text
stringlengths 212
226k
| topic_id
int64 0
47
⌀ | topic_name
stringclasses 83
values | topic_probability
float64 0.4
1
⌀ | Domain
stringclasses 11
values | url
stringlengths 39
236
⌀ | perplexity
float64 14.8
7.19k
⌀ |
---|---|---|---|---|---|---|
Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004, được biết đến trong cộng đồng khoa học như là Cơn địa chấn Sumatra-Andaman, là trận động đất mạnh 9.3 "M"w xảy ra dưới đáy biển Ấn Độ Dương lúc 00:58:53 UTC (07:58:53 giờ địa phương) ngày 26 tháng 12 năm 2004. Trận động đất kích hoạt một chuỗi các đợt sóng thần chết người lan tỏa khắp Ấn Độ Dương, những con sóng cao 30 m (100 ft) tàn phá các cộng đồng dân cư sinh sống ven biển ở Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar và những nơi khác, cướp đi sinh mạng 227,898 người thuộc 11 quốc gia, từ Châu Á tới Châu Phi. Cho đến nay, thiên tai này là một trong những thảm họa gây nhiều tử vong nhất trong lịch sử thế giới hiện đại. Các phương tiện truyền thông quốc tế và người dân châu Á gọi nó là "Sóng thần Á châu", trong khi tại Úc, New Zealand, Canada, Mỹ và Anh người ta gọi nó là "Sóng thần ngày lễ Từ thiện" ("Boxing Day") bởi vì nó xảy ra ngay vào ngày lễ này.
Cường độ của trận động đất lúc đầu đo được 9.0 (trên thang Richter), nhưng sau tăng lên ở khoảng giữa 9.1 và 9.3. Với cường độ này, đây là trận động đất lớn thứ hai từng được ghi nhận bởi địa chấn kế, chỉ đứng sau trận động đất lớn ở Chile ngày 22 tháng 5 năm 1960 có cường độ 9.5. Cơn địa chấn Ấn Độ Dương làm rung chuyển mặt đất với cường độ 100 lần mạnh hơn trận động đất Loma Prieta xảy ra năm 1989. Nó có thời gian kéo dài lâu nhất mà người ta có thể ghi nhận được, từ 500 đến 600 giây. Cường độ và độ lan tỏa của nó đủ lớn để có thể khiến tinh cầu của chúng ta dịch chuyển ít nhất là nửa "inch", tức là hơn một "centimeter". Nó cũng kích hoạt các trận động đất ở những khu vực khác, đến tận Alaska.
Cơn địa chấn khủng khiếp này khởi phát ở Ấn Độ Dương ngay phía bắc đảo Simeulue, ngoài khơi bờ biển phía tây của miền bắc Sumatra, Indonesia. Những đợt sóng thần sản sinh từ nó đã tàn phá vùng duyên hải Indonesia, Sri Lanka, Nam Phi, Thái Lan và những quốc gia khác với những con sóng cao đến 30 m (100 ft), gây thiệt hại nghiêm trọng và mang chết chóc đến tận bờ biển phía đông châu Phi, nơi xa nhất có ghi nhận tử vong do sóng thần là ở Cảng Elizabeth, Nam Phi, 8000 km (5.000 ml) cách xa chấn tâm đến cả một đại dương.
Hoàn cảnh nguy ngập của dân chúng tại những quốc gia bị ảnh hưởng đã khiến dấy lên làn sóng trợ giúp nhân đạo trên toàn cầu.
Đặc điểm của sóng thần.
Sự dâng cao đột ngột của đáy biển lên đến vài mét, xảy ra suốt trong cơn địa chấn, làm dịch chuyển những cột nước khổng lồ, tạo ra những đợt sóng thần đánh vào bờ biển Ấn Độ Dương. Sóng thần gây thiệt hại ở những khu vực xa nguồn của nó thường được gọi là "sóng thần xa" ("teletsunami"), hình thành bởi chuyển động thẳng đứng của đáy biển hơn là bởi chuyển động ngang ("Earthquakes and tsunamis, Lorca et al.").
Sóng thần chuyển động trong nước sâu khác với trong vùng cạn. Ở vùng nước sâu ngoài đại dương, sóng thần chỉ là những đợt sóng nhấp nhô, khó nhận biết và vô hại, di chuyển với tốc độ rất cao từ 500 đến 1.000 km/h (310 đến 620 mph); ở vùng nước cạn gần bờ, vận tốc của nó chỉ còn 10 km/h nhưng đó là lúc bắt đầu hình thành những đợt sóng lớn có sức công phá khủng khiếp. Các nhà khoa học điều tra thiệt hại ở Aceh tìm ra chứng cớ cho thấy sóng thần ở đây lên đến độ cao 24 m (80 ft) khi đến gần bờ và di chuyển dọc theo những dải đất rộng; tại một vài khu vực, khi vào đến đất liền độ cao của chúng nâng lên 30 m (100 ft).
Vệ tinh radar đã ghi nhận được chiều cao của sóng thần trong biển sâu: hai giờ sau cơn địa chấn, độ cao tối đa là 60 cm (2 ft). Đây là những quan sát đầu tiên được ghi nhận, mặc dù chúng không được dùng để đưa ra cảnh báo, bởi vì người ta không sử dụng các vệ tinh cho mục đích cảnh báo và vì những dữ liệu này cần có thời gian để phân tích.
Theo Tad Murty, Phó chủ tịch Hiệp hội Sóng thần, tổng năng lượng của những đợt sóng thần là xấp xỉ 5 megaton TNT (20 "petajoule"), gấp hai lần năng lượng của toàn bộ chất nổ được sử dụng trong Chiến tranh thế giới thứ hai (kể cả hai quả bom nguyên tử), nhưng chỉ là hai bậc trên thang đo lường thấp hơn cường độ năng lượng phóng ra bởi cơn địa chấn. Tại nhiều nơi, các đợt sóng thần đã tiến sâu vào đất liền đến 2 km.
Theo những báo cáo ban đầu, cường độ của trận động đất là 9.0. Đến tháng 1 năm 2005, các nhà khoa học ước tính cường độ lên đến 9.3. Mặc dù Trung tâm Cảnh báo Sóng thần Thái Bình Dương chấp nhận ước tính mới này, Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ cho đến nay vẫn giữ ước tính cường độ là 9.1. Hầu hết các nghiên cứu gần đây trong năm 2006 tin rằng cường độ địa chấn là Mw 9.1 đến 9.3. Tiến sĩ Hiroo Kanamori thuộc Viện Công nghệ California tin rằng Mw = 9.2 có thể xem là định lượng tiêu biểu cho tầm cỡ của cơn địa chấn này.
Chấn tâm của trận động đất chính ở tọa độ tại Ấn Độ Dương, khoảng 160 km (100 mi) phía bắc đảo Simeulue, ngoài khơi bờ biển phía tây của bắc Sumatra, ở độ sâu 30 km dưới mặt nước biển (báo cáo ban đầu chỉ có 10 km). Người ta có thể cảm nhận được cơn địa chấn (không tính đến trận sóng thần) tại Bangladesh, Ấn Độ, Malaysia, Myanmar, Thái Lan, Singapore và quần đảo Maldives.
Bởi vì có đến 1.200 km (745.6 ml) đường phay bị ảnh hưởng bởi trận động đất hầu như trải dài theo hướng nam-bắc, nên cường độ lớn nhất của sóng thần đi theo hướng đông-tây. Do vậy, Bangladesh, ở cuối phía bắc của Vịnh Bengal, ít bị thiệt hại mặc dù xứ sở vùng đất thấp này tương đối gần chấn tâm. Cũng hưởng lợi nhờ yếu tố này là cơn địa chấn di chuyển chậm hơn trong vùng gãy phía bắc, làm giảm đáng kể sức tàn phá của nước khi dịch chuyển trong vùng.
Những bờ biển có các vùng đất rộng chắn giữa chúng và vị trí ban đầu của sóng thần thường được an toàn; dù vậy, đôi khi sóng thần tìm cách đi vòng qua vùng đất rộng, điển hình là bang Kerala của Ấn Độ, dù là vùng duyên hải phía tây Ấn Độ, vẫn bị những đợt sóng thần tấn công; bờ biển phía tây của Sri Lanka cũng chịu ảnh hưởng tương tự. Ở xa chấn tâm cũng không đồng nghĩa với an toàn, Somalia bị tàn phá nặng nề hơn Bangladesh mặc dù ở xa hơn rất nhiều.
Vì phải di chuyển trong một địa bàn rất rộng, sóng thần mất từ 15 phút đến 7 giờ (trường hợp của Somalia) để đến các bờ biển khác nhau. Sóng thần tiến rất nhanh đến đảo Sumatra, nhưng nó phải mất 90 phút đến hai giờ đồng hồ để tìm thấy Sri Lanka và bờ biển phía đông Ấn Độ. Trong khi đó, nó chỉ đến được Thái Lan sau khoảng hai giờ đồng hồ mặc dù đất nước này ở gần chấn tâm hơn, vì phải di chuyển chậm qua vùng biển cạn ngoài khơi bờ biển phía tây Biển Andaman.
Sóng thần đến tận Struisbaai thuộc Nam Phi, tức là phải vượt qua khoảng cách 8.500 km (5.300 ml), ở đây nó mang đến những đợt triều cường cao 1,5 m (5 ft) năm giờ sau cơn địa chấn. Nó phải tiêu tốn khá nhiều thời gian để đến điểm cực nam này của châu Phi, có lẽ bởi vì thềm lục địa rộng lớn của Nam Phi và bởi vì sóng thần phải đi dọc bờ biển Nam Phi từ đông sang tây.
Một phần năng lượng của sóng thần được phân phối vào Thái Bình Dương, ở đây nó tạo ra những đợt sóng nhỏ dọc theo bờ tây của Bắc và Nam Mỹ, trung bình chỉ cao khoảng 20 đến 40 cm (7.9 đến 15.7 in).
Dấu hiệu và cảnh báo.
Mặc dù khoảng cách thời gian giữa lúc khởi phát cơn địa chấn và thời điểm sóng thần tiếp cận đất liền lên đến vài tiếng đồng hồ, hầu hết nạn nhân đều hoàn toàn bất ngờ khi đột nhiên thấy mình bị chụp bắt bởi thảm hoạ; không hề có hệ thống cảnh báo sóng thần nào trên Ấn Độ Dương để phát hiện sóng thần, hoặc quan trọng không kém, để cảnh báo cư dân đang sống trên bờ. Không dễ dàng gì để dò tìm sóng thần trong khi chúng đang còn ở biển sâu, vì vậy cần có một mạng lưới các thiết bị cảm ứng để phát hiện chúng. Lắp đặt một cấu trúc hạ tầng các thiết bị truyền thông để có thể đưa ra những cảnh báo kịp thời là một vấn đề còn khó khăn hơn, nhất là ở những khu vực chưa phát triển của thế giới.
Sóng thần xảy ra còn thường xuyên hơn trong vùng biển Thái Bình Dương do ảnh hưởng của các cơn địa chấn thuộc "Vành đai lửa", nhưng khu vực này từ lâu đã được lắp đặt hệ thống cảnh báo sóng thần. Mặc dù mép phía tây của "Vành đai lửa" kéo dài đến Ấn Độ Dương, không hề có bất cứ hệ thống cảnh báo sóng thần nào hiện diện tại đây. Khu vực này tương đối ít có sóng thần, mặc dù động đất vẫn thường xảy ra tại Indonesia. Cơn sóng thần quan trọng lần cuối cùng được ghi nhận vào năm 1883 khi núi lửa Krakatoa thức giấc. Cũng nên biết rằng không phải hễ có động đất là có sóng thần; Ngày 28 tháng 3 năm 2005, một cơn địa chấn 8.7 độ richter đánh vào ngay khu vực này của Ấn Độ Dương nhưng không tạo ra một đợt sóng thần nào.
Sau khi xảy ra thảm họa, người ta bắt đầu quan tâm đến nhu cầu lắp đặt một hệ thống cảnh báo sóng thần cho vùng biển Ấn Độ Dương. Liên Hợp Quốc khởi xướng vận động cho hệ thống cảnh báo này và tiến hành những bước đầu tiên vào cuối năm 2005. Có một số đề nghị thiết lập hệ thống cảnh báo sóng thần liên kết toàn cầu, bao gồm cả khu vực Đại Tây Dương và vùng biển Caribbean.
Chưa quen với dấu hiệu cảnh báo.
Dấu hiệu cảnh báo đầu tiên về sóng thần chính là trận động đất. Dù vậy, sóng thần có thể đánh vào một khu vực cách xa đó hàng ngàn dặm, dù tại đây chỉ có thể cảm nhận được địa chấn rất yếu hoặc ngay cả không có gì hết. Tương tự, trong ít phút trước khi sóng thần đánh vào bờ, nước biển thường rút ra xa. Cư dân ven Thái Bình Dương đã quen với sóng thần và thường nhận ra hiện tượng này để chạy vội lên các vùng đất cao. Ngược lại, ở vùng ven Ấn Độ Dương hiện tượng hiếm hoi này đã khiến nhiều người, kể cả trẻ em, tò mò tìm đến để quan sát và lượm bắt cá bị trôi dạt vào một bờ biển dài 2,5 km (1,6 ml) mà không biết tai họa chết người đã gần kề.
Một trong những vùng duyên hải mà cư dân đã kịp di tản trước khi sóng thần đánh vào là đảo Simeulue thuộc Indonesia, rất gần với chấn tâm. Những bài dân ca trên đảo đã kể lại câu chuyện động đất và sóng thần xảy ra năm 1907, và cư dân trên đảo vội chạy lên vùng đồi ngay sau đợt rung chuyển đầu tiên, kịp lúc trước khi sóng thần đánh vào. Trên bãi tắm Maikhao phía bắc Phuket, Thái Lan, một bé gái mười tuổi người Anh tên Tilly Smith, vốn đã nghiên cứu về sóng thần trong lớp địa lý ở trường, nhận ra dấu hiệu bất thường của biển khi nước đang rút ra xa và sủi bọt. Cô bé cùng cha mẹ cảnh báo những người đang có mặt tại bãi tắm, tất cả đã tìm được chỗ trú ẩn an toàn. John Chroston, một giáo viên sinh học đến từ Scotland, cũng nhận ra những dấu hiệu của sóng thần tại Vịnh Kamala, bắc Phuket, vội lấy một chiếc xe buýt chất đầy du khách và dân địa phương và kịp đưa họ đến nơi an toàn ở nơi cao.
Chu kỳ sóng thần.
Sóng thần là một chuỗi các con sóng, xảy ra theo chu kỳ triệt thoái và dâng cao trong một giai đoạn kéo dài hơn 30 phút giữa hai con sóng lớn. Con sóng thứ ba là mạnh nhất và cao nhất xảy ra khoảng một giờ rưỡi sau con sóng thứ nhất, sau đó những đợt sóng thần nhỏ tiếp tục xuất hiện cho đến hết ngày.
Thiệt hại và thương vong.
Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ lúc đầu đưa ra con số tổn thất nhân mạng là 283.100 người, 14.100 người mất tích và 1.126.900 người phải di tản. Những bản tin ban đầu đưa ra con số thương vong là hàng trăm, nhưng dần dà con số này tiếp tục gia tăng trong những tuần lễ kế tiếp. Tuy vậy, số liệu gần đây nhất của Liên Hợp Quốc cho thấy số người thiệt mạng là 186.983, có 42.883 trường hợp mất tích trong tổng số 230.000 nạn nhân, Đó là không kể có từ 400 đến 600 người được cho là đã thiệt mạng ở Myanmar, mặc dù con số thương vong chính thức chính phủ nước này đưa ra chỉ là 61 người. Nếu báo cáo không chính thức từ Myanmar là chính xác thì số tử vong của trận động đất lên đến 230 000 người. Như thế, thảm họa này sẽ được liệt kê là một trong 10 trận động đất tệ hại nhất mà lịch sử đã ghi lại, và là cơn sóng thần gây ra số thương vong cao nhất trong lịch sử.
Theo tường trình của các tổ chức cứu trợ, một phần ba số người chết là trẻ em, một phần là do trẻ em chiếm tỷ trọng cao trong tổng số cư dân tại những khu vực bị ảnh hưởng, phần khác là do trẻ em là những nạn nhân không có khả năng tự vệ trước những đợt sóng dữ. Tổ chức Oxfam còn thêm rằng, trong một vài khu vực, số phụ nữ thiệt mạng cao gấp bốn lần số đàn ông, bởi vì lúc ấy họ đang có mặt trên bãi biển, chờ đợi các ngư phủ trở về và trông chừng con cái trong nhà.
Ngoài số lượng lớn nạn nhân là cư dân trong vùng, có đến 9.000 du khách (phần lớn đến từ Âu châu, nhất là từ vùng Scandinavia) đến nghỉ lễ Tết dương lịch, bị thiệt mạng hoặc mất tích. Quốc gia Âu châu có số nạn nhân cao nhất là Thụy Điển với 428 người chết và 116 người mất tích.
Tình trạng khẩn cấp được công bố tại Sri Lanka, Indonesia, và Maldives. Liên Hợp Quốc tuyên bố một chiến dịch cứu trợ lớn nhất chưa từng có. Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc Kofi Annan phát biểu rằng công cuộc tái thiết phải mất từ năm đến mười năm. Các chính phủ và những tổ chức phi chính phủ quan ngại rằng con số tử vong sau cùng sẽ tăng cao do dịch bệnh, vội vàng thúc đẩy cuộc vận động cứu trợ quy mô lớn.
Nếu tính theo số người chết, thì đây là một trong mười trận động đất tồi tệ nhất được ghi nhận trong lịch sử, cũng như là cơn sóng thần duy nhất gây thiệt hại nặng nề nhất trong lịch sử.
Những quốc gia bị ảnh hưởng.
Trận động đất và sóng thần ảnh hưởng đến nhiều quốc gia trong vùng Đông Nam Á và xa hơn nữa, gồm có Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Thái Lan, Malaysia, Seychelles và các nước khác. Một số nước Âu châu và Úc có nhiều công dân đang du lịch trong vùng vào kỳ nghỉ lễ. Thụy Điển và Đức có hơn 500 công dân thiệt mạng trong thảm họa.
Indonesia.
Indonesia là quốc gia gần chấn tâm nhất, hứng chịu những đợt sóng khổng lồ đầu tiên. Các thành phố Banda Aceh, Melabouh, các thị trấn ven biển đều bị những đợt sóng cao đến 33m san phẳng hoàn toàn, chỉ những nhà thờ Hồi Giáo là còn trụ vững và các ngôi nhà kiên cố nhất.
Đợt sóng với độ cao lên đến hơn 30m đã cuốn trôi hàng trăm ngàn ngôi nhà, hàng chục ngàn người ra biển. Sau khi sóng rút đi, khắp Aceh, tỉnh thiệt hại nặng nhất, chỉ còn là những đống hoang tàn, xác người đầy bùn đất nằm khắp nơi. Theo ghi nhận, Indonesia là quốc gia chịu tổn thất nặng nề nhất với hơn 160.000 người chết, gần như toàn bộ các thị trấn, thành phố bờ Tây đảo Sumatra đổ nát hoàn toàn, hơn 800 km đường bờ biển bị phá hủy khắp quốc đảo. Những vùng đất tại khu vực Aceh phải mất đến nhiều năm mới có thể hồi phục lại hệ sinh thái và cộng đồng dân cư như ban đầu.
Thái Lan.
Sau khi động đất xảy ra, 2 tiếng sau, sóng đánh vào bờ biển phía Nam Thái Lan. Phuket, Phang Nga, Patong là các bãi biển bị thiệt hại do sóng thần. Chiều cao sóng khoảng 7-10m, nhưng cực đại là 19,6m. Sóng đã gây hậu quả lớn cho các điểm du lịch nổi tiếng của Thái Lan, nhiều nơi sóng tiến vào sâu đến hàng trăm mét, phá hủy nhiều khách sạn, nhà dân, bể bơi ven biển. Ước tính, khoảng 5.400 người Thái Lan lẫn khách du lịch đã thiệt mạng.
Sri Lanka.
Đây là quốc gia bị sóng thần đánh vào cả bờ biển Đông và Tây. Sau động đất, sau khi vượt một chặng đường dài khoảng 90 phút, sóng đến được Sri Lanka, ập vào bờ biển Đông của đảo quốc. Sau khi đã tấn công, những đợt sóng theo sau đi chuyển xuống phía dưới, tàn phá các thị trấn từ Đông xuống Nam. Sau đó, những đợt sóng sau bị dội lại, tấn công tiếp bờ Tây Sri Lanka, tràn vào đất liền, san bằng những ngôi nhà có kết cấu yếu. Hơn 35.000 người Sri Lanka đã thiệt mạng trong thảm họa. Ghi nhận đợt sóng cao từ 10-12,5m.
Ấn Độ.
Sóng lúc này đã tiêu hao một phần năng lượng, nên bắt đầu giảm sức mạnh. Dù vậy, nó vẫn gây ra nỗi kinh hoàng cho người dân Ấn Độ. Bang Tamil Nadu bị sóng thần ập vào với độ cao 9m, làm 16.000 người thiệt mạng, hàng ngàn ngôi nhà sập đổ.
Các quốc gia khác.
Sóng thần còn tấn công Malaysia, Myanmar, Maldives... đến các quốc gia Châu Phi như Somalia, Nam Phi. Tuy nhiên con số thương vong không cao.
Những thảm họa trong Lịch sử.
