Games đầu tiên từ 12 đến 19 tháng 12. Đó là những sự kiện thể thao lớn nhất mà thành phố từng tổ chức. Quảng Châu có 2 CLB bóng đá đang thi đấu ở giải bóng đá vô địch quốc gia Trung Quốc là Quảng Châu R&F và Quảng Châu Hằng Đại Đào Bảo. Trong đó, Quảng Châu Hằng Đại là một trong những đội bóng thành công nhất Trung Quốc, đã giành được 7 danh hiệu VĐQG liên tiếp từ năm 2011 đến năm 2017. Đội bóng này cũng đã 2 lần giành chức vô địch AFC Champions League vào các năm 2013 và 2015. Câu lạc bộ đã tham dự FIFA Club World Cup các năm 2013 và 2015, đều để thua với tỷ số 0-3 ở bán kết trước các đội ĐKVĐ UEFA Champions League khi ấy là FC Bayern München và F.C Barcelona. Giao thông. Giao thông công cộng đô thị. Khi tuyến đầu tiên của Metro Quảng Châu được khai trương vào năm 1997, Quảng Châu là thành phố thứ tư ở Trung Quốc đại lục để có một hệ thống đường sắt ngầm, phía sau Bắc Kinh, Thiên Tân và Thượng Hải. Hiện tại mạng lưới tàu điện ngầm được tạo thành 13 dòng, bao gồm tổng chiều dài 390,7 km (242,8 dặm). [132] Một kế hoạch dài hạn là làm cho hệ thống metro của thành phố mở rộng đến hơn 500 km (310 dặm) vào năm 2020 với 15 dây chuyền hoạt động. Ngoài hệ thống tàu điện ngầm còn có tuyến Haizhu Tram đã được khai trương vào ngày 31 tháng 12 năm 2014. Hệ thống Xe buýt Nhanh Quảng Châu (GBRT) được giới thiệu vào năm 2010 dọc Đường Trung Sơn. Nó có một số kết nối với tàu điện ngầm và là hệ thống Xe buýt nhanh tốc Xe buýt lớn thứ hai trên thế giới với 1.000.000 hành khách mỗi ngày. Nó xử lý 26.900 pphpd trong giờ cao điểm chỉ sau hệ thống TransMilenio BRT ở Bogota. Hệ thống này có tốc độ trung bình 1 xe buýt mỗi 10 giây hoặc 350 giờ một chiều theo một hướng và chứa các trạm BRT dài nhất thế giới - khoảng 260 m (850 ft) bao gồm các cây cầu. Đường không. Sân bay chính của Quảng Châu là sân bay Quốc tế Bạch Vân Quảng Châu thuộc quận Bạch Vân; nó được mở ra vào ngày 5 tháng 8 năm 2004. Sân bay này là sân bay bận rộn thứ hai về lưu thông ở Trung Quốc. Nó thay thế Sân bay Quốc tế Bạch Vân cũ, rất gần với trung tâm thành phố nhưng không đáp ứng nhu cầu giao thông hàng không nhanh chóng của thành phố. Sân bay Quốc tế Bạch Vân cũ đã hoạt động được 72 năm. Sân bay quốc tế Quảng Châu Bạch Vân hiện có ba đường băng, với hai kế hoạch nữa. Trạm 2 đang được xây dựng và sẽ mở vào năm 2018. Đường sắt. Quảng Châu là điểm cuối của tuyến đường sắt cao tốc Bắc Kinh-Quảng Châu, Quảng Châu - Thâm Quyến, Quảng Châu-Mậu Danh và Quảng Châu-Hàng Châu-Sán Đầu. Vào cuối năm 2009, tuyến đường sắt cao tốc Vũ Hán-Quảng Châu đã bắt đầu dịch vụ với nhiều đoàn tàu chạy dài 980 km (608,94 dặm) với tốc độ tối đa 320 km/h. Vào tháng 12 năm 2014, Đường sắt cao tốc Quý Dương-Quảng Châu và Đường sắt Nam Ninh- Quảng Châu bắt đầu dịch vụ với các đoàn tàu chạy với tốc độ tối đa là 250 km/h và 155 km/h (124 mph). Tàu Quảng Đông qua ga khởi hành từ ga đường sắt Quảng Châu phía Đông và đến trạm Hungfer Hom KCR ở Cửu Long, Hồng Kông. Tuyến này dài khoảng 182 km (113 dặm) và chuyến đi mất ít hơn hai giờ. Dịch vụ huấn luyện thường xuyên cũng được cung cấp với các huấn luyện viên khởi hành mỗi ngày từ các địa điểm khác nhau (chủ yếu là các khách sạn lớn) quanh thành phố. Một số đường sắt khu vực chiếu từ Quảng Châu bắt đầu hoạt động như Đường sắt liên tỉnh Quảng Châu - Chu Hải và đường sắt Intercity Quảng Châu - Triệu Khánh.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.666826
Địa lý & Hành chính
null
null
Bắc Kinh (; ), là thủ đô của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Thành phố nằm ở miền Hoa Bắc, và là một trong số bốn trực hạt thị của Trung Hoa, với 14 quận nội thị và cận nội thị cùng hai huyện nông thôn; là trung tâm chính trị, văn hóa và giáo dục của Trung Quốc. Bao quanh hầu hết Bắc Kinh là tỉnh Hà Bắc, thành phố Thiên Tân giáp với Bắc Kinh ở phía Đông Nam. Bắc Kinh là thành phố lớn thứ hai Trung Quốc xét theo số dân đô thị, xếp sau Thượng Hải, là một trong số các thành phố đông dân nhất thế giới với dân số là 21.707.000 người vào năm 2017. Năm 2018, Bắc Kinh là đơn vị hành chính (gồm bốn thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, năm khu tự trị dân tộc và hai đặc khu hành chính) đông thứ 26 về số dân với 21,5 triệu dân; đứng thứ 12 về kinh tế Trung Quốc và GDP đạt 3.032 tỉ NDT (458,2 tỉ USD) tương ứng với Áo hay Na Uy. Bắc Kinh có chỉ số GDP đầu người đứng thứ nhất Trung Quốc, đạt 140.760 NDT (tương đương 21.261 USD). Thành phố là nơi đặt trụ sở của hầu hết các doanh nghiệp nhà nước lớn nhất Trung Quốc, và là một đầu mối giao thông chính của các hệ thống quốc lộ, đường cao tốc, đường sắt và đường sắt cao tốc tại Trung Quốc. Sân bay quốc tế Thủ đô Bắc Kinh là sân bay bận rộn thứ hai trên thế giới theo số lượng hành khách. Lịch sử của thành phố đã có từ ba thiên niên kỷ. Bắc Kinh là kinh đô cuối cùng trong tứ đại cố đô phong kiến Trung Hoa, là trung tâm chính trị của cả nước trong phần lớn thời gian suốt các triều đại Nguyên, Minh, Thanh. Thành phố nổi tiếng với các di tích lịch sử, văn hóa, kiến trúc lâu đời, đồ sộ như cung điện, chùa chiền, lăng mộ, thành trì; cùng với đó, các kho tàng nghệ thuật đa dạng, các trường đại học chất lượng cao góp phần đưa Bắc Kinh trở thành một trung tâm văn hóa và nghệ thuật tại Trung Quốc. Thủ đô Bắc Kinh là một thành phố đặc biệt của Trung Quốc và cả thế giới. Tên gọi. Bắc Kinh (北京) có nghĩa là "Kinh đô phía bắc", phù hợp với truyền thống chung của Đông Á khi kinh đô được dứt khoát đặt tên như chính nó. Các thành phố có kiểu tên tương tự là Nam Kinh (南京 "Nánjīng", có nghĩa là "Kinh đô phía nam"), Tokyo (東京, "Đông Kinh" theo chữ Hán), Đông Kinh (東京 "Dōngjīng", có nghĩa là "Kinh đô phía đông", ngày nay là Hà Nội); cũng như Kyoto (, "Kinh Đô") và Kinh Thành, (京城 – có nghĩa là "kinh đô", ngày nay là Seoul), Tây Kinh (西京 "Xījīng", nghĩa là "Kinh đô phía tây", nay là Lạc Dương). Ở Trung Quốc, thành phố này có nhiều lần được đặt tên lại. Giữa thời gian từ 1368 đến 1405, và sau đó lại một lần nữa từ 1928 đến 1949, thành phố này có tên là Bắc Bình (; bính âm: "Beiping"; Wade-Giles: "Pei-p'ing"), có nghĩa "hòa bình phía bắc" hay "bình định phía bắc". Trong cả hai trường hợp, tên được đổi – bằng cách bỏ từ "kinh" - để phản ánh hiện thực là kinh đô đất nước đã chuyển đến Nam Kinh, lần đầu tiên dưới thời Hồng Vũ hoàng đế Nhà Minh, và lần thứ hai dưới thời Chính phủ Quốc dân của Trung Hoa Dân Quốc, lúc đó Bắc Kinh không phải là kinh đô của Trung Hoa. Đảng Cộng sản Trung Quốc đã chuyển thủ đô về Bắc Kinh năm 1949 một lần nữa một phần để nhấn mạnh rằng Bắc Kinh đã trở lại vai trò thủ đô Trung Quốc của mình. Chính phủ Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan chưa bao giờ công nhận chính thức việc đổi tên này và trong thập niên 1950 và thập niên 1960 phổ biến ở Đài Loan gọi Bắc Kinh là Bắc Bình để ám chỉ tính bất hợp pháp của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ngày nay, phần lớn Đài Loan, kể cả chính phủ Đài Loan đều sử dụng tên gọi Bắc Kinh, dù một số bản đồ của Trung Quốc từ Đài Loan vẫn sử dụng tên gọi cũ cùng với biên giới chính trị cũ. Yên Kinh (; Bính âm: "Yānjīng"; Wade-Giles: "Yen-ching") cũng là một tên phổ biến khác không chính thức của Bắc Kinh, liên hệ đến nước Yên đã tồn tại ở đây từ thời nhà Chu. Tên này hiện được một số tổ chức sử dụng làm tên thương hiệu như bia Yên Kinh, Đại học Yên Kinh, một trường đại học đã bị sáp nhập vào Đại học Bắc Kinh. Trong thời Nhà Nguyên, Bắc Kinh được gọi là Đại Đô. Giản xưng của Bắc Kinh là "Kinh" (京), chúng xuất hiện trong biển số xe của thành phố. Giản xưng chữ cái Latinh chính thức của Bắc Kinh là "BJ". Lịch sử. Lịch sử ban đầu. Đã phát hiện được các dấu vết có niên đại sớm nhất về sự định cư của con người tại Bắc Kinh trong các hang động ở Long Cốt Sơn (龙骨山) gần Chu Khẩu Điếm thuộc huyện Phòng Sơn, nơi người vượn Bắc Kinh từng sinh sống. Các hóa thạch người đứng thẳng ("Homo erectus") từ các hang động này có niên đại từ 230.000 đến 250.000 năm trước. Người hiện đại "(homo sapiens)" thời đại đồ đá cũ cũng đã sinh sống tại khu vực Bắc Kinh, từ khoảng 27.000 năm trước. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện những điểm định cư thời đại đồ đá mới trên khắp thành phố, bao gồm cả ở Vương Phủ Tỉnh tại trung tâm Bắc Kinh. Thành có tường bao bọc đầu tiên tại khu vực Bắc Kinh là Kế, một thành bang tồn tại từ thế kỷ XI đến thế kỷ VII TCN. Trên địa bàn Bắc Kinh hiện nay, Kế nằm ở phía nam của ga Bắc Kinh Tây. Nơi này sau đó đã bị nước Yên chinh phục và trở thành kinh đô của nước này với tên gọi Yên Kinh. Thời kỳ phong kiến ban đầu. Sau khi nước Yên bị tiêu diệt trong thời Chiến Quốc, các triều đại phong kiến ban đầu tiếp tục để thành làm thủ phủ châu với các tên gọi khác nhau. Trong thời Tam Quốc, khu vực Bắc Kinh lần lượt do Lưu Ngu rồi đến Công Tôn Toản và Viên Thiệu chiếm giữ trước khi về tay Tào Ngụy. Triều Tây Tấn đã chuyển thủ phủ châu đến Phạm Dương, và các hoàng đế Ngũ Hồ của các nước "Yên" khác nhau trong thời Ngũ Hồ thập lục quốc cũng chọn những địa điểm khác để định đô. Thời nhà Tùy, khu vực đã hồi sinh khi người ta đào nhiều kênh mương để phục vụ cuộc xâm lược Cao Câu Ly của Tùy Dạng Đế. U châu là một sở chỉ huy chính vào thời Nhà Đường, với tên gọi Phạm Dương, khu vực Bắc Kinh trong một thời gian ngắn đã là thủ đô của nước Đại Yên trong loạn An Sử vào thế kỷ VIII. Năm 936, nhà Hậu Tấn đã buộc phải nhường lại toàn bộ khu vực Bắc Kinh cho nhà Liêu của người Khiết Đan. Hai năm sau, nhà Liêu lập bồi đô ở nơi này, và đặt tên là Nam Kinh. một số công trình cổ nhất còn tồn tại ở Bắc Kinh có niên đại từ thời Liêu, bao gồm Thiên Ninh tự. Nhà Liêu sụp đổ trước nhà Kim của người Nữ Chân vào thế kỷ XII và nhà Kim đã chuyển thủ đô của họ đến Nam Kinh vào năm 1153, đổi tên thành Trung Đô. Thành bị quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn bao vây vào năm 1213 và bị san bằng hai năm sau đó. Sau này, Hốt Tất Liệt đã hạ lệnh xây dựng Đại Đô ("Khanbaliq"), tân đế đô cho triều Nguyên của ông, nằm gần kề các tàn tích từ thời Kim. Việc xây dựng được tiến hành từ 1264 đến 1293, và đã nâng cao rất nhiều vị thế của một thành nằm ở rìa phía bắc của Trung Quốc bản thổ. Thành có trung tâm là Cổ Lâu nằm hơi lệch về phía bắc của khu vực đô thị Bắc Kinh hiện nay và kéo dài từ đường Trường An đến tuyến số 10 ngày nay. Tàn dư của bức tường đắp bằng đất từ thời Nguyên vẫn còn và được gọi là Thổ Thành. Nhà Minh. Năm 1368, một thời gian ngắn sau khi lập ra Nhà Minh, Chu Nguyên Chương đã cử một đội quân đến Đại Đô và đốt cháy thành. Tuy nhiên do quân Nguyên tiếp tục chiếm giữ Thượng Đô và Mông Cổ, một thành mới đã được thiết lập để tiếp tế cho các đơn vị quân sự đồn trú trong khu vực. Thành này được gọi là Bắc Bình và theo chính sách tiến hành phong vương lập phiên của Chu Nguyên Chương thì thành được trao cho Yên vương Chu Đệ, hoàng tử thứ tư của ông ta. Việc người kế thừa của Chu Nguyên Chương mất sớm đã dẫn đến một cuộc đấu tranh kế vị khi bản thân ông ta qua đời, thắng lợi cuối cùng thuộc về Chu Đệ và người này trở thành Vĩnh Lạc Đế. Do kinh thành Ứng Thiên (Nam Kinh) đã bị cháy khi Chu Đệ tiến vào, ông đã lập phong ấp của mình làm đồng kinh thành. Thành Bắc Bình trở thành Thuận Thiên – tức Bắc Kinh ngày nay vào năm 1403. Việc xây dựng hoàng cung mới, Tử Cấm thành, được tiến hành từ năm 1406 đến 1420; đây cũng là khoảng thời gian xây dựng một số điểm đến chính của thành phố hiện nay, như Thiên Đàn và Thiên An Môn (song quảng trường trước nó đến năm 1651 mới được dọn quang). Khi mọi thứ hoàn tất vào năm 1421, Bắc Kinh trở thành kinh sư của đế quốc trong khi Ứng Thiên – mà nay gọi là Nam Kinh – thì để mất đi phần lớn tầm quan trọng của nó (Hồng Hi hoàng đế đã ra một chiếu chỉ vào năm 1425 để dời đô về Nam Kinh, song ông đã băng hà ngay sau đó). Trong thế kỷ XV, Bắc Kinh đã cơ bản có được khuôn mẫu như hiện nay. Tường thành thời Minh tiếp tục tồn tại cho đến thời hiện đại, khi nó bị kéo đổ và đường vành đai 2 được xây dựng trên vị trí của nó. Có quan điểm phổ biến rằng Bắc Kinh từng là thành phố lớn nhất thế giới trong hầu hết các thế kỷ XV, XVI, XVII, và XVIII. Nhà thờ Thiên Chúa giáo đầu tiên được biết đến tại Bắc Kinh đã được xây dựng vào năm 1652 tại đất có nhà nguyện của Matteo Ricci trước đó; nhà thờ Nam Đường được xây dựng sau này cũng trên địa điểm đó. Quân khởi nghĩa nông dân của Lý Tự Thành đã chiếm Bắc Kinh vào năm 1644 và kết thúc triều đại nhà Minh, song ông ta và triều Đại Thuận đã từ bỏ thành sau khi thất bại trước đội quân Thanh dưới quyền Đa Nhĩ Cổn ở Sơn Hải quan. Quân Thanh sau đó tiến vào chiếm lĩnh Bắc Kinh. Nhà Thanh. Đa Nhĩ Cổn xem triều Thanh là triều đại kế thừa trực tiếp của triều Minh (xem Đại Thuận là phi pháp) và Bắc Kinh trở thành kinh đô duy nhất của Trung Quốc. Các hoàng đế Nhà Thanh đã cho sửa sang Hoàng cung, song phần lớn các công trình và cách bố trí chung từ thời Minh thì vẫn không thay đổi. Các thần thánh của người Mãn được thờ phụng, song Nhà Thanh cũng tiếp tục duy trì các quốc lễ truyền thống. Các bảng hiệu được viết bằng song ngữ Mãn-Hán hoặc bằng chữ Hán. Trong chiến tranh Nha phiến lần hai, quân Anh-Pháp đã chiếm thành phố, cướp bóc và đốt phá Viên Minh Viên vào năm 1860. Theo Điều ước Bắc Kinh khi kết thúc cuộc chiến, các cường quốc phương Tây lần đầu tiên được đảm bảo quyền hiện diện ngoại giao thường trực trong thành phố. Năm 1900, "phong trào Nghĩa Hòa Đoàn" đã cố gắng tiệt trừ sự hiện diện này, cũng như việc người Trung Quốc cải sang Thiên Chúa giáo, khiến Bắc Kinh lại bị các cường quốc ngoại bang chiếm đóng. Trong giao tranh, một vài cấu trúc quan trọng đã bị phá hủy, bao gồm Hàn Lâm Viện và Di Hòa Viên. Thời Dân Quốc. Cách mạng Tân Hợi đã diễn ra vào năm 1911 nhằm thay thế Nhà Thanh bằng một Cộng hòa và các lãnh đạo của cuộc cách mạng như Tôn Trung Sơn ban đầu đã dự định dời đô đến Nam Kinh. Khi đó, một đại thần của triều Thanh là Viên Thế Khải đã buộc hoàng đế cuối cùng của Nhà Thanh thoái vị và những người cách mạng đã chấp thuận để ông làm đại tổng thống của Trung Hoa Dân Quốc. Viên Thế Khải vẫn giữ thủ đô tại Bắc Kinh và nhanh chóng củng cố quyền lực, rồi xưng đế vào năm 1915. Ông ta qua đời chưa đầy một năm sau đó khiến Trung Quốc bị phân liệt giữa các quân phiệt địa phương. Các phe phái mạnh nhất đã tiến hành các cuộc chiến tranh thường xuyên – chiến tranh Trực-Hoàn năm 1920 cùng chiến tranh Trực-Phụng lần thứ nhất và lần thứ hai vào các năm 1922 và 1924 – để kiểm soát thủ đô. Sau khi Quốc Dân Đảng' tiến hành Bắc phạt thành công, thủ đô chính thức bị dời về Nam Kinh vào năm 1928. Ngày 28 tháng 6 cùng năm, Bắc Kinh được đổi tên thành Bắc Bình. Trong chiến tranh Trung-Nhật, Bắc Bình rơi vào tay Nhật Bản ngày 29 tháng 7 năm 1937 và trở thành nơi đặt trụ sở của chính phủ Lâm thời Trung Hoa Dân Quốc, một chính phủ bù nhìn quản lý các phần lãnh thổ của người Hán ở các khu vực do Nhật Bản chiếm đóng tại Hoa Bắc. Chính phủ này sau đó hợp nhất với chính quyền Uông Tinh Vệ đặt tại Nam Kinh. Thời Cộng hòa Nhân dân. Trong giai đoạn cuối cùng của Nội chiến Trung Quốc, Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã chiếm được thành phố một cách yên bình vào ngày 31 tháng 1 năm 1949 trong chiến dịch Bình Tân. Ngày 1 tháng 10 cùng năm, Mao Trạch Đông đã tuyên bố thành lập Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa từ trên đỉnh Thiên An Môn. Ông đặt thủ đô tại thành phố, và phục hồi lại tên gọi Bắc Kinh, một quyết định được Chính hiệp Toàn quốc thông qua chỉ vài ngày trước đó. Trong thập niên 1950, thành phố bắt đầu phát triển ra ngoài thành cổ và các vùng lân cận xung quanh, với các cơ sở công nghiệp nặng ở phía tây và các khu dân cư ở phía bắc. Nhiều phần của tường thành Bắc Kinh đã bị giật đổ trong thập niên 1960 để xây dựng tàu điện ngầm Bắc Kinh và đường vành đai 2. Trong Cách mạng văn hóa từ năm 1966 đến 1976, phong trào Hồng vệ binh bắt đầu tại Bắc Kinh và chính quyền thành phố đã trở thành nạn nhân tại một trong các cuộc thanh trừng đầu tiên. Vào mùa thu năm 1966, toàn bộ các trường học của thành phố ngừng hoạt động và trên một triệu hồng vệ binh từ khắp đất nước đã tập hợp tại Bắc Kinh trong tám cuộc mittinh tại quảng trường Thiên An Môn với Mao Trạch Đông. Vào tháng 4 năm 1976, cư dân Bắc Kinh đã tiến hành một cuộc tập hợp quần chúng lớn chống lại Tứ nhân bang và Cách mạng Văn hóa tại quảng trường Thiên An Môn song đã bị đàn áp mạnh mẽ. Vào tháng 10 năm 1976, Tứ nhân bang đã bị bắt giữ tại Trung Nam Hải và cách mạng Văn hóa đi đến hồi kết. Vào tháng 12 năm 1978, Hội nghị Toàn thể lần thứ ba của Uỷ ban Trung ương Đảng khóa 11 tại Bắc Kinh dưới sự chỉ đạo của Đặng Tiểu Bình đã đảo nghịch những lời tuyên án chống lại các nạn nhân của Cách mạng Văn hóa và khởi đầu "chính sách cải cách và mở cửa". Từ đầu thập niên 1980, khu vực đô thị của Bắc Kinh đã mở rộng rất nhiều với việc hoàn thành đường vành đai 2 vào năm 1981 cũng như đường vành đai 3, 4, 5 và 6 vào sau này. Theo một tường thuật báo chí vào năm 2005, quy mô khu vực phát triển mới của Bắc Kinh rộng gấp rưỡi trước đó. Vương Phủ Tỉnh và Tây Đan (西单) đã phát triển thành những khu phố mua sắm hưng thịnh, trong khi Trung Quan Thôn trở thành một trung tâm điện tử lớn tại Trung Quốc. Trong những năm gần đây, sự phát triển của Bắc Kinh đã đem đến một số vấn đề như giao thông đông đúc, chất lượng không khí ở mức thấp, mất đi các khu vực lịch sử, và phải đón nhận một dòng nhập cư đáng kể đến từ các khu vực kém phát triển hơn trong nước. Bắc Kinh cũng là nơi diễn ra nhiều sự kiện quan trọng trong lịch sử Trung Quốc thời gian gần đây, đáng chú ý là các cuộc biểu tỉnh Thiên An Môn năm 1989 và Thế vận hội Mùa hè 2008. Địa lý. Địa hình. Thành phố Bắc Kinh nằm trên vùng đất thấp và bằng phẳng, với độ cao thường nằm trong khoảng 40-60m trên mực nước biển. Điểm cao nhất trong khu thành cổ là đỉnh của Cảnh Sơn với độ cao là 88,35 m, từ đây có thể nhìn toàn cảnh Tử Cấm thành. Đỉnh của Vạn Thọ Sơn (万寿山) thuộc Di Hòa Viên có độ cao . Vùng đồng bằng từ Bắc Kinh kéo dài xa về phía đông đến Sơn Hải quan bên bờ Bột Hải và xa về phía nam đến Nam Kinh. Ở phía tây Bắc Kinh có Tây Sơn, có thể nhìn thấy núi này từ nội thị vào những ngày quang đãng. Tây Sơn tạo thành sườn núi phía đông của Thái Hành Sơn- dãy núi chạy theo chiều bắc-nam và tạo thành xương sống phía tây của Hà Bắc. Tây Sơn bao trùm gần như toàn bộ các quận Phòng Sơn và Môn Đầu Câu ở phía tây thành phố. Đông Linh Sơn (东灵山, cao ), một đỉnh núi của Tây Sơn nằm trên ranh giới với Hà Bắc, là đỉnh cao nhất tại Bắc Kinh. Đỉnh này nằm cách trung tâm thành phố . Tây Sơn cũng được biết đến với các đồng cỏ núi cao và các hẻm núi sông, bao gồm Thập Độ (十渡). Vùng chân núi của Tây Sơn vươn đến tận vùng đô thị của thành phố, bao gồm Hương Sơn (香山)- một điểm đến du lịch lớn và Lão Sơn- nơi diễn ra thi đấu xe đạp leo núi trong Thế vận hội Mùa hè 2008. Các dãy núi ở bắc bộ của Bắc Kinh bao gồm Bát Đạt Lĩnh, Quân Đô Sơn (军都山) và Phượng Hoàng Lĩnh (凤凰岭) đều thuộc Yên Sơn, chạy theo hướng đông-tây, ngang qua bắc bộ tỉnh Hà Bắc. Yên Sơn chia tách bình nguyên Hoa Bắc với thảo nguyên và có ý nghĩa quân sự quan trọng trong lịch sử. Toàn bộ các đoạn Trường Thành thuộc Bắc Kinh đều được xây dựng trên dãy Yên Sơn, với cao độ lớn nhất là tại Hải Đà Sơn (海坨山) trên ranh giữa giữa huyện Diên Khánh và tỉnh Hà Bắc. Yên Sơn và Tây Sơn gặp nhau tại Nam Khẩu thuộc quận Xương Bình ở tây bắc của thành phố. Chỗ giao nhau tạo thành một đường đứt đoạn lớn và thung lũng sụt lún, và các tuyến đường bộ và đường sắt chính vượt sang phía tây bắc của thành phố đều đi qua chỗ này. Thủy văn. Năm thủy hệ lớn nhất tại Bắc Kinh, chảy từ tây sang đông, gồm: Cự Mã Hà (拒马河), Vĩnh Định Hà, Bắc Vận Hà (北运河), Triều Bạch Hà (潮白河), Kế Vận Hà (蓟运河). Các sông hầu hết đều bắt nguồn từ Cao nguyên Nội Mông Cổ, chảy xuyên qua các dãy núi ở phía tây và bắc của thành phố, cuối cùng đổ vào Hải Hà- con sông đổ trực tiếp ra Bột Hải. Ngày nay, không có sông lớn nào chảy qua khu vực đô thị trung tâm của Bắc Kinh do qua hàng thế kỷ, con người đã điều hướng các con sông chảy vòng qua thành phố. Nhờ các hồ, kênh mương, hào, cống dẫn nước, các con sông này tiếp tục cung cấp nước, đồng thời là nơi thoát nước cho thành phố, song nội thị Bắc Kinh không còn bị đe dọa từ lũ lụt do sông này gây ra. Bắc Kinh cũng là điểm cuối phía bắc của Đại Vận Hà, được xây dựng xuyên qua bình nguyên Hoa Bắc đến Hàng Châu, đoạn Bắc Kinh-Thiên Tân được gọi là Bắc Vận Hà. Hồ chứa Mật Vân (密云水库), được xây dựng trên thượng du Triều Bạch Hà, là hồ chứa lớn nhất Bắc Kinh và cũng là một nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố. Khu nội thị Bắc Kinh có một vài hồ được gọi là "hải". Vào thời nhà Nguyên, những nhà cai trị người Mông Cổ đã cho mở rộng và xây dựng hoàng cung Đại Đô xung quanh chúng. Sau này, các hoàng đế Nhà Minh và Nhà Thanh đã sử dụng các hồ này làm ngự hoa viên. Ngày nay, ba hồ cực bắc trong nội thị là "Tây Hải", "Hậu Hải" và "Tiền Hải", được gọi chung là "Thập Sát Hải" (什刹海). Ở phía nam của chúng, "Bắc Hải" là một công viên của thành phố, còn "Trung Hải" và "Nam Hải" là một bộ phận của quần thể Trung Nam Hải. Chuỗi hồ này từng là lòng sông chính của Vĩnh Định Hà- cong sông mà ngày nay chảy cách đó về phía tây. Cách nay 1.800 năm, Vĩnh Định Hà chảy qua Tích Thủy Đàm (积水潭) và trung tâm đô thị của Bắc Kinh và sau đó chảy vào hồ Long Đàm vào Thông Châu. Khí hậu. Bắc Kinh có khí hậu lục địa ẩm chịu ảnh hưởng của gió mùa, khá khô hạn (phân loại khí hậu Köppen "Dwa"), có đặc trưng là mùa hè nóng và ẩm do ảnh hưởng của gió mùa Đông Á; và mùa đông thường rất lạnh, lộng gió và khô do ảnh hưởng của áp cao Siberia. Vào mùa xuân, Bắc Kinh có thể phải hứng chịu các cơn bão cát thổi đến từ sa mạc Gobi băng qua thảo nguyên Mông Cổ, kèm theo đó là nhiệt độ ấm lên nhanh chóng, song thường khô. Mùa thu cũng giống mùa xuân, Bắc Kinh được đón nhận một lượng mưa nhỏ, song mùa này có không khí se lạnh và kéo dài ngắn. Nhiệt độ trung bình tháng của Bắc Kinh vào tháng 1 là , trong khi vào tháng 7 là . Lượng giáng thủy bình quân hàng năm là khoảng , với gần ba phần tư xuất hiện từ tháng 6 đến tháng 8. Nhiệt độ cực độ ở đây là từ đến . Hành chính. Bắc Kinh hiện có 16 đơn vị hành chính cấp huyện. Ngày 1 tháng 7 năm 2010, các khu Sùng Văn và Tuyên Vũ đã được hợp nhất tương ứng vào các khu Đông Thành và Tây Thành. Chú thích Kinh tế. Bắc Kinh nằm trong số các thành phố phát triển nhất tại Trung Quốc, với ngành kinh tế thứ ba chiếm khoảng 73,2% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của thành phố; Bắc Kinh là thành phố hậu công nghiệp đầu tiên tại Trung Quốc đại lục. Năm 2009, Bắc Kinh là nơi đặt trụ sở của 41 công ty trong Fortune Global 500, đứng thứ hai thế giới sau Tokyo, và có hơn 100 công ty nằm trong số các công ty lớn nhất tại Trung Quốc. Ảnh hưởng kinh tế tổng thể của Bắc Kinh được PwC xếp hạng thứ 1. Tài chính là một trong các ngành kinh tế quan trọng nhất của Bắc Kinh. Đến cuối năm 2007, đã có 751 tổ chức tài chính tại Bắc Kinh tạo ra thu nhập 128,6 tỉ NDT chiếm 11,6% tổng thu nhập ngành tài chính của toàn quốc. Thu nhập từ tài chính cũng chiếm 13,8% tổng GDP của Bắc Kinh, tỷ lệ cao nhất so với bất kỳ thành phố nào khác tại Trung Quốc. Các ngành bất động sản và ô tô tại Bắc Kinh tiếp tục bùng nổ trong những năm gần đây. Năm 2005, có tổng cộng bất động sản nhà ở đã được bán, với tổng giá trị đạt 175,88 tỷ NDT. Tổng số ô tô đăng ký tại Bắc Kinh vào năm 2004 là 2.146.000 chiếc, trong đó 1.540.000 chiếc thuộc sở hữu tư nhân (tăng 18,7% so với năm trước). Khu Trung tâm Thương vụ Bắc Kinh (北京商务中心区), tập trung tại khu vực Quốc Mậu (国贸), đã được xác định là khu trung tâm thương mại mới của thành phố, và là nơi đặt trụ sở chính của các công ty, có các khu mua sắm, và nhà ở cao cấp. Phố Tài chính Bắc Kinh (北京金融街) nằm trên hai khu vực Phục Hưng Môn (复兴门) và Phụ Thành Môn (阜成门), là một trung tâm tài chính truyền thống. Các khu vực Vương Phủ Tỉnh và Tây Đan là những phố mua sắm lớn. Trung Quan Thôn (中关村), được đặt biệt danh là "Thung lũng Silicon của Trung Quốc", tiếp tục là một trung tâm lớn của các ngành điện tử và các ngành công nghiệp liên quan đến máy tính, cũng như các nghiên cứu liên quan đến dược phẩm. Trong khi đó, Diệc Trang (亦庄), nằm ở đông nam khu vực đô thị của thành phố, đã trở thành một trung tâm mới đối với các ngành dược phẩm, công nghệ thông tin, và kỹ thuật vật liệu. Thạch Cảnh Sơn, nằm ở ngoại ô phía tây thành phố, nằm trong số các khu vực công nghiệp chính. Các khu công nghiệp được xác định có vị thế đặc biệt bao gồm Công viên Khoa học-Kỹ thuật Trung Quan Thôn (中关村科技园区), khu Phát triển Kinh tế Vĩnh Lạc (永乐经济开发区), Khu phát triển Kinh tế-Kỹ thuật Bắc Kinh (北京经济技术开发区), và Khu công nghiệp cảng hàng không Thiên Trúc (天竺空港工业区). Nông nghiệp phát triển ở bên ngoài khu vực đô thị, lúa mì và ngô là các cây trồng chính. Nông dân cũng trồng các loại rau xanh ở các khu vực gần nội thị để cung cấp cho thành phố. Năm 2018, Bắc Kinh là đơn vị hành chính (gồm 04 thành phố trực thuộc trung ương, 22 tỉnh, 05 khu tự trị và 02 đặc khu hành chính) đông thứ 26 về số dân với 21,5 triệu dân và đứng thứ 12 về kinh tế Trung Quốc và GDP đạt 3.032 tỉ NDT (458,2 tỉ USD) tương ứng với Áo hay Na Uy. Bắc Kinh có chỉ số GDP đầu người đứng thứ nhất Trung Quốc đại lục, thứ ba toàn quốc (sau Ma Cao và Hồng Kông), đạt 140.760 NDT (tương đương 21.261 USD). Thành phố là trụ sở của nhiều công ty trong Fortune Global 500, Bắc Kinh cũng được mô tả là vượt qua New York năm 2016 để trở thành "Thủ đô tỷ phú của thế giới". Vùng kinh tế. Năm 2006, chính quyền thành phố đã xác định sáu khu vực sản xuất kinh tế cao cấp xung quanh Bắc Kinh là động lực chính cho tăng trưởng kinh tế địa phương. Năm 2012, sáu khu vực đã sản xuất 43,3% GDP của thành phố, tăng từ 36,5% trong năm 2007 Sáu khu là: Doanh nghiệp ít hợp pháp cũng tồn tại. Đô thị Bắc Kinh được biết đến là một trung tâm của hàng hóa bị vi phạm bản quyền; bất cứ thứ gì từ quần áo thiết kế mới nhất cho đến DVD đều có thể tìm thấy ở các thị trường trên toàn thành phố, thường được bán cho người nước ngoài và khách quốc tế. Vấn đề môi trường. Bắc Kinh có một lịch sử lâu dài về các vấn đề môi trường. Từ năm 2000 đến 2009, phạm vi đô thị của Bắc Kinh tăng gấp bốn lần, điều này không chỉ làm tăng mạnh mức độ phát thải của con người, mà còn thay đổi căn bản khí tượng, ngay cả khi không bao gồm khí thải của xã hội loài người. Ví dụ, bề mặt suất phản chiếu, tốc độ gió và độ ẩm gần bề mặt đã giảm, trong khi nhiệt độ không khí trên mặt đất và gần bề mặt, độ pha loãng không khí theo chiều dọc và nồng độ ôzôn đã tăng lên. Do các yếu tố kết hợp của đô thị hóa và ô nhiễm do đốt nhiên liệu hóa thạch, Bắc Kinh thường bị ảnh hưởng bởi vấn đề môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của nhiều người dân. Vào năm 2013, sương khói dày đặc đã tấn công Bắc Kinh và hầu hết các vùng phía bắc Trung Quốc, ảnh hưởng đến tổng cộng 600 triệu người. Từ đó, ô nhiễm không khí đã trở thành một mối quan tâm kinh tế và xã hội quan trọng ở Trung Quốc. Sau đó chính phủ Bắc Kinh đã công bố các biện pháp để giảm ô nhiễm không khí, ví dụ như giảm tỷ trọng than từ 24% trong năm 2012 xuống 10% trong năm 2017, trong khi chính phủ quốc gia ra lệnh cho các phương tiện ô nhiễm nặng bị loại bỏ từ năm 2015 đến năm 2017 và nỗ lực chuyển đổi hệ thống năng lượng sang sử dụng nguồn năng lượng sạch.. Chất lượng không khí. Nghiên cứu chung giữa các nhà nghiên cứu Mỹ và Trung Quốc năm 2006 đã kết luận rằng phần lớn ô nhiễm của thành phố đến từ các thành phố và tỉnh lân cận khác. Trung bình 35-60% ozone có thể được truy tìm đến các nguồn bên ngoài thành phố. Tỉnh Sơn Đông và đô thị Thiên Tân có "ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng không khí của Bắc Kinh", một phần do gió nam/đông nam phát triển mạnh trong mùa hè và các ngọn núi ở phía bắc và tây bắc. Để chuẩn bị cho Thế vận hội Mùa hè 2008 và thực hiện lời hứa để làm sạch không khí của thành phố, gần 17 tỷ USD đã được chi. Bắc Kinh đã thực hiện một số kế hoạch cải thiện không khí trong suốt thời gian diễn ra Thế vận hội, bao gồm tạm dừng hoạt động tại tất cả các công trường xây dựng, đóng cửa nhiều nhà máy ở Bắc Kinh, tạm thời đóng cửa ngành công nghiệp ở các khu vực lân cận, đóng cửa một số trạm xăng, và cắt giảm lưu lượng xe máy một nửa bằng cách giới hạn người lái xe trong những ngày lẻ hoặc chẵn (dựa trên số biển số xe), giảm giá vé xe buýt và tàu điện ngầm, mở các tuyến tàu điện ngầm mới và cấm các phương tiện phát thải cao. Thành phố tiếp tục triển khai lắp ráp 3.800 xe buýt chạy bằng khí đốt tự nhiên, một trong những hệ thống tàu điện ngầm khí thiên nhiên lớn nhất thế giới. Bắc Kinh trở thành thành phố đầu tiên ở Trung Quốc yêu cầu tương đương với tiêu chuẩn khí thải Euro 4. Đốt than chiếm khoảng 40% PM 2.5 ở Bắc Kinh và cũng là nguồn cung cấp nitơ và lưu huỳnh dioxide chính. Từ năm 2012, thành phố đã chuyển đổi các nhà máy nhiệt điện than để đốt khí đốt tự nhiên và đặt mục tiêu giới hạn mức tiêu thụ than hàng năm ở mức 20 triệu tấn. Năm 2011, thành phố đã đốt 26,3 triệu tấn than, 73% trong số đó là để sưởi ấm và sản xuất điện và phần còn lại cho công nghiệp. Phần lớn các chất gây ô nhiễm không khí của thành phố được phát ra từ các khu vực lân cận. Tiêu thụ than ở thành phố láng giềng Thiên Tân dự kiến ​​sẽ tăng từ 48 đến 63 triệu tấn từ năm 2011 đến 2015. Tỉnh Hà Bắc đã đốt hơn 300 triệu tấn than trong năm 2011, nhiều hơn cả nước Đức, trong đó chỉ có 30% được sử dụng để sản xuất điện và một phần đáng kể để sản xuất thép và xi măng. Các nhà máy điện ở các khu vực khai thác than ở Sơn Tây, Nội Mông và Thiểm Tây, nơi tiêu thụ than đã tăng gấp ba lần từ năm 2000, và Sơn Đông cũng góp phần gây ô nhiễm không khí ở Bắc Kinh. Sơn Đông, Sơn Tây, Hà Bắc và Nội Mông, lần lượt xếp hạng từ thứ nhất đến thứ tư, trong số các tỉnh của Trung Quốc theo tiêu thụ than. Có bốn nhà máy nhiệt điện than lớn trong thành phố để cung cấp điện cũng như sưởi ấm trong mùa đông. Nhà máy đầu tiên (Nhà máy nhiệt điện Gaojing) đã ngừng hoạt động vào năm 2014. Hai nhà máy khác đã ngừng hoạt động vào tháng 3 năm 2015. Nhà máy cuối cùng (Nhà máy Nhiệt điện Huaneng) sẽ đóng cửa vào năm 2016. Từ năm 2013 đến 2017, thành phố đã lên kế hoạch giảm 13 triệu tấn tiêu thụ than và tiêu thụ than xuống còn 15 triệu tấn trong năm 2015. Chính phủ đôi khi sử dụng các biện pháp gieo hạt trên đám mây để tăng khả năng có mưa rào trong khu vực để làm sạch không khí trước các sự kiện lớn, như trước cuộc diễu hành kỷ niệm 60 năm vào năm 2009 cũng như để chống lại các điều kiện hạn hán trong khu vực. Tuy nhiên, gần đây, chính phủ đã tăng cường sử dụng các biện pháp như tạm thời đóng cửa các nhà máy và thực hiện các hạn chế lớn hơn đối với ô tô trên đường, như trong sự kiện "một APEC xanh" và "diễu hành màu xanh", trong thời gian ngắn và ngay trước APEC Trung Quốc 2014 và Cuộc diễu hành Ngày Chiến thắng 2015. Trong và trước các sự kiện này, chất lượng không khí của Bắc Kinh đã được cải thiện đáng kể, chỉ trở lại mức không lành mạnh ngay sau đó. Chất lượng không khí Bắc Kinh thường kém, đặc biệt là vào mùa đông. Vào giữa tháng 1 năm 2013, chất lượng không khí của Bắc Kinh đã được đo trên đỉnh đại sứ quán Hoa Kỳ của thành phố với mật độ PM2,555 microgam trên mét khối, vượt xa chỉ số chất lượng không khí của Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ. Nó đã được báo cáo rộng rãi, ban đầu thông qua một tài khoản Twitter, rằng tình trạng này là "xấu một cách điên rồ". Điều này sau đó đã được thay đổi thành "ngoài chỉ số". Vào ngày 8 và 9 tháng 12 năm 2015, Bắc Kinh đã có cảnh báo sương khói đầu tiên, đóng cửa phần lớn ngành công nghiệp và các doanh nghiệp thương mại khác trong thành phố. Cuối tháng khác, một "báo động đỏ" về sương mù khác đã được ban hành. Theo thông báo của văn phòng bảo vệ môi trường của Bắc Kinh vào tháng 11 năm 2016, bắt đầu từ năm 2017, những chiếc ô tô cũ gây ô nhiễm cao sẽ bị cấm lái bất cứ khi nào sương khói "cảnh báo đỏ" được thông qua trong thành phố hoặc các khu vực lân cận. Trong những năm gần đây, đã có sự giảm thiểu đáng kể các chất ô nhiễm sau khi "cuộc chiến chống ô nhiễm" được tuyên bố vào năm 2014, với việc Bắc Kinh chứng kiến ​​giảm 35% các hạt mịn trong năm 2017. Cách phân biệt. Do mức độ ô nhiễm không khí cao của Bắc Kinh, có nhiều cách thống kê khác nhau theo các nguồn khác nhau về vấn đề này. Các thống kê ô nhiễm hàng ngày tại 27 trạm giám sát xung quanh thành phố được báo cáo trên trang web của Cục Bảo vệ Môi trường Bắc Kinh (BJEPB). Đại sứ quán Bắc Kinh của Mỹ cũng báo cáo mức độ hạt mịn hàng giờ (PM2,5) và nồng độ ozone trên Twitter. Do BJEPB và Đại sứ quán Hoa Kỳ đo các chất gây ô nhiễm khác nhau theo các tiêu chí khác nhau, mức độ ô nhiễm và tác động đến sức khỏe con người được báo cáo bởi BJEPB thường thấp hơn so với báo cáo của Đại sứ quán Hoa Kỳ. Sương khói đang gây ra tất cả các loại tác hại và khiến công chúng gặp nguy hiểm nói chung. Ô nhiễm không khí trực tiếp dẫn đến tác động đáng kể đến tốc độ di chuyển của bệnh tim mạch và bệnh hô hấp ở Bắc Kinh. Tiếp xúc với nồng độ lớn của không khí bị ô nhiễm có thể gây ra các vấn đề về hô hấp và tim mạch, có thể dẫn đến nguy cơ nhập viện và thậm chí tử vong. Bão bụi. Bụi từ sự xói mòn của các hoang mạc ở phía bắc và tây bắc Trung Quốc dẫn đến những cơn bão bụi theo mùa gây ra nhiều dịch bệnh cho thành phố; Văn phòng Điều chỉnh Thời tiết Bắc Kinh đôi khi tạo ra lượng mưa một cách giả tạo để chống lại những cơn bão như vậy và giảm thiểu tác động của chúng. Chỉ trong bốn tháng đầu năm 2006, đã có không dưới tám cơn bão như vậy. Vào tháng 4 năm 2002, một cơn bão bụi đã đổ gần 50.000 tấn bụi vào thành phố trước khi di chuyển sang Nhật Bản và Hàn Quốc. Nhân khẩu. Năm 2013, Bắc Kinh có tổng dân số 21.148 triệu người trong đô thị, trong đó 18.251 triệu người cư trú ở các quận nội thành hoặc thị trấn ngoại ô và 2,897 triệu người sống ở các làng nông thôn. Khu vực đô thị bao gồm được OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế) ước tính có, tính đến năm 2010, dân số là 24,9 triệu người. Trong Trung Quốc, thành phố đứng thứ hai về dân số toàn đô thị sau Thượng Hải và thứ ba về dân số trong thành thị sau Thượng Hải và Trùng Khánh. Bắc Kinh cũng được xếp hạng trong số những thành phố đông dân nhất thế giới, một sự khác biệt mà thành phố này đã nắm giữ trong suốt 800 năm qua, đặc biệt là trong thế kỷ 15 đến đầu thế kỷ 19 khi đây là thành phố lớn nhất thế giới. Khoảng 13 triệu cư dân của thành phố vào năm 2013 đã có giấy phép hộ khẩu địa phương, cho phép họ được thường trú tại Bắc Kinh. 8 triệu cư dân còn lại có giấy phép hộ khẩu ở nơi khác và không đủ điều kiện để nhận một số lợi ích xã hội được cung cấp bởi chính quyền thành phố Bắc Kinh. Dân số tăng trong năm 2013 thêm 455.000 hoặc khoảng 7% so với năm trước và tiếp tục xu hướng tăng trưởng nhanh trong một thập kỷ. Tổng dân số năm 2004 là 14,213 triệu người. Sự gia tăng dân số được thúc đẩy chủ yếu bởi di cư. Tỷ lệ gia tăng tự nhiên của dân số năm 2013 chỉ là 0,441%, dựa trên tỷ lệ sinh là 8,93 và tỷ lệ tử vong là 4,52. Cân bằng giới tính là 51,6% nam và 48,4% nữ. Người trong độ tuổi lao động chiếm gần 80% dân số. So với năm 2004, cư dân ở độ tuổi 014, tỷ lệ dân số giảm từ 9,96% xuống 9,5% năm 2013 và cư dân trên 65 tuổi giảm từ 11,12% xuống 9,2%. Từ năm 2000 đến năm 2010, tỷ lệ cư dân thành phố có ít nhất một số giáo dục đại học tăng gần gấp đôi từ 16,8% lên 31,5%. Khoảng 22,2% có một số giáo dục trung học và 31% đã đạt đến trung học cơ sở. Theo điều tra dân số năm 2010, gần 96% dân số Bắc Kinh là người gốc Hán. Trong số 800.000 dân tộc thiểu số sống ở thủ đô, người Mãn (336.000), người Hồi (249.000), người Triều Tiên (77.000), người Mông Cổ (37.000) và người Thổ Gia (24.000) tạo thành năm nhóm lớn nhất. Ngoài ra, có 8.045 cư dân Hồng Kông, 500 cư dân Ma Cao và 7.772 cư dân Đài Loan cùng với 91.128 người nước ngoài đã đăng ký sống ở Bắc Kinh. Một nghiên cứu của Viện Khoa học Bắc Kinh ước tính rằng trong năm 2010, có trung bình 200.000 người nước ngoài sống ở Bắc Kinh vào bất kỳ ngày nào, bao gồm cả sinh viên, khách du lịch và khách du lịch không được tính là cư dân đã đăng ký. Năm 2017, chính phủ Trung Quốc đã thực hiện kiểm soát dân số cho Bắc Kinh và Thượng Hải. Từ chính sách này, dân số Bắc Kinh đã giảm 20.000 từ năm 2016 đến 2017. Văn hóa. Kinh kịch là một thể loại kịch nghệ truyền thống được biết đến khắp Trung Quốc. Kinh kịch thường được tán dương là một trong các thành tựu lớn nhất của văn hóa Trung Quốc. Thể loại kịch nghệ này được biểu diễn với việc kết hợp điệu hát, đối thoại, và hành động theo quy luật liên quan đến cử chỉ, chuyển động, chiến đấu và nhào lộn. Kinh kịch phần lớn được biểu diễn bằng cổ ngữ, khá khác so với phương ngữ Bắc Kinh hiện nay. Ẩm thực Bắc Kinh tiếp thu các truyền thống nấu nướng trên khắp Trung Quốc, trong đó vịt quay Bắc Kinh có lẽ là món ăn được biết đến nhiều nhất. Phục linh giáp bính (茯苓夹饼) là một loại đồ ăn nhanh truyền thống của Bắc Kinh, nó là một cái bánh ("bính") giống như một chiếc đĩa phẳng và được nhồi một thứ được làm từ "phục linh", một loại nấm được sử dụng trong Trung y. Các trà quán khá phổ biển tại Bắc Kinh. Công nghệ và truyền thống làm Cảnh Thái lam (景泰蓝) là một đặc trưng nghệ thuật của Bắc Kinh, và là một trong những nghề thủ công được tôn kính nhất tại Trung Quốc. Muốn làm được Cảnh Thái lam phải có các quy trình tỉ mỉ và phức tạp. Sơn màu Bắc Kinh cũng nổi tiếng với các mẫu hình tinh tế và có hồn được khắc trên bề mặt. Trong những thập niên gần đây, các cư dân trẻ của Bắc Kinh đã bị thu hút vào cuộc sống về đêm, phá vỡ truyền thống văn hóa khi xưa là chỉ hạn chế trong tầng lớp thượng lưu. Chỗ đến. Trung tâm lịch sử của Bắc Kinh tập trung tại Tử Cấm thành, tổ hợp cung điện khổng lồ đã từng là nơi ở của các hoàng đế Nhà Minh và Nhà Thanh; Tử Cấm thành có bảo tàng Cố cung, bao gồm các bộ sưu tập đế vương về nghệ thuật Trung Quốc. Xung quanh Tử Cấm thành là một vài ngự hoa viên, công viên, khu cảnh vật cũ, đáng chú ý là Bắc Hải, Thập Sát Hải, Trung Nam Hải, Cảnh Sơn và Trung Sơn. Những nơi này, đặc biệt là công viên Bắc Hải, được mô tả là kiệt tác của nghệ thuật viên lâm Trung Quốc, và là các điểm đến du lịch phổ biến do có tầm quan trọng to lớn về mặt lịch sử; trong kỷ nguyên hiện đại, Trung Nam Hải cũng là trung tâm chính trị của các chính quyền và chế độ khác nhau tại Trung Quốc và nay là trụ sở của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Quốc vụ viện. Từ quảng trường Thiên An Môn, đối diện với Tử Cấm thành, có thể tiếp cận một số địa điểm nổi tiếng như Thiên An Môn, Tiền Môn (前门), Đại lễ đường Nhân dân, Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc, bia Kỷ niệm Anh hùng Nhân dân, và Lăng Mao Trạch Đông. Di Hòa Viên và Viên Minh Viên đều nằm ở phần phía tây của thành phố; trong đó Di Hòa Viên là một di sản thế giới của UNESCO. Trong số các địa điểm tôn giáo được biết đến nhiều nhất trong thành phố, có Thiên Đàn nằm ở đông nam, và đây cũng là một di sản thế giới của UNESCO, đây là nơi các hoàng đế Nhà Minh và Nhà Thanh đến để thực hiện các buổi lễ hàng năm nhằm cầu thần linh phù hộ cho mùa màng bội thu. Ở phía bắc của thành phố là Địa Đàn, trong khi Nhật Đàn và Nguyệt Đàn nằm tương ứng ở phía đông và tây của khu vực đô thị. Các ngôi đền chùa nổi tiếng khác tại Bắc Kinh gồm có: miếu Đông Nhạc Bắc Kinh (东岳庙), chùa Đàm Chá (潭柘寺), chùa Diệu Ứng (妙应寺), Bạch Vân Quán, Ung Hòa cung, chùa Pháp Nguyên (法源寺), chùa Vạn Thọ (万寿寺), chùa Đại Chung (大钟寺;). Thành phố cũng có Bắc Kinh Khổng Miếu và Bắc Kinh Quốc Tử Giám. Nhà thờ Tuyên Vũ Môn (宣武门天主堂) được xây dựng vào năm 1605 và là nhà hờ Thiên chúa giáo cổ nhất tại Bắc Kinh. Thánh đường Ngưu Nhai Lễ (牛街礼拜寺) là thánh đường Hồi giáo cổ nhất tại Bắc Kinh, với lịch sử kéo dài trên một nghìn năm. Bắc Kinh có một số ngôi tháp được bảo quản tốt và các tháp bằng đá, như tháp Thiên Ninh tự (天宁寺塔), được xây từ thời Liêu trong khoảng năm 1100 đến năm 1120, và Tháp Từ Thọ tự (慈寿寺塔), được xây dựng năm 1576 vào thời Minh. Các cầu đá đáng chú ý mang tính lịch sử gồm cầu Lư Câu từ thế kỷ XII, cầu Bát Lý (八里桥) từ thế kỷ XVII, cầu Ngọc Đới (玉带桥) từ thế kỷ XVIII. Đài quan sát cổ Bắc Kinh trưng bày các quả cầu tiền kính thiên văn có niên đại từ thời Minh và Thanh. Hương Sơn là một công viên công cộng nổi tiếng, nó có cả các khu phong cảnh tự nhiên cũng như các di tích truyền thống và văn hóa. Thực vật viên Bắc Kinh trưng bày trên 6.000 loài thực vật, bao gồm một loạt các loại cây thân gỗ, cây bụi và cây hoa, và một vườn mẫu đơn rộng lớn. Các công viên Đào Nhiên Đình (陶然亭), Long Đàm hồ (龙潭湖), Triều Dương (朝阳), Hải Điến (海淀), Mi Lộc Uyển (麋鹿苑) và Tử Trúc Viện (紫竹院) là một vài trong số các công viên tiêu khiển nổi tiếng của thành phố. Động vật viên Bắc Kinh là một trung tâm nghiên cứu động vật, nó cũng gồm có các loài động vật quý hiếm từ các châu lục khác nhau, bao gồm cả gấu trúc lớn. Có hơn một trăm bảo tàng tại Bắc Kinh. Ngoài Bảo tàng Cố cung tại Tử Cấm thành và Bảo tàng Quốc gia Trung Quốc, các bảo tàng lớn khác gồm: Bảo tàng Mỹ thuật Trung Quốc (中国美术馆), Bảo tàng Thủ đô (首都博物馆), Bảo tàng Nghệ thuật Bắc Kinh, Bảo tàng Quân sự Cách mạng Nhân dân Trung Quốc (中国人民革命军事博物馆), Bảo tàng Địa chất Trung Quốc (中国地质博物馆), Bảo tàng Tự nhiên Bắc Kinh (北京自然博物馆) và Bảo tàng Cổ động vật Trung Quốc (中国古动物馆). Ở khu ngoại ô Xương Bình của Bắc Kinh có Minh Thập Tam lăng, là nơi chôn cất mười ba vị hoàng đế nhà Minh xa hoa và tinh tế, chúng là một phần của quần thể Lăng tẩm hoàng gia Minh-Thanh- một di sản thế giới của UNESCO. Di tích khảo cổ người vượn Bắc Kinh tại Chu Khẩu Điếm là một di sản thế giới khác nằm trong địa giới của thành phố, tại đó đã có