Đây là trận động đất mạnh thứ tư kể từ năm 1900, con số tử vong được xác nhận là 229.886 - 230.000 người do sóng thần phát sinh từ cơn địa chấn. Những trận động đất gây thiệt hại nhân mạng lớn nhất kể từ năm 1900 gồm có trận động đất ở Đường Sơn, Trung Quốc năm 1976 giết hại ít nhất 255.000 người, trận động đất năm 1927 ở Tây Ninh, Thanh Hải, Trung Quốc cướp sinh mạng của 200.000 người, trận động đất lớn Kanto đánh vào Tokyo năm 1923 (143.000 nhân mạng), và Cam Túc, Trung Quốc năm 1920 (200.000 người). Trận động đất gây thiệt hại nhân mạng nhiều nhất từng được biết trong lịch sử xảy ra năm 1556 tại Thiểm Tây, Trung Quốc với con số tử vong ước tính là 830.000 người mặc dù sau một thời gian dài những con số như thế có thể không đáng tin cậy.
Riêng đợt sóng thần năm 2004 là thảm họa sóng thần giết hại nhiều người nhất trong lịch sử. Trước đây, có ghi nhận về đợt sóng thần gây tử vong cao nhất xảy ra ở Thái Bình Dương năm 1782 khi 40.000 người thiệt mạng do sóng thần tại Biển Đông. Sóng thần gây ra bởi núi lửa Krakatoa năm 1883 được cho là đã cướp mạng sống của 36.000 người. Trong quãng thời gian từ năm 1900 đến 2004, đợt sóng thần đánh vào Messina, Ý, trên bờ biển Địa Trung Hải, cùng với cơn địa chấn cướp sinh mạng của 70.000 người, là sóng thần gây thiệt hại nhân mạng cao nhất trong quãng thời gian này. Còn cơn sóng thần có số tử vong cao nhất xảy ra ở vùng biển Đại Tây Dương do trận động đất Lisboa năm 1755, tính luôn số nạn nhân hoả hoạn gây ra bởi động đất, tổng cộng hơn 100.000 nhân mạng.
Như vậy, có thể xem trận động đất và sóng thần năm 2004 là thiên tai gây chết chóc nhiều nhất kể từ cơn địa chấn Đường Sơn hoặc trận bão xoáy Bhola năm 1970.
Con người góp phần vào thiên tai.
Một bài viết trên Tạp chí Wall Street ngày 31 tháng 12 năm 2004 cho rằng việc con người huỷ phá các rặng san hô bảo vệ bờ biển là một nhân tố quan trọng góp phần làm tăng tổn thất nhân mạng và thiệt hại trong vùng. Bài báo dẫn chứng trường hợp đảo Surin ngoài khơi bờ biển Thái Lan, coi đó là một minh chứng cho tính năng bảo vệ của rặng san hô khi chưa bị con người tàn phá. Tại những nơi này, số người tử vong thấp hơn nhiều so với những nơi khác; nhưng cũng cần biết rằng ở đây dân cư khá thưa thớt. Người ta đã cho nổ tung những khu vực có đá ngầm bao quanh Ấn Độ Dương vì xem chúng là chướng ngại vật cản trở tàu bè vận chuyển hàng hoá, vốn là một phần quan trọng của nền kinh tế Nam Á.
Tương tự, việc dọn sạch những rừng đước ven bờ được coi là đã làm tăng sức công phá của sóng thần tại một số khu vực. Thường mọc dọc theo bờ biển, các rừng đước đã bị phát quang để làm nơi sinh sống cho cư dân trong vùng. Nếu được bảo vệ đầy đủ, các cánh rừng này sẽ là tường thành bảo vệ người dân trước sóng thần. Một nhân tố khác giúp bảo vệ con người trước sự công phá của sóng thần lại bị con người rời bỏ là những đụn cát ven bờ biển.
Ảnh hưởng Nhân đạo, Kinh tế và Môi trường.
Nhân đạo.
Cần có một chiến dịch rộng lớn vận động trợ giúp nhân đạo mới có thể bù đắp những thiệt hại nặng nề về hạ tầng cơ sở, thiếu thốn nước, thực phẩm và những thiệt hại về kinh tế. Dịch bệnh cũng là một quan ngại đặc biệt do mật độ dân số cao và khí hậu nhiệt đới tại những vùng bị ảnh hưởng. Mối quan tâm chính của các tổ chức nhân đạo và các cơ quan chính phủ là cung cấp các phương tiện vệ sinh và nước sạch để kiểm soát sự lây lan các loại bệnh như tiêu chảy, bệnh bạch hầu, bệnh lỵ, thương hàn và viêm gan siêu vi A & B.
Cũng có những quan ngại về việc số tử vong cao sẽ làm lây lan dịch bệnh cũng như nạn đói. Tuy nhiên, do được xử lý kịp thời, những nguy cơ này đã được giảm thiểu.
Trong những ngày sau thảm họa, người ta phải làm việc cật lực để chôn cất tử thi hầu tránh bùng nổ dịch bệnh. Chương trình Lương thực Thế giới đã trợ giúp cho hơn 1, 3 triệu người là nạn nhân sóng thần.
Các quốc gia trên khắp thế giới cung cấp hơn 3 tỉ USD trợ giúp những vùng bị thiệt hại; chính phủ Úc hứa hẹn 819, 9 triệu USD (trong đó có khoản viện trợ trọn gói 760,6 triệu USD cho Indonesia), chính phủ Đức 660 triệu USD, chính phủ Nhật Bản 500 triệu USD, chính phủ Canada 425 CAD, chính phủ Na Uy 170 triệu USD, chính phủ Mỹ lúc ban đầu là 35 triệu, Ngân hàng Thế giới 250 triệu. Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cho biết Hoa Kỳ cam kết ngân quỹ bổ sung trong khuôn khổ của chương trình trợ giúp dài hạn dành cho nạn nhân sóng thần xây dựng lại cuộc sống. Ngày 9 tháng 2 năm 2005, Tổng thống George W. Bush yêu cầu Quốc hội gia tăng cam kết đóng góp của Hoa Kỳ lên đến 950 triệu USD. Các viên chức ước tính phải cần đến hàng tỉ USD. Bush yêu cầu cha, cựu tổng thống George H. W. Bush, và cựu tổng thống Bill Clinton, dẫn đầu một nỗ lực của Hoa Kỳ cung cấp những trợ giúp tư nhân cho nạn nhân sóng thần.
Đến trung tuần tháng Ba, theo tường trình của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), số tiền hơn 4 tỉ USD mà các chính phủ hứa hẹn bị giải ngân chậm. Sri Lanka báo cáo rằng họ không nhận được khoản viện trợ nào từ chính phủ nước ngoài, trong khi những trợ giúp cá nhân từ hải ngoại thì dồi dào. Các tổ chức từ thiện nhận nhiều đóng góp hào phóng từ công chúng chẳng hạn như ở Anh, số tiền quyên góp của dân chúng lên đến gần 600 triệu USD, vượt quá mức đóng góp của chính phủ, tính trung bình mỗi người dân Anh tặng 10 USD, trong số đó có cả người vô gia cư và trẻ em.
Kinh tế.
Người ta có thể dễ dàng nhận ra những tác hại trên cộng đồng ngư dân và những người sống bằng nghề nuôi trồng thủy sản, một số được xem là nghèo nhất vùng, mất kế sinh nhai, mất luôn tàu thuyền và phương tiện đánh bắt. Ở những vùng duyên hải thuộc Sri Lanka, nơi mà nghề đánh bắt thủ công là nguồn cung cấp chính các loại cá cho chợ búa trong vùng và công nghiệp thủy hải sản là hoạt động kinh tế chính, thu hút nhân công trực tiếp khoảng 250.000 người. Trong những năm gần đây, công nghiệp này trở nên khu vực xuất khẩu năng động, tạo ra nguồn thu ngoại thương căn bản cho đất nước. Song, theo ước tính ban đầu, đến 66% đội tàu đánh bắt hải sản và cơ sở hạ tầng công nghiệp trong vùng duyên hải đã bị tàn phá bởi những đợt sóng thần, làm đảo ngược hiệu quả kinh tế của địa phương và quốc gia.
Có một số kinh tế gia cho rằng thiệt hại kinh tế của những quốc gia bị ảnh hưởng là không nghiêm trọng, vì những tổn thất trong ngành du lịch và đánh bắt hải sản chiếm tỉ trọng tương đối nhỏ trong GDP. Nhưng có những cảnh báo về thiệt hại cơ sở hạ tầng, xem đó là một nhân tố khó lường. Trong một số khu vực, đồng ruộng và nguồn cung cấp nước uống bị ô nhiễm trong nhiều năm do nước biển tràn vào.
Động đất và sóng thần có thể ảnh hưởng đến thủy lộ đi qua Eo biển Malacca vì làm thay đổi độ sâu đáy biển, làm xáo trộn các phao hoa tiêu và những xác tàu chìm. Thiết lập hải đồ hoa tiêu mới phải mất hàng tháng hoặc hàng năm.
Các quốc gia trong vùng nỗ lực kêu gọi du khách trở lại, chỉ ra rằng hầu hết cơ sở hạ tầng du lịch vẫn còn nguyên vẹn. Dù vậy, du khách không mặn mà với ý tưởng trở lại những nơi ấy vì những lý do tâm lý. Ngay cả những khu nghỉ dưỡng ven bờ Thái Bình Dương của Thái Lan, không bị tàn phá bởi sóng thần, nhưng bị suy sụp vì du khách huỷ bỏ kỳ nghỉ. Tuy nhiên, một năm sau thảm hoạ sóng thần, ngành du lịch bắt đầu khởi sắc trở lại, với mong đợi được phục hồi hoàn toàn vào năm 2006.
Môi trường.
Còn lớn hơn những tổn thất nhân mạng, cơn địa chấn Ấn Độ Dương gây ra những thiệt hại khổng lồ về môi trường, ảnh hưởng đến các quốc gia trong vùng trong nhiều năm tới. Có những bản tường trình về sự thiệt hại nghiêm trọng tác hại đến các hệ sinh thái như rừng đước, rặng san hô, rừng cây, vùng đất ngập mặn duyên hải, hệ thực vật, đồi cát, cấu tạo đá, nguồn nước ngầm và tính đa dạng sinh học động vật và thực vật. Hơn nữa, sự phát tán chất thải rắn và lỏng cùng các loại hoá chất, tình trạng ô nhiễm nguồn nước, sự tàn phá hệ thống cống rãnh và những nhà máy xử lý đang đe doạ môi trường theo hướng khó lường. Cần phải có nhiều thời gian và nguồn tài nguyên dồi dào mới có thể thẩm định hết những tác hại trên môi trường.
Theo các chuyên gia, tác hại lớn nhất là ô nhiễm nguồn nước và ô nhiễm đất do nước mặn từ biển thâm nhập vào đất liền, cấu tạo một lớp muối trên bề mặt đất trồng trọt. Tại Maldives, có từ 16 đến 17 đảo san hô vòng ("coral reef atoll") bị tràn ngập bởi sóng biển nên hoàn toàn không còn nước ngọt và được xem là không thể phục hồi trong vài thập niên tới. Vô số giếng nước phục vụ các cộng đồng dân cư bị vùi lấp bởi đất, cát và nước biển; những tầng nước ngầm ("aquifer") bị đá tàng ong xâm lấn. Đất bị ngập nước biển trở nên cằn cỗi, không dễ dàng gì mà lại tốn kém nếu muốn phục hồi chúng thành đất nông nghiệp. Nước biển làm chết cây cối và huỷ diệt các loại vi sinh vật rất cần cho đất. Hàng ngàn cánh đồng trồng lúa và nông trang trồng xoài và chuối ở Sri Lanka bị huỷ hoại hoàn toàn và phải mất nhiều năm để phục hồi chúng.
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP) đang hợp tác với các chính phủ trong vùng xác định độ nghiêm trọng của những tác hại sinh thái và tìm cách định danh (để xử lý) chúng. UNEP đã dành 1 triệu USD cho quỹ khẩn cấp và thành lập một lực lượng đặc nhiệm cho mục đích này. Theo yêu cầu của chính phủ Maldives, chính phủ Úc gởi những chuyên gia sinh thái đến giúp phục hồi môi trường biển và những rặng san hô – là huyết mạch của công nghiệp du lịch Maldives. Phần lớn kiến thức chuyên ngành sinh thái được thu thập từ các hoạt động tại rặng san hô "Great Barrier" thuộc lãnh hải đông bắc Úc.
Những Ảnh hưởng khác.
Nhiều chuyên gia y tế và nhân viên viện trợ báo cáo về những sang chấn tâm lý sau thảm hoạ sóng thần. Niềm tin lâu đời của cư dân trong vùng đòi hỏi họ có bổn phận chôn cất tử tế người chết; điều này trở nên một sự dằn vặt và dần dà hình thành những chấn thương tâm lý.
Aceh, vùng gánh chịu sự tàn phá lớn nhất của thảm hoạ, là một xã hội Hồi giáo bảo thủ; ở đây không có du lịch, cũng không có sự hiện diện của người phương Tây trong những năm gần đây vì sự xung đột vũ trang giữa chính phủ Indonesia và phiến quân ly khai. Nhiều người tin rằng thảm họa sóng thần là sự trừng phạt vì cớ những người Hồi giáo trốn tránh lễ cầu nguyện hằng ngày cũng như theo đuổi một cuộc sống chuộng vật chất, trong khi những người khác tin rằng ấy là do Allah nổi cơn thịnh nộ đối với việc người Hồi giáo tàn sát lẫn nhau.
Chỉ có một điều duy nhất được xem là hệ quả tích cực của sóng thần là nước đã cuốn trôi cát lưu cữu hàng thế kỷ trên những phế tích của thành phố cổ 1.200 năm tuổi tại Mahabalipuram ở bờ biển phía nam Ấn Độ. Phế tích này có những kiến trúc quan trọng như tượng sư tử bằng đá "granite" chôn nửa thân người, nằm kế cận đền thờ Mahablipuram có từ thế kỷ thứ bảy, và những tượng đắp nổi hình một con voi, đây là một phần trong điều mà các nhà khảo cổ tin là một thành phố cảng cổ đại đã bị chìm sâu dưới đáy biển hàng trăm năm trước.
Tưởng niệm.
Ngày 24 tháng 12 năm 2009, khắp châu Á người dân tưởng niệm trận động đất. Một ngày cầu nguyện và tưởng nhớ long trọng để đánh dấu một trong những thiên tai tệ hại nhất của thế giới được tổ chức tại tỉnh Aceh của Indonesia, nơi mất mát khoảng 170.000 người. Những buổi cầu nguyện được tổ chức tại các giáo đường trên khắp tỉnh phần lớn là người Hồi giáo này, và cạnh những nấm mồ tập thể gần thủ phủ Banda Aceh của tỉnh. Tại một trong số các ngôi mộ tập thể, nơi chôn cất hơn 14.000 nạn nhân không được xác nhận lý lịch, một bà cụ ngồi trên mặt đất vừa khóc vừa đọc những lời kinh Koran cho 40 người trong gia đình cụ đã thiệt mạng. "Không có ai trong gia đình tôi sống sót trong trận sóng thần. Các con, các cháu, anh chị em tôi, tất cả đều ra đi bỏ lại tôi một mình ở đây," Siti Aminah, 72 tuổi, nói với thông tấn xã AFP. "Đây là ngôi mộ tập thể nằm gần những khu nhà của chúng tôi. Họ có thể được chôn ở đây hoặc có thể đã bị nước cuốn ra biển vì chúng tôi sống cạnh bãi biển. Mặc dù tôi không biết chắc nơi họ được chôn cất, tôi luôn luôn tới đây mỗi năm để cầu nguyện cho họ để họ được yên nghỉ."
Phó Tổng thống Indonesia Boediono dẫn đầu một lễ cầu nguyện cách đó hai kilômét tại hải cảng Ulee Lheu, để tưởng niệm những người đã mất. "Năm năm sau, người dân Aceh với sự trợ giúp của các cộng đồng quốc tế đã tìm cách vươn lên trở lại và khởi sự tái xây dựng đời sống xã hội, kinh tế và văn hóa của họ trong một khung cảnh hòa bình," ông nói với khoảng 1.000 cư dân, học sinh và các viên chức.
Tại Sri Lanka, Tổng thống Mahinda Rajapakse mở đầu những buổi lễ tưởng niệm bằng hai phút im lặng cho các nạn nhân sóng thần. Các đài truyền thanh và truyền hình ngưng phát trong hai phút vào lúc 9 giờ 25 phút sáng giờ địa phương, trùng với giờ mà cơn sóng thần ập lên những vùng bờ biển phía Nam của hòn đảo. Những buổi lễ tôn giáo cũng được tổ chức trên khắp hòn đảo để tưởng niệm khoảng 31.000 người thiệt mạng năm năm về trước. Những lễ tưởng niệm ít rầm rộ cũng được tổ chức tại miền Nam Ấn Độ, nơi hứng chịu vụ thiên tai nặng nề nhất trong nước, với khoảng 6.500 người chết. Trên các hòn đảo Andaman và Nicobar của Ấn Độ, những buổi cầu nguyện chung của nhiều tôn giáo được tổ chức tại thủ phủ Port Blair của quần đảo cho khoảng 4.000 người bị sóng thần giết chết trên dãy đảo.
Tại Thái Lan, nơi sóng thần giết chết 5.395 người, theo một con số chính thức, các buổi lễ được tổ chức trên bãi biển ở Phang Nga trên duyên hải phía Tây, là nơi bị thiệt hại nặng nề nhất, và trên địa điểm du lịch Phuket ở phía Nam. Theo cảnh sát, khoảng 1.000 người Thái và người ngoại quốc tham dự buổi lễ tại Ban Namkhem ở Phang Nga sáng ngày 26 tháng 12 năm 2009, trong khi khoảng 200 người tụ tập trên bãi biển Patong ở Phuket để cầu nguyện và chứng kiến việc đặt các vòng hoa tưởng niệm.
Nghệ thuật.
Thảm họa này được đưa làm nội dung chính bộ phim "The Impossible", sản xuất năm 2012, đạo diễn bởi J.A. Bayona với 2 diễn viên chính là Naomi Watts và Ewan McGregor. | 17 | 17_bão_cơn_đới_nhiệt | 0.652538 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cầu Trường Tiền hay cầu Tràng Tiền là chiếc cầu dài 402,60 m, gồm 6 nhịp dầm thép hình vành lược, khẩu độ mỗi nhịp 67 m. Khổ cầu 6 m , được thiết kế theo kiến trúc Gothic, bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía bắc thuộc phường Đông Ba, đầu cầu phía nam thuộc phường Phú Hội tại trung tâm thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam.
Lịch sử và tên gọi.
Căn cứ bài thơ "Thuận Hóa thành tức sự" của nhà thơ Thái Thuận , thi sĩ Quách Tấn đã cho rằng dưới thời vua Lê Thánh Tông, sông Hương đã có cầu. Chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là cầu Mây. Vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống . Trải bao năm tháng, không biết khi nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim.
Nguyên cây cầu bằng sắt này do Hãng Schneider et Cie et Letellier thiết kế, khởi công vào tháng 5 năm 1899 và khánh thành vào ngày 18 tháng 12 năm 1900. Cơ bản cầu có 6 vài, mỗi vài dài 66,66 mét. Mặt cầu rộng 4.5 m và có hai lề đường hai bên, mỗi bên rộng 0,75m. Chí phí hoàn thành là 732.456 Francs
Trận lụt năm Thìn (11/9/1904) đã cuốn trôi 4 vài xuống sông.
Hãng Daydé et Pillé (hãng thiết kế cầu Long Biên) được giao cho việc sửa chữa hai vài cầu còn lại và làm 4 vài cầu mới khác theo kiểu cũ.
Năm 1907, khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì chính quyền thực dân Pháp cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của Georges Clemenceau, một Thủ tướng Pháp thời Thế chiến thứ nhất
Trong những năm 1905-1915, mặt cầu được phủ lớp bê tông cốt sắt. Cầu bị xuống cấp do gỉ sét và lưu lượng qua lại ngày càng nhiều nên chính phủ thời đó đã thương lượng với Hãng Eiffel (tên lúc đó là Công ty Xây dựng Levallois Perret - La Société Constructions Levallois-Perret) tìm phương pháp tu bổ cây cầu này. Theo đó, các nhà chuyên môn đã quyết định: thay thế những khung dầm sắt bị hư hỏng, mặt cầu đúc xi măng cốt sắt, lòng đường rộng hơn, hai lề đường cho người đi bộ rộng 1,95, làm ra phía ngoài và mỗi chỗ trụ cầu phải nới rộng hơn để làm chỗ tránh. Toàn bộ cầu được sơn phủ nhiều lớp để tránh gỉ sét. Chi phí nâng cấp lần này là 435.000 $.
Ngày 20 tháng 6 năm 1937, Hãng Eiffel - lúc đó mang tên mới là Anciens Etablissements Eiffel - dưới sự chỉ huy của giám đốc - kỹ sư Martin André đã tiến hành thi công mở rộng cầu. Vào tháng 11/1939, sau 29 tháng thi công, cầu Tràng Tiền hoàn thành.
Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng.
Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị Việt Minh đặt mìn, giật sập hai nhịp phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại. Năm 1953, cầu được sửa chữa hoàn chỉnh như cũ.