nhiều phát hiện, trong số đó có một trong những mẫu vật đầu tiên của người đứng thẳng ("Homo erectus") và một bộ sưu tập xương cốt của loài linh cẩu khổng lồ "Pachycrocuta brevirostris". Tại Bắc Kinh cũng có một số đoạn Vạn Lý Trường Thành- một di sản thế giới của UNESCO, những điểm được biết đến nhiều nhất trong số đó là Bát Đạt Lĩnh, Kim Sơn Lĩnh (金山岭), Tư Mã Đài (司马台) và Mộ Điền Dục (慕田峪). Kiến trúc. Trong nội thị Bắc Kinh có ba phong cách kiến trúc thống trị các công trình xây dựng. Trước tiên là kiến trúc phong kiến Trung Hoa, có lẽ minh họa tốt nhất là Thiên An Môn, Tử Cấm thành, Thái Miếu và Thiên Đàn. Tiếp theo, là phong cách kiến trúc mà đôi khi được gọi là "Trung-Xô", với các công trình kiến trúc có khuynh hướng giống như hình hộp, được xây dựng trong thời kỳ từ thập niên 1950 đến thập niên 1970. Cuối cùng, thành phố có nhiều mẫu kiến trúc hiện dại, đáng chú ý nhất là tại khu Trung tâm Thương vụ Bắc Kinh và phố Tài chính Bắc Kinh. Bắc Kinh cũng nổi tiếng nhờ các tứ hợp viện (四合院), một kiểu dinh thự gồm các khối nhà bao quanh một khoảnh sân trong. Trong số chúng, có thể kể đến Cung Vương Phủ và Tống Khánh Linh cố cư (宋庆龄故居). Những sân trong này thường được kết nối bằng các ngõ nhỏ được gọi là hồ đồng (胡同). Các "hồ đồng" thường thẳng và chạy từ đông sang tây để các ô cửa phải đối mặt với hướng bắc và nam nhằm có Phong thủy tốt. Chúng khác nhau về chiều rộng; một số rất hẹp đến nỗi chỉ đủ cho một vài người đi bộ có thể qua cùng một lúc. Đã từng phổ biến khắp nơi tại Bắc Kinh, các "tứ hợp viện" và "hồ đồng" đang nhanh chóng biến mất, khi chúng bị các khu nhà cao tầng thay thế. Các cư dân trong các "hồ đồng" được quyền đến sống tại các tòa nhà mới tại những căn hộ có kích cỡ tối thiểu là tương đương nơi ở trước đây của họ. Tuy nhiên, nhiều người phàn nàn rằng không thể thay thế ý nghĩa truyền thống của lối sống cộng đồng và đường phố của các "hồ đồng", Tôn giáo. Các di sản tôn giáo của Bắc Kinh rất phong phú và đa dạng như tôn giáo dân gian Trung Quốc, Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo, Hồi giáo và Thiên chúa giáo đều có sự hiện diện lịch sử quan trọng trong thành phố. Là thủ đô quốc gia, thành phố cũng tổ chức Cơ quan tôn giáo nhà nước và các tổ chức bảo trợ nhà nước khác nhau của các tôn giáo hàng đầu. Trong những thập kỷ gần đây, cư dân nước ngoài đã đưa các tôn giáo khác vào thành phố. Theo Wang Zhiyun của Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc năm 2010, có 2,2 triệu Phật tử trong thành phố, bằng 11,2% tổng dân số. Theo khảo sát xã hội chung của Trung Quốc năm 2009, Kitô hữu chiếm 0,78% dân số thành phố. Theo một khảo sát năm 2010, người Hồi giáo chiếm 1,76% dân số Bắc Kinh. Tôn giáo dân gian Trung Hoa và Đạo giáo. Bắc Kinh có nhiều đền thờ dành riêng cho các vị thần tôn giáo và cộng đồng dân gian, nhiều trong số đó đang được xây dựng lại hoặc tân trang lại vào những năm 2000 và 2010. Sự thờ cúng hàng năm cho Thần Thiên (祭天 "jìtiān") tại Đền Thiên Đàn đã được các nhóm Nho giáo phục hồi lại vào những năm 2010. Có những ngôi đền dành riêng cho việc thờ phụng Nữ thần (娘娘 "Niángniáng") trong thành phố, một trong số đó gần Làng Olympic, và chúng xoay quanh một trung tâm giáo phái lớn ở Núi Miaofeng. Ngoài ra còn có nhiều ngôi đền được thánh hiến cho Long vương (龙神 "Lóngshén"), cho Thầy thuốc ("Yàowáng"), cho Quan Vũ (关 "Guāndì"), cho Thần lửa (火神 "Huǒshén"), cho Thần Tài ("Cáishén"), đền thờ của Thành hoàng ("Chénghuángshén"), và ít nhất một ngôi đền được thánh hiến cho vị Hoàng Đế của nhóm sao Bắc Đẩu (黄帝 "Xuānyuán Huángdì") ở quận Pinggu. Nhiều ngôi đền trong số này được quản lý bởi Hiệp hội Đạo giáo Bắc Kinh, chẳng hạn như Đền Lửa của Hồ Shicha, trong khi nhiều ngôi đền khác thì không và được quản lý bởi các Ủy ban và người dân địa phương nổi tiếng. Một ngôi đền lớn của Xuanyuan Huangdi sẽ được xây dựng tại Bình Cốc (có thể là một bản mở rộng của ngôi đền đã tồn tại) vào năm 2020, và ngôi đền sẽ có một bức tượng của vị thần sẽ nằm trong số những vị thần cao nhất thế giới. Hiệp hội Đạo giáo quốc gia Trung Quốc và Cao đẳng Đạo giáo Trung Quốc có trụ sở tại Bạch Vân Quán của Toàn Chân đạo, được thành lập năm 741 và được xây dựng lại nhiều lần. Đền Dongyue Bắc Kinh bên ngoài Chaoyangmen là ngôi đền lớn nhất của Đạo giáo Trịnh Nghi trong thành phố. Hiệp hội Đạo giáo Bắc Kinh địa phương có trụ sở tại Đền Lüzu gần Fuxingmen. Phật giáo. 11% dân số Bắc Kinh theo Phật giáo. Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, cơ quan giám sát của nhà nước giám sát tất cả các tổ chức Phật giáo ở Trung Quốc đại lục, có trụ sở tại chùa Guangji, một ngôi chùa được thành lập hơn 800 năm trước dưới thời nhà Kim (1115–1234) ngày nay là Fuchengmennei. Hiệp hội Phật giáo Bắc Kinh cùng với Dàn hợp xướng và dàn nhạc Phật giáo có trụ sở tại chùa Guanghua, có từ thời nhà Nguyên hơn 700 năm trước. Học viện Phật giáo Trung Quốc và thư viện của nó được đặt trong chùa Fayuan gần Caishikou. Đền Fayuan, có từ thời nhà Đường cách đây 1300 năm, là ngôi đền cổ nhất ở thành thị Bắc Kinh. Đền Tongjiao bên trong Dongzhimen là ni viện Phật giáo duy nhất của thành phố. Đền Tây Vàng ban đầu có từ thời nhà Liêu. Năm 1651, ngôi đền được Hoàng đế nhà Thanh Thuận Trị ủy nhiệm để tổ chức chuyến viếng thăm của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm tới Bắc Kinh. Kể từ đó, ngôi đền này đã tổ chức Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 13 cũng như các Lạt ma thứ sáu, thứ chín và thứ mười. Ngôi chùa Phật giáo Tây Tạng lớn nhất ở Bắc Kinh là chùa Yonghe, được Hoàng đế Càn Long ra lệnh vào năm 1744 để làm nơi cư trú và nghiên cứu cho vị thầy Phật giáo Rölpé Dorjé của ông Changkya thứ ba (hay Đức Phật sống ở Nội Mông). Đền Yonghe được đặt tên như vậy vì đây là nơi ở thời thơ ấu của Hoàng đế Ung Chính, và vẫn giữ những viên ngói lưu y dành riêng cho các cung điện hoàng gia. Đền Lingguang của Badachu ở Western Hills cũng có từ thời nhà Đường. Chùa Zhaoxian của ngôi đền được xây dựng lần đầu tiên vào năm 1071 trong thời Liêu để giữ một di tích răng của Đức Phật. Ngôi chùa đã bị phá hủy trong phong trào Nghĩa Hòa Đoàn và chiếc răng được phát hiện từ nền tảng của nó. Một ngôi chùa mới được xây dựng vào năm 1964. Sáu ngôi chùa nói trên: Guangji, Guanghua, Tongjiao, West Yellow, Yonghe và Lingguang đã được chỉ định là chùa Phật giáo quan trọng quốc gia ở khu vực Hán Trung. Ngoài ra, những ngôi đền đáng chú ý khác ở Bắc Kinh bao gồm Đền Tanzhe (được thành lập vào thời nhà Tấn (265–420) là lâu đời nhất trong đô thị), Đền Tianning (chùa cổ nhất trong thành phố), Đền Miaoying (nổi tiếng với thời kỳ trắng của Yuan dagoba), Đền Wanshou (nơi có Bảo tàng Nghệ thuật Bắc Kinh) và Đền Big Bell. Hồi giáo. Bắc Kinh có khoảng 70 nhà thờ Hồi giáo được Hiệp hội Hồi giáo Trung Quốc công nhận, có trụ sở được đặt bên cạnh Nhà thờ Hồi giáo Niujie, nhà thờ Hồi giáo lâu đời nhất và nổi tiếng nhất trong thành phố. Nhà thờ Hồi giáo Niujie được thành lập vào năm 996 dưới thời nhà Liêu và thường xuyên được các chức sắc Hồi giáo ghé thăm. Các nhà thờ Hồi giáo đáng chú ý khác trong thành phố cổ bao gồm Nhà thờ Hồi giáo Dongsi, được thành lập vào năm 1346; Nhà thờ Hồi giáo Huashi, được thành lập vào năm 1415; Nhà thờ Hồi giáo Nan Douya, gần Triều Dương; Nhà thờ Hồi giáo đường Jinshifang, ở quận Xicheng; và nhà thờ Hồi giáo Dongzhimen. Có những nhà thờ Hồi giáo lớn trong các cộng đồng Hồi giáo xa xôi ở Hải Điến, Madian, Thông Châu, Xương Bình, Changying, Shijingshan và Mật Vân. Viện Hồi giáo Trung Quốc nằm trong khu phố Niujie ở quận Tây Thành. Thiên Chúa giáo. Công giáo. Năm 1289, John xứ Montecorvino đến Bắc Kinh với tư cách là một nhà truyền giáo của dòng Phanxicô với lệnh của Giáo hoàng. Sau khi gặp gỡ và nhận được sự hỗ trợ của Hốt Tất Liệt vào năm 1293, ông đã xây dựng nhà thờ Công giáo đầu tiên ở Bắc Kinh vào năm 1305. Hiệp hội Công giáo Yêu nước Trung Quốc (CPCA), có trụ sở tại Hậu Hải là cơ quan giám sát của chính phủ đối với người Công giáo ở Trung Quốc đại lục. Các nhà thờ Công giáo đáng chú ý ở Bắc Kinh bao gồm: Tin Lành. Các nhà thờ Tin lành đầu tiên ở Bắc Kinh được thành lập bởi các nhà truyền giáo Anh và Mỹ vào nửa sau của thế kỷ 19. Các nhà truyền giáo Tin lành cũng đã mở các trường học, trường đại học và bệnh viện đã trở thành các tổ chức dân sự quan trọng. Hầu hết các nhà thờ Tin lành của Bắc Kinh đã bị phá hủy trong phong trào Nghĩa Hòa Đoàn và sau đó được xây dựng lại. Năm 1958, 64 nhà thờ Tin lành trong thành phố được tổ chức lại thành bốn và được nhà nước giám sát thông qua Phong trào Yêu nước Ba Tự. Chính thống phương Đông. Có một số lượng đáng kể các Kitô hữu Chính thống ở Bắc Kinh. Chính thống đã đến Bắc Kinh cùng với các tù nhân Nga từ các cuộc xung đột Albazino trong thế kỷ 17. Năm 1956, Viktor, giám mục Bắc Kinh trở về Liên Xô, và đại sứ quán Liên Xô đã tiếp quản nhà thờ cũ và phá hủy nó. Năm 2007, đại sứ quán Nga đã xây dựng lại một nhà thờ mới trong khu vườn của mình để phục vụ các Kitô hữu Chính thống Nga ở Bắc Kinh. Truyền thông. Tivi và radio. Chương trình truyền hình Bắc Kinh phát sóng trên các kênh từ 1 đến 10, và Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc, mạng lưới truyền hình lớn nhất Trung Quốc, duy trì trụ sở tại Bắc Kinh. Ba đài phát thanh có các chương trình bằng tiếng Anh: Hit FM trên FM 88.7, FM dễ dàng bởi Đài Phát thanh Quốc tế Trung Quốc trên FM 91.5, và Radio 774 mới ra mắt vào AM 774. Các Đài Phát thanh Bắc Kinh là gia đình các đài phát thanh phục vụ thành phố. Báo chí. "Beijing Evening News" ("Beijing Wanbao", 北京 晚报), bao gồm tin tức về Bắc Kinh ở Trung Quốc, được phân phát mỗi chiều. Các tờ báo khác bao gồm "Beijing Daily", "Beijing News" ("Xin Jing Bao", 新京报), "Beijing Star Daily", "Beijing Morning News", và "Beijing Youth News" ("Beijing Qingnian Bao"), cũng như tuần báo tiếng Anh "Beijing Weekend" and "Beijing Today". Báo "Nhân Dân nhật báo", "Thời báo Hoàn Cầu" và tờ "China Daily" (tiếng Anh) cũng được xuất bản ở Bắc Kinh. Các ấn phẩm chủ yếu dành cho du khách quốc tế và cộng đồng người nước ngoài bao gồm các tạp chí bằng tiếng Anh "Time Out Beijing", "City Weekend", "Bắc Kinh Tháng này", "Nói về Bắc Kinh", "Đó là Bắc Kinh" và "The Beijinger". Thể thao. Sự kiện. Bắc Kinh đã tổ chức rất nhiều sự kiện thể thao quốc tế, đáng chú ý nhất là Thế vận hội Mùa hè 2008 và Paralympic cùng năm. Các sự kiện quốc tế khác được tổ chức tại Bắc Kinh bao gồm "Universiade" 2001 và "Asian Games" 1990. Các cuộc thi đấu thể thao quốc tế đơn bao gồm "Marathon" Bắc Kinh (hàng năm từ năm 1981), giải "tennis" Trung Quốc mở rộng (1993–97, hàng năm từ năm 2004), ISU "Grand Prix Cup" trượt băng Trung Quốc (2003, 2004, 2005, 2008, 2009 and 2010)), WPBSA Trung Quốc mở rộng cho "Snooker" (từ năm 2005), Liên đoàn Cycliste Quốc tế Tour của Bắc Kinh (từ năm 2011), Giải vô địch Bóng bàn Thế giới năm 1961, Giải vô địch thế giới cầu lông IBF năm 1987, "Asian Cup" 2004 AFC, và Giải "Barclays Asia Trophy" 2009 (bóng đá). Bắc Kinh đã tổ chức Giải vô địch thế giới IAAF năm 2015 về Điền kinh. Trung tâm LeSports Bắc Kinh sẽ là một trong những địa điểm chính cho giải đấu bóng rổ "World Cup" 2019 FIBA. Thành phố này đã tổ chức Đại hội Thể thao toàn quốc lần thứ hai năm 1914 và là thành phố đầu tiên lập kỉ lục đăng cai bốn kì đại hội này của Trung Quốc năm 1959, 1965, 1975, 1979, và đồng tổ chức năm 1993 với Tứ Xuyên và Thanh Đảo. Bắc Kinh cũng đã tổ chức khai mạc các cuộc Triển lãm Nông Dân Quốc gia năm 1988 và Thế vận hội thiểu số Quốc gia lần thứ 6 năm 1999. Vào tháng 11 năm 2013, Bắc Kinh đã xin đăng cai Thế vận hội mùa đông năm 2022. Vào ngày 31 tháng 7 năm 2015, Ủy ban Olympic Quốc tế đã chính thức trao quyền tổ chức Thế vận hội mùa đông năm 2022 cho thành phố. Các công trình thể thao. Các địa điểm thể thao chính trong thành phố bao gồm Sân vận động Quốc gia Bắc Kinh, còn được gọi là sân "Tổ Chim", trung tâm thể thao dưới nước quốc gia Bắc Kinh, còn được gọi là "Water Cube", sân vận động trong nhà quốc gia Bắc Kinh. Tất cả những công trình này đều nằm trong công viên rừng Olympic ở phía bắc của trung tâm thành phố; Trung tâm MasterCard ở Wukesong phía tây của trung tâm thành phố; Sân vận động Công nhân và sân trong nhà Công nhân ở Sanlitun ngay phía đông của trung tâm thành phố và sân trong nhà Thủ đô ở Baishiqiao, phía đông bắc của trung tâm thành phố. Ngoài ra, nhiều trường đại học trong thành phố có cơ sở thể thao riêng của mình. Giao thông. Đường sắt. Bắc Kinh là một trong các đầu mối lớn nhất trong mạng lưới đường sắt Trung Quốc. Tám tuyến đường sắt tỏa ra từ Bắc Kinh đến: Thượng Hải (tuyến Kinh-Hỗ), Quảng Châu (tuyến Kinh-Quảng), Cửu Long thuộc Hồng Kông (tuyến Kinh-Cửu), Cáp Nhĩ Tân (tuyến Kinh-Cáp), Bao Đầu (tuyến Kinh-Bao), Tần Hoàng Đảo (tuyến Kinh-Tần), Thừa Đức (tuyến Kinh-Thừa) và Nguyên Bình (Kinh-Nguyên). Thêm vào đó, Bắc Kinh còn là điểm đầu của các tuyến đường sắt cao tốc: đoạn Bắc Kinh-Thạch Gia Trang thông xe năm 2012 của đường sắt cao tốc Bắc Kinh – Quảng Châu – Thâm Quyến – Hồng Kông, đường sắt cao tốc Bắc Kinh – Thượng Hải thông xe vào năm 2011, đường sắt liên thành Bắc Kinh – Thiên Tân thông xe vào năm 2008. Các ga đường sắt chính của Bắc Kinh là ga Bắc Kinh – mở cửa từ năm 1959; ga Bắc Kinh Tây – mở cửa từ năm 1996; và ga Bắc Kinh Nam – được xây dựng lại thành một ga đường sắt cao tốc vào năm 2008. Đường bộ. Bắc Kinh được kết nối bằng đường bộ đến mọi nơi tại Trung Quốc, 9 tuyến đường cao tốc quốc gia và 11 tuyến quốc lộ của Trung Quốc đi qua Bắc Kinh. Giao thông đô thị Bắc Kinh dựa vào 5 tuyến đường vành đai đồng tâm bao quanh thành phố, trong đó khu vực Tử Cấm thành được xác định là tâm điểm của các tuyến đường vành đai. Các tuyến đường vành đai của Bắc Kinh có hình dạng giống với hình chữ nhật hơn là vòng tròn. Không có đường vanh đai 1 chính thức, đường vành đai 2 nằm trong nội thị. Các tuyến đường vành đai có khuynh hướng trở nên tương như như đường cao tốc khi chúng mở rộng ra phía ngoài, trong đó đường vành đai 5 và đường vành đai 6 hoàn toàn là đường cao tốc quốc gia, chỉ có giao điểm với các đường khác. Hệ thống đường sá tương đối kém phát triển đã làm trầm trọng thêm vấn đề giao thông của Bắc Kinh. Bố trí đô thị của Bắc Kinh cũng góp phần vào điều này. Các nhà đương cục đã cho đưa vào hoạt động một vài làn đường xe buýt, chỉ có xe buýt công cộng mới có thể sử dụng chúng vào các giờ cao điểm. Đầu năm 2010, Bắc Kinh có 4 triệu ô tô đã đăng ký. Đến cuối năm 2010, chính quyền dự báo con số sẽ lên đến 5 triệu. Năm 2010, số xe đăng ký mới trung bình theo tuần tại Bắc Kinh là 15.500. Taxi. Taxi có đồng hồ đo ở Bắc Kinh bắt đầu từ ¥ 13 cho 3 km đầu tiên (1,9 mi), ¥ 2,3 Renminbi cho mỗi 1 km thêm (0,62 mi) và 1 cho mỗi lần đi xe, không tính phí chạy không tải là ¥ 2,3 (¥ 4,6 trong thời gian gấp rút giờ 7 giờ 9 giờ sáng và 5 giờ chiều 7 giờ) trong 5 phút đứng hoặc chạy ở tốc độ thấp hơn 12 km mỗi giờ (7,5 dặm / giờ). Hầu hết các xe taxi thuộc dạng "Hyundai Elantras", "Hyundai Sonatas", "Peugeots", "Citroëns" và "Volkswagen Jettas". Sau 15 km (9,3 mi), giá vé cơ sở tăng 50% (nhưng chỉ được áp dụng cho phần trên khoảng cách đó). Các công ty khác nhau có sự kết hợp màu sắc đặc biệt được sơn trên xe của họ. Những chiếc taxi đã đăng ký thường có màu nâu vàng như màu cơ bản, với một màu khác của màu xanh Phổ, màu xanh lá cây, màu trắng, màu nâu, màu tím hoặc màu xanh biển. Từ 11 giờ tối đến 5 giờ sáng, cũng có mức tăng phí 20%. Nhận chở trên 15 km (9 mi) và từ 23:00 đến 06:00 phải chịu cả hai khoản phí, với tổng mức tăng 80%. Phí cầu đường trong chuyến đi nên được khách hàng chi trả và chi phí cho các chuyến đi vượt quá giới hạn thành phố Bắc Kinh nên được thương lượng với tài xế. Chi phí taxi không đăng ký cũng có thể thương lượng với tài xế. Đường không. Sân bay chính của Bắc Kinh là Sân bay quốc tế Thủ đô Bắc Kinh (IATA: PEK;), cách trung tâm thành phố về phía đông bắc. Sân bay này hiện đang là sân bay bận rộn thứ hai trên thế giới (sau sân bay quốc tế Hartsfield-Jackson Atlanta) và là sân bay bận rộn nhất châu Á. Sau khi được nâng cấp để phục vụ cho Thế vận hội Mùa hè 2008, sân bay hiện có ba nhà ga, trong đó Nhà ga 3 là một trong số các nhà ga sân bay lớn nhất thế giới. Hầu hết các chuyến bay nội địa và gần như tất cả các chuyến bay quốc tế đến và khởi hành từ sân bay này. Đây là trụ sở chính của những hãng hàng không như "Air China", "China Southern Airlines" và "Hainan Airlines". Sân bay liên kết Bắc Kinh với hầu hết các thành phố khác của Trung Quốc với dịch vụ vận chuyển hàng không thông thường. Đường cao tốc Sân bay kết nối sân bay đến trung tâm Bắc Kinh; nó là một khoảng 40 phút lái xe từ trung tâm thành phố trong điều kiện giao thông tốt. Trước Thế vận hội 2008, Đường cao tốc Sân bay 2 được xây dựng đến sân bay, cũng như hệ thống đường sắt nhẹ, hiện kết nối với tàu điện ngầm Bắc Kinh. Các sân bay khác trong thành phố bao gồm Liangxiang, Nam Uyển, Xijiao, Shahe và Badaling. Các sân bay này chủ yếu phục vụ cho mục đích quân sự và ít được biết đến với công chúng. Sân bay Nam Uyển Bắc Kinh chỉ là trung tâm của một hãng hàng không duy nhất. Sân bay quốc tế thứ hai, được gọi là Sân bay Thủ Đô Bắc Kinh thứ hai, hiện đang được xây dựng tại quận Đại Hưng, và dự kiến ​​sẽ mở cửa vào tháng 9 năm 2018. Kể từ ngày 1 tháng 1 năm 2013, khách du lịch từ 45 quốc gia được phép ở lại Bắc Kinh trong vòng 72 giờ. 45 quốc gia bao gồm Singapore, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Canada, tất cả các nước EU và EEA (trừ Na Uy và Liechtenstein), Thụy Sĩ, Brazil, Argentina và Úc. Chương trình này có lợi cho người đi lại và đi công tác với 72 giờ được tính bắt đầu từ khi khách hàng nhận được giấy phép cư trú quá cảnh của họ thay vì thời gian đến máy bay của họ. Khách du lịch nước ngoài không được rời khỏi Bắc Kinh để đến các thành phố khác của Trung Quốc trong suốt 72 giờ. Tàu điện ngầm. Tàu điện ngầm Bắc Kinh mở cửa vào năm 1971, và chỉ có hai tuyến cho đến khi tuyến 13 bắt đầu hoạt động vào năm 2002. Từ đó, hệ thống tàu điện ngầm đã được mở rộng thành 22 tuyến. Tuyến 1 và tuyến Bát Thông, băng qua hầu như toàn bộ khu vực đô thị của Bắc Kinh từ đông sang tây. Tuyến 4 và tuyến 5 là hai tuyến bắc-nam. Thành phố có gần 700 tuyến xe buýt và xe ô tô điện, bao gồm ba tuyến xe buýt nhanh. Xe đạp. Bắc Kinh từ lâu đã nổi tiếng với số lượng xe đạp trên các đường phố. Tuy vậy, với sự gia tăng của số lượng ô tô, việc sử dụng xe đạp đã suy giảm, song vẫn là một hình thức giao thông địa phương quan trọng. Có thể trông thấy một lượng lớn người đi xe đạp trên các đường phố Bắc Kinh, và hầu hết các tuyến đường chính đều có làn riêng cho xe đạp. Bắc Kinh có địa hình tương đối bằng phẳng, khiến cho việc đi xe đạp trở nên thuận tiện. Sự gia tăng việc sử dụng xe đạp điện và xe máy điện, có tốc độ tương đương và sử dụng chung một làn đường, có thể đem đến sự hồi sinh cho xe hai bánh tại Bắc Kinh. Do ùn tắc ngày càng tăng, nhà đương cục đã hơn một lần biểu thị rằng họ muốn khuyến khích đi xe đạp, song không rõ liệu nó có tác động trên quy mô đáng kể hay không. Thành phố kết nghĩa. Bắc Kinh có nhiều thành phố kết nghĩa trên khắp thế giới, nhiều thành phố trong số này là thủ đô của các quốc gia tương ứng:
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Hải Nam (chữ Hán: 海南, bính âm: Hǎinán) là tỉnh cực nam của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa. Năm 2018, Hải Nam là tỉnh đông thứ hai mươi tám về số dân, đứng thứ hai mươi tám về kinh tế Trung Quốc với 9,1 triệu dân, tương đương với Honduras và GDP danh nghĩa đạt 483,2 tỉ NDT (73 tỉ USD) tương ứng với Myanmar. Hải Nam có chỉ số GDP đầu người đứng thứ mười bảy, đạt 51.955 NDT (tương ứng 7.851 USD). Tỉnh gồm nhiều đảo, trong đó đảo lớn nhất được gọi là đảo Hải Nam. Tỉnh lỵ là thành phố Hải Khẩu. Đảo Hải Nam là đảo lớn nhất dưới quyền kiểm soát của Trung Quốc (đảo Đài Loan lớn hơn nhưng nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc). Hải Nam có vị trí nằm ở Biển Đông, ngoài hải khơi và ngăn cách với bán đảo Lôi Châu của tỉnh Quảng Đông tại phía bắc bởi eo biển Quỳnh Châu. Về phía tây của đảo Hải Nam là vịnh Bắc Bộ. Ngũ Chỉ Sơn (1.876 m) là ngọn núi cao nhất đảo. Từ năm 1988, Hải Nam tách khỏi tỉnh Quảng Đông, trở thành tỉnh riêng, đồng thời là một đặc khu kinh tế của Trung Quốc. Từ nguyên. Tên gọi "Hải Nam" (海南) thể hiện vị trí của tỉnh đảo nằm ở phía nam eo biển Quỳnh Châu, trong khi bán đảo Lôi Châu cũng được gọi là Hải Bắc (海北) do nó nằm ở phía bắc của eo biển. Đảo Hải Nam từng được gọi là Châu Nhai (珠崖), Quỳnh Nhai (琼崖), và Quỳnh Châu (瓊州). Hai tên gọi sau là nguồn gốc của tên tắt của tỉnh, "Quỳnh" (琼/瓊), ám chỉ đến việc bờ biển phía bắc của đảo từng có nhiều ngọc trai. Lịch sử. Đảo Hải Nam đi vào trong lịch sử Trung Quốc từ năm Nguyên Phong thứ nhất (110 TCN), khi Tây Hán lập nên Châu Nhai quận (nay là Quỳnh Sơn) và Đam Nhĩ quận trên đảo Hải Nam sau khi Tướng Lộ Bác Đức (路博德) đến đảo. Năm Thủy Nguyên thứ 5 thời Hán Chiêu Đế (82 TCN), Đam Nhĩ quận được sáp nhập vào Châu Nhai quận. Những năm cuối thời Tây Hán, triều đình đã bỏ Châu Nhai quận, thực thi thống trị từ xa đối với Hải Nam. Thời Đông Hán, vào năm Kiến Vũ thứ 15 (43 TCN), Hán Quang Vũ Đế đã phái Mật Ba tướng quân Mã Viện đi bình định Giao Chỉ, đặt Châu Nhai huyện. Thời Tam Quốc, trong khoảng những năm Xích Ô (238-251), Đông Ngô đã thiết lập Châu Nhai quận (trị sở nay ở Từ Văn, Trạm Giang). Năm Thái Khang thứ nhất (280) thời Tấn Vũ Đế, sau khi xem xét, đã hợp nhất Châu Nhai quận vào Hợp Phố quận. Đến thời Nam-Bắc triều, năm Nguyên Gia thứ 8 (431) thời Lưu Tống Văn Đế, lại phục lập Châu Nhai quận, trị sở đặt ở Từ Văn song không lâu sau lại phế bỏ. Đến những năm Đại Đồng (535-546) thời Lương Vũ Đế, phế Đam Nhĩ quận để thiết lập Nhai châu, thống trị từ Quảng châu. Thời nhà Tùy, triều đình thiết lập hai quận Lâm Chấn và Châu Nhai trên đảo Hải Nam. Năm Trinh Quán thứ 5 (631) thời Đường Thái Tông, triều đình thêm "Quỳnh Châu" vào hệ thống hành chính. Thời Nhà Minh, Quỳnh Châu phủ lệ thuộc vào tỉnh Quảng Đông, trị sở đặt tại huyện Quỳnh Sơn (nay là khu vực đô thị của Quỳnh Sơn), quản lý toàn bộ hòn đảo. Thời Nhà Thanh, về cơ bản theo chế độ hành chính của Nhà Minh, đến cuối thời Thanh, đảo Hải Nam có 1 phủ, 2 châu và 11 huyện. Năm Quang Tự thứ 31 (1905), Nhai Châu được thăng thành một châu trực thuộc, quản lý 4 huyện. Thời kỳ đầu Trung Hoa Dân Quốc, Hải Nam đã từng có cơ hội trở thành một tỉnh riêng biệt. Đầu tiên, Hồ Hán Dân và Tôn Khoa đề nghị thiết lập khu đặc biệt Quỳnh Nhai. Đến ngày 7 tháng 12 năm 1931, nghị quyết hội nghị Quốc vụ của chính phủ Dân Quốc đã quyết định toàn đảo là một đặc khu hành chính, trực thuộc chính phủ quốc dân. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tháng 8 năm 1947, hội nghị Hành chính viện đã thông qua việc nâng Hải Nam thành một tỉnh, lệ thuộc Hành chính viện. Đến tháng 4 năm 1949, Trung Hoa Dân Quốc chính thức thành lập chính quyền tỉnh Hải Nam, phái Trần Tế Đường (陳濟棠) đi làm tỉnh trưởng. Trong các thập niên 1920 và 1930, Hải Nam là một điểm nóng của hoạt động cộng sản, đặc biệt là sau cuộc đàn áp của chính phủ tại Thượng Hải, Trung Hoa Dân Quốc vào năm 1927 đã tấn công và khiến lực lượng cộng sản phải lui vào hoạt động bí mật. Dưới sự lãnh đạo của Phùng Bạch Câu (馮白駒), lực lượng cộng sản và người Lê bản địa đã thực hiện một cuộc chiến đấu mãnh liệt theo kiểu du kích chống lại cuộc xâm lược của Nhật Bản (1939–45). Sau khi Nhật Bản đầu hàng Đồng Minh, Trung Hoa Dân Quốc tiếp quản đảo Hải Nam. Vào thời điểm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố thành lập, đảo Hải Nam vẫn nằm nằm trong tay quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Từ tháng 3 đến tháng 5 năm 1950, xảy ra chiến dịch đảo Hải Nam khi quân cộng sản tiến hành đánh chiếm hòn đảo. Ngày 23 tháng 4, quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã chiếm được Hải Khẩu. Sau đó, quân Giải phóng tiếp tục vượt biển cùng quân của Phùng Bạch Câu tiến đánh tàn dư của Quốc quân, chiếm được các khu vực trọng yếu như Du Lâm, Tam Á. Ngày 1 tháng 5 năm 1950, Hải Nam hoàn toàn nằm dưới quyền kiểm soát của lực lượng cộng sản Trung Quốc, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa sau đó lại hạ cấp Hải Nam thành công thự khu hành chính (海南行政区公署), sáp nhập vào tỉnh Quảng Đông. Ngày 1 tháng 10 năm 1984, hòn đảo trở thành Đặc khu Hải Nam (海南行政区) và hoàn toàn tách khỏi tỉnh Quảng Đông 4 năm sau đó. Hải Nam được chính phủ Trung Quốc quy định là một "đặc khu kinh tế" nhằm tăng cường đầu tư vào đảo. Ngày 21 tháng 6 năm 2012, Quốc vụ viện Trung Quốc đã chính thức phê chuẩn thành lập thành phố cấp địa khu Tam Sa trực thuộc tỉnh Hải Nam để quản lý các hòn đảo tranh chấp trên Biển Đông. Địa lý. Đảo Hải Nam dài và rộng . Hải Nam tách biệt với bán đảo Lôi Châu tại đại lục Trung Quốc qua eo biển Quỳnh Châu, đảo Hải Nam là hòn đảo lớn nhất nằm dưới quyền kiểm soát của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Diện tích của đảo Hải Nam là "", chiếm 99,7% diện tích toàn tỉnh) và gần tương đương với Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam. Ở phía tây đảo Hải Nam là vịnh Bắc Bộ. Hải Nam là tỉnh cực nam của Trung Quốc, nằm ở phía nam của chí tuyến bắc, lượng nhiệt và lượng mưa phong phú. Ngũ Chỉ Sơn (1.840 m) là núi cao nhất Hải Nam. Các đỉnh núi cao trên 1.500 mét khác tại Hải Nam là Anh Ca lĩnh (鹦哥岭), Nga Tông lĩnh (俄鬃岭), Hầu Mi lĩnh (猴猕岭), Nhã Gia đại lĩnh (雅加大岭), Điếu La sơn (吊罗山). Có thể phân các đồi núi tại Hải Nam thành ba dãy núi lớn: Hải Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Biến đổi nhiệt độ trong năm dưới . Các tháng lạnh nhất là tháng 1 và tháng 2, khi nhiệt độ không khí giảm xuống ; các tháng nóng nhất là tháng 7 và 8, nhiệt độ trung bình khi đó là . Ngoại trừ các khu vực đồi núi ở trung tâm hòn đảo, nhiệt độ trung bình ngày ở Hải Nam đều trên . Mùa hè ở phía bắc hòn đảo có thời tiết nóng, với nhiệt độ có thể cao hơn vào 20 ngày trong năm. Lượng mưa trung bình hàng năm là và có thể còn lên đến ở các khu vực trung tâm và phía đông, và chỉ đạt tại các khu vực ven biển tây nam. Phần phía đông của đảo Hải Nam nằm trên đường đi của các cơn bão nhiệt đới, và 70% lượng mưa hàng năm có bắt nguồn từ các cơn bão hay mưa trong mùa hè. Các trận lũ lớn xảy ra là do ảnh hưởng của bão nhiệt đới và chúng có thể gây ra nhiều khó khăn cho cư dân địa phương. Khoảng tháng 1 và tháng 2, tại các vùng ven biển trên đảo Hải Nam, đặc biệt là ở phần phía bắc, xảy ra hiện tượng sương mù dày đặc. Điều này là do không khí lạnh mùa đông tiếp xúc với nước biển ấm. Sương mù diễn ra cả ngày lẫn đêm, và được phân bổ đều. Tầm nhìn có thể giảm xuống 50 mét trong nhiều ngày tại một thời điểm. Trong giai đoạn này, cư dân địa phương thường đóng cửa sổ để chống hiện tượng nồm. Hầu hết sông tại Hải Nam bắt nguồn từ khu vực trung tâm đảo và chảy theo các hướng khác nhau. Việc bốc hơi vào mùa khô ở khu vực gần biển khiến mực nước các sông giảm đáng kể. Có rất ít hồ tự nhiên tại Hải Nam. Hồ chứa nhân tạo được biết đến nhiều nhất tại Hải Nam là hồ chứa Tùng Đào (松涛水库) ở trung-bắc của đảo. Có một số hòn đảo nhỏ nằm gần bờ của đảo lớn Hải Nam như: Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền với một số hòn đảo nhỏ trên Biển Đông, quy thuộc chúng vào thành phố cấp địa khu Tam Sa của tỉnh Hải Nam. Chính phủ Trung Quốc quy định địa giới thành phố Tam Sa trải dài 900 km theo chiều đông-tây, 1800 km theo chiều bắc-nam, diện tích vùng biển khoảng 2 triệu km². Tam Sa là thành phố có diện tích đất liền nhỏ nhất, tổng diện tích lớn nhất và có dân số ít nhất tại Trung Quốc. Các đảo này nằm cách xa hàng trăm km về phía nam của đảo Hải Nam, do vậy có điều kiện khí hậu cũng như hệ động, thực vật khác nhau. Trong đó, quần đảo Hoàng Sa (Trung Quốc gọi là "Tây Sa") do Trung Quốc kiểm soát với đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) là lớn nhất, đảo này cũng là trung tâm hành chính của thành phố Tam Sa. Ở quần đảo Trường Sa (Trung Quốc gọi là "Nam Sa"), Trung Quốc cũng kiểm soát một vài thực thể địa lý. Ngoài ra, Trung Quốc cũng quy bãi Macclesfield và bãi cạn Scarborough thuộc phạm vi quản lý của thành phố Tam Sa. Trung Quốc cũng xem bãi ngầm James ("Tăng Mẫu") ở gần bờ biển đảo Borneo của Malaysia là cực nam của lãnh thổ nước mình. Nhân khẩu. Dân tộc. Người Lê là các cư dân ban đầu tại Hải Nam. Họ được cho là hậu duệ của các bộ lạc Bách Việt tại Trung Quốc, họ đã định cư trên đảo từ 7 đến 27 nghìn năm trước. Người Lê hiện nay sinh sống chủ yếu tại 9 huyện thị ở khu vực giữa và phía nam của Hải Nam – đó là các thành phố Tam Á, Ngũ Chỉ Sơn và Đông Phương, các huyện tự trị là Bạch Sa, Lăng Thủy, Lạc Đông, Xương Giang, Quỳnh Trung và Bảo Đình. Khu vực người Lê định cư chiếm diện tích , tức khoảng 55% diện tích toàn tỉnh. Năm 46 TCN, triều đình Nhà Hán thấy cuộc chinh phục tốn quá nhiều chi phí và từ bỏ hòn đảo. Khoảng thời gian đó, người Hán cùng với các binh sĩ và tướng lĩnh bắt đầu nhập cư đến đảo Hải Nam từ lục địa. Trong số đó, có một số là con cháu của những người đã bị trục xuất đến Hải Nam vì lý do chính trị. Hầu hết trong số họ đến đảo Hải Nam từ các khu vực thuộc Quảng Đông, Phúc Kiến và Quảng Tây hiện nay. Thời Nhà Tống, lần đầu tiên có một lượng lớn người Hán di cư đến Hải Nam, họ chủ yếu định cư ở phía bắc của hòn đảo. Trong thế kỷ XVI và 17, tiếp tục có một lượng lớn người Hán từ Phúc Kiến và Quảng Đông nhập cư đến Hải Nam, đẩy người Lê đến các vùng cao nguyên ở nửa phía nam của hòn đảo, Trong thế kỷ XVIII, người Lê đã nổi dậy chống lại triều đình Nhà Thanh, triều đình phản ứng bằng cách đưa lính người Miêu từ Quý Châu đến đàn áp. Nhiều người Miêu sau đó đã định cư tại đảo và hậu duệ của họ tiếp tục sống ở vùng cao nguyên phía tây Hải Nam cho đến nay. Ngôn ngữ. Cư dân tại Hải Nam sử dụng nhiều phương ngôn hay ngôn ngữ khác nhau. Trong đó, chủ yếu là 11 phương ngôn: Tôn giáo. Trước khi văn hóa Hán từ nội địa xâm nhập đến, cư dân người Lê đảo Hải Nam chủ yếu sùng bái tín ngưỡng nguyên thủy (thuyết vật linh), họ thờ cúng tổ tiên, thờ cúng thiên nhiên và thờ cúng nhiều đối tượng, đây là giai đoạn tín ngưỡng tôn giáo nguyên thủy. Năm 748, Phật giáo Hán truyền được truyền đến đến Hải Nam, tiếp theo là Đạo giáo. Nhà sư Giám Chân đã dạt vào Hải Nam khi nỗ lực đi thuyền đến Nhật Bản lần thứ năm, góp phần vào sự hưng vượng của Phật giáo tại Hải Nam thời Đường Tống., hiện tại có 10.000 Phật tử đăng ký tại Hải Nam, còn Đạo giáo thì đã được bản địa hóa, dân gian hóa. Vào thời Tống và Nguyên, cùng với làn sóng di dân của người Hán tại đại lục, tín ngưỡng thờ Mụ tổ cũng được truyền đến đảo, với các di tích còn lại cho đến ngày nay Hải Nam là một trạm trung chuyển của con đường tơ lụa trên biển, vì tại Hải Nam phong phú về các loại hương liệu, các thương nhân đến từ Gujarat thuộc Ấn Độ là những người đầu tiên giới thiệu Hồi giáo đến Hải Nam, những người Hồi giáo từ Trung Á và Đông Dương cũng góp phần truyền bá Hồi giáo đến Hải Nam. Hiện nay, tại hương Hồi Tân (回新乡) và hương Hồi Huy (回辉乡) ở Tam Á có khoảng 6.500 người Hồi giáo, thuộc hệ phái Sunni. Năm 1630, Giáo hội Ki-tô Bồ Đào Nha đã phái linh mục đến Hải Nam truyền giáo, từ đó Công giáo truyền đến Hải Nam. Từ lúc bắt đầu, khi bốn nước Pháp-Ý-Tây-Bồ gửi không quá 20 linh mục đến truyền giáo, cho đến thời Nhà Thanh, tín hữu Công giáo trên toàn đảo đã phát triển lên hơn 5.000 người. Thời cuối Thanh đầu Dân Quốc, Giáo hội Công giáo tại Hải Nam đã mua đất, xây dựng các nhà thờ. Sau năm 1950, các linh mục nước ngoài bị trục xuất bởi một loạt lý do, các linh mục người Hán dẫn thay thế vị trí của họ, số tín hữu Công giáo giám xuống chỉ còn 4.100 người. Đạo Tin Lành truyền đến Hải Nam vào năm 1881, một mục sư quốc tịch Mỹ đã thiết lập khu hội Quỳnh Hải, do Giáo hội Trưởng Lão Mỹ lãnh đạo. Giáo đường Tin Lành đầu tiên tại Hải Nam được dựng tại Đam Châu. Từ đó, Tin Lành dần phát triển và hiện có 35.000 tín hữu tại tỉnh đảo. Sau khi Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, dưới ảnh hưởng của cải cách ruộng đất và Đại Cách mạng Văn hóa, tình hình của các tôn giáo không được lạc quan. Trong cao trào của Cách mạng Văn hóa, tất cả các hoạt động tôn giáo phải ngưng lại và gần như toàn bộ các chùa miếu, đền thờ Hồi giáo và nhà thờ đã bị hư hỏng, chỉ một số lượng nhỏ tín đồ Hồi giáo và Tin Lành vẫn duy trì các hoạt động tôn giáo. Sau Cách mạng Văn hóa, hoạt động tôn giáo tại Hải Nam bắt đầu được khôi phục, hiện có cả trăm địa điểm tôn giáo với trên 30 đoàn thể tôn giáo hoạt động. Hành chính. Với việc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố chủ quyền với các quần đảo trên Biển Đông, tỉnh Hải Nam về lý thuyết phải quản lý cả trăm hòn đảo, đá ngầm xa bờ. Tỉnh Hải Nam có hệ thống hành chính hơi khác so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Trong khi phần lớn các tỉnh khác được chia hoàn toàn thành các đơn vị cấp địa khu, và được chia tiếp thành các đơn vị cấp huyện; thì tại Hải Nam, gần như toàn bộ các đơn vị cấp huyện (trừ bốn quận của Hải Khẩu) đều trực thuộc tỉnh một cách trực tiếp. Điều này là do Hải Nam là một tỉnh nhỏ về diện tích và dân số so với các tỉnh khác tại Trung Quốc. Quân sự. Hải Nam có vị trí chiến lược đối với Biển Đông, khoảng cách từ Hải Nam đến các tỉnh miền trung Việt Nam chỉ hơn 300 km. Đảo Hải Nam có Căn cứ hải quân Du Lâm của Hạm đội Nam Hải thuộc Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và có quân cảng tàu ngầm hạt nhân chiến lược . Quân cảng được ước tính cao , được xây dựng vào trong một sườn đồi gần một căn cứ quân sự. Các động có khả năng cất giấu 20 tàu ngầm hạt nhân theo quan sát từ các vệ tinh gián điệp. Các tàu ngầm đặt ở quân cảng có các lên lửa đạn đạo hạt nhân và đủ lớn để chứa các tàu sân bay. Kinh tế. Kinh tế Hải Nam chủ yếu dựa vào nông nghiệp, và có trên một nửa hàng xuất khẩu của tỉnh đảo là nông sản. Tuy nhiên, kể từ khi được nâng lên thành một tỉnh, Hải Nam đã trở thành "đặc khu kinh tế" lớn nhất của Trung Quốc, mục tiêu là để thúc đẩy sự phát triển dựa trên các nguồn tài nguyên phong phú của hòn đảo. Trước đó, tỉnh đảo bị nhiều người xem là một khu vực "hoang dã", phần lớn không bị ảnh hưởng bởi công nghiệp hóa; thậm chí đến nay vẫn có tương đối ít các nhà máy tại tỉnh. Du lịch đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hải Nam, tận dụng lợi thế các bãi biển nhiệt đới và các cánh rừng tươi tốt. Chính quyền trung ương đã khuyến khích đầu tư nước ngoài vào Hải Nam và cho phép tỉnh đảo phát triển một nền kinh tế dựa phần lớn vào các nguồn lực của thị trường. Việc phát triển công nghiệp tại Hải Nam vẫn còn hạn chế, chủ yếu vẫn chỉ là khai thác khoáng sản như quặng sắt và trồng các cây công nghiệp như cao su. Từ thập niên 1950, tại Hải Khẩu đã có một số nhà máy sản xuất máy móc, thiết bị nông nghiệp và dệt may để tiêu thụ trên đảo. Một khó khăn lớn đối với việc mở rộng lĩnh vực công nghiệp là nguồn cung điện không đầy đủ. Phần lớn lượng điện tại đảo có nguồn gốc từ thủy điện, mà nó lại phụ thuộc vào biến động dòng chảy theo mùa của các con sông. Tháng 12 năm 2009, chính phủ Trung Quốc đã công bố kế hoạch của mình nhằm biến Hải Nam thành một "điểm đến du lịch quốc tế" vào năm 2020. Thông báo này đã khiến kinh tế của tỉnh đảo có sự đột biến, với mức tăng đầu tư năm trên năm là 136,9% trong ba tháng đầu năm 2010. Lĩnh vực bất động sản chiếm trên một phần ba tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Trước đó, năm 1990, tỉnh Hải Nam là nơi diễn ra vỡ bong bóng bất động sản lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc hiện đại Hải Nam có dự trữ khai thác thương mại trên 30 loại khoáng vật. Người Nhật Bản đã khai thác quặng sắt tại Hải Nam trong thời gian họ chiếm giữ hòn đảo trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và đây cũng là loại khoáng sản quan trọng nhất của Hải Nam. Các loại khoáng vật quan trong khác tại tỉnh đảo là titan, mangan, wolfram, bô xít, molypden, coban, đồng, vàng và bạc. Hải Nam có trữ lượng lớn về than non và đá phiến dầu, người ta cũng đã tìm thấy dầu mỏ và khí thiên nhiên ngoài khơi vùng biển Hải Nam. Trên các hòn đảo tranh chấp ở Biển Đông mà chính phủ Trung Quốc quy thuộc tỉnh Hải Nam chỉ có rất ít tài nguyên như phân chim song vùng biển xung quanh chúng có nhiều loại khoáng sản, Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Trung Quốc ước tính vùng quần đảo Trường Sa có trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỉ tấn so với con số 13 tỉ tấn của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Trung Quốc cũng từng tiến hành mời thầu dầu khí tại khu vực quần đảo Hoàng Sa. Ngoài ra tại Biển Đông cũng có tài nguyên băng cháy, Trung Quốc tuyên bố đã tìm thấy băng cháy ở phía bắc Biển Đông từ năm 2007, với trữ lượng ước tính khoảng 19,4 tỉ m³. Các khu rừng nguyên sinh trên đảo Hải Nam có 20 loài cây có giá trị thương mại, trong đó có tếch và đàn hương. Do Hải Nam có khí hậu nhiệt đới, các ruộng lúa xuất hiện phổ biến ở các vùng đất thấp phía đông bắc và các thung lũng núi phía nam. Bên cạnh lúa, các cây trồng quan trọng khác có thể kể đến là dừa, cọ, sisal, hoa quả nhiệt đới (như dứa, nông sản mà Hải Nam dẫn đầu cả nước), hồ tiêu, cà phê, trà, đào lộn hột, và mía. Đầu thế kỷ XX, những Hoa kiều hồi hương từ Mã Lai thuộc Anh đã đưa cây cao su đến đảo; sau năm 1950, các nông trường quốc doanh trồng cao su được phát triển và Hải Nam nay sản xuất ra một lượng mủ cao su đáng kể cung cấp cho thị trường Trung Quốc. Ớt Hoàng Đăng Hải Nam, một loại ớt đặc hữu tại Hải Nam, được trồng ở phía đông nam và tây nam của đảo. Cá mú, cá thu và cá ngừ là chiếm phần lớn sản lượng đánh bắt xa bờ của ngư dân Hải Nam. Người dân Hải Nam cũng nuôi sò điệp và ngọc trai trong các vịnh hay vũng nông để phục vụ cho nhu cầu nội địa và xuất khẩu. Sản lượng tôm được ước tính đạt trong năm 2007, trên 50% trong số đó được xuất khẩu. Hải Nam có trên 400 trại giống tôm, hầu hết nằm giữa Văn Xương và Quỳnh Hải. Sản lượng cá rô phi năm 2008 tại Hải Nam là . Hòn đảo có khoảng 100.000 hộ trang trại nuôi cá thương mại hoặc mang tính địa phương. Năm 2011, có trên 30 triệu du khách đã đến thăm Hải Nam, hầu hết trong số họ đến từ đại lục Trung Quốc. Trong số 814.600 du khách hải ngoại, 227.600 người đến từ Nga, tăng trưởng 53,3 so với năm trước đó. Tổng doanh thu từ du lịch vào năm 2011 là 32 tỉ NDT (4,3 tỉ USD), tăng 25% so với năm 2010. Người ta thường chia đảo Hải Nam thành 8 vùng du lịch: Hải Khẩu và vùng lân cận (Hải Khẩu, Quỳnh Sơn, Định An); đông bắc (Văn Xương); Bờ biển Trung Đông bộ (Quỳnh Hải, Định An); bờ biển Nam Đông bộ; Nam bộ (Tam Á); bờ biển Tây Bộ (Lạc Đông, Đông Phương, Lăng Thùy, Xương Giang); tây bắc (Đam Châu, Lâm Cao, Trừng Mại); và Cao nguyên Trung tâm (Bạch Sa, Quỳnh Trung, và Ngũ Chỉ Sơn/Đồn Xương). Để khuyến khích cộng đồng du thuyền quốc tế, các quy định mới của Hải Nam nay cho phép du thuyền ngoại quốc ở lại tổng cộng 183 ngày mỗi năm, tối đa 30 ngày mỗi lần. 13 cảng sẽ được xây dựng quanh đảo để đáp ứng thị trường du lịch mới. Năm 2018, Hải Nam là tỉnh có 9,1 triệu dân và GDP danh nghĩa đạt 483,2 tỉ NDT (73 tỉ USD). Tỉnh này có dân số tương đương với Thành phố Hồ Chí Minh (Việt Nam), với GDP cao hơn. Hải Nam có chỉ số GDP đầu người đạt 51.955 NDT (tương ứng 7.851 USD). Hải Nam là hòn đảo lớn nhất Trung Quốc, dù có diện tích nhỏ hơn Đài Loan (đảo), nơi bị quản lý bởi Đài Loan. Tỉnh lỵ là thành phố Hải Khẩu. Trong thời gian từ năm 2018, Hải Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh phương án phát triển kinh tế. Khu Thí nghiệm Thương mại tự do Hải Nam, Cảng Thương mại tự do Hải Nam đều được thành lập năm 2018, vào đúng thời điểm kỷ niệm 30 năm Khu kinh tế Hải Nam ra đời. Mục tiêu đưa ra là đẩy Cảng Thương mại tự do Hải Nam trở thành Khu kinh tế tự do lớn nhất thế giới (vượt qua Dubai, Hồng Kông và Singapore). Và Hải Nam sẽ thực hiện chính sách du lịch miễn thị thực cho người nước ngoài từ 59 quốc gia, cải thiện các nền tảng thông tin một cửa sổ của thương mại quốc tế, tích cực thu hút đầu tư nước ngoài, công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và hỗ trợ các nhà đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh chính sách linh hoạt, mô hình điều tiết quản lý thương mại, đầu tư, tài chính trong và ngoài nước. Quyết tâm tạo ra một vùng kinh tế phát triển linh hoạt và mạnh mẽ. Giao thông. Những con đường đầu tiên trên đảo đã được xây dựng từ đầu thế kỷ XX, song cho đến thập niên 1950 thì vẫn chưa có con đường lớn nào được xây dựng ở các vùng đồi núi trong nội địa. Hiện nay, đường bộ là loại hình vận tải chính trong nội bộ Hải Nam. Toàn bộ chiều dài các tuyến đường thông xe trên đảo là 17.600 km, về cơ bản hình thành hệ thống chủ đạo gồm ba tuyến dọc và bốn tuyến ngang. Ba tuyến dọc đều kết nối giữa thủ phủ Hải Khẩu và thành phố Tam Á ở cực nam, tuyến quốc lộ 223 (323 km) chạy dọc theo bờ biển phía đông, tuyến quốc lộ 224 (309 km) thì chạy xuyên qua vùng nội địa của đảo, còn tuyến quốc lộ 225 (429 km) thì chạy dọc theo bờ biển phía tây. Các tuyến đường chủ đạo kết nối tất cả các cảng biển và huyện thị, các tuyến nhánh mở rộng đến toàn bộ 219 hương trấn trên đảo cũng như các thắng cảnh du lịch. Đảo Hải Nam có hai sân bay quốc tế là: Sân bay quốc tế Mỹ Lan Hải Khẩu và Sân bay quốc tế Phượng Hoàng Tam Á. Tại quần đảo Hoàng Sa, Trung Quốc cũng cho xây dựng Sân bay đảo Vĩnh Hưng để phục vụ cho cả mục đích quân sự lẫn dân sự. Ngoài ra, chính quyền Trung Quốc cũng có kế hoạch xây dựng Sân bay Quốc tế Quỳnh Hải Bác Ngao với tổng vốn đầu tư 945 triệu NDT, sân bay này cách thủ phủ của thành phố Quỳnh Hải 12 km và cách địa điểm cố định diễn ra Diễn đàn châu Á Bác Ngao 15 km. Một tuyến phà đường sắt đã đi vào hoạt động vào đầu thập niên 2000, giúp kết nối hệ thống đường sắt trên đảo Hải Nam với mạng lưới đường sắt tại đại lục Trung Quốc. Năm 2005, Bộ Giao thông Trung Quốc đã phân bổ 20 triệu NDT (2,4 triệu USD) để lập một ủy ban nhằm nghiên cứu về khả năng xây dựng một cây cầu hoặc đường hầm kết nối đảo Hải Nam với lục địa. Tuyến Đường sắt Đông Hoàn Hải Nam nối giữa Hải Khẩu và Tam Á đã đi vào hoạt động năm 2010. Tuyến đường sắt được thiết kế có thể chạy với tốc độ 250 km/giờ. Thời gian để đi từ Hải Khẩu tới Tam Á trên tuyến đường sắt này chỉ mất xấp xỉ 1 tiếng 22 phút. Tổng chiều dài của tuyến Đường sắt Đông Hoàn Hải Nam là 308,11 km, vốn đầu tư dự tính là 20,224 tỉ NDT. Các ga dự tính trên tuyến đường sắt này là Hải Khẩu, Trường Lưu, Tú Anh, Thành Tây, Hải Khẩu Đông, Mỹ Lan, Đông Trại loan, Văn Xương, Phùng Gia loan, Quỳnh Hải, Bác Ngao, Hòa Lạc, Sơn Căn, Vạn Ninh, Thần Châu, Nhật Nguyệt loan, Lăng Thủy, Cao Phong, Hải Đường loan, Á Long loan, Tam Á.. Dự kiến một tuyến đường sắt Tây Hoàn Hải Nam sẽ được xây dựng ở bờ biển phía tây của Hải Nam. Tuyến này sẽ có chiều dài 345 km và sẽ kết nối với tuyến phía đông hiện hữu. Hải Nam đã tiếp nhận 11.000 tấn hàng hóa thông qua các cảng vào tháng 11 năm 2010, tăng 90,1% so với tháng cùng kỳ năng trước. Từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2010, đã có 102.000 tấn hàng hóa được xuất khẩu thông qua các cảng của Hải Nam, trong đó 34.000 tấn hàng xuất khẩu đến Hoa Kỳ và 14.000 tấn hàng xuất khẩu đến EU. Hải Nam có một số cảng biển:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.847432