Trong Sự kiện Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 4 bị phá hủy , khi quân Mặt trận Giải phóng miền Nam cho giật sập để cắt đường phản công của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Sau đó, một chiếc cầu phao được dựng tạm lên bên cạnh để nối đôi bờ; rồi cầu được tu sửa tạm thời.
Tới năm 1991 cầu được trùng tu. Ở lần trùng tu này do Công ty Cầu 1 Thăng Long đảm nhiệm, kéo dài trong 5 năm (1991-1995), có nhiều thay đổi quan trọng, đó là việc dỡ bỏ các ban công ở hành lang hai bên tại vị trí các trụ cầu, lòng cầu (cả đường chính và phụ) bị hẹp lại do phải nẹp thêm hai ống lan can, màu sơn ghi xám thay cho màu nguyên bản từ xưa của cầu là màu nhũ bạc...
Từ Festival Huế năm 2002, cầu Tràng Tiền được lắp đặt một hệ thống chiếu sáng đổi màu hiện đại...
Trong Văn học Nghệ thuật.
Mặc dù trải nhiều tên gọi, nhưng từ rất lâu, cái tên cầu Trường Tiền (vì chiếc cầu nằm gần một công trường đúc tiền, gọi tắt là "Trường Tiền" của nhà Nguyễn và "phố Trường Tiền" do vua Thành Thái lập năm 1899) vẫn được người dân quen gọi và đã đi vào nhiều bộ môn nghệ thuật...
Tên "Cầu Mống" đã xuất hiện trong thơ Thái Thuận:
Sau Cầu Mống, là cầu "Trường Tiền". Và công trình này đã nhanh chóng trở thành một thắng cảnh nổi tiếng, và là đề tài của nhiều bộ môn nghệ thuật. Trích giới thiệu:
Cầu Trường Tiền trong những câu ca:
Năm 1905, chiếc cầu được pháp mua
Năm 1946, trong chiến tranh Pháp - Việt, cầu bị đặt mìn giật sập. Sau đó, lại có câu:
Và có ai đó đã đáp lại rằng:
Trong thời gian Nguyễn Bính lưu lạc đến Huế, cầu Trường Tiền cũng đã xuất hiện trong thơ ông:
Sau sự kiện Tết Mậu Thân, cầu Trường Tiền bị bom đạn gây hư hại nặng. Quá xúc cảm, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết bài hát "Chuyện một chiếc cầu đã gãy" để nói lên sự việc này, có những câu:
Ngoài ra, cầu Trường Tiền cũng đã được in trong bộ tem thư của Việt Nam.
Sáu vài, mười hai nhịp.
Theo "Từ điển tiếng Việt", cái gọi là vài cầu (hay vì cầu), "là kết cấu nối hai nhịp giữa hai mố cầu và tựa lên các mố đó", còn nhịp cầu cũng theo từ điển này là "khoảng cách giữa hai trụ cầu và mố cầu liền nhau". Theo đó, TS. Trần Đức Anh Sơn cho rằng cầu Trường Tiền thực sự là "mười hai vài, sáu nhịp" chứ không phải là "sáu vài, mười hai nhịp". Ca dao có câu:
Hay:
Song đôi khi, để thuận tai, để có vần, có điệu, một vài tác giả dân gian đã đổi từ "mười hai vài, sáu nhịp" sang "sáu vài mười hai nhịp", như ở câu: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Fort Lauderdale hay Pháo đài Lauderdale, được biết đến như "Venice của Mỹ" nhờ hệ thống kênh rộng rãi và phức tạp của thành phố, là thành phố nằm tại Quận Broward, Florida, Hoa Kỳ. Thành phố đôi khi được nhắc đến như "Fort Liquordale" bởi những bãi biển, những quán bar, hộp đêm, và toàn bộ không khí tiệc tùng của nó. Theo sự điều tra số dân của Mỹ năm 2005, thành phố có tổng cộng 170.823 người.
Chính quyền.
Danh sách thị trưởng của Fort Lauderdale.
"Danh sách này chưa đầy đủ" | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.986372 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Công viên Hồ Tây thành lập ngày 19 tháng 5 năm 2000, là khu giải trí nằm trong địa phận phường Nhật Tân, quận Tây Hồ, Hà Nội. Thuộc quản lý của Công ty Cổ phần Dịch vụ Giải trí Hà Nội. Với tổng diện tích 8,1 ha, Công viên Hồ Tây với thiết kế độc đáo, hiện đại màu sắc rực rỡ sôi động của một tổ hợp vui chơi giải trí đa năng, Công viên đã trở thành điểm đến quen thuộc hấp dẫn của người dân Thủ đô và du khách trong cũng như ngoài nước trong hơn 10 năm trở lại đây.
Công viên nước.
Công viên nước mở cửa từ 14/4/2001 có các khu bể và các khu đường trượt đa dạng phong phú, hệ thống lọc nước tuần hoàn theo tiêu chuẩn châu Âu:
giá vé:
Người lớn:
Trẻ em:
Công viên Mặt Trời Mới.
Công viên Mặt Trời Mới khai trương ngày 2 tháng 7, 2000 với diện tích 2.9 ha. Công viên có 19 trò chơi phần lớn dành cho trẻ em, bao gồm các trò: | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 0.474253 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 5 là đường giao thông huyết mạch nối cụm cảng Hải Phòng với thủ đô Hà Nội, miền Bắc Việt Nam. Nó còn là một phần của đường Xuyên Á AH14.
Tuyến đường.
Điểm đầu từ Nút giao Kim Chung (trước đây bắt đầu từ Cầu Chui – Long Biên – Hà Nội), điểm cuối là Cảng Chùa Vẽ, giao với đường tỉnh 356 tại thành phố Hải Phòng. Chiều dài toàn tuyến 116 km. Quốc lộ 5 đi qua địa phận Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm (Hà Nội), Văn Lâm, Yên Mỹ, Mỹ Hào (Hưng Yên), Bình Giang, Cẩm Giàng, thành phố Hải Dương, Kim Thành (Hải Dương), An Dương, Hồng Bàng, Hải An (Hải Phòng). Các đô thị nằm dọc quốc lộ 5 là Quận Long Biên, Hà Nội, các thị trấn Trâu Quỳ (Gia Lâm), Như Quỳnh (Văn Lâm), Lai Cách (Cẩm Giàng), Phú Thái (Kim Thành); Thị xã: Mỹ Hào, Tỉnh Hưng Yên; Thành phố: Hải Dương (Thành phố), Tỉnh Hải Dương và các Quận của Hải Phòng.
Tiền thân của quốc lộ 5 là đường Thuộc địa số 5, được xây dựng từ thời Pháp thuộc. Quốc lộ 5 được cải tạo, nâng cấp từ tháng 6 năm 1996 và hoàn thành tháng 6 năm 1998. Trên quốc lộ 5 có 2 trạm thu phí sử dụng, một tại địa phận tỉnh Hưng Yên và một tại địa phận thành phố Hải Phòng.
Song song với quốc lộ 5 là tuyến đường sắt Hà Nội – Hải Phòng dài khoảng 110 km. Do đoạn từ cầu Chui (Long Biên) đến nút giao Kim Chung mới được xây dựng nên nó còn được gọi là quốc lộ 5 kéo dài.
Tu bổ.
Tổng cục Đường bộ Việt Nam (Bộ GTVT) vừa có công điện khẩn, yêu cầu Tổng Công ty Phát triển hạ tầng và đầu tư tài chính Việt Nam (Vidifi) đẩy nhanh tiến độ thực hiện các gói thầu của dự án sửa chữa mặt đường Quốc lộ 5 (QL5), nếu không sẽ bị dừng thu phí. Theo PGS.TS Ngô Trí Long, từ năm 2016 đến nay, không dưới 3 lần QL5 bị hư hỏng và cũng từng ấy lần những "tối hậu thư" với nội dung "sẽ dừng thu phí nếu không sửa đường kịp thời" đều vô tác dụng. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.597135 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Châu Đốc là một thành phố trực thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Thành phố Châu Đốc nằm trên bờ sông Hậu, cách Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 210 km về phía tây, cách thành phố Cần Thơ khoảng 115 km, cách thành phố Long Xuyên khoảng 55 km về phía tây bắc và cách thủ đô Phnôm Pênh (Campuchia) khoảng 149 km về phía nam theo Quốc lộ 91.
Thành phố Châu Đốc có địa giới hành chính:
Thành phố Châu Đốc nằm sát biên giới Việt Nam và Campuchia. Thành phố hiện đang là đô thị loại II.
Dân cư, tôn giáo.
Dân cư thành phố Châu Đốc sinh sống tập trung ở khu vực ven sông Hậu, ven Quốc lộ 91, tại các phường trung tâm thành phố, tại các khu dân cư... với cơ cấu dân số trẻ, dân cư đô thị chiếm gần 80%.
Gồm có Phật giáo, Công giáo, Đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Hồi Giáo.
Hành chính.
Thành phố Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 5 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Nguơn và 2 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Tế được chia thành 52 khóm - ấp.
Lịch sử.
Nguồn gốc tên gọi.
Nguồn gốc của tên gọi Châu Đốc cho đến ngày nay vẫn còn là một vấn đề gây tranh cãi. Một số người cho rằng tên gọi này chỉ là cách nói trại ra từ một tiếng Cam Bốt là Meàth Chruk, có nghĩa là mõm heo, là tên gọi trước đây của cù lao được hình thành bởi Sông Tiền và Sông Hậu, sông Naréa và Sông Vàm Nao. Người Khmer cũng gọi cù lao này là SlaKét (cây cau dại). Một vài người lại nghĩ rằng theo những ký tự dùng để viết chữ Châu Đốc, thì nguồn gốc thực sự có thể là (Châu), có nghĩa là tỉnh và (Đốc), có nghĩa là bất diệt...
Hiện nay, thành phố Châu Đốc không phải là tỉnh lỵ của tỉnh An Giang, mà tỉnh lỵ là thành phố Long Xuyên. Tuy nhiên, Châu Đốc lại từng là tỉnh lỵ của tỉnh Châu Đốc cũ vào thời Pháp thuộc trước năm 1956 và trong giai đoạn 1964-1975 dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đặc biệt, Châu Đốc lại là lỵ sở của toàn bộ tỉnh An Giang vào thời nhà Nguyễn độc lập. Địa bàn tỉnh An Giang khi đó bao gồm tỉnh An Giang, thành phố Cần Thơ, tỉnh Sóc Trăng, một phần các tỉnh Đồng Tháp, Hậu Giang và Bạc Liêu ngày nay.
Thời chúa Nguyễn và nhà Nguyễn độc lập.
Lãnh thổ Châu Đốc nguyên là đất thuộc nước Chân Lạp, gọi là Tầm Phong Long (Kompong Long). Năm 1757, vua Chân Lạp nhường cho chúa Nguyễn, chúa Nguyễn giao cho Nguyễn Cư Trinh vào và thành lập đạo Châu Đốc cùng với đạo Tân Châu và đạo Đông Khẩu (Sa Đéc).
Sau khi vua Gia Long lên ngôi, năm 1805 niên hiệu Gia Long thứ 3, đã đặt lại địa giới hành chính Châu Đốc thuộc trấn Hà Tiên, Châu Đốc lúc này gọi là Châu Đốc Tân Cương. Năm 1808, Châu Đốc thuộc huyện Vĩnh Định, phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh, thuộc Gia Định thành. Năm 1815, triều Nguyễn cho xây thành Châu Đốc. Đến 1825, Châu Đốc tách riêng thành Châu Đốc trấn.
Năm 1832 niên hiệu Minh Mạng 13, vua Minh Mạng đổi trấn thành tỉnh, phủ Gia Định chia thành Nam Kỳ lục tỉnh: Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, Hà Tiên và An Giang. Trấn Châu Đốc đổi thành tỉnh An Giang. Thành Châu Đốc, vùng đất mà nay là thành phố Châu Đốc, là tổng Châu Phú thuộc huyện Tây Xuyên và trở thành tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nhà Nguyễn (thành Châu Đốc khi đó nằm ở khoảng giữa của huyện Tây Xuyên, huyện này gồm cả phần đất nay thuộc đông nam tỉnh Takeo Campuchia). Đồng thời Minh Mạng cho đặt chức tổng đốc An Hà, lỵ sở tại thành Châu Đốc, cai quản 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên (gồm phần lớn đồng bằng sông Cửu Long ngày nay). Để xứng đáng là tỉnh lỵ của một trong sáu tỉnh Nam Kỳ (tỉnh An Giang thời đó bao gồm các phần đất mà nay là các tỉnh thành An Giang, Cần Thơ, Hậu Giang, Sóc Trăng, một phần của các tỉnh Đồng Tháp, Bạc Liêu của Việt Nam, và một phần của tỉnh Takeo Campuchia), năm 1831 niên hiệu Minh Mạng 12, vua Minh Mạng cho triệt phá thành (đồn) Châu Đốc cũ (1815), xây dựng thành Châu Đốc mới theo hình bát quái, ở phía đông đồn Châu Đốc cũ. Theo Nghiên cứu địa bạ Nam Kỳ Lục tỉnh 1836 của Nguyễn Đình Đầu, tổng Châu Phú khoảng những năm 1836-1839 có các thôn làng sau: Vĩnh Tế Sơn, Vĩnh Ngươi, Vĩnh Phước, Vĩnh Hội, Vĩnh Khánh, Nhơn Hội, Nhơn Hòa, Long Thạnh, Bình Thạnh, An Thạnh, Vĩnh Thạnh, Vĩnh Thành, An Nông, Hưng An, Khánh An, Phú Cường, Vĩnh Bảo, Vĩnh Thọ, Vĩnh Thông, Vĩnh Lạc, Vĩnh Điều, Vĩnh Trung, Vĩnh Trường, Thới Hưng, Thân Nhơn Lý...
Thời Pháp thuộc.
Ngày 22 tháng 6 năm 1867, Pháp đem quân đánh chiếm Châu Đốc. Năm 1868, sau khi quân Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh: (An Giang, Vĩnh Long, Hà Tiên), nhà cầm quyền thực dân chia Nam Kỳ thành 24 hạt Tham biện. Trong đó, hạt Châu Đốc trông coi hạt Long Xuyên (sở lỵ gần chợ Đông Xuyên) và hạt Sa Đéc, thành Châu Đốc bị hạn chế bớt vai trò trung tâm vùng của nó so với thời nhà Nguyễn độc lập (giai đoạn 1832-1867).
Ngày 20 tháng 12 năm 1899, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định đổi hạt Tham biện thành tỉnh; chia phần lớn đất An Giang cũ của nhà Nguyễn thành 5 tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Cần Thơ, Sóc Trăng. Thành Châu Đốc chỉ còn vai trò là thủ phủ của tỉnh Châu Đốc, một trong 21 tỉnh của Nam Kỳ thuộc Pháp. Lúc bấy giờ, tỉnh lỵ Châu Đốc nằm trên địa bàn làng Châu Phú thuộc tổng Châu Phú, quận Châu Thành.(Cochinchine Francaise).
Năm 1919, quận Châu Thành đổi thành quận Châu Phú thuộc tỉnh Châu Đốc. Tuy nhiên năm 1939 lại đổi về tên quận Châu Thành như cũ. Thời Pháp thuộc, làng Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Thành và là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc.
Trong Cách mạng tháng Tám, lực lượng cách mạng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh Châu Đốc vào ngày 24 tháng 8 năm 1945. Đến ngày 20 tháng 1 năm 1946, quân Pháp chiếm lại Châu Đốc.
Theo sự phân chia của chính quyền Cách mạng, ngày 06 tháng 3 năm 1948, vùng đất Châu Đốc ngày nay thuộc huyện Châu Phú A của tỉnh Long Châu Hậu. Đến cuối năm 1950, huyện Châu Phú A thuộc tỉnh Long Châu Hà. Năm 1954, vùng đất Châu Đốc lại trở về thuộc huyện Châu Phú, tỉnh Châu Đốc.
Thời Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm quyết định sáp nhập tỉnh Châu Đốc với tỉnh Long Xuyên để thành lập tỉnh An Giang. Lúc này ở vùng đất cả hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc trước đó đều có quận Châu Thành cả. Tuy nhiên, do tỉnh lỵ tỉnh An Giang có tên là "Long Xuyên" và được đặt ở quận Châu Thành thuộc tỉnh Long Xuyên cũ, cho nên quận Châu Thành thuộc tỉnh Châu Đốc cũ được đổi tên là quận Châu Phú như ở giai đoạn 1919-1939. Lúc này, xã Châu Phú chỉ còn đóng vai trò duy nhất là quận lỵ quận Châu Phú. Vai trò tỉnh lỵ của tỉnh An Giang được chuyển từ Châu Đốc sang Long Xuyên, từ đó Châu Đốc không còn là trung tâm tỉnh lỵ của tỉnh An Giang nữa.
Ngày 8 tháng 9 năm 1964, Thủ tướng chính quyền mới của Việt Nam Cộng hòa ký Sắc lệnh số 246/NV quy định kể từ ngày 01 tháng 10 năm 1964 tái lập tỉnh Châu Đốc trên cơ sở các quận Châu Phú, Tân Châu, An Phú, Tri Tôn và Tịnh Biên cùng thuộc tỉnh An Giang trước đó.
Quận Châu Phú trở lại thuộc tỉnh Châu Đốc cho đến năm 1975. Sau năm 1965, tất cả các tổng đều bị giải thể. Lúc bấy giờ, xã Châu Phú thuộc quận Châu Phú vừa đóng vai trò là quận lỵ quận Châu Phú và đồng thời cũng là tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc trong giai đoạn 1964-1975. Tỉnh lỵ tỉnh Châu Đốc khi đó lại có tên là "Châu Phú", do nằm trong khu vực xã Châu Phú, quận Châu Phú.
Năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng đặt huyện Châu Phú thuộc tỉnh An Giang, giống như sự phân chia của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Giữa năm 1966, tách xã Châu Phú ra khỏi huyện Châu Phú để thành lập thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh An Giang.
Trong giai đoạn 1964-1971, chính quyền Cách mạng vẫn đặt huyện Châu Phú và thị xã Châu Đốc cùng thuộc tỉnh An Giang.
Năm 1971, thị xã Châu Đốc vẫn thuộc tỉnh An Giang sau khi tách đất tỉnh An Giang để thành lập tỉnh Châu Hà. Cho đến tháng 5 năm 1974, thị xã Châu Đốc và huyện Châu Phú cùng thuộc tỉnh Long Châu Hà theo Hội nghị thường trực Trung ương Cục cho đến 30/4/1975.
Sau năm 1975.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt thị xã Châu Đốc trực thuộc tỉnh Long Châu Hà.
Tháng 2 năm 1976, thị xã Châu Đốc thuộc tỉnh An Giang, bao gồm 2 xã: Châu Phú A và Châu Phú B.
Ngày 27 tháng 1 năm 1977, nhận thêm xã Vĩnh Nguơn của huyện Châu Phú theo Quyết định số 199/TC.UB của Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang.
Ngày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 181-CP năm 1979. Theo đó:
Ngày 23 tháng 8 năm 1979, sáp nhập xã Vĩnh Tế thuộc huyện Châu Phú vào thị xã Châu Đốc.
Từ đó, thị xã Châu Đốc có 5 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 2 phường: Châu Phú A, Châu Phú B và 3 xã: Vĩnh Mỹ, Vĩnh Nguơn, Vĩnh Tế.
Ngày 22 tháng 3 năm 2002, chia xã Vĩnh Tế thành 2 đơn vị hành chính: phường Núi Sam và xã Vĩnh Tế.
Ngày 19 tháng 5 năm 2003, chia xã Vĩnh Mỹ thành 2 đơn vị hành chính: phường Vĩnh Mỹ và xã Vĩnh Châu.
Ngày 1 tháng 9 năm 2007, thị xã Châu Đốc được Bộ Xây dựng công nhận là đô thị loại III trực thuộc tỉnh An Giang.
Cuối năm 2012, thị xã Châu Đốc có 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ và 3 xã: Vĩnh Châu, Vĩnh Ngươn, Vĩnh Tế.
Ngày 19 tháng 7 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 86/NQ-CP.<ref name="86/NQ-CP"></ref> Theo đó:
Chuyển xã Vĩnh Nguơn thành phường Vĩnh Nguơn.
Thành lập thành phố Châu Đốc trên cơ sở toàn bộ 10.529,05 ha diện tích tự nhiên và 157.298 người của thị xã Châu Đốc.
Sau khi thành lập, thành phố Châu Đốc có 5 phường và 2 xã như hiện nay.
Ngày 15 tháng 4 năm 2015, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ban hành quyết định số 499/QĐ-TTg, công nhận thành phố Châu Đốc là đô thị loại II trực thuộc tỉnh An Giang.
Kinh tế - xã hội.
Kinh tế.
Kinh tế Châu Đốc tăng trưởng nhanh và mạnh. Năm 2012, tốc độ tăng trưởng GDP của thành phố Châu Đốc đạt 16,10%, thu nhập bình quân đầu người trên 35,36 triệu đồng, tổng vốn đầu tư phát triển gần 2.720 tỷ đồng, lĩnh vực thương mại - dịch vụ - du lịch tiếp tục phát huy thế mạnh, với mức tăng trưởng đạt 18,01% và chiếm 70,47% tỷ trọng cơ cấu kinh tế địa phương Ngoài ra, thành phố cũng tập trung phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn phường Vĩnh Mỹ và xã Vĩnh Châu.