Địa lý & Hành chính
null
null
Đập Tam Hiệp () là đập thủy điện nằm chặn ngang sông Trường Giang (sông dài thứ ba trên thế giới) tại Tam Đẩu Bình, Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Công trình được khởi công xây dựng vào năm 1994. Đập Tam Hiệp hiện là đập thủy điện lớn nhất thế giới. Hồ chứa nước của nó đã bắt đầu chứa nước vào ngày 1 tháng 6 năm 2003, chiếm toàn bộ khu vực Tam Hiệp, vị trí đập nằm giữa thành phố Nghi Xương (tỉnh Hồ Bắc) và Phù Lăng (thành phố Trùng Khánh). Trừ âu thuyền, dự án này cơ bản đã hoàn thành và vận hành đầy đủ các chức năng vào ngày 4 tháng 7 năm 2012, khi các tuốc-bin chính cuối cùng bắt đầu hoạt động. Mỗi tuốc-bin có công suất 700 MW. Thân đập được hoàn thành năm 2006. Ngoài 32 tua-bin chính còn có 2 máy phát điện nhỏ hơn (mỗi máy 50 MW) phục vụ cho nhà máy, tổng công suất phát điện của đập là 22.500 MW. Giống như nhiều đập nước đang xây dựng khác, dự án này cũng gây ra nhiều ý kiến trái chiều trong và ngoài Trung Quốc. Các đề xuất ủng hộ dựa vào các lợi ích kinh tế từ việc kiểm soát ngập lụt do sông Trường Giang gây ra và năng lượng từ thủy điện. Các ý kiến phản đối chủ yếu là do lo ngại về tương lai của 1,9 triệu người sẽ phải di chuyển chỗ ở do mực nước tăng lên, sự mất đi của nhiều địa điểm có giá trị khảo cổ học và văn hóa, cũng như các tác động đến môi trường. Các thông số chính. Được làm từ bê tông và thép, đập có chiều dài 2.355 mét và đỉnh đập cao 185 mét trên mực nước biển. Công trình đã sử dụng 27,2 triệu mét khối bê tông (chủ yếu cho thành đập), 463.000 tấn thép (đủ xây 63 tháp Eiffel, đào 102,6 triệu mét khối đất. Thành đập cao 181 mét so với nền đá. Mực nước đập cao tối đa 175 mét trên mực nước biển, cao hơn mực nước sông ở hạ nguồn 110 mét, vùng hồ chứa có chiều dài trung bình khoảng 660 kilômét và rộng 1,12 kilômét. Vùng hồ chứa có thể tích 39,3 km3 và tổng diện tích bề mặt nước 1045 km2. Khi hoàn thành, tổng diện tích đất bị ngập nước của hồ là 632 km2, so với 1350 km2 diện tích bị ngập của Đập Itaipu. Mô hình đập. Bên cạnh đập là trung tâm tiếp đón có chứa mô hình của đập. Mô hình này cung cấp tổng quan về kỹ thuật tốt nhất về dự án cho người xem. Từ chỗ trưng bày này chỉ cần đi bộ rất ngắn ra ngoài đã dẫn tới một chỗ quan sát cao để nhìn toàn bộ dự án. Kinh phí. Chính phủ Trung Quốc ước tính rằng dự án đập Tam Hiệp sẽ có giá 180 tỷ nhân dân tệ (22,5 tỷ đô la). Đến cuối năm 2008, chi phí đã đạt 148.365 tỷ nhân dân tệ, trong đó 64.613 tỷ nhân dân tệ đã được chi cho xây dựng, 68.557 tỷ nhân dân tệ cho việc di dời cư dân bị ảnh hưởng và 15.195 tỷ nhân dân tệ về tài chính. Ước tính trong năm 2009, chi phí xây dựng sẽ được hoàn trả khi con đập tạo ra điện, năng suất 250 tỷ nhân dân tệ. Do đó, việc hoàn trả toàn bộ chi phí dự kiến sẽ xảy ra mười năm sau khi đập bắt đầu hoạt động hoàn toàn, nhưng toàn bộ chi phí của đập Tam Hiệp đã được hoàn trả vào ngày 20 tháng 12 năm 2013. Các nguồn tài trợ bao gồm Quỹ xây dựng đập Tam Hiệp, lợi nhuận từ đập Gezhouba, các khoản vay từ Ngân hàng Phát triển Trung Quốc, các khoản vay từ các ngân hàng thương mại trong và ngoài nước, trái phiếu doanh nghiệp và doanh thu từ cả trước và sau khi đập hoạt động hoàn toàn. Các khoản phí bổ sung được đánh giá như sau: Mỗi tỉnh nhận được điện từ đập Tam Hiệp phải trả thêm ¥ 7,00 mỗi MWh. Các tỉnh khác đã phải trả một khoản phí bổ sung ¥ 4,00 mỗi MWh. Khu tự trị Tây Tạng không phải trả phụ phí. Lịch sử dự án. Đề xuất và xây dựng dự án. Tôn Dật Tiên đã lần đầu tiên xem xét kế hoạch xây dựng đập trên sông Dương Tử vào năm 1919 để phát điện, nhưng ý tưởng này đã bị gác lại do các hoàn cảnh và điều kiện chính trị cũng như kinh tế không thuận lợi. Đến năm 1944, công trình nghiên cứu tiền khả thi đã được giao cho một kỹ sư thành viên của Phòng Nông nghiệp Hoa Kỳ, tuy nhiên dự án này đã bị bỏ dở vào năm 1947. Nguyên nhân chính thức được biết đến là vấn đề tài chính, tuy nhiên trên thực tế là do những sự kiện gắn liền với cuộc cách mạng giành chính quyền của những người cộng sản Trung Quốc. Các trận lụt lội lớn đã làm sống lại ý tưởng này và chính quyền đã chấp thuận nó năm 1954 để kiểm soát lụt lội. Về sau, dự án này được các chuyên gia Liên Xô (cũ) tiếp tục thực hiện cho đến khi quan hệ ngoại giao giữa 2 nước bị rạn nứt. Trên thực tế, bắt đầu từ 1955, các nghiên cứu triển khai dự án đã được tiến hành liên tục. Thứ trưởng Bộ điện lực Lý Duệ (李锐, Li Rui) đầu tiên cho rằng đập này cần phải đa mục đích, rằng cần phải xây dựng các đập nhỏ hơn trước cho đến khi Trung Quốc có đủ năng lực tài chính để có thể chịu được dự án tốn kém này và việc xây dựng cần được chia thành nhiều giai đoạn để có thời gian giải quyết các vấn đề kỹ thuật, theo như các nhà Trung Quốc học Kenneth Lieberthal và Michel Oksenberg. Sau này, Lý Duệ kết luận rằng không nhất thiết phải xây dựng đập này do nó quá tốn kém. Ông cũng bổ sung thêm rằng đập nước sẽ làm ngập lụt nhiều thành thị và đất nông nghiệp màu mỡ, làm cho các vùng lưu vực trung và hạ lưu sông Dương Tử bị ngập lụt thảm họa trong quá trình xây dựng và không giúp ích nhiều cho vận tải thủy. Các quan chức tỉnh Tứ Xuyên cũng chống lại việc xây dựng do Tứ Xuyên nằm ở thượng nguồn sẽ phải gánh chịu nhiều phí tổn trong khi tỉnh Hồ Bắc ở hạ nguồn sẽ nhận được nhiều lợi ích. Lâm Nhất Sơn (林一山, Lin Yishan), chủ nhiệm văn phòng quy hoạch lưu vực Dương Tử, là người chịu trách nhiệm của dự án thì lại cổ vũ cho việc xây dựng đập. Sự lạc quan của ông về việc giải quyết các vấn đề kỹ thuật đã được đẩy đi xa hơn vào năm 1958 do điều kiện chính trị thích hợp và sự ủng hộ của Chủ tịch nước khi đó là Mao Trạch Đông, là người muốn Trung Quốc có đập thủy điện lớn nhất thế giới, theo Lieberthal và Oksenberg. Các phê phán đã bị cấm đoán, nhưng sự trì trệ đã sinh ra từ cuộc Đại nhảy vọt đầy thảm họa và đã kết thúc các công việc chuẩn bị vào năm 1960. Ý tưởng lại hồi sinh vào năm 1963 như một phần của chính sách mới để xây dựng "mặt trận thứ ba" của công nghiệp tại tây nam Trung Quốc. Nhưng Cách mạng văn hóa Trung Quốc đã nổ ra năm 1966 và trong năm 1969 sự e ngại rằng đập có thể bị Liên Xô (khi đó bị coi là kẻ thù) phá hoại đã góp phần trì hoãn việc xây dựng. Năm 1970, dự án lại được tiếp tục trở lại với Cát Châu Bá, một đập nhỏ hơn về phía hạ lưu, nhưng nó cũng nhanh chóng gặp phải các vấn đề kỹ thuật phức tạp và chi phí đã vượt quá dự toán giống như đối với đập Tam Hiệp xét theo thang độ của từng công trình. Cải cách kinh tế bắt đầu năm 1978 đã nhấn mạnh nhu cầu về điện năng để cung cấp cho các cơ sở công nghiệp đang lớn mạnh, vì thế Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc xây dựng năm 1979. Nghiên cứu khả thi đã được tiến hành trong các năm 1982 - 1983 để xoa dịu lượng người chỉ trích ngày càng tăng, những người cho rằng dự án này đã không được dựa trên đầy đủ các nghiên cứu về kỹ thuật, xã hội hay môi trường. Trong những năm thập niên 1980, người Mỹ đã quay trở lại tham gia dự án. Các nghiên cứu khả thi tiếp theo đã được tiến hành từ năm 1985 đến 1988 bởi liên doanh Canada quốc tế của dự án quản lý sông Dương Tử, một côngxoócxiom của 5 hãng công nghệ Canada. Theo Lieberthal và Oksenberg, các lãnh đạo của Trùng Khánh cũng đột ngột yêu cầu là độ cao của đập cần nâng một cách đáng kể đến mức nó có thể làm hỏng dự án và giải phóng họ khỏi gánh nặng của các chi phí. Độ cao mới và yêu cầu về nghiên cứu tin cậy hơn bằng sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế đã sinh ra nghiên cứu khả thi mới vào năm 1986. Nhà sinh thái học, viện sĩ Hầu Học Dục (侯学煜, Hou Xueyu) là một trong số ít người từ chối không ký vào báo cáo môi trường vì cho rằng nó đã báo cáo sai sự thật về các lợi ích môi trường thu được nhờ đập này và đã đánh giá không đúng phạm vi ảnh hưởng tới môi trường cũng như thiếu các giải pháp cụ thể cho các lo ngại về môi trường. Những nhà hoạt động vì sinh thái môi trường trong nước và quốc tế bắt đầu phản đối gay gắt hơn. Các luật gia về nhân quyền đã chỉ trích kế hoạch tái định cư. Các nhà khảo cổ học cũng e ngại do sự nhấn chìm của một lượng lớn các di tích lịch sử. Nhiều người đã nói về việc mất đi của một trong những kỳ quan đẹp nhất thế giới. Có không ít các kỹ sư tỏ ý không tin tưởng rằng đập thực sự sẽ đạt được các mục đích đề ra. Nhà báo/kỹ sư Đái Tình đã xuất bản cuốn sách gồm các chỉ trích nghiêm khắc của các nhà khoa học Trung Quốc đối với dự án này. Tuy thế rất nhiều công ty xây dựng nước ngoài vẫn tiếp tục thúc ép chính quyền của họ ủng hộ về tài chính do việc xây dựng với hy vọng thắng thầu. Phê chuẩn dự án. Đối mặt với áp lực trong nước và quốc tế, Quốc vụ viện Trung Quốc vào tháng 3 năm 1989 đã đồng ý hoãn kế hoạch xây dựng này lại trong 5 năm. Tuy nhiên, sau sự kiện Thiên An Môn 1989, chính quyền đã cấm các tranh cãi về con đập này, kết tội các chỉ trích của nước ngoài là thiển cận hay có ý đồ làm suy yếu chính quyền cũng như bắt giam Đới Tình và nhiều người chỉ trích khác. Thủ tướng Lý Bằng đã vận động cho việc xây dựng đập này và đưa nó đến quyết định cuối cùng tại Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc Trung Quốc vào tháng 4 năm 1992 mặc dù 1/3 số đại biểu bỏ phiếu trắng hoặc bỏ phiếu chống. Đây là sự kiện chưa từng có tiền lệ từ cơ quan mà thông thường rất nhanh chóng thông qua các đề nghị của chính phủ. Quyết định xây dựng công trình đập Tam Hiệp được chính thức thông qua tại phiên họp Quốc hội Trung Quốc vào ngày 3 tháng 4 năm 1992 với 1.767 phiếu thuận, 177 phiếu chống và 664 phiếu trắng. Việc tái định cư được tiến hành ngay sau đó và những sự chuẩn bị về vật chất đã bắt đầu năm 1994. Trong khi chính phủ tập trung thu hút công nghệ, dịch vụ, tài chính từ phía nước ngoài thì các lãnh đạo lại dành cho các hãng Trung Quốc công nghệ và các hợp đồng xây dựng. Các vụ bê bối tham nhũng đã gây nhiều điều tiếng đối với dự án này. Người ta cho rằng các nhà thầu đã thắng thầu nhờ đút lót và sau đó đã bớt xén thiết bị và vật liệu để rút bóp các quỹ dành cho xây dựng. Người ta đồn rằng chủ tịch "tập đoàn phát triển kinh tế Tam Hiệp" đã mua bán các công việc tại công ty ông ta, rút các khoản tiền từ các khoản vay có liên quan đến dự án và biến mất vào tháng 5 năm 2000. Các viên chức của Uỷ ban tái định cư Tam Hiệp đã bị bắt vì tội tham ô các quỹ của chương trình tái định cư vào tháng 1 năm 2000. Nhiều hạng mục trong dự án có chất lượng tồi tệ đến mức thủ tướng Chu Dung Cơ đã phải ra lệnh bỏ đi vào năm 1999 sau khi một loại các tai nạn lớn đã xảy ra, bao gồm cả sập cầu. Chu Dung Cơ, một người đã từng chỉ trích dự án này rất gay gắt, thông báo rằng các quan chức có "một núi trách nhiệm trên đầu họ." Cùng thời gian này, các rạn nứt đáng kể đã xuất hiện trong đập. Để bù đắp lại các chi phí xây dựng, các quan chức của dự án đã lặng lẽ thay đổi kế hoạch vận hành đã được thông qua bởi Quốc hội là làm đầy hồ chứa nước sau 6 năm chứ không phải 10 năm. Để phản ứng lại, 53 kỹ sư và viện sĩ đã kiến nghị với Chủ tịch Giang Trạch Dân hai lần vào nửa đầu năm 2000 để làm chậm việc làm đầy hồ chứa nước cũng như việc tái định cư dân chúng trong vùng cho đến khi các nhà khoa học có thể xác định có hay không việc hồ chứa nước cao hơn gây ra các vấn đề về trầm tích. Tuy nhiên, việc xây dựng vẫn cứ được tiếp tục tiến hành. Sản xuất và phân phối điện. Công suất phát điện. Việc sản xuất điện tại đập được China Yangtze Power quản lý, một công ty con được liệt kê của Tập đoàn Tam Hiệp Trung Quốc (CTGC) EDA Central Enterprise SOE do SASAC quản lý. Đập Tam Hiệp là nhà máy thủy điện có công suất lớn nhất thế giới với 34   máy phát điện: 32 máy phát chính, mỗi máy có công suất 700   MW, và hai máy phát điện nhà máy, mỗi máy có công suất 50   MW, tổng công suất 22.500   MW. Trong số 32 máy phát điện chính đó, 14 máy được lắp đặt ở phía bắc của đập, 12 ở phía nam và sáu máy còn lại trong nhà máy điện ngầm ở vùng núi phía nam của đập. Sản lượng điện hàng năm trong năm 2015 là 87   TWh, gấp 20 lần so với đập Hoover. Máy phát điện. Các máy phát điện chính nặng khoảng 6.000 tấn mỗi máy và được thiết kế để sản xuất hơn 700 MW điện. Các thiết kế đầu của máy phát điện là . Tốc độ dòng chảy dao động trong khoảng tùy thuộc vào mức nước có sẵn. Mức nước càng lớn, càng ít nước cần thiết để đạt được toàn bộ công suất. Tam Hiệp sử dụng tuabin Francis. Đường kính tuabin là 9,7 / 10,4   m (thiết kế VGS / thiết kế của Alstom) và tốc độ quay là 75   vòng quay mỗi phút. Điều này có nghĩa là để tạo ra công suất ở tần số 50 Hz, các rôto máy phát có 80 cực. Công suất định mức là 778 MVA, tối đa là 840   MVA và hệ số công suất là 0,9. Máy phát điện tạo ra năng lượng điện ở mức 20 kV. Điện được tạo ra sau đó được tăng lên tới 500 kV để truyền tải ở mức 50 Hz. Đường kính ngoài của stato máy phát là 21,4/20,9 m. Đường kính trong là 18,5/18,8 m. Stator lớn nhất của loại này, là 3,1/3 m chiều cao. Tải trọng chịu lực là 5050/5500 tấn. Hiệu suất trung bình là hơn 94% và đạt 96,5%. Các máy phát điện được sản xuất bởi hai liên doanh: một trong số đó là Alstom, ABB Group, Kvaerner và công ty Cáp Nhĩ Tân của Trung Quốc; Voith khác, General Electric, Siemens (viết tắt là VGS) và công ty Oriental Motor của Trung Quốc. Thỏa thuận chuyển giao công nghệ đã được ký kết cùng với hợp đồng. Hầu hết các máy phát điện đều được làm mát bằng nước. Một số máy mới hơn được làm mát bằng không khí, đơn giản hơn trong thiết kế và sản xuất và dễ bảo trì hơn. Tiến độ lắp đặt máy phát điện. Máy phát điện chính phía bắc đầu tiên (số 22) bắt đầu vào ngày 10 tháng 7 năm 2003; phía bắc đã hoàn toàn hoạt động vào ngày 7 tháng 9 năm 2005, với việc triển khai máy phát điện số 9. Toàn bộ công suất (9.800   MW) chỉ đạt được vào ngày 18 tháng 10 năm 2006, sau khi mực nước đạt 156 m. 12 máy phát điện chính phía nam cũng đang hoạt động. Máy số 22 bắt đầu hoạt động vào ngày 11 tháng 6 năm 2007 và số 15 bắt đầu vào ngày 30 tháng 10 năm 2008 Máy thứ sáu (số 17) bắt đầu hoạt động vào ngày 18 tháng 12 năm 2007, nâng công suất lên 14,1   GW, cuối cùng đã vượt qua Itaipu (14.0   GW), để trở thành nhà máy thủy điện lớn nhất thế giới theo công suất. Kể từ ngày 23 tháng 5 năm 2012, khi máy phát chính cuối cùng, số 27, hoàn thành thử nghiệm cuối cùng, sáu máy phát chính chính dưới lòng đất cũng đang hoạt động, nâng công suất lên 22,5 GW. Sau chín năm xây dựng, lắp đặt và thử nghiệm, nhà máy điện hiện đã hoạt động với đầy đủ công suất. Tranh cãi. Chi phí. Thông báo chính thức cho rằng dự án này sẽ tiêu tốn trong phạm vi 25 tỷ USD tiền ngân sách và cho rằng dự án có thể tự trang trải nhờ phát điện. Tuy nhiên, người ta cho rằng dự án này chi phí nhiều hơn tất cả các dự án xây dựng khác trong lịch sử, với ước tính không chính thức là 75 tỷ USD hoặc cao hơn. Cũng lưu ý rằng con số ước tính này ($75 tỷ) đã loại bỏ các khoản tham nhũng, các tổn thất trong hủy diệt đất trồng trọt, tái định cư dân chúng cũng như các tổn thất môi trường. Chi phí di cư. Các chỉ trích coi con đập chủ yếu để phục vụ cho lợi ích của các nhà sản xuất công nghiệp phần bờ biển phía đông do ở đây họ có nhu cầu cao về điện năng. Không may là điều này lại dựa trên phí tổn của hàng triệu người đã bị đưa ra khỏi những vùng đất trồng trọt chủ yếu của họ. Góp phần làm cho tình hình xấu hơn là các đền bù tái định cư không hợp lý, số lượng người tái định cư về tổng thể là khó ước tính cũng như các khu đất mới của họ là xấu hơn. Môi trường. Thủy điện là một nguồn năng lượng có thể hồi phục được mà không sinh ra các chất thải, mặc dù có những chứng cứ mới cho rằng các đập nước có thể sinh ra một lượng lớn cacbon dioxide và một khối lượng đáng kể khí mêtan1 do các hoạt động của vi sinh vật trong các hồ chứa nước. Các đập nước theo bản chất tự nhiên của chúng làm biến đổi hệ sinh thái và đe dọa một số loài sinh vật trong khi lại hỗ trợ cho một số loài khác. Cá heo sông Dương Tử là một ví dụ đang trên đà tuyệt chủng và sẽ bị mất môi trường sinh sống do con đập này. Trong khi việc chặt hạ cây cối của khu vực để xây dựng làm tăng khả năng xói mòn thì việc ngăn chặn các trận lũ lụt không kiểm soát được sẽ làm giảm xói mòn trong một chu kỳ dài hơn. Khu vực văn hóa và cảnh quan thiên nhiên. Hồ chứa nước dài 600 km (370 dặm) sẽ làm ngập khoảng 1.300 địa chỉ khảo cổ và tiêu diệt vẻ đẹp huyền thoại của Tam Hiệp. Các di tích văn hóa và lịch sử đã phát hiện đang được di chuyển tới những vùng đất cao hơn nhưng ngập lụt của Tam Hiệp sẽ bao phủ nhiều di tích tiềm ẩn chưa phát hiện ra. Giao thông thủy. Việc đưa vào sử dụng các cửa cống tàu bè có thể sẽ làm tăng vận tải đường sông từ 10 đến 50 triệu tấn hàng năm, với chi phí vận chuyển giảm khoảng 30 - 37%. Vận tải thủy cũng sẽ an toàn hơn, do các hẻm núi này đã rất lừng danh trong lịch sử về độ nguy hiểm cho vận tải. Các chỉ trích thì cho rằng lượng bùn lớn sẽ lấp đầy các cảng chẳng hạn Trùng Khánh trong vài năm dựa trên cơ sở các chứng cứ từ các dự án đập nước khác. Kiểm soát ngập lụt. Hồ chứa nước dung tích 22 km³ (28,9 tỷ khối theo thước Anh) sẽ làm giảm tần suất các trận ngập lụt lớn từ một lần trong 10 năm xuống còn 1 lần trong 100 năm. Nhưng các chỉ trích thì cho rằng sông Dương Tử sẽ bổ sung thêm trung bình khoảng 530 triệu tấn bùn vào hồ trên một năm và nó sẽ nhanh chóng không còn tác dụng trong việc ngăn chặn lũ lụt. Việc tăng thêm trầm tích vào hồ có thể làm tăng mức nước lũ vốn đã cao tại Trùng Khánh. Tổ chức "Probe International" cho rằng đập nước này không có tác dụng ngăn chặn lũ lụt, do bị mất đi các cánh rừng trong lưu vực sông Dương Tử cũng như sự mất đi của 13.000 km² hồ (có tác dụng làm giảm bớt đi sự ngập lụt) do bùn lầy hóa, cải tạo và các phát triển không kiểm soát được. Các rủi ro tiềm ẩn. Việc xây dựng đập được báo cáo là có những chỗ chất lượng kém, với các vết nứt lớn đã xuất hiện trong thân đập vào năm 2000, đã dẫn đến các chỉ trích trong tiên tri các thảm họa tiềm ẩn tương tự như đối với đập Bản Kiều năm 1975. Trong báo cáo hàng năm tới Quốc hội Hoa Kỳ, Bộ quốc phòng Mỹ cho rằng những người Đài Loan là "những người đề xuất các cú đánh vào đại lục dường như hy vọng rằng các đe dọa đối với dân cư đô thị Trung Quốc hay các mục tiêu có giá trị như đập Tam Hiệp sẽ làm giảm bớt sự áp bức quân sự của người Trung Quốc." Ý nghĩ cho rằng giới quân sự Đài Loan có thể tìm cách tiêu hủy đập Tam Hiệp đã gây ra phản ứng giận dữ từ các phương tiện thông tin đại chúng của đại lục. Tướng Liu Yuan của Giải phóng quân nhân dân đã phát biểu trên "China Youth Daily" rằng giải phóng quân nhân dân cần "nghiêm túc trong việc bảo vệ chống lại những đe dọa từ những kẻ khủng bố Đài Loan". Mặc dù có tuyên bố của thứ trưởng quốc phòng Đài Loan Thái Minh Hiền về sự ngược lại, phần lớn các nhà phân tích cho rằng người Đài Loan không có khả năng mà cũng không tìm kiếm các công nghệ để ném bom có chứa đầu đạn hạt nhân vào đập Tam Hiệp vì những đe dọa của Bắc Kinh về việc đáp trả bằng lực lượng quân sự áp đảo nhằm đe dọa đến hòa bình thế giới. Trong tháng 9 năm 2004 "Thời báo Trung Quốc" (China Daily) thông báo rằng một lực lượng vũ trang lớn đã được triển khai tại khu vực này để chống lại cuộc tấn công khủng bố có thể xảy ra, nhưng không nói rõ về những kẻ muốn tấn công đập. Ở đây có hai rủi ro đã được thống nhất xác định đối với đập2; đó là mô hình trầm tích vẫn chưa được kiểm tra kỹ và đập này nằm trên đứt gãy địa chấn. Trầm tích quá nhiều có thể che lấp các cửa xả nước, và nó có thể gây tổn hại cho đập trong một số tình huống. Đây chính là nguyên nhân gây ra sự cố của đập Bản Kiều năm 1975 đã làm hỏng 61 đập nước khác và gây ra cái chết của hơn 200.000 người. Ngoài ra, trọng lượng của đập và hồ chứa nước về lý thuyết có thể sinh ra địa chấn cảm ứng, giống như đã xảy ra với đập Katse ở Lesotho. Truyền tải điện năng. Phân phối điện năng của nhà máy thủy điện Tam Hiệp sẽ không chỉ nằm trong giới hạn của "Hệ thống lưới điện trung tâm Trung Quốc" (bao trùm các tỉnh Hà Nam, Hồ Bắc, Hồ Nam, và Giang Tây). Thay vì điều này, điện năng cũng sẽ được truyền tải về phía tây tới "Trùng Khánh" và "lưới điện Tứ Xuyên" cũng như theo các tuyến khác về khu vực bờ biển phía đông và đông nam. Trong khi điện năng được truyền tải tới Trùng Khánh và Tứ Xuyên thông qua hệ thống đường dây 500 kV AC thì công nghệ HVDC (điện cao thế một chiều) sẽ được sử dụng cho việc phân phối về phía đông. Hai tuyến truyền tải có công suất lớn là HVDC Tam Hiệp-Trường Châu và HVDC Tam Hiệp-Quảng Đông, sẽ truyền tải điện năng về phía đông (tới khu vực Thượng Hải) và phía nam (tới tỉnh Quảng Đông). Các đập ở thượng nguồn. Để tối đa hóa tiện ích của đập Tam Hiệp và cắt giảm sự bồi lắng trầm tích từ sông Kim Sa trên thượng nguồn của sông Dương Tử, chính quyền Trung Quốc có kế hoạch xây dựng một loạt các đập thủy điện trên sông Kim Sa, bao gồm đập Ô Đông Đức, đập Bạch Hạc Than, cùng với đập Khê Lạc Độ và đập Hướng Gia Bá hiện đã hoàn thành. Tổng công suất của bốn con đập đó là 38.500 MW, gần gấp đôi công suất của Tam Hiệp. Bạch Hạc Than và Ô Đông Đức đã đưa vào vận hành từng bước (Vẫn đang trong quá trình hoàn thiện xây dựng). Tám đập khác nằm ở giữa dòng Kim Sa và tám đập nữa ở thượng nguồn.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
0.893935
Địa lý & Hành chính
null
null
Hà Đông là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, Việt Nam. Quận nằm giữa sông Nhuệ và sông Đáy, cách trung tâm Hà Nội 12 km về phía Tây Nam. Quận Hà Đông nguyên là thành phố Hà Đông, tỉnh lỵ tỉnh Hà Tây. Hiện nay, quận là nơi đặt trụ sở một số cơ quan hành chính cấp thành phố của Hà Nội. Đây vốn là một vùng đất giàu truyền thống lịch sử-văn hóa và nay là một trong những địa phương có tốc độ phát triển kinh tế-xã hội nhanh của Thành phố Hà Nội. Địa lý. Quận Hà Đông nằm ở phía tây nam nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách trung tâm thành phố khoảng 12 km, có vị trí địa lý: Trước 2006, diện tích quận là 16 km², dân số 96 nghìn người. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính theo nghị định số 01/2006/NĐ-CP, quận có 4.791,74 ha diện tích tự nhiên và 173.707 nhân khẩu. Lịch sử. Thời nhà Nguyễn quận Hà Đông nguyên là làng Cầu Đơ thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Hòa, tỉnh Hà Nội, có cầu Đơ lợp ngói bắc qua sông Nhuệ. Năm 1888, sau khi phần đất của thành Hà Nội cắt làm nhượng địa cho Pháp, phần còn lại của tỉnh Hà Nội thành lập tỉnh Cầu Đơ, với tỉnh lỵ ở Cầu Đơ. Hiện vẫn còn chợ Cầu Đơ và đình làng Cầu Đơ. Những năm đầu thành lập. Năm 1904, tỉnh Cầu Đơ đổi tên thành tỉnh Hà Đông, và tỉnh lỵ Cầu Đơ cũng đổi tên thành thị xã Hà Đông. Tỉnh Hà Đông bao gồm thị xã Hà Đông, các phủ Hoài Đức, Ứng Hòa, Mỹ Đức, Thường Tín, huyện Hoàn Long (nguyên là khu vực ngoại thành Hà Nội). So về diện tích thì tỉnh Hà Đông rộng gấp nhiều lần thành phố Hà Nội. Ngày 6 tháng 12 năm 1904, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đổi tỉnh Cầu Đơ thành tỉnh Hà Đông và từ đây, cái tên tỉnh Hà Đông bắt đầu xuất hiện. Trước đó, tên Hà Đông chỉ duy nhất xuất hiện trên phạm vi toàn quốc là tên một huyện thuộc tỉnh Quảng Nam (nay là thành phố Tam Kỳ) và tên Hà Đông từng là tên một tỉnh ở miền Bắc nước Trung Hoa. Tỉnh lỵ Hà Đông chiếm một diện tích nhỏ hẹp khoảng 0.5 km² đất ruộng làng Cầu Đơ thuộc tổng Thanh Oai Thượng (phía nam thuộc tổng Thanh Oai Hạ) và chỉ có 36 suất đinh trong tổng số hơn 1000 người, phần đông là công chức, binh lính và gia đình họ. Một số khác là chủ các hiệu buôn. Qua những tư liệu khai thác được cho thấy, Hà Đông manh nha hình thành từ những năm 1896 - 1899 khi tòa công sứ của Chính phủ Pháp di dời về Cầu Đơ. Lúc này, việc xây dựng và kiến trúc ở tỉnh lỵ Hà Đông đã khởi động: đầu tiên là việc bắc cầu qua sông Nhuệ (cầu Trắng), tiếp đó là việc rải đá đường quốc lộ 6 từ Hà Nội vào Hà Đông và từ Hà Đông đi Hòa Bình, rồi công việc đổ đất xây cất dinh công sứ, dinh tổng đốc rồi lập trường Pháp - Việt ở tỉnh lỵ...Đây là giai đoạn khởi đầu ngổn ngang công trường vật liệu, chứng tỏ sự quyết tâm đầu tư mạnh mẽ của nhà cầm quyền đương thời cho việc xây dựng một thủ phủ cấp tỉnh. Không chỉ xây dựng các con đường như: Legriélle, Bắc Kỳ (nay là đường Lê Trọng Tấn), Hoa Lư (nay là đường Phùng Hưng)... mà Hà Đông còn làm xong đường sắt dành cho xe điện về thôn Thái Hà. Từ năm 1904 - 1910, Sở Công chính tỉnh Hà Đông đã tu bổ những con đường mà hiện nay chúng ta vẫn thường đi qua và tiếp tục xây những chiếc cầu mới một cách giản dị, bền chặt hơn những cầu cũ (mặt cầu làm bằng dầm sắt, chân cầu có cột xây). Đầu năm 1911 làm nốt con đường xe điện vào Hà Đông, đường tàu điện này có hướng Bờ Hồ - Hà Đông dài 10,36 km, vượt qua cầu Trắng vào tới bãi tre nứa bên sông Nhuệ và chợ gia súc (nay là khu tập thể Nhuệ Giang). Nhờ con đường tàu điện thuận tiện này mà những lò mổ ở Hà Nội, Hải Phòng thường đến mua thịt bò, lợn, trâu ở chợ Đơ tỉnh lỵ Hà Đông. Năm 1913 tiếp tục làm một cầu bằng bích long dài 60m bắc qua con sông Nhuệ ở cột mốc số 34 đường Hà Nội - Hòa Bình và đặt tên là cầu Mỗ Hội (nay là cầu Mai Lĩnh trên tuyến quốc lộ 6). Năm 1916 làm lại mặt cầu Hà Đông (nay là cầu Đơ Hội) bằng bích long. Năm 1918 mở rộng và sửa lại đường Hà Nội đi Hòa Bình. Cũng trong thời gian này, Pháp cho lập nhà trường Pháp-Việt, làm lại dinh quan tổng đốc, lập Trường Thư ký tỉnh, xây các nhà thờ huyện Phú Xuyên, Thanh Trì, Thường Tín và Hoài Đức. Năm 1904, lập chợ Hà Đông. Chợ Hà Đông vốn là chợ làng Đơ xây ba dãy cầu gạch lợp ngói song song với nhau tồn tại mãi đến những năm 80 của thể kỷ XX khi xây 3 nhà chợ lớn lợp mái tôn. Khu vực chợ gia súc mở năm 1904 nay là khu vực Ngân hàng nông nghiệp, Đài phát thanh truyền hình, Viện Kiểm sát nhân dân quận, Trường Mỹ nghệ sơn mài thành phố Hà Nội. Năm 1910 lập nhà thương ở tỉnh lỵ. Năm 1914, xây dựng nhà thờ Thiên Chúa giáo, đây là công trình kiến trúc có niên đại sớm nhất thị xã Hà Đông hiện còn tồn tại. Năm 1918 lập thêm nhà hộ sinh ở nhà thương và trong tỉnh lại đặt ra 19 nhà trạm nữa. Với hạ tầng kiến trúc tương đối hoàn thiện, Hà Đông là một tỉnh lỵ khá phát triển với những khu phố sầm uất. Vào khoảng những năm 1920, dân số của thị xã có 261 (chưa rõ số người hay suất đinh, nhưng có thể xác định là 261 suất đinh) bao gồm 50 có tên trong sổ hộ tịch và 211 không hộ tịch. Nếu đúng con số 261 là suất đinh thì so với năm 1904 (năm thành lập tỉnh lỵ Hà Đông thì con số suất đinh từ 36) đã tăng lên 261 vào năm 1920. Đó là sự tăng tiến hợp lý và thích hợp trong quá trình hình thành và phát triển Hà Đông ngày ấy. Trước năm 1945 thị xã Hà Đông có rạp Sinel Majestic, có rạp hát Thiêm Xuân Đài và nay là nhà thi đấu Hà Đông trên đường Quang Trung. Hà Đông trong hai cuộc chiến tranh (1946–1975). Năm 1965, 2 tỉnh Hà Đông và Sơn Tây được sáp nhập lại thành tỉnh Hà Tây, và thị xã Hà Đông trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Tây. Ngày 15 tháng 9 năm 1969, chuyển xã Kiến Hưng thuộc huyện Thanh Oai và xã Văn Khê thuộc huyện Hoài Đức vào thị xã Hà Đông. Hà Đông thời kỳ đổi mới (1976–nay). Từ ngày 27 tháng 12 năm 1975, Hà Tây và Hòa Bình sáp nhập thành tỉnh Hà Sơn Bình. Thị xã Hà Đông trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 3 phường: Nguyễn Trãi, Quang Trung, Yết Kiêu và 5 xã: Hà Cầu, Kiến Hưng, Văn Khê, Vạn Phúc, Văn Yên. Theo Nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 (khoá VI) ngày 29 tháng 12 năm 1978 và Quyết định số 49-CP của Hội đồng Chính phủ ngày 17 tháng 2 năm 1979 về việc điều chỉnh địa giới của một số xã, thị trấn của thành phố Hà Nội, thị xã Hà Đông cùng một số đơn vị hành chính của tỉnh Hà Sơn Bình và Vĩnh Phú được sáp nhập vào Hà Nội (thuộc Hà Sơn Bình có 6 huyện, thị sáp nhập gồm Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức). Tuy nhiên, trên thực tế, Hà Đông vẫn thuộc tỉnh Hà Sơn Bình và là tỉnh lỵ. Tình trạng này vẫn duy trì cho đến năm 1991. Sau khi chia tách tỉnh Hà Sơn Bình, tái lập tỉnh Hà Tây, tỉnh Hòa Bình, Hà Đông trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Hà Tây như cũ. Ngày 23 tháng 6 năm 1994, chia xã Văn Yên thành 2 phường: Văn Mỗ và Phúc La. Ngày 23 tháng 9 năm 2003, chuyển 2 xã Vạn Phúc và Hà Cầu thành 2 phường tương ứng; chuyển xã Yên Nghĩa thuộc huyện Hoài Đức và 2 xã Phú Lương, Phú Lãm thuộc huyện Thanh Oai về thị xã Hà Đông quản lý. Ngày 4 tháng 1 năm 2006, chuyển 2 xã Biên Giang, Đồng Mai thuộc huyện Thanh Oai và xã Dương Nội thuộc huyện Hoài Đức vào thị xã Hà Đông. Ngày 27 tháng 12 năm 2006, thị xã Hà Đông chính thức trở thành thành phố Hà Đông. Ngày 1 tháng 3 năm 2008, chia phường Văn Mỗ thành 2 phường: Văn Quán và Mộ Lao; chia xã Văn Khê thành 2 phường: La Khê và Phú La. Từ đó, thành phố Hà Đông có 10 phường: Hà Cầu, La Khê, Mộ Lao, Nguyễn Trãi, Phú La, Phúc La, Quang Trung, Vạn Phúc, Văn Quán, Yết Kiêu và 7 xã: Biên Giang, Đồng Mai, Dương Nội, Kiến Hưng, Phú Lãm, Phú Lương, Yên Nghĩa. Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh của tỉnh Vĩnh Phúc và 4 xã: Yên Trung, Yên Bình, Tiến Xuân, Đông Xuân thuộc huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình, thành phố Hà Đông được nhập về thủ đô Hà Nội. Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ Việt Nam ra nghị quyết thành lập quận Hà Đông trực thuộc thủ đô Hà Nội trên cơ sở toàn bộ diện tích, dân số của thành phố Hà Đông và thành lập 7 phường: Biên Giang, Đồng Mai, Dương Nội, Kiến Hưng, Phú Lãm, Phú Lương, Yên Nghĩa trên cơ sở 7 xã có tên tương ứng. Từ đó, Hà Đông trở thành quận nội thành thứ 10 của thủ đô, gồm 17 phường trực thuộc như hiện nay. Hành chính. Quận Hà Đông có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 17 phường: Biên Giang, Đồng Mai, Yên Nghĩa, Dương Nội, Hà Cầu, La Khê, Mộ Lao, Nguyễn Trãi, Phú La, Phú Lãm, Phú Lương, Kiến Hưng, Phúc La, Quang Trung, Vạn Phúc, Văn Quán, Yết Kiêu. Đường phố. Trong danh sách dưới đây, có một số đường phố có tên trùng với các đường phố của các quận nội thành khác do trước đây các đường phố này thuộc địa phận tỉnh Hà Tây cũ và do chính quyền tỉnh cũ đặt Kinh tế. Quận Hà Đông có cơ cấu kinh tế chuyển dịch, với tỷ trọng công nghiệp xây dựng chiếm 53,5%, thương mại-dịch vụ-du lịch chiếm 45,5%, nông nghiệp chỉ còn 1,0%. Sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đã tiến những bước dài về quy mô, sản lượng, có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 3 năm (2005-2008) đạt 17,7%. Từ tháng 8 năm 2008 đến tháng 8/2009, Giá trị sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ngoài quốc doanh của quận Hà Đông đạt gần 1.821 tỷ đồng; tổng thu ngân sách nhà nước đạt 1.964,5 tỷ đồng. Văn hóa. Hà Đông có hơn 200 di tích lịch sử-văn hóa, trong đó có 83 di tích đã được xếp hạng, 47 lễ hội truyền thống, trong năm 2012, ước tính quận Hà Đông đón 52.300 lượt khách, trong đó có 11.750 lượt khách quốc tế. Theo Quyết định số 4597/QĐ-Ủy ban Nhân dân về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển du lịch thành phố Hà Nội đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Hà Đông là một trong 6 trọng điểm du lịch của Hà Nội. Cụm du lịch Hà Đông và phụ cận: Tập trung ở khu vực quận Hà Đông và các phụ cận. Các sản phẩm du lịch chủ vếu gồm: Du lịch làng nghề; Du lịch nghỉ cuối tuần; Du lịch văn hóa; Du lịch vui chơi giải trí. Làng nghề truyền thống. Hà Đông là một vùng đất có truyền thống và văn hóa lâu đời. Trên địa bàn quận có một số làng nghề nghề nổi tiếng sau: Làng lụa Vạn Phúc. Vạn Phúc (nay đổi thành phường Vạn Phúc) nằm ở phía bắc của Hà Đông. Làng Vạn Phúc xưa là làng Việt cổ (Nhất thôn, nhất xã) có nghề dệt lụa nổi tiếng từ lâu đời (hơn 1000 năm). Tương truyền Đức Thánh Thành Hoàng là Bà Ả Lã Nàng Đê - người có công lập làng, dạy dân nghề canh củi, Lụa Vạn Phúc đã đi vào ca dao tục ngữ, nổi tiếng khắp trong Nam, ngoài Bắc: ""The La, lụa Vạn, sồi Phùng" (the La Khê và lụa Vạn Phúc đều thuộc Hà Đông), "Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát, bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông"". Danh tiếng của lụa Hà Đông đã đi vào thi ca, âm nhạc và điện ảnh. Thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp Vạn Phúc còn là an toàn khu của Trung ương và Xứ ủy Bắc Kỳ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đặc biệt, tháng 12/1946 Hồ Chí Minh đã về ở và làm việc tại nhà ông Nguyễn Văn Dương. Tại đây, Hồ Chí Minh đã chủ trì Hội nghị Trung ương mở rộng của Đảng Cộng sản Việt Nam, quyết định phát động cuộc kháng chiến chống Pháp trên cả nước, vạch ra đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến và viết lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Làng rèn Đa Sỹ. Làng Đa Sỹ nằm ở sát phía nam trung tâm quận. Đây là một làng cổ có nghề rèn nổi tiếng và là một làng có truyền thống hiếu học. Dưới triều đại phong kiến Đa Sỹ là làng có nhiều người thi thố đỗ đạt cao. Trải qua các triều đại phong kiến, làng có tên cổ là Huyền Khê được đổi thành Đa Sỹ vì có nhiều người đỗ tiến sĩ. Đa Sỹ có 11 tiến sĩ, trong số này có hai người là trạng nguyên, một người là lưỡng quốc trạng nguyên. Đa Sỹ còn nổi tiếng bởi đức tính lao động cần cù sáng tạo. Với trí tuệ, tài năng, người Đa Sỹ tạo nên những sản phẩm rèn nổi tiếng phục vụ đời sống nhân dân. Các sản phẩm rèn Đa Sỹ từ con dao, cái kéo đến những sản phẩm nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp có mặt khắp mọi miền. Năm 2001, làng rèn Đa Sỹ đã được cấp bằng công nhận làng nghề truyền thống. Làng Đa Sỹ còn có nhiều bài thuốc nam có tác dụng bồi bổ cơ thể, khỏe thận tráng dương, những bài thuốc chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân rất hiệu nghiệm như: sốt rét, ngã nước, trúng độc, tiêu chảy, sài đẹn. Đây là những bài thuốc do Đức thánh Hoàng Lang - Danh nhân văn hóa - Danh y - Lương dược hầu - Người thầy thuốc quân y đầu tiên của quân đội Việt Nam, lương dược linh thông cư sĩ Hoàng Đôn Hòa nghiên cứu, sử dụng hiệu quả đóng góp công sức to lớn vào việc bảo vệ, chăm sóc súc khỏe binh lính và nhân dân. Hiệu quả của các bài thuốc nổi tiếng đến mức ông được vua Lê Thế Tông cử giữ chức Điều hộ lục quân, sau đó được gia phong chức thị nội Thái y viện thủ phiên và được nhà vua chọn làm phò mã gả con gái là Phương Anh công chúa. Làng dệt La Khê. Làng La Khê là một trong bảy làng La thuộc tổng La trước đây.  Làng từ xa xưa đã nổi tiếng là vùng đất tằm tơ, dệt lụa. Làng được hình thành từ thế kỷ thứ 5, lúc đầu có tên là La Ninh, "La" là lụa, "Ninh" là sự thịnh vượng, lâu bền. Ðất làng do phù sa sông Hồng, sông Ðáy, sông Nhuệ bồi đắp nên, vì vậy rất màu mỡ, thích hợp cho nghề trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ. Sang thế kỷ 15, làng La Ninh đổi thành La Khê (làng dệt lụa bên dòng sông nhỏ). Nhưng các sản phẩm dệt của làng vẫn còn thô sơ, chủ yếu là sồi, đũi, phục vụ cư dân chốn kinh kỳ Thăng Long xưa. Ðến đầu thế kỷ 17, người Hán ở vùng Lưỡng Quảng (Trung Quốc) sang Việt Nam mang theo nghề dệt thủ công. Trong số đó, có mười gia đình người Hoa đã đến lập nghiệp ở đất La Khê, đem nghề dệt the, sa nhuộm đen và công nghệ dệt tiên tiến dạy lại cho dân làng. Thời đó, hầu hết dân làng La Khê đều sống bằng nghề canh cửi. Các sản phẩm the, sa, vân, địa, quế, gấm vóc của La Khê với những họa tiết, hoa văn tinh xảo. So với sồi, đũi, loại hàng the, sa mỏng, nhẹ hơn, nhưng lại rất bền và đẹp, được lựa chọn để may trang phục cho các tầng lớp quý tộc trong xã hội phong kiến xưa. Làng La Khê nổi tiếng là làng Việt cổ trong "tứ quý danh hương Mỗ La Canh Cót". Người La Khê tự hào với truyền thống văn vật: "trai làng có quận công, tiến sĩ; gái làng có vương phi, hoàng hậu". La Khê là làng hiếu học, nhiều người đỗ đạt cao. Thời phong kiến có chín người đỗ tiến sĩ. Làng La Khê còn nổi tiếng với sản phẩm the tiến vua với hoa văn độc đáo. La Khê còn nổi tiếng với địa chỉ tín ngưỡng dân gian với Khu di tích Đình - Chùa - Bia Bà La Khê là nơi thờ bà Trần Thị Hiền (1511 - 1538), con gái cụ đô lục sĩ, dũng quận công Trần Chân. Bà là đệ nhị vương phi, vợ vua Mạc Thái Tông. Chùa Mậu Lương. Chùa Mậu Lương hay còn gọi là chùa Đại Bi tại phường Kiến Hưng, chùa tọa lạc trong khuôn viên có diện tích hơn 2.000m2, tổng thể mặt bằng kiến trúc bao gồm: tam quan, chùa chính, đền thờ, nhà tế, nhà khách và nhà hậu, được phân bố theo hình chữ Chi. Hệ thống tượng Phật bằng đất sơn son thếp vàng, niên đại sớm nhất là thế kỷ XVII. Chùa còn lưu giữ một số hoa văn điển hình và đặc trưng như phù điêu bia đời Cảnh Hưng với tên Đại Bi tự bi lục. Trán bia phía trước chạm rồng, kiểu nghệ thuật thời nhà Mạc, điểm xuyết quanh rồng là hạt tròn nổi cùng những cụm mây. Trán bia phía sau chạm phượng chầu mặt trăng, hình thức chạm phóng khoáng mang nét dân gian, cánh phượng như cánh chim, cánh gà bình thường, tượng trưng cho sự phồn thực, dân dã. Bia Bà. Bia Bà La Khê nổi tiếng với địa chỉ tín ngưỡng dân gian Bia Đức thánh Bà - nơi thờ bà Trần Thị Hiền con gái cụ đô lục sĩ, Dũng quận công Trần Chân. Bà là đệ nhị vương phi, vợ vua Mạc Đăng Doanh. Bà vừa xinh đẹp, dịu dàng vừa đức thục lại vừa đoan trang. Lúc còn sống Bà hay giúp đỡ người nghèo khó, hướng dẫn người dân cách làm ăn, mở mang nghề dệt... Trước khi mất Bà trao lại toàn bộ ruộng vườn, tài sản cho nhân dân. Năm Mậu Tuất (1538) bà đã yên nghỉ vĩnh hằng tại cánh đồng Vang - nơi mảnh đất quê hương. Tương truyền Bà rất linh thiêng, hay hiển linh tiếp tục giúp đỡ mọi người, nên tư đời này sang đời khác trải qua hơn 550 năm, nơi thờ phụng Bà được nhân dân quanh vùng sùng kính, nghi lễ trang nghiêm. Nhớ ơn công đức của Đức Bà nhân dân đã lập đền thờ Bà tại cổng làng. Năm 1982 dân làng La Khê đã rước tấm Bia về khu di tích La Khê để thờ phụng. Chùa Diên Khánh. Chùa có tên chữ là Diên Khánh tự, thuộc phường La Khê, quận Hà Đông. Chùa được xây dựng từ đời Lý. Đây là một ngôi chùa nổi tiếng trong vùng với vẻ đẹp mà ít có ngôi chùa nào có được. Chùa được xây dựng trên nền đất cao, khang trang, sáng sủa, kết cấu chắc chắn, mặt quay chính về hướng nam nhưng hơi chếch tây một vài độ, các công trình chủ yếu gồm Tam quan, Tiền đường và Thượng điện. Trong chùa còn giữ lại được nhiều di sản quý hiếm của dân tộc như: cụm văn bia từ đời Lê, chuông đồng đúc từ thời Cảnh Thịnh thứ 2, trên mặt chuông có khắc bài minh nổi tiếng của tiến sĩ Ngô Trọng Khuê (tức Ngô Duy Viên), có nhiều tượng phật quý hiếm niên đại rải rác từ đời Trần và đời Lê Sơ cho đến đầu thế kỷ 20 như: pho đức giáo chủ Bổn Sư bằng đá, đây là pho tượng có giá trị cao về nghệ thuật đời Lý, kế thừa nghệ thuật Gandhara, được xếp thứ 2 sau pho tượng ở Hà Bắc và nhiều pho tượng bằng gỗ có niên đại từ thời Mạc trải dài đến đầu thế kỷ 20. Chùa đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật năm 1989. Giao thông và cơ sở hạ tầng. Hà Đông là đầu mối của nhiều tuyến đường giao thông quan trọng đi các tỉnh phía Tây Bắc: Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên. Hà Đông có vị trí chiến lược cả về chính trị, kinh tế và quân sự. Tuyến đường sắt trên cao Hà Đông - Cát Linh thuộc dự án đường sắt đô thị Hà Nội chạy qua địa bàn quận. Giao thông của quận Hà Đông rất phong phú. Gồm có quốc lộ 6, quốc lộ 21B, Quốc lộ 21C, vành đai 3,5, vành đai 4... Tuyến đường sắt Bắc Hồng - Văn Điển được xây dựng từ năm 1982 cắt qua quận Hà Đông có 1 nhà ga là ga Hà Đông và giao cắt các tuyến đường như: Lê Trọng Tấn, ĐT72, Quang Trung, Ba La (QL21B). Hiện nay, trên địa bàn quận Hà Đông đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như khu đô thị Mỗ Lao, khu đô thị Văn Quán, khu đô thị Văn Khê, khu đô thị An Hưng, khu đô thị Văn Phú, khu đô thị Dương Nội, khu đô thị Đồng Mai, khu đô thị Thanh Hà, khu đô thị La Khê, khu đô thị Xa La, khu đô thị Geleximco, khu đô thị Lê Trọng Tấn, khu đô thị Kiến Hưng, khu đô thị Park City, khu đô thị Phú Lãm, khu đô thị Phú Lương, khu đô thị Usilk City, khu đô thị Văn La - Văn Khê, khu đô thị Nam La Khê - Bông Đỏ, khu đô thị Yên Nghĩa, khu đô thị Vạn Phúc, khu đô thị TSQ Galaxy, khu chung cư Ngô Thì Nhậm, làng Việt kiều Châu Âu Euroland, khu chung cư Samsora Premier 105, khu chung cư Hyundai Hillstate, khu chung cư TNR Goldsilk Complex... Các dự án đường sắt đô thị Hà Nội đi qua địa bàn quận là các tuyến số 2A (Cát Linh - Hà Đông), tuyến số 6 (Nội Bài - Ngọc Hồi), tuyến số 7 (Mê Linh - Ngọc Hồi), trong đó tuyến số 2A chính thức vận hành vào quý IV-2021. Hệ thống đường sắt đô thị. Tuyến số 2A: (Quận Thanh Xuân) ← Ga Phùng Khoang - Ga Văn Quán - Ga Hà Đông - Ga La Khê - Ga Văn Khê - Ga Yên Nghĩa Danh nhân Hà Đông. Vốn là vùng đất tú quý danh hương, lại gần kinh kỳ, nên xưa, nay vùng đất Hà Đông cũng đã xuất hiện nhiều bậc hiền tài, thi thố đỗ đạt đại khoa thời phong kiến hoặc nổi tiếng là nhà văn, nhà thơ, nhà khoa học, nhà quân sự lỗi lạc thời hiện đại. Có thể kể ra đây một vài nhân vật tiêu biểu: Y tế. Một số bệnh viện đóng tại địa bàn Hà Đông: Giáo dục. Một số trường Đại học, Học viện và Cao đẳng đóng tại địa bàn Quận Hà Đông:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.683815