Năm 2014, thu nhập bình quân đầu người của thành phố Châu Đốc đạt 60,32 triệu đồng và tăng trưởng kinh tế 3 năm gần nhất đạt 16,03%; tỷ lệ hộ nghèo là 1,0%.
Với tiềm năng là một thành phố du lịch nên thương mại-dịch vụ của thành phố là một ngành mũi nhọn trong phát triển kinh tế thành phố. Hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại, chợ, các trung tâm mua bán phân bố rộng khắp trên địa bàn thành phố. Hàng hóa phân bố rộng khắp đến các địa bàn trong thành phố. Dịch vụ nhà hàng khách sạn cũng phát triển, với một chuỗi các khách sạn, nhà hàng lớn như Victoria Châu Đốc (4,5 sao), Victoria Núi Sam (3 sao), Châu Phố (3 sao), Bến Đá (3 sao), Đông Nam (2 sao), Song Sao (2 sao), Trung Nguyễn (2 sao), Hải Châu (2 sao)...
Đây không phải là một ngành trọng điểm của thành phố nhưng cũng đóng góp một phần vào sự phát triển của thành phố. Các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp được thành phố quan tâm đầu tư và phát triển đã giải quyết một phần cho lao động nhàn rỗi nông thôn.
Đây là một ngành đã hình thành và phát triển từ rất lâu đời ở thành phố. Loại hình nông nghiệp đô thị là một thế mạnh của thành phố. Các cánh đồng đã được cơ giới hóa trong công tác trước, trong và sau thu hoạch do đó năng suất không ngừng tăng và chất lượng nông phẩm cũng tăng lên.
Giáo dục.
Một số cơ sở giáo dục tại Châu Đốc:
Trung học phổ thông Châu Thị Tế
Y tế.
Danh sách các cơ sở y tế ở Châu Đốc
Giao thông.
Tên đường của Châu Đốc trước năm 1975.
Đường Louis Pasteur, Gia Long và Trần Hưng Đạo nay là đường Trần Hưng Đạo.
Đường Thượng Đăng Lễ nay là đường Sương Nguyệt Anh.
Đường Đốc Phủ Thủ nay là đường Đống Đa.
Đường Bảo Hộ Thoại nay là đường Nguyễn Văn Thoại.
Đường Hùng Vương nay là đường Huyền Trân Công Chúa.
Thành phố Châu Đốc có hơn 15 km Quốc lộ 91 chạy ngang. Năm 2011, Bộ trưởng Bộ GTVT ký quyết định cho nâng cấp tỉnh lộ 956 tại An Giang (nối Châu Đốc - Long Bình) lên thành quốc lộ 91C . Đây là một thuận lợi để thành phố giao lưu, buôn bán với các địa phương trong tỉnh, trong khu vực Đồng bằng sông Cửu Long và nước bạn Campuchia. Ngoài ra, còn có tuyến đường vành đai chạy qua ngoại ô. Khu vực trung tâm thành phố và khu Thương mại Dịch vụ (phường A, phường B,p hường Núi Sam) có hệ thống giao thông nội ô tương đối hoàn thiện.
Thành phố có các tuyến đường nội ô gồm: Lê Lợi, Nguyễn Văn Thoại, Thủ Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Huân, Bạch Đằng, Chi Lăng, Trưng Nữ Vương, Phan Văn Vàng, Núi Sam-Châu Đốc, Phan Đình Phùng, Hậu Miếu Bà, Cử Trị, Quang Trung.
Quy hoạch giao thông
Thành phố đang tiếp tục hoàn thiện hệ thống giao thông nội ô,nâng cấp, mở rộng, nối dài các tuyến đường trong trung tâm thành phố. Quy hoạch tuyến N1 nối kết thành phố với các tỉnh,thành khu vực Nam Bộ. Trong tương lai gần sẽ có tuyến cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng đi qua thành phố.
Di tích lịch sử - Văn hóa.
Châu Đốc có khu danh thắng Núi Sam, với nhiều lịch sử - Văn hóa được xếp hạng cấp quốc gia, trong đó có Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam. Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ được tổ chức hằng năm thu hút đông đảo du khách đến tham quan, cúng bái. Bên cạnh đó, vùng đất giàu truyền thống này cũng từng ghi đậm dấu ấn của các danh tướng, như Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Văn Thoại, Doãn Uẩn... và những bậc tiền hiền có công khai phá, mở mang bờ cõi, giữ vững biên cương cho Việt Nam.
Các di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia tại Châu Đốc gồm:
Tham khảo.
17. ^ Địa lý học. Tập VI (1902) chuyên khảo về tỉnh Châu Đốc. Hội nghiên cứu Đông Dương, Nhà xuất bản Trẻ. Truy cập năm 2017. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Thái Bình là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Thành phố Thái Bình là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, quốc phòng... của tỉnh và cũng là một trong 8 thành phố của vùng duyên hải Bắc Bộ. Nằm cách thủ đô Hà Nội 110 km, đồng thời là đầu mối giao thông của tỉnh; thuận lợi giao lưu với các tỉnh, thành phố trong vùng như Hải Phòng, Nam Định, đồng bằng sông Hồng qua quốc lộ 10.
Địa lý.
Thành phố Thái Bình nằm ở vị trí trung tâm của tỉnh, cách thủ đô Hà Nội 110 km về phía đông nam, cách thành phố Hải Phòng 60 km về phía tây nam, cách thành phố Nam Định 19 km về phía đông. có vị trí địa lý:
Thành phố Thái Bình có diện tích 67,71 km², dân số theo tổng điều tra ngày 1/4/2019 là 206.037 người.
Sông Trà Lý chảy qua giữa thành phố, ngoài ra còn có sông Kiến Giang chảy ở phía nam và sông Vĩnh Trà.
Thành phố Thái Bình là vùng đất bằng phẳng, có cao độ 2,6 m, có sông Trà Lý chảy qua với chiều dài 6,7 km, có hệ thống sông đào đã được nâng cấp, kè bờ. Chất đất ở đây có nguồn gốc phát sinh từ các cồn và bãi cát biển nhưng được bồi đắp phù sa nên rất thích hợp cho việc gieo trồng lúa nước và cây rau màu. Nơi đây cũng rất ổn định về địa chất, phù hợp với việc phát triển các ngành công nghiệp hay xây dựng những công trình cao tầng. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm, tiểu vùng khí hậu duyên hải. Thành phố có 2 mùa rõ rệt trong năm: mùa nóng ẩm mưa nhiều kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10, còn lại là mùa khô hanh ít mưa. Nhiệt độ trung bình ở đây là 23 độ C, lượng mưa trung bình từ 1.500-1.900mm, độ ẩm không khí dao động 70-90%, số giờ nắng khoảng 1.600-1.800 giờ mỗi năm.
Hành chính.
Thành phố Thái Bình có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 10 phường: Bồ Xuyên, Đề Thám, Hoàng Diệu, Kỳ Bá, Lê Hồng Phong, Phú Khánh, Quang Trung, Tiền Phong, Trần Hưng Đạo, Trần Lãm và 9 xã: Đông Hoà, Đông Mỹ, Đông Thọ, Phú Xuân, Tân Bình, Vũ Chính, Vũ Đông, Vũ Lạc, Vũ Phúc.
Danh sách các đơn vị hành chính thuộc thành phố Thái Bình
Lịch sử.
Bố Hải Khẩu là tên một đất cổ từ thời Ngô, nay thuộc phường Kỳ Bá, thành phố Thái Bình, tỉnh Thái Bình. Vào thế kỉ 10, là cửa biển, do sứ quân Trần Lãm chiếm giữ làm căn cứ. Đinh Bộ Lĩnh liên kết với Trần Lãm để mở rộng thế lực trong cuộc đấu tranh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước. Năm 1030, vua Lý Thái Tông cày tịch điền ở Bố Hải Khẩu. Sau Bố Hải Khẩu được bồi lấp dần thành xã Kỳ Bố, huyện Vũ Tiên, trấn Sơn Nam Hạ (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay). Đến năm 1890 khi thành lập tỉnh Thái Bình tách ra từ Nam Định, nơi đây được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh, lấy tên là Thái Bình cho đến bây giờ.
Năm 1894, toàn quyền Đông Dương Jean-Marie de Lanessan ra quyết định quy hoạch thành lập thị xã Thái Bình.
Ngày 4 tháng 2 năm 1895, Kinh lược sứ Bắc Kỳ ra quyết định sáp nhập các làng Kỳ Bá, Bồ Xuyên vào phủ lỵ Kiến Xương để lập thị xã Thái Bình. Gọi là thị xã song thực ra chỉ có hai con đường trục của làng Bồ Xuyên và Kỳ Bá. Một con đường từ phủ đường qua cầu Kiến Xương (cách nhà Bảo tàng 200m) đi huyện Trực Định. Đường trục làng Bồ Xuyên và Kỳ Bá đều có đoạn dài xấp xỉ 1 km nhưng ngoằn nghèo.
Ngày 20 tháng 1 năm 1906, phủ Thống sứ ra Nghị định hoạch định chu vi thị xã.
Ngày 26 tháng 10 năm 1932, ra nghị định về kế hoạch điều chỉnh ba con đường cho thẳng hàng:
Năm 1954, thành lập các tiểu khu: Đề Thám, Lê Hồng Phong, Quang Trung.
Ngày 19 tháng 4 năm 1963, sáp nhập 3 thôn: Kỳ Bá, An Tập, Đồng Lôi thuộc xã Vũ Lãm (sau đổi là xã Trần Lãm) của huyện Vũ Tiên và thôn Bồ Xuyên thuộc xã Tiền Phong của huyện Thư Trì (sau này huyện Vũ Tiên hợp nhất với huyện Thư Trì thành huyện Vũ Thư) vào thị xã Thái Bình.
Sau năm 1975, thị xã Thái Bình có 5 phường: Bồ Xuyên, Đề Thám, Kỳ Bá, Lê Hồng Phong, Quang Trung.
Ngày 8 tháng 4 năm 1982, chuyển 2 xã: Tiền Phong, Trần Lãm thuộc huyện Vũ Thư về thị xã Thái Bình quản lý.
Ngày 20 tháng 3 năm 1986, chuyển 2 xã: Đông Hòa, Hoàng Diệu thuộc huyện Đông Hưng và 3 xã: Phú Xuân, Vũ Phúc, Vũ Chính của huyện Vũ Thư về thị xã Thái Bình quản lý.
Ngày 21 tháng 6 năm 1989, thành lập phường Phú Khánh trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của 2 xã Phú Xuân và Vũ Phúc.
Ngày 12 tháng 4 năm 2002, chuyển 2 xã: Tiền Phong, Trần Lãm thành 2 phường có tên tương ứng.
Cuối năm 2003, thị xã Thái Bình có 8 phường: Bồ Xuyên, Đề Thám, Kỳ Bá, Lê Hồng Phong, Phú Khánh, Quang Trung, Tiền Phong, Trần Lãm và 5 xã: Đông Hòa, Hoàng Diệu, Phú Xuân, Vũ Chính, Vũ Phúc.
Ngày 18 tháng 4 năm 2003, thị xã Thái Bình được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 29 tháng 4 năm 2004, thành lập thành phố Thái Bình, thành phố tỉnh lỵ tỉnh Thái Bình trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thái Bình. Thành phố Thái Bình có 8 phường và 5 xã.
Ngày 13 tháng 12 năm 2007, mở rộng thành phố Thái Bình trên cơ sở sáp nhập 2 xã: Đông Thọ và Đông Mỹ thuộc huyện Đông Hưng, 2 xã: Vũ Lạc và Vũ Đông thuộc huyện Kiến Xương và xã Tân Bình thuộc huyện Vũ Thư; chuyển xã Hoàng Diệu thành phường Hoàng Diệu và thành lập phường Trần Hưng Đạo từ một phần diện tích tự nhiên và dân số của các phường Quang Trung, Tiền Phong, Bồ Xuyên và xã Phú Xuân.
Từ đó, thành phố Thái Bình có 10 phường và 9 xã như hiện nay.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2418/QĐ-TTg công nhận thành phố Thái Bình là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Thái Bình.
Kinh tế - xã hội.
Kinh tế.
Năm 2014, tổng giá trị sản xuất trên địa bàn thành phố ước đạt 19.868,3 tỷ đồng, tăng 10,02% so với năm 2013. Trong đó:
Khu - Cụm Công nghiệp:
Các KCN và CCN trên đã thu hút hàng trăm dự án với số vốn đầu tư hàng chục ngàn tỷ đồng, và tạo việc làm cho trên 50.000 lao động.
Giáo dục.
Hệ thống cơ sở giáo dục toàn diện với các trường Đại học, Cao đẳng, THPT và nhiều trường tiểu học & THCS
Trên địa bàn thành phố có 5 trường THPT:
Y tế.
Các cơ sở y tế trên địa bàn thành phố Thái Bình hiện bao gồm:
Dự án Khu Trung tâm Y tế Thái Bình rộng 42ha có các dự án như: Bệnh viện Đa khoa tỉnh 1.000 giường bệnh, Bệnh viện Nhi, Bệnh viện Mắt, Bệnh viện Tâm thần, Trung tâm vận chuyển cấp cứu 115, Trung tâm giám định Y khoa, Bệnh viện đa khoa tư nhân Lâm Hoa (cơ sở II), Bệnh viện phụ sản tư nhân, Bệnh viện đa khoa cộng đồng và Trung tâm xét nghiệm - chẩn đoán chất lượng cao, Phòng khám tư vấn chăm sóc sức khỏe và Vận chuyển cấp cứu... đang được triển khai nhưng công tác xây dựng khá là chậm so với tiến độ đề ra.
Văn hóa.
Thái Bình có Nhà hát Chèo Thái Bình, có Nhà hát cải lương, Đoàn ca múa nhạc, Nhà bảo tàng, Trung tâm thông tin triển lãm, Thư viện khoa học tỉnh.
Bảo tàng Thái Bình là một trong những Bảo tàng lớn nhất của cả nước. Nơi đây lưu giữ nhiều cổ vật quý hàng ngàn năm tuổi khai quật được ở mảnh đất Thái Bình như: Trống đồng, Gạch nung cổ, các loại đồ kim loại cổ, sứ cổ. Ngoài ra còn trưng bày các kỷ vật thời nay như xe tăng của Bùi Quang Thận, máy bay của Phạm Tuân.
Thư viện khoa học tổng hợp Thái Bình được thành lập năm 1955, đến nay còn lưu giữ hơn 155 nghìn bản sách và tư liệu.
Thành phố đang xây dựng khu liên hiệp thể thao tại xã Đông Hoà và phường Hoàng Diệu gồm nhiều hạng mục như sân vận động với 25.000 chỗ ngồi, nhà thi đấu đa năng, bể bơi trong nhà, ngoài trời, khu tập luyện dành cho vận động viên...
Thể dục thể thao Thái bình đang được chú trọng phát triển. Đặc biệt có đội tuyển bóng chuyền nữ PiOl Vital Thái Bình là CLB chuyên nghiệp thuộc hạng vào các câu lạc bộ mạnh nhất quốc gia. Đội tuyển đã nhiều năm vô địch bóng chuyền chuyên nghiệp vào các năm: 2007, 2008, 2010. Đạt giải nhì vào các năm 2009. Và đạt giải nhất trong trận thi đấu giải Cúp các câu lạc bộ Hùng Vương trước đội Bộ tư lệnh thông tin năm 2010.
Các môn thể thao khác thì không được quan tâm nên thành tích chưa được tốt.
Để phục vụ nhu cầu giải trí của người dân, TP có các công trình văn hóa như Trung tâm văn hóa, thể thao thanh thiếu niên tỉnh, Trung tâm TDTT TP, Nhà Văn hóa trung tâm tỉnh, Nhà văn hóa Lao động tỉnh, Nhà văn hóa thiếu nhi tỉnh, Thư viện tỉnh, Bảo tàng tỉnh… Có các công trình thể dục thể thao quy mô lớn đáp ứng được nhu cầu tổ chức các sự kiện thi đấu thể dục thể thao toàn TP, tỉnh cũng như quốc tế.
Giao thông.
TP. Thái Bình có hệ thống giao thông tương đối thuận lợi cả về đường thủy và đường bộ:
Đường bộ:
Đường thủy:
Giao thông nội thị
Một số đường nội thành chính: Hai Bà Trưng, Lê Lợi, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trần Thái Tông, Lý Bôn, Lê Quý Đôn...
Cầu:
Bến xe:
Tuyến xe buýt nội tỉnh qua TP. Thái Bình
1, Tuyến 01 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - KCN Tiền Hải.
Lộ trình: Cầu Phúc Khánh - Đường Trần Thái Tông - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình, Bệnh viện Đa khoa Thái Bình) - Đường Lê Lợi - Đường Lý Thường Kiệt - Quốc lộ 39 B (Thị trấn huyện Kiến Xương, Thị trấn huyện Tiền Hải) - Khu vực ngã tư xã Đông Minh huyện Tiền Hải.
2, Tuyến 02 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - TT. Diêm Điền.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Cống Thóc thị trấn Diêm Điền - Hồng Quỳnh huyện Thái Thụy.
3, Tuyến 03 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Cầu Triều Dương
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Quốc lộ 39 (huyện Hưng Hà) - Cầu Triều Dương
4, Tuyến 04 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Phố Bến Hiệp
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Ngô Thì Nhậm - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 (huyện Đông Hưng) - Ngã ba Đọ - Thị trấn Quỳnh Côi - Bến Hiệp huyện Quỳnh Phụ
5, Tuyến 05 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Bến xe Chợ Lục
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Đường Quang Trung - Đường Lý Bôn (Vườn Hoa, Bến xe khách Thái Bình) - Quốc lộ 10 - Quốc lộ 39 (huyện Đông Hưng) - Thái Giang - Thái Hà - Thái Phúc - Chợ Lục, Thái Ninh huyện Thái Thụy
6, Tuyến 06 Hoàng Hà: TP. Thái Bình - Tịnh Xuyên – Hưng Hà- Đền Trần.
Lộ trình: Trường CĐSP Thái Bình - Cầu Cống Trắng - Đường Ngô Thì Nhậm - Đường Phan Bá Vành - Đường Lý Bôn - Bệnh viện Đa khoa Thái Bình - Vincom Thái Bình - Bến xe khách Hoàng Hà - Ngã tư Tân Bình (Trường ĐH Thái Bình) - Tân Hòa - Minh Lãng - Song Lãng - Hiệp Hòa - Xuân Hòa – Cầu Tịnh Xuyên - Minh Hoà - Độc Lập (Đền thờ Lê Quý Đôn) - Minh Tân - Hồng An - Giao cắt ĐT 453 và Đường Thái Bình Hà Nam - Đền Trần-Thái Bình
7, Tuyến 07 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân.
Lộ trình: Thành phố Thái Bình - Long Hưng - Gia Lễ - Vô Hối - Diêm Điền - Thụy Tân.
8, Tuyến 08 Phiệt Học: TP. Thái Bình - Kiến Xương - Tiền Hải - Cồn Vành.
Lộ trình: CĐSP Thái Bình - Quang Trung -Trần Thái Tông - Lý Bôn -Ngô Quyền - Lê Quý Đôn -Cầu Trắng - đường 39B (Vũ Quý, Thanh Nê, Tiền Hải) - đường trục xã Tây Giang - BVĐK Tiền Hải - Nam Hà - Nam Hải - Nam Hồng - Nam Trung - Nam Phú - Cồn Vành.
9, Tuyến 209 Huy Hoàng: Thành phố Thái Bình - Quý Cao - Thành phố Hải Dương.
Lộ trình: Thành phố Thái Bình - thị trấn Đông Hưng - Cầu Nghìn - Vĩnh Bảo - Quý Cao - Tứ Kỳ - Thành phố Hải Dương.
Du lịch.
Trung tâm thành phố:
Bờ Sông Trà: Nơi hằng đêm có các hoạt động ca nhạc, vui chơi ngoài trời.
Cầu Bo, Cầu Thái Bình, Cầu Hoà Bình.
Các tuyến phố: Tuyến kinh doanh đêm Trần Hưng Đạo, Minh Khai, Lý Bôn, Hai Bà Trưng, Quang Trung, Lê Lợi, Phan Bá Vành, Lê Quý Đôn, Hoàng Công Chất...
Đền Quan: là di tích lịch sử nổi tiếng ở thành phố Thái Bình, Đền Quan là nơi thờ vị thần triều Đinh là “Tiết Chế Nam Đạo Đại Thần Tướng". Ngài họ Trần – húy Thắng, là tướng của sứ quân Trần Lãm trấn giữ Thái Bình. Việt Thắng Đại Vương là người có công dẹp loạn và giúp dân trị thủy sông Trà. Ngài sinh và mất ở thế kỷ 10. Trải các triều Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê đều được tu bổ; Đền hiện tại được đại tu vào năm Duy Tân thứ 2. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 6 là con đường nối thủ đô Hà Nội với các tỉnh vùng Tây Bắc của Việt Nam. Chiều dài toàn tuyến của đường là 425 km và đi qua 4 tỉnh và thành phố (Hà Nội, Hòa Bình, Sơn La và Điện Biên). Điểm đầu của quốc lộ 6 là nút giao đường Láng và đường Trường Chinh với đường vành đai 3 tại ngã tư Sở, Thanh Xuân. Điểm cuối là nơi giao với quốc lộ 12 tại thị xã Mường Lay, tỉnh Điện Biên.
Lịch sử.
Tiền thân của quốc lộ 6 là một tuyến đường cổ có từ thời phong kiến, đoạn gần tỉnh thành Hà Nội được gọi một cách dân dã là "Đường đi phủ Thanh Oai".