Địa lý & Hành chính
null
null
Quận lỵ (tiếng Anh: "county seat") là trung tâm quản lý một quận, nhiều khi là thành phố lớn nhất, ở nhiều quốc gia. Việt Nam. Thời Việt Nam Cộng hòa, Quận là đơn vị hành chính trực tiếp dưới tỉnh (bất kể là khu vực đô thị hay thôn quê) và quận lỵ được dùng để chỉ lỵ sở của đơn vị đó. Quận lỵ được đặt trong một xã, nhưng chỉ một phần của một xã. Ngày nay tại Việt Nam, quận là đơn vị hành chính trực thuộc một thành phố trực thuộc trung ương và chỉ dành cho khu vực thành thị (bên cạnh huyện dành cho khu vực nông thôn). Khái niệm quận lỵ (trung tâm quận) ít còn được dùng nhưng khái niệm huyện lỵ (trung tâm huyện) vẫn còn được dùng. Hoa Kỳ & Canada. Ở những tiểu bang vùng Tân Anh của Hoa Kỳ và những Tỉnh Duyên hải tại Canada, danh từ "shire town" cũng được dùng, nhưng chỉ được sử dụng chính thức ở Vermont. Các quận ở Louisiana được gọi là "parish" (nguyên nghĩa là giáo xứ do ảnh hưởng lịch sử của Giáo hội Công giáo từ thời thuộc Pháp và Tây Ban Nha). Trong khi đó Alaska dùng "borough" (tức là khu vực lớn của tiểu bang). Lỵ sở của "parish" gọi là "parish seat" và "borough" là "borough seat". Tỉnh Ontario của Canada, ngoài "quận" còn dùng những danh từ như "territorial district" (lãnh khu), "district municipality" (thị xã khu vực), "metropolitan municipality" (thị xã đô thành), và "regional municipality" (thị xã vùng), tất cả đều tương đương với quận. Anh. Ở Anh, Wales, và Ireland, "county town" được sử dụng. Thuật ngữ này chỉ phổ biến ở Scotland và Bắc Ireland, nhưng hai xứ này của Anh nay không còn chia ra thành quận nữa – thay vì đó, nó được chia ra thành miền và huyện.
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.817281
Địa lý & Hành chính
null
null
Bão là trạng thái nhiễu động của khí quyển và là 1 loại hình thời tiết cực đoan. Ở Việt Nam, thuật ngữ "bão" thường được hiểu là bão nhiệt đới, là hiện tượng thời tiết đặc biệt nguy hiểm chỉ xuất hiện trên các vùng biển nhiệt đới, thường có gió mạnh và mưa lớn. Tuy thế, thuật ngữ này rộng hơn bao gồm cả các cơn dông và các hiện tượng khác hiếm gặp ở Việt Nam như bão tuyết, bão cát, bão bụi,lốc xoáy... Bão là xoáy thuận quy mô synop (500-1000 km) không có frông, phát triển trên miền biển nhiệt đới hay cận nhiệt đới ở mực bất kỳ và có hoàn lưu xác định. Trong không gian ba chiều, bão là 1 cột xoáy khổng lồ, ở tầng thấp (khoảng 0–3 km) không khí nóng ẩm chuyển động xoắn trôn ốc ngược chiều kim đồng hồ (ở Bắc Bán Cầu) hội tụ vào tâm, chuyển động thẳng đứng lên trên trong thành mắt bão và toả ra ngoài ở trên đỉnh theo chiều ngược lại. Ở chính giữa trung tâm của cơn bão không khí chuyển động giáng xuống, tạo nên vùng quang mây ở mắt bão. Các thành phần chính của bão bao gồm các dải mưa ở rìa ngoài, mắt bão nằm ở chính giữa và thành mắt bão nằm ngay sát mắt bão. Giá trị khí áp nhỏ nhất tại tâm bão và tăng dần ra phía rìa bão. Càng vào gần tâm, cường độ gió bão càng mạnh, khu vực tốc độ gió mạnh nhất cách tâm bão khoảng vài chục km. Vào vùng mắt bão gió đột ngột yếu hẳn, tốc độ gió gần như bằng 0. Khi qua khỏi vùng mắt bão gió lại đột ngột mạnh lên nhưng có hướng ngược lại, đây chính là tính chất ảnh hưởng nguy hiểm nhất của bão. Xoáy thuận nhiệt đới. Các cơn bão thường hình thành khi 1 tâm áp thấp phát triển với 1 hệ thống áp cao xung quanh nó. Sự kết hợp của các lực đối nghịch có thể sinh ra gió và hình thành các đám mây bão, chẳng hạn mây vũ tích. Một định nghĩa khí tượng chặt về 1 cơn bão là có cấp gió Beaufort formula_110 (89 km/h). Ở Việt Nam, gió xoáy có cấp Beaufort từ 6 - 7 trên 1 diện rộng gọi là áp thấp nhiệt đới. Gió xoáy từ cấp 8 trở lên trên 1 diện rộng, có thể kèm theo mưa lớn gọi chung là bão. Ngoài thang sức gió Beaufort, còn dùng các thang khác như thang bão Saffir-Simpson. Ở Việt Nam, do hầu như không có bão mạnh đến mức cần sử dụng thang bão Saffir-Simpson, nên người ta chỉ cần sử dụng thang sức gió Beaufort để mô tả sức mạnh của chúng là đủ. Các thang sức gió giúp phân loại bão theo cường độ gió kéo dài, theo áp suất tâm bão, theo mức độ tàn phá, mức độ gây ngập lụt... Bão trong vũ trụ. Bão trong vũ trụ là dòng các vật chất trôi dạt trong vũ trụ, tập trung chuyển động tương đối theo cùng 1 hướng. Trong khoa học khí tượng-thiên văn, bão trong vũ trụ thường được hiểu là các bão vật chất chuyển động trong phạm vi Hệ Mặt Trời. Ví dụ như Vết Đỏ Lớn trên Sao Mộc hay Cơn Bão Trẻ.
17
17_bão_cơn_đới_nhiệt
0.899791
Địa lý & Hành chính
null
null
Chí Linh là một thành phố nằm ở phía bắc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Địa lý. Vị trí địa lý. Thành phố Chí Linh nằm ở phía bắc của tỉnh Hải Dương, nằm cách thành phố Hải Dương khoảng 40 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về phía đông bắc, có vị trí địa lý: Chí Linh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, có đường giao thông thuận lợi. Đường bộ có quốc lộ 18 chạy dọc theo hướng đông - tây qua trung tâm thành nối liền Hà Nội - Quảng Ninh, đường Quốc lộ 183 nối Quốc lộ 5 và đường 18, đường 37 là đường vành đai chiến lược quốc gia từ trung tâm thành phố đi tỉnh Bắc Giang. Đường thủy có chiều dài 40 km đường sông bao bọc phía đông, tây, nam của thành phố thông thương với Hải Phòng, Bắc Giang, Bắc Ninh. Điều kiện tự nhiên. Phía bắc và đông bắc của thành phố là vùng đồi núi thuộc cánh cung Đông Triều, ba mặt còn lại được bao bọc bởi sông Kinh Thầy, sông Thái Bình và sông Đông Mai. Thành phố có diện tích tự nhiên 282,91 km², là đơn vị hành chính cấp huyện có diện tích lớn nhất tỉnh. Trong đó, 13 xã, phường là miền núi, chiếm 76% diện tích và 56% dân số của toàn thành phố. Dân số: Năm 2002, huyện Chí Linh có 146.752 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên 9,48%, cơ cấu dân số: Số lao động làm việc trong các ngành: 71.925 người, trong đó: Lao động do cấp huyện là 65.558 người, trong đó: Địa hình: Thành phố Chí Linh đa dạng phong phú, có diện tích đồi núi, đồng bằng xen kẽ, địa hình dốc bậc thang từ phía bắc xuống phía nam, nhìn chung địa hình chia làm 3 tiểu vùng chính: Khí hậu: Do đặc điểm của địa hình, địa mạo nên khí hậu Chí Linh được chia làm 2 vùng: Thủy văn: Chí Linh là nơi: Thành phố Chí Linh có nguồn nước phong phú bởi có sông Kinh Thầy, Thái Bình, Đông Mai bao bọc, có kênh mương trung thủy nông từ Phao Tân đến An Bài dài 15,5 km chạy qua những cánh đồng canh tác chính của huyện, có nguồn nước của nhà máy điện Phả Lại cung cấp quanh năm. Ngoài ra còn có 33 hồ đập với tổng diện tích tự thủy 409 ha, đặc biệt có nguồn nước ngầm sạch trữ lượng lớn. Đất đai: Tổng diện tích của thành phố Chí Linh là 29.618 ha, chia ra: Đất Chí Linh được hình thành từ 2 nhóm chính, nhóm đất đồi núi được hình thành tại chỗ, phát triển trên các đá sa thạch; nhóm đất thủy thành do phù sa sông Kinh Thầy và Thái Bình bồi tụ. Theo tài liệu của Viện nông hoá thổ nhưỡng Việt Nam, đất nông nghiệp được phân loại như sau: Rừng: Thành phố Chí Linh có 14.470 ha đất đồi rừng, trong đó rừng trồng 1.208 ha, rừng tự nhiên 2.390 ha. Rừng tự nhiên có nhiều loại gỗ quý, ước khoảng 140.000 m³, có nhiều loại động thực vật đặc trưng cung cấp nguồn dược liệu cho y học. Rừng trồng chủ yếu là keo tai tượng, bạch đàn và rừng thông thuộc khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc. Khoáng sản: Thành phố Chí Linh tuy không nhiều về chủng loại, nhưng có loại có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế như: đất Cao lanh trữ lượng 40 vạn tấn, sét chịu lửa 8 triệu tấn, đá, cát vàng xây dựng, mỏ than nâu trữ lượng hàng tỉ tấn. Lịch sử. Địa danh Chí Linh gắn với nhiều nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc như Dương Huy, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Thị Duệ, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Thái Học, Mạc Đĩnh Chi, Mạc Hiển Tích, Trần Khánh Dư, Trần Quốc Chẩn, Trần Ích Phát, 5 đức Thánh họ Vương, Pháp Loa, Huyền Quang... Chí Linh được hình thành từ lâu đời, đến thời Hậu Ngô Vương vùng núi Côn Sơn với lợi thế về vị trí địa lý đã trở thành căn cứ quân sự lớn của Dương Huy mà đích thân vua Ngô Xương Văn phải đem quân đánh dẹp. Thu phục được Dương Huy, Ngô Xương Văn vẫn cho ông giữ chức thứ sử cũ và cai quản vùng đất châu Vũ Ninh. Năm 965, vua Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất, các tướng ở khắp nơi nổi lên để cùng tranh giành ngôi Vua. Lịch sử gọi đó là loạn 12 sứ quân. Tuy nhiên, cánh quân của Dương Huy không nằm trong danh sách 12 sứ quân. Vì cánh quân của ông và địa bàn của ông bị cánh quân của Nguyễn Thủ Tiệp đánh bại, vùng đất của ông bị Nguyễn Thủ Tiệp chiếm và tự xưng Vũ Ninh Vương. Thời điểm xảy ra loạn 12 sứ quân, vùng đất Chí Linh nằm trong địa phận quản lý của sứ quân Nguyễn Thủ Tiệp. Năm 981 vua Lê Đại Hành đã chọn An Lạc, Tân Dân là cơ sở chỉ huy chống quân xâm lược Tống tại đất Doanh Vạn (Ải Vạn), Vua Lê Hoàn dựng đại bản doanh tại Đồng Dinh, đặt Nội Xưởng làm nơi rèn vũ khí, khí giới, đặt Bàn Cung trên núi Bàn Cung để làm nơi bàn bạc việc quân cơ với các tướng lĩnh, núi Doanh Vạn được chọn để cắm cờ hiệu, núi Sơn Đụn là nơi tích trữ, cất giấu lương thực nuôi quân…Từ đại bản doanh này, cuối tháng 4 năm 981, Vua Lê Hoàn đã chỉ huy quân Đại Cồ Việt đánh thắng trận Bạch Đằng, giết chủ tướng giặc Hầu Nhân Bảo cùng hàng vạn quân giặc vùi xác dưới đáy Bạch Đằng giang và giành chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược cuối mùa xuân năm 981. Đến thế kỷ XIII, vùng đất Chí Linh lại một lần nữa được lựa chọn trở thành đại bản doanh chống quân Nguyên Mông và là chiến trường nơi diễn ra trận đánh Vạn Kiếp nổi tiếng trong lịch sử thời nhà Trần, dưới sự chỉ huy Trần Quốc Tuấn. Đại bản doanh và chiến trường Vạn Kiếp năm xưa, nay thuộc xã Hưng Đạo, nằm phía tây bắc của thành phố. Trong 3 cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, Vạn Kiếp có vai trò lớn trong 2 cuộc kháng chiến lần 2 năm 1285 và lần 3 cuối năm 1287 đầu năm 1288. Trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông lần 2 năm 1285, Vạn Kiếp diễn ra một trận đánh lớn khi quân Nguyên theo đường bộ từ Lạng Sơn kéo về Thăng Long, làm tiêu hao sinh lực địch. Tổng cộng quân số của Vua tôi nhà Trần do Vua Trần Nhân Tông và Trần Hưng Đạo chỉ huy ở chiến trận Vạn Kiếp lên tới gần 30 vạn quân, còn quân của Thoát Hoan lên tới gần 50 vạn quân. Tại Vạn Kiếp, Trần Hưng Đạo đã bài binh bố trận sẵn để đợi địch. Trần Hưng Đạo lựa chọn các tướng dũng mãnh Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái giao chỉ huy đạo quân này. Vùng Vạn Kiếp có địa thế đồi núi giáp đường giáp sông, quân ta chiếm địa thế đánh cắt ngang vào đội hình địch khiến đầu cuối không cứu được nhau. Tiền quân của địch bị đánh ở Vạn Kiếp còn trung quân của địch cũng vẫn chưa qua được sông Lục Đầu cũng bị quân ta đánh mạnh khiến địch hoảng loạn dẫm đạp lên nhau khiến cầu phao bị đứt khiến rất nhiều quân lính bị chết dưới sông. Trải qua các thời kỳ phong kiến Chí Linh đã được nhiều triều đại chọn là nơi xây dựng cung thành, tỉnh lỵ như thành Phao (Phả Lại) – đời nhà Mạc, thành Vạn (Tân Dân) trong vòng ba thế kỷ từng là trung tâm hành chính của thừa tuyên Hải Dương. Theo lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú dưới triều Lê Thánh Tông, “Quang thuận thứ 10 (1469) Lỵ sở Hải  Dương đặt tại Mạc Động, tục gọi Dịnh Vạn (tức cánh đồng Dinh bên bến Vạn). Lỵ sở Mạc Động có thành Vạn, trong thành có chợ, trên bến dưới thuyền, dân chúng khắp nơi họp chợ buôn bán tấp nập,đông vui, ở đây còn có đò ngang qua sông”. Chí Linh còn có tên gọi là Bằng Châu hay Bằng Hà sau đó đổi tên là Phượng Hoàng và sau này là Chí Linh. Đến thơi Đồng Khánh Chí Linh Có 7 tổng 65 thôn. Tháng 6 năm 1886, thực dân Pháp thành lập Nha Chí Linh thuộc phủ Nam Sách. Sau Cách mạng tháng 8, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặt thành huyện Chí Linh. Tháng 4 năm 1947, huyện Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Hồng; tháng 11 năm 1948, Chí Linh thuộc tỉnh Quảng Yên; từ tháng 2 năm 1955, Chí Linh thuộc tỉnh Hải Dương, ban đầu gồm thị trấn Phả Lại, thị trấn nông trường Chí Linh và 20 xã: An Lạc, Bắc An, Cẩm Lý, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đan Hội, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức, Vũ Xá. Ngày 21 tháng 1 năm 1957, chuyển 3 xã: Vũ Xá, Cẩm Lý, Đan Hội về huyện Lục Nam, tỉnh Bắc Giang quản lý. Ngày 27 tháng 3 năm 1978, thành lập thị trấn Sao Đỏ, thị trấn huyện lỵ huyện Chí Linh. Ngày 16 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 19-CP. Theo đó, sáp nhập 3 thôn Phao Sơn, Thạch Thủy và Bình Giang của xã Cổ Thành vào thị trấn Phả Lại. Ngày 14 tháng 1 năm 2002, giải thể thị trấn nông trường Chí Linh và thành lập thị trấn Bến Tắm trên cơ sở 412,88 ha diện tích tự nhiên và 5.703 nhân khẩu của xã Bắc An. Ngày 24 tháng 9 năm 2009, thị trấn Sao Đỏ được công nhận là đô thị loại IV. Cuối năm 2009, huyện Chí Linh có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 3 thị trấn: Sao Đỏ (huyện lị), Phả Lại, Bến Tắm và 17 xã: An Lạc, Bắc An, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức. Ngày 12 tháng 2 năm 2010, Chính phủ ban hành Nghị quyết 09/NQ-CP. Theo đó: Sau khi thành lập, thị xã Chí Linh có 28.202,78 ha diện tích tự nhiên và 164.837 người với 20 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 8 phường: Bến Tắm, Chí Minh, Cộng Hòa, Hoàng Tân, Phả Lại, Sao Đỏ, Thái Học, Văn An và 12 xã: An Lạc, Bắc An, Cổ Thành, Đồng Lạc, Hoàng Hoa Thám, Hoàng Tiến, Hưng Đạo, Kênh Giang, Lê Lợi, Nhân Huệ, Tân Dân, Văn Đức. Ngày 25 tháng 6 năm 2015, thị xã Chí Linh được công nhận là đô thị loại III. Ngày 10 tháng 1 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 623/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 3 năm 2019). Theo đó: Sau khi thành lập, thành phố Chí Linh có 282,91 km² diện tích tự nhiên và 220.421 người với 19 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 14 phường và 5 xã. Hành chính. Thành phố Chí Linh có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường: An Lạc, Bến Tắm, Chí Minh, Cổ Thành, Cộng Hòa, Đồng Lạc, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Phả Lại, Sao Đỏ, Tân Dân, Thái Học, Văn An, Văn Đức và 5 xã: Bắc An, Hoàng Hoa Thám, Hưng Đạo, Lê Lợi, Nhân Huệ. Xã hội. Giáo dục. Ngoài ra còn có Trường Đại học Sao Đỏ, trên 120 cơ quan đơn vị, nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp đóng trên địa bàn. Du lịch. Thành phố Chí Linh có phong cảnh đẹp và nhiều di tích lịch sử từ cấp địa phương đến cấp quốc gia. Trong đó có thể kể đến: Các di tích, danh thắng và cảnh trí thiên nhiên tuyệt vời như núi Nam Tào, Bắc Đẩu, Lục Đầu Giang... tạo thành cụm du lịch lớn của tỉnh, bên cạnh các di tích lịch sử và thắng cảnh thiên nhiên còn có sân golf Ngôi Sao Chí Linh. Giao thông. Có quốc lộ 18, quốc lộ 37 chạy qua. Ngoài ra còn có dự án đường cao tốc Nội Bài – Bắc Ninh – Hạ Long, đường sắt Yên Viên - Cái Lân hiện đang được đầu tư xây dựng. Để đến Chí Linh, bạn có thể đi bằng nhiều phương tiện khác nhau như xe máy, ô tô, xe buýt... Có 3 tuyến xe buýt đi qua Chí Linh. Bến xe Bắc Ninh - Sao Đỏ (xe buýt Bắc Ninh) TP. Hải Dương - TP. Uông Bí (xe buýt Hải Dương) TP. Hải Dương - Bắc Giang (xe buýt Hải Dương) Danh nhân. Địa danh Chí Linh gắn với tên tuổi của các nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc sau: Làng nghề. Các làng nghề, ngành nghề ở Chí Linh chủ yếu phát triển ở nhóm sản xuất vật liệu xây dựng như:
0
0_xã_dân_huyện_thị
0.654993
Địa lý & Hành chính
null
null
Phù Mỹ là một huyện ven biển thuộc tỉnh Bình Định, Việt Nam. Địa lý. Huyện Phù Mỹ nằm ở phía đông tỉnh Bình Định, có vị trí địa lý: Theo thống kê năm 2019, huyện có diện tích 549 km², dân số là 161.563 người, mật độ dân số đạt 294 người/km². Địa hình. Huyện được chia thành 3 khu vực địa lý là: Ngoài ra, huyện Phù Mỹ còn có 5 đảo nhỏ không có người sinh sống đó là Hòn Lao (hay Hòn Trâu Nằm) nằm phía đông nam xã Mỹ Thành; cụm 3 đảo Hòn Tranh (hay Hòn Quy), Hòn Đụn (hay Đảo Đồn còn có tên nữa là Hòn Nước) và Hòn Nhàn nằm phía đông Thôn Tân Phụng xã Mỹ Thọ; một đảo nữa của huyện là Hòn Khô nằm phía đông xã Mỹ Đức từ Hà Ra nhìn theo hướng Đông Nam. Phù Mỹ có nhiều món ăn đặc sản như: bún tôm, bánh tráng... Môi trường. Hiện nay, việc khai thác titan đã để lại những hậu quả đối với môi trường khu vực phía đông huyện Phù Mỹ mà đặc biệt là tại xã Mỹ Thành. Khai thác titan đã tàn phá những rừng dương gây nên tình trạng cát bay đồng thời tạo ra những khu vực nhiễm phóng xạ vượt mức cho phép nhiều lần cùng tình trạng nguồn nước ngầm bị ô nhiễm. Một vài khu công nghiệp được hình thành nếu không quản lý tốt thì sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường và đời sống của nhân dân quanh vùng. Lịch sử. Phù Mỹ cũng như Bình Định trước đây thuộc nền văn hóa Sa Huỳnh, sau đó thuộc sứ Việt Thường Thị rồi sau này thuộc về vương quốc Champa. Năm 1471, sau khi đánh phá Chiêm Thành và mở bờ cõi đến núi Thạch Bi (Phú Yên), vua Lê Thánh Tông đã đặt phủ Phù Ly để cai quản những cư dân Chiêm Thành còn ở lại và những tù nhân hay dân nghèo miền bắc được đưa vào. Sau này qua mấy lần nhập tách thì Phù Ly được chia làm đôi thành Phù Cát và Phù Mỹ lấy dòng sông La Tinh làm ranh giới. Năm 1939, Phù Mỹ được nâng cấp lên thành cấp phủ, với 6 tổng: An Bình, Bình Thành, Hòa Lạc, Trung Bình, Trung Thành, Vạn Định. Sau Cách mạng tháng 8-1945, phủ và các tổng ở Phù Mỹ được đặt lại tên theo tên các chiến sĩ yêu nước nổi tiếng ở địa phương. Năm 1946 bỏ cấp tổng, lấy lại tên huyện như cũ, Phù Mỹ lúc này có 37 xã. Đến cuối năm 1947 đầu năm 1948 dồn lại còn 14 xã: Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thành, Mỹ Thọ, Mỹ Thắng, Mỹ Trinh. Trước năm 1975, chính quyền Sài Gòn đổi huyện Phù Mỹ thành quận, đổi thôn thành ấp, điều chỉnh một số địa danh, địa giới hành chính, toàn Phù Mỹ khi ấy có 115 ấp. Sau năm 1975, lấy lại đơn vị hành chính là huyện, thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 14 xã: Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thọ và Mỹ Trinh. Ngày 29 tháng 10 năm 1983, chia xã Mỹ Thắng thành 2 xã: Mỹ Thắng và Mỹ An. Ngày 19 tháng 2 năm 1986, chia xã Mỹ Đức thành 2 xã: Mỹ Đức và Mỹ Châu. Năm 1989, huyện Phù Mỹ thuộc tỉnh Bình Định vừa tái lập. Ngày 14 tháng 12 năm 1991, thành lập thị trấn Phù Mỹ (thị trấn huyện lị huyện Phù Mỹ) trên cơ sở 303 ha diện tích tự nhiên và 4.286 nhân khẩu của xã Mỹ Quang, 317 ha diện tích tự nhiên và 2.176 nhân khẩu của xã Mỹ Trinh, 407 ha diện tích tự nhiên và 2.515 nhân khẩu của xã Mỹ Hòa. Ngày 19 tháng 4 năm 2002: Hiện nay, huyên Phù Mỹ có 2 thị trấn và 17 xã. Hành chính. Huyện Phù Mỹ có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Phù Mỹ (huyện lỵ), Bình Dương và 17 xã: Mỹ Cát, Mỹ Chánh, Mỹ Chánh Tây, Mỹ Châu, Mỹ Đức, Mỹ Hiệp, Mỹ Hòa, Mỹ Lộc, Mỹ Lợi, Mỹ An, Mỹ Phong, Mỹ Quang, Mỹ Tài, Mỹ Thắng, Mỹ Thành, Mỹ Thọ và Mỹ Trinh. Kinh tế. Kinh tế của huyện chủ yếu là nông nghiệp. Nhều xã có thổ nhưỡng là đất cát pha thích hợp cây kiệu nên nông dân trồng nhiều kiệu. Ngoài ra, các xã ven biển có nghề làm muối, nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản. Công nghiệp chưa phát triển, các làng nghề tiểu thủ công nghiệp chỉ nổi tiếng trong địa phương ít tạo được thương hiệu lớn. Một số di tích lịch sử và tự nhiên tuyệt đẹp nhưng chưa được chú ý để phát triển du lịch. Nhà máy điện năng lượng mặt trời (Mỹ An, Mỹ Thắng) là nhà máy điện lớn nhất Nam Trung Bộ. Cảng Long Sơn (Mỹ An) & Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) là 2 trong 4 cảng lớn nhất của Bình Định. Hiện nay, công nghiệp ở huyện Phù Mỹ đang hình thành và phát triển. Các cụm công nghiệp đã hình thành: Văn hóa - du lịch. Thắng cảnh và di tích. Thắng cảnh của Phù Mỹ tuy hoang sơ nhưng đẹp như: Chùa Hang Mỹ Hoà, Giếng Tiên và di tích lịch sử Đèo Nhông, đặc biệt phía đông là một vùng biển đẹp kéo dài từ Vĩnh Lợi (Mỹ Thành) đến cửa tấn Hà Ra (Mỹ Đức). Trong đó bờ biển Mỹ Thọ với thắng cảnh Mũi Rồng, Bãi Bàng, Hải Đăng thuộc thôn Tân Phụng thu hút nhiều khách tham quan của các xã lân cận. Giao thông. Huyện Phù Mỹ có 2 ga tàu hỏa (nhỏ) thuộc tuyến đường sắt Bắc-Nam gồm ga Vạn Phú (xã Mỹ Lộc) và ga Phù Mỹ (thị trấn Phù Mỹ). Huyện Phù Mỹ có Quốc lộ 1 chạy qua. Ngoài ra còn các đường tỉnh lộ và huyện lộ, đặc biệt là tuyến đường ven biển tỉnh lộ.