Thời Pháp thuộc, người Pháp đã tiến hành nối dài và cải tạo con đường này thành đường cấp thuộc địa, gọi là đường thuộc địa số 6 (Tiếng Pháp: "Route coloniale № 6"), nhằm phục vụ việc khai thác tài nguyên ở vùng Tây Bắc. Về mặt kỹ thuật, nó bắt đầu từ ngã tư Sở, ngoại thành Hà Nội. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 2 dài 300 km, chạy qua địa bàn năm tỉnh và thành phố: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Tuyên Quang và Hà Giang. Chiều dài toàn tuyến là 300 km. Quốc lộ 2 có điểm đầu tại ngã ba Phù Lỗ, giao với quốc lộ 3 tại km 18, và điểm cuối tại cửa khẩu Thanh Thủy, huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang.
Tình trạng kỹ thuật.
Đoạn từ Km0 (Phù Lỗ) đến Km 109 (Đoan Hùng) thuộc tuyến AH14 (Hải Phòng – Cửa khẩu Lào Cai/Hà Khẩu – Côn Minh) trong các Hiệp định đường bộ GMS và ASEAN.
Quốc lộ 2 ngoài tuyến chính còn có 2 tuyến nhánh:
Quốc lộ 2B.
Quốc lộ 2B: Vĩnh Yên – Tam Đảo.
Quốc lộ 2C.
Quốc lộ 2C: Sơn Tây – Vĩnh Yên – TP. Tuyên Quang. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 10 là tuyến đường liên tỉnh chạy dọc theo vùng duyên hải Bắc Bộ qua bảy tỉnh và thành phố: Quảng Ninh, Hải Phòng, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình và Thanh Hóa.
Quốc lộ 10 có tổng chiều dài 212 km, riêng chiều dài tính từ điểm đầu tại ngã ba Bí Chợ (thành phố Uông Bí, Quảng Ninh) tới điểm nút giao với Quốc lộ 1 tại thành phố Ninh Bình là 135 km, tại vị trí này, quốc lộ 10 đổi hướng đông nam qua các huyện Yên Khánh, Kim Sơn (Ninh Bình) rồi theo hướng tây nam qua các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc (Thanh Hóa). Điểm cuối của tuyến đường lại gặp Quốc lộ 1 tại phường Tào Xuyên (thành phố Thanh Hóa).
Quốc lộ 10 cũ.
Điểm đầu của quốc lộ 10 cũ là điểm giao với quốc lộ 18 tại Biểu Nghi thuộc phường Minh Thành, thị xã Quảng Yên, Quảng Ninh. Quốc lộ 10 cũ đi qua phà Rừng, thị trấn Núi Đèo, Thủy Nguyên rồi qua cầu Bính vào nội thành Hải Phòng và gặp Quốc lộ 10 mới tại ngã ba Quang Thanh, thị trấn An Lão (Hải Phòng).
Đoạn quốc lộ 10 mới từ ngã ba Bí Chợ (Uông Bí, Quảng Ninh) đến ngã ba Quang Thanh (thị trấn An Lão, Hải Phòng) còn được gọi là quốc lộ 10A. Tuyền đường này có một đoạn ngắn đi qua Quý Cao (Tứ Kỳ, Hải Dương).
Các đô thị trên quốc lộ 10.
Quốc lộ 10 đi qua các đô thị sau đây: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cầu Bãi Cháy nằm trên quốc lộ 18, nối hai phần của thành phố Hạ Long là Hòn Gai và Bãi Cháy qua vịnh Cửa Lục nơi đổ ra vịnh Hạ Long, thuộc địa phận tỉnh Quảng Ninh. Do điều kiện thủy văn, địa chất cùng yếu tố kỹ thuật phức tạp, kinh phí lớn, sau 20 năm lên kế hoạch cầu mới được hoàn thành. Cầu được xác định là công trình trọng điểm quốc gia, có vị trí chiến lược về giao thông, kinh tế và quốc phòng được Công an Tỉnh Quảng Ninh bảo vệ.
Sơ lược.
Đây là loại cầu dây văng một mặt phẳng dây, dầm hộp bê tông cốt thép dự ứng lực có khẩu độ nhịp đạt kỷ lục thế giới về loại cầu này. Hai tháp cầu được đặt trên hệ móng giếng chìm hơi ép kích thước cực lớn, lần đầu tiên áp dụng tại Việt Nam với công nghệ thi công hiện đại, tiên tiến. Cầu được thi công bằng công nghệ đúc hẫng cân bằng, tại trụ cầu chính trên độ cao 50m, dầm cầu được vươn ra biển và kết thúc khi nối liền hai cánh hẫng, công nghệ xây dựng này đảm bảo cho các tàu thuyền vẫn có thể hoạt động được bình thường trong suốt quá trình thi công.
Công trình đã được hoàn thành và thông xe vào ngày 2 tháng 12 năm 2006. Cầu Bãi Cháy được đưa vào sử dụng đã giải quyết nhu cầu đi lại của nhân dân tỉnh Quảng Ninh, khách du lịch trong và ngoài Việt Nam, đồng thời cũng chấm dứt sự hoạt động hàng chục năm của Bến phà Bãi Cháy. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.778466 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vịnh Cam Ranh là một cảng biển nước sâu ở Việt Nam, thuộc thành phố Cam Ranh và huyện Cam Lâm, tỉnh Khánh Hòa. Vịnh này thường được xem là bến nước sâu tốt nhất Đông Nam Á, thích hợp làm nơi tàu bè trú ẩn khi biển động. Vì địa thế chiến lược mà Cam Ranh được sự chú ý quân sự qua nhiều thời kỳ. Hải quân của Pháp cũng như hải quân và không quân của Hoa Kỳ và Liên Xô đã từng dùng vịnh Cam Ranh làm căn cứ quân sự.
Lịch sử.
Vịnh Cam Ranh có vị trí chiến lược đáng kể nên từ thời Pháp thuộc người Pháp đã dùng nơi đây làm căn cứ hải quân ở Đông Dương.
Vào đầu thế kỷ 20 Cam Ranh là chặng nghỉ cho hạm đội Đế quốc Nga trên đường sang Viễn Đông giao chiến với Nhật Bản năm 1905 . Hạm đội này sau bị đại bại trong Trận Tsushima. Khi Đế quốc Nhật Bản mở cuộc bành trướng thời Chiến tranh thế giới thứ hai thì Vịnh cam Ranh lại được trưng dụng làm địa điểm chuẩn bị cho cuộc tấn công Malaysia năm 1942.
Trong cuộc Chiến tranh Việt Nam, Cam Ranh trở thành căn cứ quan trọng của Hải quân Hoa Kỳ và Hải quân Việt Nam Cộng hòa.
Sau khi hai miền Bắc Nam thống nhất thì cảng Cam Ranh được dùng làm căn cứ hải quân quan trọng của Hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô trong bối cảnh Chiến tranh lạnh giữa khối Liên Xô và Hoa Kỳ. Chính phủ Xô viết chính thức ký năm 1978 một thỏa thuận với Việt Nam để thuê hải cảng này trong thời gian 25 năm. Cuối năm 1991, Liên Xô tan vỡ; chính phủ Nga nhận kế thừa hợp đồng đó cho tới năm 1993. Một hiệp định mới cho phép Nga tiếp tục có mặt tại Cam Ranh nhưng chủ đích căn cứ này chuyển sang làm nơi thám thính, theo dõi hoạt động của Trung Quốc còn các chiến cụ và quân nhân được rút về Nga. Còn lại là nhân viên kỹ thuật tình báo.
Trong cuộc điều đình kéo dài thời hạn thuê quân cảng Cam Ranh thì Việt Nam đòi Nga phải trả tiền thuê hằng năm là 200 triệu Đô la Mỹ. Chính phủ Nga không chịu điều khoản này nên ngày 2 tháng 5 năm 2002, lá cờ Nga được hạ xuống lần cuối cùng tại căn cứ Cam Ranh. Hiện tại, chính quyền Việt Nam có dự định phát triển căn cứ này với mục đích dân sự, tương tự như chính phủ Philippines đã làm với Căn cứ không quân Clark của Mỹ.
Kể từ 2004 đến nay, kế hoạch của Việt Nam là thu hồi việc sử dụng vịnh Cam Ranh; thay vì làm căn cứ cho nước ngoài, vịnh Cam Ranh sẽ chuyển dần sang mục đích dân sự.
Tháng 9 năm 2014, Bộ Quốc phòng phê duyệt dự án đầu tư xây dựng Khu dịch vụ hàng hải và cung ứng tàu biển (giai đoạn 1) thuộc dự án đầu tư Khu dịch vụ hàng hải, sửa chữa, đóng mới tàu biển và công trình dầu khí biển tại căn cứ quân sự Cam Ranh. Giai đoạn 2 của dự án xây dựng cảng quốc tế Cam Ranh là một cơ sở hậu cần hiện đại, có uy tín, sánh ngang với các hải cảng lớn trên thế giới và đến hàng thế kỷ sau vẫn không bị lạc hậu.
Ngày 8 tháng 3 năm 2016, tại căn cứ quân sự Cam Ranh, Quân chủng Hải quân Việt Nam tổ chức lễ khai trương cảng quốc tế Cam Ranh, một trong những cảng biển lớn nhất Việt Nam tiếp nhận được tàu sân bay tải trọng 110.000 DWT (dead weight tonnage), tàu khách có dung tích 100.000 GRT (gross tonage) và sửa chữa, đóng mới các công trình biển như giàn khoan đến 200m nước. Có thể tiếp nhận 18 tàu cùng lúc và 185 tàu mỗi năm, là cảng đầu tiên tại Việt Nam thiết kế cho phép neo đậu tàu trong điều kiện gió bão đến cấp 8. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.448859 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 32 (tên cũ là Đường liên tỉnh 11A) là tuyến đường đi qua 4 tỉnh và thành phố: Hà Nội, Phú Thọ, Yên Bái, Lai Châu. Toàn tuyến dài 384 km.
Điểm đầu bắt đầu từ ngã tư Ô Cầu Giấy, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội. Các quận/huyện/thị xã đi qua: Cầu Giấy - Nam Từ Liêm - Bắc Từ Liêm - Hoài Đức - Đan Phượng - Phúc Thọ - Thạch Thất (xã Đại Đồng) - Sơn Tây - Ba Vì - Tam Nông - Thanh Sơn - Tân Sơn - Văn Chấn - Nghĩa Lộ - Mù Cang Chải - Than Uyên - Tân Uyên - Tam Đường. Điểm cuối tại ngã ba Bình Lư, Tam Đường, Lai Châu (km65 – Quốc lộ 4D).
Đoạn đầu từ Hà Nội tới Tam Nông, Quốc lộ 32 có hướng Đông Nam - Tây Bắc, chạy ven đê hướng Đông Nam sông Hồng. Đến cầu Phong Châu (Tam Nông - Phú Thọ) thì gặp quốc lộ 32C (điểm đầu của quốc lộ 32C từ ngã 3 đền Hùng tiếp với quốc lộ 2). Quốc lộ 32 và 32C đi chung khoảng 1 km, đến ngã ba Cổ Tiết (Tam Nông) thì lại tách làm hai ngả: Quốc lộ 32C đi thẳng, chạy men bờ Nam sông Hồng qua Cẩm Khê, Hạ Hòa (Phú Thọ), Trấn Yên (Yên Bái) rồi kết thúc tại ngã ba Âu Lạc (giao với quốc lộ 37). Quốc lộ 32 chuyển hướng Đông Bắc - Tây Nam đi Thanh Sơn, đến Thu Cúc (huyện Tân Sơn) lại chia tiếp làm hai ngả:
Hiện nay, đoạn từ Cầu Giấy đến Sơn Tây đã được nâng cấp và mở rộng lên thành 4 làn xe. Từ Cầu Diễn đến Nhổn sẽ được mở rộng thành 50 m, ở chính giữa là đường sắt đô thị chạy từ Ga Hà Nội đến Nhổn. Hiện nay đang làm khu Depot đường sắt đô thị Nhổn - Ga Hà Nội ở phường Minh Khai, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội (đoạn trường Đại học Công nghiệp Hà Nội). Một số cây cầu lớn trên Quốc lộ 32 như: cầu Giấy, cầu Diễn, cầu Phùng, cầu Trung Hà, cầu Việt Liên. Đoạn quốc lộ chạy qua huyện Văn Chấn thì chạy song song với tỉnh lộ 78E. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đại lộ Thăng Long hay Đường cao tốc Láng – Hòa Lạc (ký hiệu toàn tuyến là CT.03) là tuyến đường cao tốc nối khu trung tâm Hà Nội với quốc lộ 21A cũ, nay là điểm đầu của đường Hồ Chí Minh. Chiều dài toàn tuyến là 30 km, nằm gọn trong địa giới thành phố Hà Nội.
Ngày 14 tháng 7 năm 2010, HĐND Thành phố Hà Nội biểu quyết nhất trí thông qua việc đổi tên đường Láng – Hòa Lạc thành Đại lộ Thăng Long.
Đường cao tốc này từng được quy hoạch từ năm 2015 đến 2021 với ký hiệu cũ là "CT.08".
Lộ trình.
Đại lộ Thăng Long chạy cơ bản theo hướng Đông – Tây, dài 29 km, bắt đầu tại ngã tư giao cắt giữa đường này với đường Phạm Hùng – Khuất Duy Tiến – Trần Duy Hưng nằm trong ranh giới giữa quận Cầu Giấy và quận Nam Từ Liêm, đi qua địa bàn các phường, xã: Trung Hòa (quận Cầu Giấy); Mễ Trì, Phú Đô, Đại Mỗ, Tây Mỗ (quận Nam Từ Liêm); An Khánh, An Thượng, Song Phương, Vân Côn (huyện Hoài Đức); Yên Sơn, thị trấn Quốc Oai, Ngọc Mỹ, Ngọc Liệp (huyện Quốc Oai); Đồng Trúc, Hạ Bằng, Thạch Hòa (huyện Thạch Thất), kết thúc ở xã Thạch Hoà, huyện Thạch Thất, tại ngã ba giao cắt với Km 31+064 – quốc lộ 21A cũ đi thị xã Sơn Tây, nay là đoạn đầu của đường Hồ Chí Minh.
– Vinhomes Green Bay Mễ Trì – Mễ Trì Thượng – Vinhomes Smart City – Geleximco – Bắc An Khánh – Nam An Khánh – Sunny Garden Quốc Oai
– Ngôi Nhà Mới – Quốc Oai
– Trung tâm Hội nghị Quốc Gia (cổng số 6) – Bộ Ngoại Giao – Viện Hoá học Môi trường Quân sự
– Trung tâm đăng kiểm 2921D – Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển – Đại học Quốc gia Hà Nội cơ sở 2 Hoà Lạc – Sân bay Hoà Lạc
– Khu CN Thạch Thất – Quốc Oai
– Khu CN Bắc Phú Cát
– Khu Công nghệ cao Hoà Lạc
Thông số kỹ thuật.
Chiều dài toàn tuyến: 29,26 km. Chiều rộng trung bình tuyến đường là 140 mét, bao gồm 2 dải đường cao tốc quy mô mỗi dải 3 làn xe rộng 16,25m; 2 dải đường đô thị 2 làn xe cơ giới rộng 10,5m (riêng đoạn từ Cầu vượt Mễ Trì tới đường vành đai 3,5 rộng trung bình 18m); dải phân cách giữa 2 đường cao tốc rộng 20m; 2 dải đất dự trữ giữa hai dải đường đô thị. Ngoài ra, còn dải trồng cây xanh và vỉa hè.
Toàn tuyến có 3 đường hầm lớn (Hầm chui đường sắt gần KĐT Vinhome Smart City và Hầm chui Trung Hoà – Trần Duy Hưng ở đoạn Trung tâm Hội Nghị Quốc Gia và nút giao đường Vành đai 3, Hầm chui ngang đường ở lối vào Trung tâm thương mại Vincom Mega Mall Tây Mỗ – Đại Mỗ. Có 13 cầu vượt ngang đường đó là: Cầu vượt Mễ Trì – Trung Văn Cầu vượt Phú Đô – Châu Văn Liêm, Cầu vượt Đường 70, Cầu vượt An Khánh, Cầu vượt Song Phương, Cầu vượt Sài Sơn, Cầu vượt Hoàng Xá – TT Quốc Oai, Cầu vượt Đường 80, Cầu vượt Đồng Trúc, Cầu vượt Phú Cát.
Đây là đường cấp 1 đồng bằng, thiết kế cho xe chạy với vận tốc từ 70 km/h đến 100 km/h. Có Đường cao tốc chính gồm 2 phần đường cho ôtô lưu thông. Mỗi phần đường tính từ trái qua phải theo chiều xe chạy được hoạt động như sau: Làn 1, làn 2 có tốc độ 100 km/h; làn 3 có tốc độ 80 km/h; làn 4 dành cho việc dừng xe khẩn cấp. Cần giảm tốc độ khi tới những đoạn nối giữa cầu với đường và giảm tốc độ tối đa xuống 60 km/h khi kết thúc đoạn đường cao tốc để đảm bảo an toàn.
Trên tuyến đường gom hai bên Đại lộ Thăng Long (đoạn từ Trung tâm Hội nghị quốc gia đến nút giao cầu vượt đường 70 cạnh Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Biển cách Hầm chui đường sắt khoảng 5m) chỉ cho phép chạy 1 chiều; cấm phương tiện xe cơ giới dừng, đỗ, đi ngược chiều trên đoạn đường này., các đoạn còn lại là đường 2 chiều (làn bên trái cho phép xe máy và xe thô sơ đi ngược chiều, còn làn bên phải cho phép các phương tiện ôtô và xe máy đi hướng về phía Trung tâm thành phố Hà Nội và Hòa Lạc). Bảo đảm thông xe tốt 2 mùa, tuy nhiên 2 tuyến đường gom của đường cao tốc này thường xảy ra tình trạng ngập cục bộ một số đoạn vào mùa mưa bão.
Lưu lượng thông xe từ 1.500 đến 2.000 xe/ngày đêm. Chủ đầu tư là Bộ Giao thông Vận tải Việt Nam, đại diện chủ đầu tư là Ban Quản lý Dự án Thăng Long. Tổng thầu xây lắp là Tổng Công ty CP Xuất nhập khẩu và Xây dựng Việt Nam (VINACONEX). Tư vấn thiết kế là Tổng công ty Tư vấn Thiết kế Giao thông Vận tải (TEDI). Tư vấn giám sát là Viện Khoa học Công nghệ Giao thông Vận tải. Mức vốn đầu tư 7.527 tỷ đồng. Khởi công ngày 20 tháng 3 năm 2005, hoàn thành ngày 3 tháng 10 năm 2010.
Lộ trình chi tiết.
!Ký hiệu
!Tên
!Khoảng cáchtừ đầu tuyến
!Kết nối
!Ghi chú
! colspan="2" |Vị trí
! colspan="7" |Kết nối trực tiếp với Đường Trần Duy Hưng
!style="background-color: #BFB;"|IC.1
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|-
!style="background-color: #BFB;"|BR
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|BR
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|JCT
!style="background-color: #BFB;"|IC.2
!colspan="7" style="text-align: center; background:#dff9f9;"|Kết nối trực tiếp với Đường cao tốc Hòa Lạc – Hòa Bình | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 18, còn gọi là quốc lộ 18A, là tuyến đường dài 324 km đi qua 4 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh.
Lộ trình:.
Quốc lộ 18 đi qua 4 tỉnh và thành phố với các điểm giao cắt chính sau:
Dưới đây là danh sách địa phương có đường quốc lộ 18 chạy qua:
Tình trạng kỹ thuật.
- Đoạn từ Đại Yên đến ngã ba Đường quốc lộ 10 dài 24,5 km, quy mô 4 làn xe, nền đường rộng 25 m. Đoạn này được nâng cấp, cải tạo vào năm 2011 và được đưa vào sử dụng vào năm 2014.
- Đoạn từ Đại Yên đến cầu Bãi Cháy dài gần 14 km, quy mô từ 6 - 10 làn xe, nền đường rộng 28–42 m, vận tốc thiết kế 40 - 80 km/h. Đoạn này được nâng cấp, cải tạo vào năm 2018 và được đưa vào sử dụng vào năm 2019.
- Đoạn từ cầu Bãi Cháy đến phường Hà Tu dài gần 11 km, quy mô từ 6 làn xe, nền đường rộng 28,25 m, vận tốc thiết kế 40 - 60 km/h. Đoạn này được nâng cấp, cải tạo vào năm 2018 và được đưa vào sử dụng vào năm 2019.
Chi tiết tuyến đường.
Tổng chiều dài tuyến đường:.
Quốc lộ 18 có tổng chiều dài tuyến đường là 324 km.
Cầu trên tuyến:.
Quốc lộ 18 có 107 cây cầu. Phần lớn là các cây cầu vượt sông, suối.
Danh sách các trạm thu phí trên Quốc lộ 18.
Trên quốc lộ 18 có 5 trạm thu phí, trong đó có 4 trạm thu phí đang hoạt động và 1 trạm ngừng hoạt động.
Lịch sử tuyến đường.
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám (Đường số 18).
"Bài chi tiết: Chiến dịch Hoàng Hoa Thám"
Bộ Tổng tham mưu đề ra hai phương án tác chiến để Bộ chỉ huy chiến dịch lựa chọn. Phương án 1 lấy đường số 17 và 18 làm hướng chính, hướng phụ là đường số 13. Phương án 2 lấy đường 13 làm hướng chính, hướng phụ là đường 17 và 18. Sau khi cân nhắc, Đảng ủy quyết định chọn hướng chinh của chiến dịch là đường 18, đoạn từ Băi Thảo đến Uông Bí, dài khoảng 50 km.
Đêm ngày 23 tháng 3 năm 1951, mở đầu chiến dịch, QĐNDVN diệt gọn 3 vị trí Lọc Nước, Đập Nước, Sống Trâu, san bằng vị trí Lán Tháp.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định đánh thẳng vào thị trấn Uông Bí nằm trên đường 18. Các cầu trên đường 18 đều bị phá. Đường 18 bị cắt đứt một đoạn dài 40 km.
Đêm 25 tháng 3, trung đoàn 98 diệt vị trí Chấp Khê. Đêm 27 tháng 3, trung đoàn 102 Đại đoàn 308, được tăng cường hai liên đội pháo tổ chức bốn mũi tiến công Bí Chợ, một vị trí mạnh nằm cạnh đường 18, có khoảng 150 lính Âu - Phi. Đồn Bí Chợ hoàn toàn bị diệt sau 45 phút, pháo binh Pháp không kịp chi viện.
Đêm ngày 4 tháng 4 năm 1951, QĐNDVN nổ súng đánh Bến Tắm, Bãi Thảo, Hoàng Gián, Hạ Chiêu. Nhưng cả bốn trung đoàn đều đột phá không thành công. Trung đoàn 88 đánh Bãi Thảo, chiếm được hai đồi, diệt hơn 100 lính.
Nắm được tình hình này, Trung tướng Đồng Sĩ Nguyên báo cáo với Tổng tư lệnh là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lập tức ra lệnh dừng chiến đấu và kết thúc chiến dịch Hoàng Hoa Thám. Ngày 7/4/1951, chiến dịch Hoàng Hoa Thám kết thúc.
Sau hơn 2 tuần chiến đấu, QĐNDVN tuyên bố loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.900 quân địch, diệt và bức rút hơn 130 vị trí tháp canh, bức rút 3 vị trí ở vùng mỏ giàu có là Uông Bí, Mạo Khê, Tràng Bạch. Trong thời gian hơn nửa tháng đã tiêu diệt được một phần binh đoàn cơ động thứ 6 và phá vỡ một mảng hệ thống phòng ngự trên đường số 18, 20, 21. QĐNDVN thu được 409 súng các loại, phá huỷ 49 xe cơ giới, 6 xe tăng và thiết giáp. Nhưng cũng có những trận QĐNDVN đã không thành công, toàn chiến dịch bị thương vong tới 2.262 người.
Chiến dịch Hoàng Hoa Thám là một trong những cuộc tiến công lớn của Quân đội nhân dân Việt Nam vào khu vực Hải Phòng thuộc đồng bằng Bắc Bộ do quân Liên hiệp Pháp kiểm soát. Đây là một trong 3 chiến dịch lớn trong đông-xuân 1950-1951. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Phúc Thọ là một huyện ngoại thành phía tây thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Phúc Thọ nằm ở đồng bằng Bắc Bộ, cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 35 km về phía tây. Huyện nằm bên bờ hữu ngạn của sông Hồng và sông Đáy; có vị trí địa lý:
Tại các xã Vân Hà, Vân Nam, Vân Phúc, Hát Môn, Thanh Đa và Tam Thuấn xưa là vùng lòng hồ Vân Cốc có cửa sông "Hát Môn". Sông Hát là tên cổ, ngày nay được gọi phổ biến là sông Đáy, lấy nước từ sông Hồng. Tại đây có Đập Đáy do người Pháp xây dựng năm 1934.
Diện tích tự nhiên của huyện là 117,3 km². Dân số năm 2021 là 196.000 người.
Lịch sử.
Tên cũ xưa kia là Phúc Lộc. Tên huyện Phúc Thọ có từ năm 1822, thuộc Tỉnh Sơn Tây.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, Sơn Tây sáp nhập với Hà Đông, Phúc Thọ thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, Hà Tây sáp nhập với Hòa Bình, Phúc Thọ thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 17 xã: Cẩm Đình, Hát Môn, Long Xuyên, Ngọc Tảo, Phúc Hòa, Phụng Thượng, Phương Độ, Sen Chiểu, Tam Thuấn, Thanh Đa, Thọ Lộc, Thượng Cốc, Vân Hà, Vân Nam, Vân Phúc, Võng Xuyên và Xuân Phú.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, Phúc Thọ được sáp nhập về Hà Nội .
Ngày 17 tháng 2 năm 1979, sáp nhập thêm 3 xã của huyện Quốc Oai là Tam Hiệp, Hiệp Thuận và Liên Hiệp nâng tổng số xã lên 20.
Ngày 2 tháng 6 năm 1982, chuyển 2 xã Tích Giang và Trạch Mỹ Lộc của huyện Ba Vì về huyện Phúc Thọ quản lý, tổng cộng là 22 xã.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Phúc Thọ lại chuyển về thuộc tỉnh Hà Tây .
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, thành lập thị trấn Phúc Thọ trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích tự nhiên và nhân khẩu của hai xã Phúc Hòa và Thọ Lộc. Tổng số đơn vị trực thuộc là 23.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, tỉnh Hà Tây sáp nhập vào thành phố Hà Nội, huyện Phúc Thọ lại trực thuộc thành phố Hà Nội cho đến nay.
Ngày 1 tháng 3 năm 2020, sáp nhập xã Sen Chiểu và xã Phương Độ thành xã Sen Phương; sáp nhập xã Xuân Phú và xã Cẩm Đình thành xã Xuân Đình, còn 1 thị trấn và 20 xã.
Hành chính.
Huyện Phúc Thọ hiện có 21 đơn vị hành chính cấp xã , bao gồm 01 thị trấn Phúc Thọ (huyện lỵ) và 20 xã: Hát Môn, Hiệp Thuận, Liên Hiệp, Long Xuyên, Ngọc Tảo, Phúc Hòa, Phụng Thượng, Sen Phương, Tam Hiệp, Tam Thuấn, Thanh Đa, Thọ Lộc, Thượng Cốc, Tích Giang, Trạch Mỹ Lộc, Vân Hà, Vân Nam, Vân Phúc, Võng Xuyên, Xuân Đình.
Kinh tế.
Theo Phê duyệt Quy hoạch chung xây dựng huyện Phúc Thọ, tỷ lệ 1/10.000 của Hà Nội, huyện được xác định là vùng sinh thái xanh với nông nghiệp là chủ yếu.
Trên địa bàn Phúc Thọ nổi tiếng với sản phẩm Bưởi Tam Vân ở 3 xã Vân Nam, Vân phúc, Vân Hà; dâu tằm ở xã Hiệp Thuận và táo ở xã Tam Thuấn. Tất cả đều nằm ở vùng bãi bồi cửa sông Đáy.
Quy hoạch cũng gồm một số khu công nghiệp làng nghề như May Tam Hiệp, KCN Nam Phúc Thọ
Một số làng nghề khác như Mộc Long Xuyên, Tủ bếp Hát Môn, Bột sắn Liên Hiệp, Hoa cây cảnh ở Tích Giang...
Văn hóa.
Đến tháng 6/2015, toàn huyện có 194 di tích lịch sử - văn hóa, gồm: 78 chùa; 59 đình; 34 đền, miếu, quán, phủ; 21 nhà thờ họ, công giáo và 02 di tích Cách mạng và lưu niệm sự kiện.
Di tích quốc gia đặc biệt: Đền Hát Môn (xã Hát Môn), Đình Tường Phiêu (xã Tích Giang), Đình Hạ Hiệp (xã Liên Hiệp)
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia: Lễ hội truyền thống đền Hát Môn 7/3 âm lịch gắn liền với Cửa "Hát Môn" nơi Hai Bà Trưng mở hội thề và tuẫn tiết.
Danh nhân.
Hai Bà Trưng: vua Việt Nam, chống quân xâm lược Đông Hán.
Lê Hiến Mai: Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Thiếu tướng đợt đầu tiên năm 1948. Quê Trạch Mỹ Lộc.
Khuất Duy Tiến: nhà cách mạng, Đại biểu Quốc hội khóa I, nguyên Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội, Phó Chủ tịch UBTP Hà Nội. Quê Trạch Mỹ Lộc.
Đào Văn Bình: Đại biểu Quốc hội khoá XIII, Phó Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Quê Tam Hiệp.
Trần Hiếu: ca sĩ, Nghệ sĩ nhân dân. Quê Tam Hiệp.
Trần Tiến: nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả các bài hát Sao em nỡ vội lấy chồng, Sắc màu, Vết chân tròn trên cát... Quê Tam Hiệp.
Đoàn Thúy Trang: quán quân Sao Mai điểm hẹn 2011, nổi tiếng với ca khúc Tình yêu màu nắng.
Khuất Văn Khang: cầu thủ CLB bóng đá Viettel, tuyển thủ ĐTQG Việt Nam.
Làng nghề.
Phúc Thọ có khá nhiều ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Toàn huyện có 54 thôn, xóm và cụm dân cư có nghề trong đó có 7 làng nghề đã được cấp bằng công nhận gồm 3 làng nghề thuộc nhóm chế biến lương thực, thực phẩm và nông sản; 2 làng nhóm dệt may; nhóm hoa, sinh vật cảnh và mộc mỗi nhóm 1 làng. Riêng 3 làng nghề là làm bột sắn Hạ Hiệp, Hiếu Hiệp và dệt thảm thôn Đông hoạt động kém hiệu quả có nguy cơ mai một. Các làng nghề, làng nghề truyền thống và làng có nghề như: | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cầu là một phương tiện nối liền 2 hay nhiều điểm khác nhau, giúp việc di chuyển giữa các vị trí ấy được dễ dàng hơn.
Cầu là một công trình giao thông được bắc qua các chướng ngại nước như: rãnh nước, dòng suối, dòng sông, hồ, biển, thung lũng, hay các chướng ngại khác như: đường bộ, đường sắt... đảm bảo cho giao thông được liên tục.
Từ nguyên.
"Cầu" là một từ Hán Việt cổ, bắt nguồn từ cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của một từ tiếng Hán được viết bằng chữ Hán là "橋". Chữ Hán "橋" có âm Hán Việt tiêu chuẩn hiện đại là "kiều". William H. Baxter và Laurent Sagart phục nguyên cách phát âm trong tiếng Hán thượng cổ của từ "橋" là "*[g](r)aw".
Lịch sử.
Cầu đã ra đời cách ngày nay rất lâu. Thể thức ban đầu của những cây cầu là tác phẩm của tự nhiên, là khúc cây đổ bắc ngang qua dòng nước. Thời gian đầu, người ta thường làm cầu từ một tấm ván mỏng, từ những cây gỗ đơn, tre, thậm chí là từ những tảng đá. Các cầu loại này thường không chịu được tải trọng lớn và cường độ giao thông cao.
Những cây cầu vòm bằng đá và đường máng dẫn nước (aqueduct) được xây dựng đầu tiên thời Đế chế La Mã, một số còn tồn tại đến ngày nay như cầu Alcántara qua sông Tagus ở Tây Ban Nha. Tại nhiều vùng lãnh thổ khác cũng xây dựng nhiều loại cầu bằng những vật liệu khác nhau như gỗ, đá (Trung Quốc), gạch xây vữa (châu Âu), cầu treo đơn giản bằng dây thừng của thổ dân (Inca Nam Mĩ)...Cho đến thế kỉ 19 khi xảy ra cách mạng công nghiệp, các cầu bằng sắt rèn, rồi tiến đến bằng thép ra đời. Ngày nay, các loại cầu bằng bêtông trở nên phổ biến cùng với cầu thép. Nhịp cầu ngày càng được kéo dài, từ vài trăm mét như loại cầu dầm, cầu giàn bêtông ứng suất trước hoặc thép, và lên đến 2000 mét như cầu treo dây võng Akashi-Kaikyo (Nhật Bản).
Kết cấu cầu.
Kết cấu cầu là một lĩnh vực thuộc kết cấu xây dựng. Độ khó trong xây dựng cầu nằm tại kết cấu của nó, nên việc thiết kế cầu vẫn chủ yếu do các kỹ sư xây dựng thực hiện mà ít có đóng góp của kiến trúc sư.
Kết cấu nhịp.
Kết cấu nhịp cầu bao gồm: mặt cầu (gồm có bản mặt bằng bêtông cốt thép hoặc thép hoặc gỗ, các lớp phủ như lớp chống nước, bêtông asphalt...), dầm dọc và dầm ngang, kết cấu nhịp chịu tác dụng của tải trọng bản thân cầu gọi là tĩnh tải, cùng với tải trọng người, xe trên cầu gọi là hoạt tải, ngoài ra còn có tác dụng của gió, của động đất (trường hợp đặc biệt), toàn bộ tải trọng này được truyền xuống đất qua hệ thống mố trụ cầu
Mố cầu.
Bộ phận ở hai đầu cầu và nối tiếp giữa cầu với đường gọi là mố cầu. Mố cầu ở cuối cầu và tạo thành cấu trúc chuyển tiếp từ đường tới mặt cầu. Nó tiếp nhận một phần tải trọng của kết cấu nhịp truyền xuống và chịu tác dụng của đất đắp sau mố (đường tiếp nối vào cầu). Cấu trúc của mố cầu bằng bê tông cốt thép và bao ngoài bằng đá hộc, đá tảng gắn kết bằng xi măng mác cao.
Trụ cầu.
Bộ phận giữa hai mố cầu để cho kết cấu nhịp tựa lên gọi là trụ cầu. Do nhiều yêu cầu về kinh tế kĩ thuật chiều dài kết cấu nhịp không thể quá dài. Để vượt được khoảng cách lớn yêu cầu phải có cọc chống đỡ trung gian dó là trụ cầu. Trụ cầu truyền tải từ kết cấu nhịp xuống móng công trình. Đối với loại cầu dây văng hoặc cầu treo thì trụ cầu thường được làm cao hẳn hơn bản mặt cầu, để treo, neo dây cáp chịu lực, gọi là trụ tháp.
Mố trụ cầu rất quan trọng trong tổng thể của công trình cầu vì vậy khi thiết kế mố trụ cần chú ý đến nhiều yếu tố không những phải chịu được lực truyền từ kết cấu nhịp bên trên xuống mà còn các yếu tố khác tác dụng vào mố trụ: đối với mố là lực đẩy ngang của đất, đối với trụ là sự va đập của các phương tiện giao thông: tàu thuyền vào trụ cầu (cầu vượt sông), xẹ cộ (cầu cạn); ngoài ra trụ cầu qua sông còn phải chịu các yếu tố thủy lực như lực đẩy nổi, lực do dòng chảy tác động. Những yếu tố ăn mòn cũng tác động mạnh đến trụ cầu; như han rỉ.
Móng cầu.
Móng cầu là bộ phận bên dưới cùng của một cây cầu, làm bằng bê tông cốt thép. Móng có tác dụng truyền và phân bố toàn bộ tải trọng xuống nền đất sao cho toàn bộ kết cấu đứng vững trên đất mà không bị phá hoại do nền đất bị vượt quá sức chịu tải...
"Xem thêm: Móng"
Gối cầu.
Gối cầu là bộ phận trung gian nằm giữa kết cấu nhịp và mố trụ cầu. Gối cầu có tác dụng như tấm đệm chịu tải trọng và giảm lực cắt ngang của kết cấu nhịp truyền xuống mố trụ. Đồng thời gối cầu giúp cho kết cấu làm việc theo mô hình tính toán, giúp kết cấu nhịp dịch chuyển, co giãn ít mà bị cản trở. Các loại gối cầu rất đa dạng nhưng chia ra hai loại chính là gối cố định và gối di động, gối có thể cứng (thép, gối chậu) hoặc đàn hồi (gối cao su, cao su bản thép). | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.711879 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cầu Bosphorus (Tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: "Boğaziçi Köprüsü" hay "1. Boğaziçi Köprüsü") là cây ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ bắc qua eo biển Bosphorus, là eo biển nằm giữa 2 lục địa Á-Âu.
Cây cầu treo có chiều dài 1.510 m, chiều rộng 39 m. Khoảng cách giữa những tháp (giữa những nhịp chính) là 1.074 m (dài thứ 12 thế giới vào năm 2004). Chiều cao thông thuyền là 64 m. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Việt Nam là quốc gia nằm ở vùng nhiệt đới, có nhiều điều kiện cho các sinh vật phát triển và tạo ra sự phong phú của nhiều loài động thực vật và nhiều hệ sinh thái khác nhau. Theo thống kê "Tiếp cận các nguồn gen và chia sẻ lợi ích" (của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Thế giới - IUCN), thì tại Việt Nam gồm:
Hiện nay, với tác động của con người và sự thay đổi của khí hậu, nhiều loài đã bị tuyệt chủng và một số loài khác đang dần biến mất.
Tháng 10 năm 1994, Việt Nam phê chuẩn Công ước Quốc tế về Bảo tồn Đa dạng Sinh giới ký kết tại Rio de Janeiro (Brasil) tháng 6 năm 1992. | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 0.546502 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sông Volga (tiếng Nga: Волга река, phiên âm: Vôn-ga) nằm ở phía đông phần lãnh thổ châu Âu nước Nga với độ dài 3.690 km (2.293 dặm), tạo thành nền tảng của hệ thống sông lớn nhất ở châu Âu.
Tên gọi của sông Volga trong ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau sống dọc hai bên bờ sông là:
Miêu tả.
Bắt nguồn từ vùng đồi Valdai ở cao độ 225 m (740 ft) trên mực nước biển ở phía tây bắc Moskva và cách Sankt-Peterburg khoảng 320 km về phía đông nam, sông Volga chảy về phía đông nam, qua các tỉnh và thị thành như Tver, Dubna, Yaroslavl, Nizhny Novgorod đến Kazan thì chuyển hướng về phía nam, chảy qua Tolyatti, Samara và Volgograd để sau đó đổ vào biển Caspi ở phía dưới Astrakhan với cao độ 28 mét dưới mực nước biển. Ở khu vực có tầm chiến lược quan trọng nhất, nó uốn cong về phía sông Đông. Volgograd, trước đây là Stalingrad, nằm trong khu vực này.
Sông Volga có nhiều sông nhánh, quan trọng nhất là các sông Kama, Oka, Vetluga và Sura. Sông Volga và các sông nhánh trong hệ thống sông Volga đảm bảo tưới tiêu cho một khu vực có diện tích khoảng 1,35 triệu km trong khu vực đông dân cư nhất của nước Nga. Vùng châu thổ sông Volga có chiều dài khoảng 160 km và bao gồm tới 500 kênh và sông nhỏ. Sông Volga bị đóng băng trong khoảng ba tháng mỗi năm trên gần như toàn bộ chiều dài của nó.
Sông Volga tưới tiêu cho phần lớn miền tây Nga. Các hồ chứa nước lớn của nó cung cấp nước cho thủy lợi và phát điện. Hệ thống các kênh đào Moskva-Volga, kênh đào Volga-Don và kênh đào Mariinsk tạo thành một tuyến đường thủy nối liền Moskva với Bạch Hải, biển Baltic, biển Caspi, biển Azov và biển Đen. Nồng độ ô nhiễm hóa chất cao hiện nay là nguyên nhân gây ra các e ngại về vấn đề môi trường.
Vùng lưu vực sông Volga được tưới tiêu bởi con sông này cung cấp một lượng lớn lúa mì và nhiều khoáng sản. Các trung tâm công nghiệp khai thác dầu khí đáng kể nằm trong thung lũng sông Volga. Các khoáng sản khác bao gồm khí đốt, muối và kali cacbonate. Châu thổ sông Volga và biển Caspi cạnh đó là nguồn cung cấp thủy sản quan trọng (cá). Thành phố Astrakhan, nằm ở vùng châu thổ này, là trung tâm cung cấp trứng cá muối.
Volgograd và Nizhny Novgorod là các thành phố công nghiệp quan trọng trên bờ con sông này. Trong thời kỳ Xô viết, Nizhny Novgorod đã là cấm địa đối với người ngoại quốc. Các thành phố quan trọng khác là Saratov, Kazan, Tolyatti và Samara. Chín nhà máy thủy điện lớn và một số hồ chứa nước nhân tạo lớn được tạo thành bởi một hệ thống các đập nước nằm dọc sông Volga. Các hồ nhân tạo lớn nhất theo trật tự từ bắc xuống nam là các hồ chứa nước Rybinsk, Nizhny Novgorod, Samara và Volgograd.
Lịch sử con người.
Trong thời kỳ cổ đại, sông Volga được biết dưới tên gọi Atil, Itil hay Idil, tên gọi của người Turk có nghĩa là "sông dài". Tuy nhiên, sự có mặt của người Turk là muộn hơn so với sự có mặt trong khu vực còn hoang vắng này của người Ấn-Âu. Đặc biệt, "Volga" có lẽ là sự Slav hóa của tên gọi tiền-Baltic liên quan đến một từ trong tiếng Litva là jilga - "sông dài". Thượng nguồn sông Volga là ranh giới của quần thể người nói tiếng Baltic tiền sử, như được chứng thực trong tên gọi của con sông này. Những tên gọi như Ilgupe ("sông dài") và các tên gọi khác tương tự như nó là phổ biến trong tiếng Litva và Latvia. (Gimbutas, "The Balts", 1963).