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Phú Quý là một huyện đảo thuộc tỉnh Bình Thuận, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, Việt Nam và là một quần đảo gồm 12 đảo lớn nhỏ, là hệ thống đảo ở cực Nam Trung Bộ. Địa lý. Phú Quý ở tọa độ 108o55' đến 108o58' kinh Đông và từ 10o29' đến 10o33' vĩ Bắc, khoảng cách tới các vùng lân cận như sau: Khí hậu, Thủy văn. Chế độ khí hậu gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa gió Nam, bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 8 và mùa gió Bấc từ tháng 9 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.000 đến 1.100mm. Nhiệt độ không khí trung bình 22oC đến 28oC. Độ ẩm không khí từ 72 đến 88%. Khí hậu tương đối ôn hòa, mát mẻ quanh năm. Tốc độ gió ở Phú Quý là khá lớn, trung bình năm là 6 m/giây (cấp 4). Vùng đảo ít có bão, tần suất là 0,66 lần/năm, nhưng thường xuyên chịu ảnh hưởng trực tiếp các đợt áp thấp nhiệt đới gây mưa to, gió lớn, biển động mạnh. Trên đảo chỉ có những dòng chảy tạm thời vào mùa mưa. Thủy triều ở vùng này thuộc thủy triều hỗn hợp, độ lớn triều trung bình 1,6 m, lớn nhất 2,2 m, nhỏ nhất 0,3 m. Độ mặn của nước biển 34 – 34,2%o. Địa hình và Địa chất. Địa hình trên đảo tương đối bằng phẳng, thuộc dạng gò đồi, độ phân cắt yếu, nhưng vẫn thể hiện tính phân bậc khá rõ ràng. Ngoài 3 ngọn núi cao 108m, 86 m và 46 m, ở trung tâm đảo có những dãy đồi cao 20 - 30 m, 15 - 20 m, còn ven đảo thường cao khoảng 5m, đến 7 - 8m, thấp nhất khoảng 2m. Thềm biển phổ biến có độ cao 4m và 2m, cũng phát triển nhiều bãi cát, doi cát, là các bãi tắm đẹp. Nhiều lạch, mũi đá nhô ra biển tạo nên đường bờ đảo đa dạng về hình thái. Trên đảo và trong phạm vi khu vực xung quanh đảo, hiện nay còn nhìn thấy dấu tích của 4 miệng núi lửa dưới nước và 2 chóp núi lửa ở trên đảo là núi Cấm, núi Ông Đụn. Núi Cao Cát là phần sót lại của chùy núi lửa, còn được bảo tồn tốt, ở sườn phía Đông tạo thành vách dốc đứng tạo thế đứng hùng vĩ, còn trên đỉnh có những khối đá trầm tích-phun trào núi lửa với những hình dáng kỳ vĩ do thiên nhiên ngàn năm tạo lập mà ít nơi có được.   Hành chính. Huyện đảo Phú Quý có 3 đơn vị hành chính cấp xã: Ngũ Phụng (huyện lỵ), Tam Thanh và Long Hải. Hiện nay, trung tâm huyện lỵ Phú Quý đạt chuẩn đô thị loại V. Lịch sử. Đã từ lâu đảo Phú Quý trở nên rất quen thuộc với nhiều người qua sử sách xưa dưới nhiều tên gọi: Cổ Long, Thuận Tịnh, Cù Lao Khoai Xứ, Cù Lao Thu... Các nhà hàng hải phương Tây thường gọi đảo Phú Quý là Poulo-Cécir-de-Mer. Từ năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) vì tiềm năng kinh tế dồi dào và số lượng đặc sản đáng kể biệt nạp cho Triều đình Huế, đảo được đổi tên từ Tổng Hạ sang Tổng Phú Quý trực thuộc huyện Tuy Phong, phủ Ninh Thuận, tỉnh Bình Thuận. Tuy là một hòn đảo nằm biệt lập giữa trùng dương nhưng dấu tích phát hiện được cho thấy đảo đã được khai phá tạo nên cuộc sống ở đảo từ rất sớm. Trong quá trình khai thác đá quánh, nhân dân đã tìm thấy những mộ vò lớn. Trong mộ có chôn theo một số công cụ lao động như rìu, bôn và cả những chiếc vòng đeo tay bằng đá với kỹ thuật chế tác rất tinh xảo. Điều này phù hợp với những giai thoại được lưu truyền rằng trước khi có sự khai phá thiên nhiên của những con người từ lục địa, ở đây đã có một giống người Thượng sinh sống bằng nghề hái lượm và bắt cá ven biển. Trải qua những biến thiên của lịch sử, Phú Quý là nơi hội tụ của nhiều luồng dân di cư từ lục địa ra với nhiều thành phần dân tộc khác nhau. Trong đó người Kinh đóng vai trò chủ thể. Khi bắt đầu phát triển mạnh kỹ thuật đóng thuyền buồm với những chiếc thuyền ra được khơi xa thì cũng là lúc có nhiều người từ lục địa đặt chân lên đảo. Cùng với những phần mộ còn sót lại trên đảo, sự tích công chúa Bàn Tranh chứng tỏ người Chăm đã có mặt ở đảo này. Sự tích kể rằng: Bàn Tranh là một công chúa xinh đẹp vì chống lệnh vua cha nên bị kết tội phản nghịch và bị đày ra đảo. Bên cạnh đó, do không chịu nổi sự hà khắc của chế độ nông nô, bất mãn với triều đình phong kiến, nhiều người đã tìm đường ra đây lập kế sinh nhai. Người Kinh có mặt ở đảo cũng từ rất sớm. Trong thời kỳ Trịnh-Nguyễn phân tranh (1627-1672), rất nhiều ngư dân thuộc các tỉnh duyên hải miền trung, hoặc chạy giặc lánh nạn, hoặc đi tìm nguồn cá, thuyền của họ vượt sóng trùng dương đã gặp phải những trận cuồng phong khốc liệt và "xiêu" lên đảo. Cùng với người Kinh, một số người Hoa cũng hòa nhập vào cộng đồng cư dân ở Phú Quý. Vào thế kỷ 17, một số quan lại nhà Minh sau khi chống nhà Thanh thất bại, đã phải trốn ra nước ngoài. Từng đoàn thuyền vượt biển tiến về phía nam, trong số đó có hàng chục thuyền đã quyết định dừng chân lập nghiệp ở Phú Quý. Người Hoa đến đây sống dựa vào các ngành nghề như dệt tơ lụa, buôn bán. Quá trình phát triển về sau, một số người do làm ăn trở nên giàu có đã lần lượt tìm vào các thành phố lớn ở đất liền, chỉ một số ít còn lại trên đảo. Khi dân cư ngày một đông hơn thì các hình thức tổ chức xã hội cũng dần dần được hình thành. Vào thời chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765), chính quyền Đàng Trong đã tổ chức trên đảo thành từng hộ bạch bố đến đội bạch bố rồi dần dần trở thành ấp và làng. Tuy số dân lúc bấy giờ chưa đông đúc nhưng Phú Quý có đến 14 làng và 1 ấp. Mỗi làng được lập trên cơ sở một nhóm nhỏ ngư dân, đôi lúc chỉ có từ 10 đến 12 tránh đinh và thường mang những tên cũ của địa phương trước khi đến đây lập nghiệp: Thoại Hải, Thế Hanh, Thế An, Hội Thiên, Hội Hưng, Hương Lăng, Mỹ Xuyên, Phú Ninh, An Hòa, Hải Châu, Thương Hải, Triều Dương, Hội An, Mỹ Khê và ấp Quý Thạnh. Từ niên hiệu Đồng Khánh - Đồng Khánh năm thứ 1 (1886), toàn đảo được tổ chức thành 11 làng và đến năm 1930 do sự sáp nhập ba làng Phú Ninh vào Phú Mỹ và Hương Lăng vào Quý Thạnh nên chỉ còn lại 9 làng: Long Hải, Phú Mỹ, An Hòa, Hải Châu, Thương Hải, Quý Thạnh, Triều Dương, Mỹ Khê và Hội An. Hiện nay, đảo được chia làm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng, Tam Thanh. Phú Quý trong một thời gian dài đã sống trong điều kiện khép kín tự cung tự cấp với những hoạt động kinh tế như trồng trọt, đánh bắt hải sản, một số ngành nghề thủ công như dệt vải, đan võng, ép dầu... Trong đó, ngư nghiệp đóng vai trò chủ đạo. Ngày 27 tháng 4 năm 1977, huyện đảo Phú Quý chính thức được thành lập theo Quyết định số 329-CP của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở đảo Phú Quý, khi đó thuộc tỉnh Thuận Hải, gồm 3 xã: Long Hải, Ngũ Phụng và Tam Thanh. Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Thuận Hải được tách thành 2 tỉnh là Bình Thuận và Ninh Thuận, huyện đảo Phú Quý trực thuộc tỉnh Bình Thuận như hiện nay. Giáo dục. Các trường mầm non: Trước 2019: Mẫu giáo Tam Thanh, Mầm non Ban Mai (xã Tam Thanh); Mẫu giáo Ngũ Phụng, Mầm non Hoa Biển (xã Ngũ Phụng); Mẫu giáo Long Hải, Mầm non Hải Âu (xã Long Hải). Kể từ 01/01/2019: Sáp nhập lại thành 3 trường: Mầm non Tam Thanh, Mầm non Long Hải và Mầm non Ngũ Phụng. Các trường tiểu học: Trước 2019: Phú An, Quý Thạnh (xã Ngũ Phung); Quý Hải, Đông Hải (xã Long Hải); Mỹ Khê, Triều Dương (xã Tam Thanh). Kể từ 01/01/2019: Sáp nhập lại thành 3 trường: Tiểu học Ngũ Phụng; Tiểu học Long Hải; Tiểu học Tam Thanh. Các trường trung học cơ sở: Tam Thanh, Ngũ Phụng, Long Hải. Một trường trung học phổ thông: THPT Ngô Quyền. Các đảo lân cận. Hòn Tranh: Cách cảng Phú Quý 600 m, nằm phía đông nam đảo Phú Quý. Hòn Tranh có chiều rộng nhất là 650 m về phía Bắc, nơi hẹp nhất 290 m, chiều dài 1.176 m, diện tích 55 ha. Trước đây là một hoang đảo chủ yếu là cỏ tranh, được nhân dân phá trồng hoa màu, hiện nay đang được trồng rừng phục hồi môi trường. Không có dân cư sinh sống. Hiện là nơi đặt trạm ra-đa quan sát biển của lực lượng Hải quân nhân dân Việt Nam. Hòn Trứng: rộng 3.600 m². Nằm phía tây bắc, là cửa ngõ ra vào đảo, là điểm tựa của nhiều loại ghe thuyền. Mùa gió Nam thuyền có thể neo đậu ở phía bắc. Mùa gió Bắc có thể neo đậu ở phía nam. Hòn Trứng nhỏ: rộng 2.000 m², cách Hòn Tranh 100 mét về phía đông nam. Hòn Đen, Hòn Nghiên hay Hòn Mực, do đảo toàn đá đen. Nằm phía đông bắc Phú Quý, cách bờ 100 mét, diện tích 23.000 m². Vào những lúc nước ròng có thể lội bộ ra Hòn Đen. Hòn Giữa: đây là một dãy gành đá bén nhọn nằm cạnh Hòn Đen, nằm vắt ngang như một nhịp cầu nối liền Hòn Đen và Hòn Đỏ thuộc xã Long Hải. Diện tích 2.900 m². Hòn Đỏ, Hòn Bút, Hòn Son hay Hòn Bút Nghiên: Nằm phía đông bắc Phú Quý, cách bờ khoảng 200 - 300 mét. Có tên là Hòn Đỏ vì ở đây toàn là đá màu đỏ. Diện tích hơn 28.000 m². Hòn Hải hay Hòn Khám, Hòn Hài: cách đảo Phú Quý gần 65 km về phía nam, là điểm A6 đường cơ sở lãnh hải Việt Nam. Có hình dạng là một khối đá vuông cạnh mọc thẳng đứng, có chiều dài khoảng 130 m, bề ngang chỗ rộng nhất khoảng 60 m, điểm cao nhất là 113 m tính từ mặt biển, rộng 46.000 m², là một trong các điểm cơ sở nằm trên đường cơ sở của Việt Nam. Hòn Hải và hai hòn đảo nhỏ lân cận tạo thành cụm đảo The Catwicks trong các bản đồ hàng hải phương Tây. Hòn Hải được gọi là Pulo Sapata, Poulo Sapate, hoặc Shoe Island. Hải đăng Hòn Hải được xây dựng năm 2004. Hòn Đồ Lớn hay Hòn Bố: Nằm phía đông nam và cách Phú Quý gần 60 km, có thể một phần hòn đảo này hình thành năm 1923 do hoạt động phun trào dưới lòng biển Đông. Lúc đầu có dạng hình tròn với đường kính 40 m, trên mặt có cát trắng và xung quanh có cạnh bậc thang thoai thoải. Hiện nay hình thành một bãi đá ngầm dài 700 m và rộng gần 500 m. Hòn Đồ lớn còn được hàng hải phương Tây gọi là Round Island hoặc Great Catwick. Hòn Đồ Nhỏ hay Hòn Trào: cách Hòn Bố 2 hải lý về phía đông, rộng chỉ có 50 m². Hòn Đồ nhỏ còn được gọi là Little Catwick hoặc Pyramid trong hàng hải phương Tây. Little Catwick cách Pulo Sapata (hòn Hải) 2 dặm về hướng tây bắc. Hòn Đá Tý, Hòn Tý, Hòn Vung hay Hòn Tiền: cách đảo Phú Quý 80–100 m. Di tích lịch sử. Di tích Cấp quốc gia: Di tích Cấp tỉnh: Giao thông Phú Quý. Giao thông nối liền Phú Quý và đất liền từ trước đến giờ còn hạn chế chủ yếu dựa vào đường thủy nội địa. Hiện nay có tàu trung tốc Hưng Phát, cao tốc SuperDong, Express Phú Quý. giảm thời gian từ 6h xuống còn 2h30 phút. Giao thông đường bộ trên đảo thuận lợi. Có dịch vụ cho thuê xe máy để di chuyển trên đảo. Điện gió Phú Quý. Điện gió Phú Quý đặt tại vùng đất xã Long Hải và Ngũ Phụng phía bắc đảo. Điện gió Phú Quý có công suất lắp máy 6 MW với 3 tua bin, cung cấp hàng năm khoảng 25,4 triệu kWh, hoạt động liên hợp với nhà máy điện diesel 3 MW. Dự án khởi công ngày 26/11/2010, dự kiến tháng 12/2011 nhưng thực tế khánh thành tháng 8/2012 .
0
0_xã_dân_huyện_thị
1
Địa lý & Hành chính
null
null
Quốc lộ 1, còn được biết đến với các tên gọi khác như Quốc lộ 1A, đường 1, đường cái quan, đường thiên lý hay đường xuyên Việt là tuyến đường giao thông xuyên suốt Việt Nam. Quốc lộ bắt đầu (km 0) tại cửa khẩu Hữu Nghị trên biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, nằm tại thị trấn Đồng Đăng thuộc huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn, và kết thúc tại thị trấn Năm Căn thuộc huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau với tổng chiều dài 2.482 km. Đây là tuyến đường quan trọng hàng đầu Việt Nam, nó đi qua trung tâm của một nửa số tỉnh thành Việt Nam, nối liền 4 thành phố lớn: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Nằm rất gần với quốc lộ 1 huyết mạch là đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông và đường sắt Bắc – Nam, cũng nối thông suốt giữa 2 miền Nam và Bắc Việt Nam. Lộ trình. Quốc lộ 1 đi qua 31 tỉnh và thành phố với các điểm nút chính sau: Thông số kỹ thuật. Quốc lộ 1 trong suốt lịch sử của nó đã thúc đẩy sự phát triển của các địa phương mà nó đi qua nhưng bản thân nó lại không được phát triển. Vì vậy quốc lộ 1 đã không đáp ứng được nhu cầu lưu thông của thời hiện tại (2005). Nay quốc lộ 1 đang được làm mới theo hướng nâng cấp các đoạn xa đô thị, làm đường tránh tại các đô thị, làm mới trên một số tuyến có nhiều đô thị liên tiếp. Hiện nay, khi chưa có quyết định thay đổi tên đường, các đoạn mới làm được gọi tạm là Quốc lộ 1 mới. Tuyến quốc lộ 1 mới không còn song song liên tục với đường sắt như quốc lộ 1 cũ (quốc lộ 1 cũ đoạn qua Hà Nội song song với đường sắt Bắc – Nam và đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng; riêng đường sắt Hà Nội – Đồng Đăng thì có cả Bắc Ninh và Bắc Giang). Tuy nhiên, quốc lộ 1 mới có một số đoạn đi song song hoặc trùng với đường cao tốc như Hà Nội – Bắc Giang, vành đai 3 từ cầu Phù Đổng đến Pháp Vân, hầm Cù Mông hoặc hầm Đèo Cả (đa số đều là 1 phần của đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông). Lịch sử. Quốc lộ 1 được hình thành từng đoạn qua từng thời kỳ, từ thời Việt Nam bị chia cắt thành Đàng Trong và Đàng Ngoài bên cạnh đường thủy thì con đường này cũng bắt đầu được hình thành. Tuy nhiên phải đến thời nhà Nguyễn sau khi thống nhất đất nước mới tu bổ và hoàn thiện con đường cái quan từ bắc đến nam này, ban đầu đường nhỏ chủ yếu dành cho việc vận chuyển người, hàng hóa bằng ngựa. Về sau cùng với sự cai trị của người Pháp con đường được mở rộng, nâng cấp. Trong thời kì chiến tranh, con đường bị chiếm đóng và phá hoại khiến việc lưu thông khó khăn. Sau năm 2000 đến nay, con đường được mở rộng từng đoạn, làm tuyến tránh các đô thị chủ yếu đầu tư theo hình thức BOT, nay con đường nhiều đoạn đã được mở rộng cho 2 làn đường đi trở lên. Từ năm 2015 trở đi, phần lớn quốc lộ 1 là 4 làn xe (trừ một số đoạn từ Cần Thơ đi Cà Mau và một số tuyến tránh) Đường AH1. AH1 là tuyến đường bộ dài nhất của hệ thống xa lộ xuyên Á với tổng chiều dài 12.845 dặm (20.557 km) từ Tokyo qua Triều Tiên, Trung Quốc, Đông Nam Á và Ấn Độ đến biên giới giữa Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Bulgaria Tây Istanbul. Ở Việt Nam, đường Quốc lộ 1 hiện là tuyến đường chính, cùng với quốc lộ 22 và tuyến đường phụ là quốc lộ 51 làm nên tuyến đường AH1 xuyên Á này. Tuyến AH1 qua Việt Nam gồm 2 quốc lộ và một số đoạn đường cao tốc: Trong tương lai, (đoạn Hữu Nghị Quan - Lạng Sơn, Quốc lộ 45 - Cam Lộ, Quảng Ngãi - Nha Trang, Cam Lâm - Vĩnh Hảo), (đoạn Long Trường - Tân Thạnh Đông) và sẽ trở thành đường AH1 khi hoàn thành thay vì trên và như hiện nay.
8
8_đường_sông_tuyến_đảo
1
Địa lý & Hành chính
null
null