Nhà học giả thời cổ đại là Ptolemy ở Alexandria đã đề cập tới sông Volga trong "Geography" của ông (quyển 5, chương 8, bản đồ thứ hai về châu Á). Ông gọi nó là Rha, và nó chỉ là tên gọi cổ đại đứng hàng thứ ba. Tuy nhiên, nó chỉ đề cập tới phần hạ lưu sông Volga. Ptolemy tin rằng sông Đông và sông Volga chia sẻ cùng một nhánh thượng nguồn, và nhánh đó chảy từ dãy "núi" Hyperborean. Có lẽ các ngọn núi này là vùng đồi Valdai, nhưng tên gọi này được sử dụng bởi các nguồn khác để chỉ một khu vực không biết rõ nằm ở phía bắc. Những người dân với phong tục tập quán của người Baltic xuất hiện trong một số văn bản đó. Ngoài ra, người ta cũng biết rằng người Slav đã từng sinh sống ở phần hạ lưu sông Volga, do Ptolemy đề cập tới những người Serb cư trú ở bờ tây con sông này.
Xuôi theo dòng sông Volga là khu vực định cư của người Hun và các sắc tộc Turk khác trong thiên niên kỷ đầu tiên của công nguyên, họ thay thế cho người Scythia và một số thành thị lớn như Atil và Saqsin đã xuất hiện.
Tiếp theo đó, vùng lưu vực sông Volga đã đóng vai trò quan trọng trong sự dịch chuyển của con người từ châu Á tới châu Âu. Quốc gia Volga Bulgaria hùng mạnh đã từng rất thịnh vượng khi sông Kama nối liền với sông Volga. Những người này đã đến cùng với người Hun, dần dà chuyển thành người Tatar. Ngoài ra, sông Volga cũng chảy qua lãnh thổ của vương quốc Khazar.
Người Khazar sau đó bị thay thế bởi người Kipchak, Kimek và Mông Cổ. Người Mông Cổ thành lập ra Hãn quốc Kim Trướng ở hạ lưu sông Volga. Sau đó đế chế này bị tách ra thành vài hãn quốc nhỏ hơn và cuối cùng thì các hãn quốc này đã bị người Nga sáp nhập lại vào thế kỷ 16.
Trong thời kỳ hiện đại, thành phố trên vòng cung lớn của sông Volga là Volgograd - nơi đã diễn ra chiến dịch Stalingrad, mà kết quả của nó là chiến thắng cho Liên Xô đối với Đức trong Đại chiến thế giới lần thứ hai.
Tình cảm sâu đậm của người dân Nga đối với con sông này thường được thấy trong các điệp khúc của các bài hát cũng như trong văn chương của họ. Sau tất cả những điều đó, nước Nga ban đầu đã được thành lập dọc theo bờ sông Volga, một phần vì những nhà buôn người Viking đã dùng con sông này làm đường tới phương nam tính từ điểm bắt đầu của họ ở gần khu vực Arkhangelsk.
Các nhóm sắc tộc.
Sắc tộc dân bản địa ở thượng nguồn Volga là người Merya gốc Phần Lan đã đồng hóa thành người Nga. Một vài giả thuyết cho rằng từ "Volga" là từ "valli" trong tiếng Phần Lan, được dịch thành "nước". Các nhóm sắc tộc gốc Phần Lan khác là người Mari và người Mordvin ở trung lưu sông Volga. Các nhóm sắc tộc người Turk đã xuất hiện vào khoảng thế kỷ 7 và đồng hóa một số nhóm người gốc Phần Lan và Ấn-Âu ở trung và hạ lưu sông Volga, sau này họ đã chuyển thành người Chuvash theo Chính thống giáo phương Đông và người Tatar theo Hồi giáo; cũng như thành người Nogai mà sau này đã di chuyển tới Daghestan. Người Kalmyk gốc Mông Cổ theo Phật giáo đã định cư ở bờ sông Volga vào thế kỷ 17.
Khu vực sông Volga cũng là quê hương của nhóm sắc tộc thiểu số gốc Đức là người Đức-Volga, phần nhiều trong số đó có tổ tiên được một số Sa hoàng mời tới định cư ở Nga, chẳng hạn như Piotr Đại Đế, là một phần trong chiến dịch để mở mang và nâng cao dân trí của đất nước bằng cách nhập khẩu thợ lành nghề. Trong thời kỳ Liên Xô thì một phần của khu vực này đã từng trở thành Nước cộng hòa tự trị Đức-Volga cho nhiều người Đức-Volga sinh sống. Một số khác đã rời bỏ Nga sau Đại chiến thế giới lần thứ hai.
Vận tải thủy.
Sông Volga có tầm quan trọng lớn trong giao thông, vận tải nội thủy ở Nga: tất cả các đập nước trên sông đều có các âu thuyền lớn (và kép), vì thế tàu bè với kích thước đáng kể có thể thực sự di chuyển từ biển Caspi gần như tới đầu thượng nguồn con sông này. Việc nối liền với sông Đông và Hắc Hải là có thể, thông qua kênh đào Volga-Đông. Việc nối liền với các hồ ở phía bắc và với Sankt-Peterburg cũng là có thể, thông qua tuyến đường thủy Volga-Baltic; còn việc nối liền với Moskva đã được thực hiện theo kênh đào Moskva nối liền sông Volga với sông Moskva. Hạ tầng cơ sở này đã được thiết kế để cho tàu thủy có kích thước và trọng tải tương đối lớn (kích thước cửa âu thuyền là 290 x 30 m trên sông Volga và nhỏ hơn một chút trên các sông và kênh đào khác) và nó trải rộng trên hàng ngàn kilômét.
Cho đến thời gian gần đây việc đi lại trên các tuyến đường thủy Nga chỉ được cho phép trong phạm vi khá hạn hẹp. Sự gia tăng tiếp xúc giữa Liên minh châu Âu và Nga đã dẫn tới các chính sách mới trong việc đi lại trên các tuyến nội thủy của Nga. Người ta dự kiến rằng việc tàu bè của các quốc gia khác sẽ được phép đi lại trên các sông của Nga là không còn lâu nữa..
Văn hóa.
Như các dòng sông lớn khác trên thế giới, sông Volga đã trở thành một trong các biểu tượng của văn hóa Nga được nhiều nghệ sĩ Nga khai thác. Họa sĩ Nga Ilya Yefimovich Repin đã sáng tác bức tranh nổi tiếng "Những người kéo thuyền trên sông Volga" vào thế kỷ thứ XIX (khởi tạo năm 1870, hoàn thành năm 1973).
Bức tranh được sáng tác theo cảm hứng của điệu hát dân gian Hò kéo thuyền trên sông Volga được nhà soạn nhạc M. A. Balakirev sưu tầm và tập hợp trong một tuyển tập dân ca ấn hành năm 1866. Bài hát đã được nhiều nghệ sĩ nổi tiếng của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga hiện nay trình bày.. Trong số đó, giọng hát của Fyodor Ilich Shaliapil vào năm 1906 vẫn được coi là giọng trầm kinh điển của âm nhạc Nga khi thể hiện bài hát này.. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.960769 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vạn Ninh là một huyện ven biển nằm ở phía bắc tỉnh Khánh Hòa, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Vạn Ninh nằm ở phía bắc của tỉnh Khánh Hoà, nằm cách thành phố Nha Trang khoảng 60 km về phía bắc, phía nam dãy Đèo Cả - Vọng Phu, có vị trí địa lý:
Huyện Vạn Ninh có diện tích tự nhiên là 550 km², với khoảng 75% là rừng. Tổng dân số là 134.820 người. Dân cư sống chủ yếu bằng nông nghiệp, ngư nghiệp lâm nghiệp và dịch vụ
Huyện có một số khoáng sản như cao lanh (ở Xuân Tự), cát trắng (ở Đầm Môn), sa khoáng imenit (ở Vĩnh Yên - Hòn Gốm), đá granit (ở Tân Dân), vàng (ở Xuân Sơn).
Đường sắt Bắc - Nam chạy qua các ga Đại Lãnh, Tu Bông và ga Giã trên địa bàn huyện. Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Vân Phong – Nha Trang đi qua đang được xây dựng.
Mũi Đôi.
Mũi Đôi tại bán đảo Hòn Gốm, vịnh Vân Phong, xã Vạn Thạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa là điểm cực Đông trên đất liền của Việt Nam. Nơi này đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch công nhận là di tích quốc gia.
Tọa độ: .
Lịch sử.
Huyện Vạn Ninh trước kia là huyện Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang, được thành lập năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), đến năm 1690, phủ Thái Khang đổi thành phủ Bình Khang gồm 2 huyện Quảng Phước và Tân Định. Năm Gia Long thứ hai (1803) phủ Bình Khang đổi thành phủ Bình Hòa. Năm Minh Mạng thứ mười hai (1831), phủ Bình Hòa lại đổi thành phủ Ninh Hòa, gồm các tổng: Phước Tường Ngoại, Phước Tường Nội, Phước Thiện, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại, Phước Khiêm.
Sau khi Pháp xâm lược Việt Nam, Pháp đã mở đường 21, nối liền Buôn Ma Thuột với huyện Tân Định và cảng Hòn Khói, nền kinh tế Tân Định trở nên phồn thịnh. Pháp lại đổi tên huyện Tân Định thành phủ Ninh Hòa, cắt 3 tổng của huyện Quảng Phước là Phước Khiêm, Phước Hà Nội, Phước Hà Ngoại nhập vào phủ Ninh Hòa (thị xã Ninh Hòa ngày nay). Huyện Quảng Phước cũ đổi thành huyện Vạn Ninh ngày nay.
Từ năm 1945 trở về trước, huyện Vạn Ninh có 3 tổng: Phước Tường Nội, Phước Tường Ngoại, Phước Thiện.
Đầu năm 1946, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chủ trương thành lập đơn vị hành chính cấp xã, huyện Vạn Ninh thành lập được 8 xã. Phước Thiện có 3 xã: Phước Đông, Phước Trung, Phước Tây; Phước Tường Nội có 3 xã: Đồng Xuân, Đồng Tiến, Đồng Hòa; Phước Tường Ngoại có 2 xã: Liên Hưng, Liên Hiệp.
Đến năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cắt tổng Phước Thiện nhập vào huyện Ninh Hòa.
Năm 1976, Vạn Ninh và Ninh Hòa hợp nhất thành huyện Khánh Ninh thuộc tỉnh Phú Khánh.
Ngày 23 tháng 10 năm 1978, Chính phủ ra Quyết định số 268-CP thành lập thị trấn Vạn Giã thuộc huyện Khánh Ninh.
Năm 1979, Khánh Ninh lại được tách ra làm 2 huyện Ninh Hòa và Vạn Ninh cho đến ngày nay.
Huyện Vạn Ninh gồm thị trấn Vạn Giã và 9 xã: Vạn Bình, Vạn Hưng, Vạn Khánh, Vạn Long, Vạn Lương, Vạn Phú, Vạn Phước, Vạn Thắng, Vạn Thạnh.
Ngày 30 tháng 9 năm 1981, chia xã Vạn Phước thành 2 xã: Vạn Phước và Vạn Thọ.
Ngày 13 tháng 9 năm 1985, chia xã Vạn Thọ thành 2 xã: Vạn Thọ và Đại Lãnh.
Ngày 15 tháng 4 năm 1986, chia xã Vạn Hưng thành 2 xã: Vạn Hưng và Xuân Sơn.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Khánh Hòa được tái lập từ tỉnh Phú Khánh, huyện Vạn Ninh thuộc tỉnh Khánh Hòa.
Tháng 12 năm 1993, Nghị quyết kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa IX điều chỉnh ranh giới giữa 2 tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa, thôn Vũng Rô (thuộc xã Đại Lãnh) được tách ra khỏi huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa để sáp nhập vào xã Hòa Xuân, huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên (nay thuộc xã Hòa Xuân Nam, thị xã Đông Hòa).
Huyện Vạn Ninh có 1 thị trấn và 12 xã như hiện nay.
Ngày 22 tháng 9 năm 2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 855/QĐ-BXD công nhận thị trấn Vạn Giã là đô thị loại IV.
Hành chính.
Huyện Vạn Ninh có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Vạn Giã (huyện lỵ) và 12 xã: Đại Lãnh, Vạn Bình, Vạn Hưng, Vạn Khánh, Vạn Long, Vạn Lương, Vạn Phú, Vạn Phước, Vạn Thắng, Vạn Thạnh, Vạn Thọ, Xuân Sơn.
Du lịch.
Huyện Vạn Ninh có các thắng cảnh du lịch như: bãi biển Đại Lãnh và vịnh Vân Phong.
Bãi biển Đại Lãnh nằm dưới chân đèo Cả, có một bờ biển thoải dài, cát trắng mịn, nước trong xanh, đã là điểm du lịch từ nhiều năm. Bãi biển này vào năm 1836 đã được vua Minh Mạng chọn làm biểu tượng khắc trên một trong 9 đỉnh đồng đặt trước Thế Miếu ở Huế. Mũi Hòn Đôn trên bán đảo Hòn Gốm là điểm cực đông trên đất liền của Việt Nam.
Vịnh Vân Phong chỉ mới vừa được phát hiện tiềm năng. Vịnh có phần đất vươn ra biển Đông xa nhất Việt Nam. Với độ sâu trung bình 20-27 mét và ưu thế kín gió, gần đường hàng hải quốc tế, vịnh được quy hoạch thành cảng nước sâu để giao thương quốc tế, đặc biệt như trung chuyển dầu khí của Việt Nam. Đồng thời với ưu điểm về sự trong sạch, yên tĩnh và nét sơ khai, hoang dã, vịnh cũng được phát triển thành một điểm du lịch nghỉ dưỡng cho các du khách nước ngoài. Vịnh được Hiệp hội Du lịch thế giới (WTO) và Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đánh giá là khu du lịch nhiệt đới phức hợp với bãi tắm đẹp.
Hiện nơi đây cũng đang chuẩn bị cho việc xây dựng Đặc khu kinh tế Bắc Vân Phong. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.817036 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Thác Trinh Nữ là một thác nước trên dòng sông Krông Nô - một phụ lưu của sông Sêrêpôk, thuộc huyện Cư Jút, tỉnh Đăk Nông. Sông Krông Nô là ranh giới tỉnh Đăk Nông với tỉnh Đắk Lắk.
Địa điểm.
Thác nằm cách trung tâm huyện Cư Jút khoảng 3 km, và cách thành phố [[Buôn Ma Thuột] khoảng 20 km theo quốc lộ 14.
Hiện thác đang được công ty Du lịch Đắk Lắk tổ chức khai thác với nhiều các dịch vụ du lịch đa dạng kèm theo.
Về tên thác.
Tương truyền rằng cái tên của thác “Trinh Nữ” được bắt nguồn từ một câu chuyện dân gian kể về tình yêu của một thiếu nữ bản địa. Vì tình yêu trắc trở, cô đã gieo mình xuống dòng nước để giữ trọn tình yêu. Cảm động trước hành động của cô gái, người dân quanh vùng đã đặt tên thác là “Trinh Nữ”.
Cũng có một huyền thoại khác là hàng năm đều có một cô gái chết đuối ở đây và người ta chiêm nghiệm thấy rất đúng (Thực chất do đây là một đoạn sông rất nguy hiểm, những tảng đá lớn và dòng sông chảy xiết làm nên nét riêng của thác chính là những cái bẫy chết người khiến hàng năm ở đây đều có người chết đuối).
Đặc điểm.
Thác Trinh Nữ không phải là một thác đẹp do không có dòng thác đổ từ trên cao xuống vì thực chất đây chỉ là một [[ghềnh]] sông có dòng chảy tương đối hiền hòa vào [[mùa khô]] nhưng thật hung dữ vào [[tây Nguyên|mùa mưa Tây nguyên]]. Thác rất đặc biệt với những tảng đá [[bazan dạng cột]] to lớn màu đen có tuổi địa chất từ 2 đến 5 triệu năm giữa dòng sông hoặc nhô ra từ bờ. Hiện nay [[Bảo tàng Địa chất]] đang tiến hành làm các thủ tục cần thiết để xin [[Chính phủ Việt Nam]] công nhận khu vực đá bazan ở thác Trinh Nữ là di sản địa chất và tiến hành xây dựng một công viên địa chất tại đây.
Đây cũng là một địa điểm du lịch được tổ chức khai thác và đầu tư tương đối tốt nhất trong vùng.
Tham khảo.
[[Thể loại:Buôn Ma Thuột]]
[[Thể loại:Cư Jút]]
[[Thể loại:Sông Sêrêpôk]]
[[Thể loại:Du lịch Đắk Lắk]]
[[Thể loại:Du lịch Đắk Nông]] | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sông Tây Dvina hay Daugava (tiếng Nga: Западная Двина́, tiếng Belarus: Заходняя Дзвіна, tiếng Latvia: Daugava, tiếng Ba Lan: Dźwina, tiếng Đức: Düna) là một con sông bắt nguồn từ vùng đồi Valdai, Nga, chảy qua các quốc gia như Nga, Belarus, Latvia để đổ vào vịnh Riga, một nhánh của biển Baltic. Tổng chiều dài của con sông này là 1.020 km (633,7 dặm).
Nó được nối bằng kênh đào với các sông Berezina và Dnieper.
Có ba đập thủy điện trên sông này - đó là Rīgas HES theo chiều dòng chảy thì ở ngay phía trên Riga hay 35 km từ cửa sông, Ķeguma HES cách đập đầu tiên 35 km hay 70 km từ cửa sông, và Pļaviņu HES cách đập thứ hai 37 km (ngược dòng) hay 107 km từ cửa sông. Đập thứ tư, Daugavpils HES, đã được lập kế hoạch nhưng bị chỉ trích mạnh. Belarus hiện tại có kế hoạch xây dựng một vài nhà máy thủy điện trên phần thuộc Belarus của sông Daugava. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.912968 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sông Ural (, ) hay Jayıq/Zhayyq (, , , ), còn gọi là Yaik () trước năm 1775, là một con sông chảy qua Nga và Kazakhstan. Nó bắt nguồn từ phía nam dãy núi Ural và đổ vào biển Caspi. Với chiều dài , đây là sông dài thứ ba châu Âu sau Volga và Danube, và sông dài thứ 18 của châu Á. Sông Ural thường được xem là biên giới giữa châu Âu và châu Á.
Sông Ural xuất phát từ một nơi gần núi Kruglaya trong dãy Ural, chảy về hướng nam, qua Magnitogorsk, tới Orsk nó chảy về hướng tây , đến Orenburg, sông này hợp với sông Sakmara. Từ Orenburg, nó chảy tiếp về phía tây, đến Kazakhstan, rồi lại chảy về phía nam ở Oral, chảy ngoằn nghèo qua một đồng bằng phẳng, rộng, trước khi đổ vào biển Caspi. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.980545 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đèo Cả là một trong những ngọn đèo lớn và hiểm trở tại miền Trung Việt Nam . Đèo cao 333 m, dài 12 km, cắt ngang qua dãy núi Đại Lãnh ở chỗ giáp ranh giữa hai tỉnh Phú Yên (thị xã Đông Hòa) và Khánh Hòa (huyện Vạn Ninh) trên Quốc lộ 1 .
Đỉnh đèo nằm ở thôn Vũng Rô, xã Hòa Xuân Nam, thị xã Đông Hòa. Đèo còn có tên gọi khác là Đèo Cục Kịch, là tên dân gian trước đây khi đèo mới mở chỉ trải lớp đá, đi lại gập ghềnh và có đến 98 vòng cua rộng hẹp gấp khúc . Trong văn bản tiếng Pháp ghi tên đèo là "Col Babonneau" .
Hiện nay đã có hầm đường bộ Đèo Cả thay thế cho đèo hiện hữu, toàn bộ đường dẫn và hai hầm chính dài 13,5 km.
Lịch sử.
Đây là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành từ năm 1471 đến 1653. Trong cuộc nam tiến của Đại Việt, địa thế hiểm trở của khu vực đã khiến vua Lê Thánh Tông dừng chân tại đây năm 1471. Sau đó, vua Lê Thánh Tông đã tạo một tiểu vương quốc tại Phú Yên làm vùng đệm tên là Hoa Anh. Vì là vị trí ranh giới, nhiều cuộc xung đột giữa Đại Việt và Chiêm Thành đã xảy ra tại đây
Vào những năm 1771-1802, nhiều cuộc giao chiến giữa chúa Nguyễn Ánh và anh em nhà Tây Sơn cũng đã xảy ra tại đây. Trong tháng 1 năm 1947, đèo Cả trở thành chiến trường giữa quân Pháp và Việt Minh.
Tên "Đèo Cả" có khi Pháp đang xây Quốc lộ 1. Trước đó đường Thiên Lý nằm phía tây của đường Đèo Cả.
Nơi đây, trên đèo Cả thời Pháp thuộc có một trạm Phú Hoà do Nam triều xây dựng như một trạm dịch để lưu chuyển văn thư, vận tải lương thực, cáng, võng các quan chức hành chánh địa phương mỗi khi có công vụ. Sau này Pháp cho xây một bót tên Poste Petitte (Bót Bê Tí) để kiểm soát về mặt quân sự. Năm 1997 ranh giới giữa "hai tỉnh Phú Yên-Khánh Hoà được phân chia từ chân Đá Đen" kéo dài theo đường phân thủy đến đỉnh Hòn Nưa. Và Vũng Rô thuộc địa phận Phú Yên.
Sinh thái.
Thời tiết ở đây nhiều mưa và nhiều mây, tạo ra nhiều thực vật đặc biệt. Trước kia, khu này là một nơi sản xuất trầm hương và kỳ nam nổi tiếng. Nay vẫn còn nhiều cây quý mọc tại đây như cẩm, thị, sao, chò, dầu, kiền kiền, và đát. Cây đát được dùng trong món chè trái cây nổi tiếng ở Nha Trang. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vườn quốc gia Bến En là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam. Được thành lập theo quyết định số 33 ngày 27 tháng 1 năm 1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam.
Số liệu địa lý.
Thuộc huyện Như Thanh và huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Nằm cách thành phố Thanh Hóa khoảng 36 km về phía tây nam. Tọa độ từ 19°31′ tới 19°43′ vĩ bắc và 105°25′ tới 105°38′ kinh đông.
Tổng diện tích là 14.735 ha, trong đó rừng nguyên sinh là 8.544 ha. Vườn quốc gia Bến En có địa hình nhiều đồi núi, có nhiều sông, suối và hồ Mực trên núi có diện tích 3000 ha có 21 đảo nổi giữa là một trong vườn quốc gia đẹp nhất Việt Nam.
Đa dạng sinh học.
Có nhiều loài sinh vật quý, với 1389 loài thực vật (lim xanh, lát hoa, chò chỉ, trai lý, bù hương...), có 1004 loài động vật,66 loài thú (với 29 loài có tên trong Sách đỏ Việt Nam như: sói đỏ, gấu ngựa, vượn đen, phượng hoàng đất, gà tiền mặt vàng...) | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vườn quốc gia Vũ Quang (còn gọi với tên: Vườn quốc gia Vụ Quang) là một vườn quốc gia thuộc tỉnh Hà Tĩnh, nơi có nhiều loài sinh vật đặc hữu chỉ có ở Việt Nam. Được thành lập theo quyết định số 102/2002/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ngày 30 tháng 7 năm 2002. Đây là vườn quốc gia có loài mang Vũ Quang (Muntiacus vuquangensis), loài mang quý hiếm được đặt theo tên của vườn quốc gia này.
Vị trí địa lý và lịch sử.
Vị trí địa lý.
Vườn quốc gia Vũ Quang nằm ở phía tây bắc tỉnh Hà Tĩnh, cách thành phố Hà Tĩnh 75 km.
Lịch sử.
Khu di tích lịch sử ghi dấu những sự kiện lịch sử oai hùng của cuộc khởi nghĩa Hương Khê hưởng ứng phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp của Phan Đình Phùng cuối thế kỷ XIX.
Động, thực vật được bảo tồn và lợi ích kinh tế.
Năm 1992, các nhà khoa học của Bộ Lâm nghiệp và Quỹ quốc tế bảo vệ thiên nhiên (WWF) đã phát hiện một loài mới - Sao la. Điều này có ý nghĩa toàn cầu trong lịch sử sinh học vì trong suốt 100 năm trước đó chỉ có 5 loài thú lớn mới được phát hiện. Loài được phát hiện trước Sao la là Bò xám ở Campuchia vào năm 1936. Nhưng đây không phải là loài thú mới duy nhất được tìm ra ở Vũ Quang. Khảo sát do Viện điều tra Quy hoạch rừng (Bộ Lâm nghiệp trước đây) và WWF tiến hành năm 1994 đã phát hiện ra loài hươu cỡ trung bình. Loài hươu mới này có họ hàng gần với loài mang thường và được đặt tên là Mang lớn. Ngoài ra, trong khoảng 6 năm sau năm 1992, các nhà khoa học đã tìm ra 5 loài cá mới. Chính vì thế, Vũ Quang thường được nhắc đến với cái tên "mỏ loài mới của Việt Nam". Bên cạnh đó, VQG Vũ Quang còn là khu vực có tính đa dạng sinh học cao.
Được chuyển thành VQG năm 2002, Vũ Quang có 5 kiểu rừng chính được phân chia theo các đai cao khác nhau: rừng kín thường xanh trên đất thấp phân bố ở độ cao 100 - 300m; rừng thường xanh trên núi thấp phân bố trong khoảng độ cao từ 300 - 1.000m; rừng thường xanh trung bình ở độ cao từ 1.000 - 1.400m gồm chủ yếu các loài cây lá rộng; rừng thường xanh trên núi cao phân bố ở độ cao 1.400 - 1.900m; rừng phân bố trên độ cao lớn hơn 1.900m.
Về thực vật, các nhà nghiên cứu đã ghi nhận 1.823 loài thực vật bậc cao có mạch thuộc 202 họ và 676 chi ở VQG Vũ Quang. Trong đó, có 131 loài thực vật quý hiếm có tên trong Sách đỏ Việt Nam, danh lục đỏ IUCN và Nghị định 32/2006/NĐ/CP của Chính phủ về việc cấm hoặc hạn chế khai thác, săn bắn hay buôn bán các loài động vật hoang dã. Đáng chú ý, Vũ Quang có tới 686 loài cây được dùng làm thuốc và 339 loài cây gỗ. Nhóm cây cho gỗ là nhóm thực vật quan trọng với các loại gỗ có giá trị kinh tế cao như pơ mu, vàng tâm, giổi bà,… Chính vì thế, VQG Vũ Quang trở thành một trong những điểm nóng về phá rừng trong những năm qua.
Hệ động vật của Vũ Quang cũng rất đa dạng, phong phú. Các nghiên cứu đã ghi nhận, Vườn có 94 loài thú thuộc 26 họ, 315 loài chim, 58 loài bò sát, 31 loài lưỡng cư, 88 loài cá và 316 loài bướm, trong đó, có 26 loài thú, 10 loài chim, 16 loài bò sát quý hiếm] cần được bảo vệ. Mặt khác, Vườn còn có 36 loài thú đặc hữu như: Vượn đen má trắng; Thỏ vằn Trường Sơn; Chà vá chân nâu,… Một số loài thuộc nhóm động vật nguy cấp thường xuyên xuất hiện tại đây như voi, mang lớn, cheo cheo và một số loài khỉ, dơi. Đặc biệt, Vườn cũng phong phú các loài rùa sinh sống, nhiều con đã sống hàng trăm năm như rùa hộp trán vàng, rùa hộp ba vạch, rùa núi viền,… Tuy nhiên, trong những năm gần đây, số lượng động vật cũng như thực vật đã bị suy giảm đáng kể. Một số loài còn rất ít cá thể hoặc đã bị tuyệt chủng. Nguyên nhân chính là do khu vực vùng đệm của Vườn là khu dân cư nghèo khó với 93% lực lượng lao động chỉ làm nông nghiệp, thu nhập không ổn định, dân số tăng nhanh. Trong khi đó, gỗ quý và động vật hoang dã có giá trị kinh tế cao, nhu cầu từ các thành phố và các quốc gia khác lớn, nhận thức của người dân về pháp luật trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng, động vật hoang dã còn hạn chế. Đây là sức ép lớn lên công tác bảo tồn của Vườn trong hiện tại và tương lai
Du lịch sinh thái sẽ giúp cải thiện đời sống của người dân, giảm tình trạng săn bắn, khai thác trái phép tài nguyên rừng. Đây còn là di tích lịch sử Khu căn cứ địa Phan Đình Phùng, được Nhà nước xếp hạng năm 1995.
Trong khoảng 10 năm (2000 - 2011), số lượng khách du lịch đến Hà Tĩnh tăng trưởng trung bình 28,5%/năm. Đến năm 2020, Hà Tĩnh đặt mục tiêu sẽ thu hút khoảng 50 nghìn lượt khách quốc tế và 1,5 triệu lượt khách nội địa. Tỉnh phấn đấu đưa du lịch trở thành ngành kinh tế có vị trí quan trọng trong khối dịch vụ, với cơ sở vật chất kỹ thuật đồng bộ, sản phẩm du lịch chất lượng, đa dạng, có sức cạnh tranh, mang đậm bản sắc Hà Tĩnh, thân thiện với môi trường.
Và chắc chắn, thương hiệu "mỏ" loài mới của Việt Nam sẽ đóng góp không nhỏ vào những mục tiêu này.
Vườn Quốc gia Vũ Quang được biết đến là một trung tâm đa dạng sinh học bậc nhất của Việt Nam, nơi đây lưu giữ nhiều nguồn gen rất có giá trị cho công tác bảo tồn, Vườn nằm trong một vùng sinh thái có mức độ ưu tiên toàn cầu, được xác định là cực kỳ quan trọng trong việc bảo tồn đa dạng sinh học cho cả khu vực thuộc dãy Trường Sơn. Với các giá trị về đa dạng sinh học và vai trò to lớn trong công tác bảo tồn. Cuối năm 2019, VQG Vũ Quang chính thức được Hiệp hội Vườn Di Sản Đông Nam Á (AHP) công nhận là “Vườn di sản ASEAN”. Việc công nhận danh hiệu Vườn Di sản ASEAN góp phần quan trọng đối với công tác bảo tồn các hệ sinh thái không chỉ có đa dạng sinh học cao mà còn có giá trị văn hóa, lịch sử đối với từng quốc gia và cả khu vực. Đồng thời góp phần nâng cao nhận thức bảo tồn đa dạng sinh học của người dân các nước ASEAN. VQG Vũ Quang hôm nay ngoài các nhiệm vụ và chức năng đã và đang thực hiện còn gánh vác trách nhiệm là một khu bảo tồn đa dạng sinh học và hệ sinh thái tự nhiên quan trọng, mang tính độc đáo của khu vực ASEAN, góp phần nâng cao vai trò, vị thế và uy tín của Việt Nam ở tầm khu vực và châu lục.
Diện tích.
Tổng diện tích: 55.028,9 ha. Trong đó:
Danh sách động vật mới.
Động vật mới từ VQG Vũ Quang và các vùng lân cận:
Ngoài ra, VQG Vũ Quang còn là nơi sinh sống của 5 loài cá mới: | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vườn quốc gia Tràm Chim thuộc tỉnh Đồng Tháp là một khu đất ngập nước, được xếp trong hệ thống rừng đặc dụng của Việt Nam. Nơi đây có nhiều loài chim quý, đặc biệt là sếu đầu đỏ, một loài chim cực kỳ quý hiếm, có tên trong sách đỏ.
Vị trí địa lý.
Vườn quốc gia Tràm Chim nằm trong vùng Đồng Tháp Mười, thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp. Tọa độ địa lý 10°40′ – 10°47′ vĩ bắc, 105°26′ - 105°36′ Đông với tổng diện tích 7.313 ha nằm trong địa giới của 5 xã (Tân Công Sính, Phú Đức, Phú Hiệp, Phú Thành B, Phú Thọ) và Thị trấn Tràm Chim, với số dân trong vùng là 30.000 người.
Chức năng.
Bảo tồn hệ sinh thái đất ngập nước đặc trưng của vùng Đồng Tháp Mười, bảo vệ khu vực di trú cho các loài chim di cư, đặc biệt là loài chim sếu ("Grus antigone")., bảo tồn các loài động-thực vật bản địa, các nguồn gen quý hiếm, và duy trì những điều kiện thích hợp cho việc nghiên cứu môi trường tự nhiên và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên.
Điều kiện tự nhiên.
Địa hình.
Nói chung là thấp trũng, nơi cao nhất là 2,3 m, nơi thấp nhất là 0,4 m (so với mực nước biển Tây Nam Bộ).
Địa chất.
Trầm tích.
Khu vực vườn quốc gia Tràm Chim được hình thành trên hai nền trầm tích Pleistocen và Holocen, với 5 đơn vị phụ:
Đa dạng sinh học.
Hệ sinh thái động vật.
Vườn quốc gia Tràm Chim, có diện tích 7.588 ha, thuộc huyện Tam Nông tỉnh Đồng Tháp.
Đây là nơi cư trú của trên 100 loài động vật có xương sống, 40 loài cá và 147 loài chim nước. Trong đó, có 13 loài chim quý hiếm của thế giới. Đặc biệt là một loài chim hạc còn gọi là sếu đầu đỏ ("Grus antigone") hay sếu cổ trụi.
Hệ sinh thái thực vật.
Với các yếu tố tự nhiên: trầm tích, địa mạo, và đặc tính đất khá đa dạng, từ đất xám, phát triển trên nền trầm tích cổ Pleistocen, đến những nhóm đất phù sa mới và đất phèn phát triển trên trầm tích trẻ Holocen đã góp phần làm đa dạng các quần xã thực vật tự nhiên. Kết quả khảo sát từ 2005–2006 ghi nhận được 130 loài thực vật, phân bố đơn thuần cũng như xen kẻ với nhau tạo thành những quần xã thực vật đặc trưng.
Hệ sinh thái rừng tràm.
Rừng tràm ("Melaleuca cajuputi") là thảm thực vật thân gỗ có diện tích lớn nhất, diện tích khoảng 2968 ha. Do tác động con người, hầu hết những cánh rừng tràm nguyên sinh đã biến mất và hiện nay chỉ còn lại là những cánh rừng tràm trồng, thuộc loài "Melaleuca cajuputi" (họ Myrtaceae), nhưng do được bảo tồn nhiều năm nên có những cụm tràm phân bố theo kiểu tự nhiên. Hai kiểu phân bố được ghi nhận: tập trung (khoảng 1.826 ha) và tràm phân tán. Tràm phân tán có sự hiện diện thảm cỏ xen kẽ gồm các loài năng ống ("Eleocharis dulcis"), cỏ mồm ("Ischaemum rugosum" và "I. indicum"), hoàng đầu Ấn ("Xyris indica"), nhĩ cán vàng ("Utricularia aurea"), cỏ ống ("Panicum repens"), súng ("Nymphaea lotus"), cú muỗi ("Caprimulgusmaeruru"), chèo bẻo ("Dicrurus macrocercus"), hút mật ("Aethopiga siparaja"), vành khuyên ("Zosterops palpebrosa"), chim sẻ ("Carpodacus erythrinus"), én ("Apus affinis"), rẻ quạt ("Rhipidura albicollis"), chích chòe ("Lucustella lanceolata")
Những loài chim thường gặp: cò trắng ("Egretta garzetta"), cò bợ ("Ardeola bacclus"), cò lửa ("Ixobrychus sinensis"), cò lép, vạc ("Nycticorax nycticorax"), diệc lửa ("Ardea purpurea"), diệc xám ("Ardea cinerea"), điêng điểng ("Anhinga melanog"aster), cồng cộc ("Pharacrocoraxniger"), tu hú, cú ngói ("Streptopelia tranquebarica"), cú cườm ("Caprimulgusmaerurus"), cú ("Tyto capensis"),
Đồng ngập nước theo mùa.
Đồng cỏ ngập nước theo mùa là một trong những hệ sinh thái khá phổ biến trong khu vực VQG Tràm Chim. Những loài thực vật phát triển với mật độ cao đã thành những đồng cỏ đơn thuần, trong khi đó có những loài cùng phát triển chung với các loài thực vật khác đã tạo nên những quần xã hoặc hội đoàn thực vật tiêu biểu của vùng đất ngập nước.
Đồng cỏ năng.
Đồng cỏ năng ("Eleocharis sp".) chiếm diện tích khoảng 2.968 ha, tạo thành một trong những thảm cỏ rộng lớn; bao gồm đồng cỏ năng kim ("Eleocharis atropurpurea") - đây là bãi ăn của loài chim sếu ("Grus antigone"), khoảng 235 ha, năng ống ("Eleocharis dulcis"), 1.277 ha, và hợp với các loài khác tạo thành các quần xã thực vật: năng kim – năng ống ("E. atropurpurea – E. dulcis"), vài nơi xuất hiện của hoàng đầu Ấn ("Xyris indica"); năng kim - cỏ ống ("E. atropurpurea – P. repens"); năng ống - cỏ ống ("E. dulcis" – "P. repens"), khoảng 937 ha; năng ống - cỏ ống – lúa ma ("E. dulcis" - "P. repens" – "O.rufipogon"), 443 ha; năng ống - cỏ ống - cỏ chỉ ("E. dulcis" - "P. repens" – "C. dactylon"), khoảng 72 ha. Những nơi có địa hình thấp và ngập nước quanh năm thì xen lẫn trong quần xã năng là những loài thực vật thủy sinh như nhĩ cán vàng ("Utricularia aurea"), súng ma ("Nymphaea indicum"), rong đuôi chồn ("Ceratophyllum demersum").
Những loài chim thường gặp: sếu ("Grus antigone"), cò trắng ("Egretta garzetta"), cò bợ ("Ardeola bacclus"), trích cồ, trích đất, vịt trời ("Anas poecilorhyncha"), le khoang cổ ("Nettapus coromandelianus"), diệc lửa ("Ardea purpurea"), diệc xám ("Ardea cinerea"), cò lửa ("Ixobrychus sinensis"), cò lép.
Đồng cỏ mồm.
Đồng cỏ mồm ("Ischaemum" spp.); chiếm diện tích khá nhỏ so với các cộng đồng thực vật khác, khoảng 41,8 ha. Bao gồm mồm đơn thuần và quần xã mồm - cỏ ống ("Ischaemum" spp.- "Panicum repens"). Phân bố hiện diện chủ yếu trên những dải liếp, bờ đất có địa hình cao cục bộ trong một vùng địa hình thấp.
Những loài chim thường gặp: cồng cộc ("Pharacrocoraxniger"), chiền chiện ("Prinia flaviventris"), cò bợ ("Ardeola bacclus"), cò lửa ("Ixobrychus sinensis"), cút nhỏ ("Turnix syluatica"), diệc lửa ("Ardea purpurea"), diệc xám ("Ardea cinerea"), cú ("Tyto capensis"), giang sen ("Mycteria leucocephala"), già đãy ("Leptoptilos dubius").
Đồng cỏ ống.
Đồng cỏ ống ("Panicum repens"); cỏ ống phân bố trên một diện rộng, chiếm diện tích khoảng 958,4 ha, ở dạng đơn thuần với mật độ lên đến 98% hoặc cùng xuất hiện với các loài thực vật thân thảo khác: cỏ ống - cỏ sả ("Panicum repens" - "Cymbopogon citratus"), khoảng 23 ha, chủ yếu trên đất giồng cổ; cỏ ống – lúa ma ("Panicum repens" – "Oryza rufipogon"), khoảng 268 ha; cỏ ống - cỏ chỉ ("Panicum repens" – "Cynodon dactylon"), khoảng 50 ha; cỏ ống – mai dương ("Panicum repens" – "Mimosa pigra"), khoảng 86 ha, đây là khu quần xã cỏ ống bị mai dương ("Mimosa pigra") xâm hại.
Những loài chim thường gặp: công đất ("Houbaropsis bengalensis"), chiền chiện ("Prinia flaviventris"), sơn ca ("Alauda gulgula"), sẻ bụi ("Saxicola caprata"), trảu đầu hung ("Merops superciliosus"), cú ("Tyto capensis"), trích, cò ("Ardeola bacclus"), giang sen ("Mycteria leucocephala"), già đãy ("Leptoptilos dubius"), chích đầm lầy ("Locustella certhiola")
Đồng lúa ma.
Đồng lúa ma ("Oryza rufipogon"); phân bố khá rộng, chiếm diện tích khoảng 824 ha. Tuy nhiên, cánh đồng lúa ma ("Oryza rufipogon") đơn thuần có diện tích khá nhỏ, khoảng 33 ha, diện tích còn lại có sự hiện diện của lúa ma là sự kết hợp với những loài thực vật khác tạo thành những quần xã thực vật đặc trưng cho vùng đất ngập nước: lúa ma - cỏ ống ("O. rufipogon" – "Panicum repens"), khoảng 544 ha; lúa ma - cỏ bắc ("Oryza rufipogon" - "Leersia hexandra"), khoảng 160 ha; lúa ma - cỏ ống - cỏ chỉ ("O. rufipogon" – "P. repens" – "C. dactylon"), khoảng 83 ha.
Hầu như tất cả các loài chim trong Tràm Chim đều thích với đồng lúa ma, kể cả sếu đầu đỏ ("Grus antigone"), sinh cảnh này đa dạng sinh học rất cao.
Lác nước.
Lác nước ("Cyperus malaccensis"); phân bố rải rác dọc theo kinh đào và dọc theo đường rạch cũ, diện tích tập trung chỉ khoảng 2 ha.
Hệ sinh thái đầm lầy.
Nghễ ("Polygonum tomentosum") phân bố ở những nơi địa hình trũng thấp, khoảng 159 ha. Trong đó, nghễ đơn thuần chiếm khoảng 138 ha, phần còn lại hiện diện chung với loài thực vật khác như lúa ma ("O. rufipogon"), rau dừa ("Jussiaea repens"), nhĩ cán vàng ("Utricularia aurea").
Những loài thường gặp: cò lửa ("Ixobrychus sinensis"), cò lép ("Egretta garzetta"), cò ốc ("Anastomus oscitans"), cò bợ ("Ardeola bacclus")
Hội đoàn sen – súng ("Nelumbium nelumbo" – "Nymphaea" spp.) chủ yếu trên các vùng đầm lầy ngập nước quanh năm, dọc theo khu trũng thấp của dòng sông cổ, chiếm diện tích khoảng 158 ha.
Những loài chim thường gặp: le hôi ("Tachybaptus raficollis"), le khoang cổ ("Nettapus coromandelianus"), vịt trời ("Anas poecilorhyncha"), trích cổ, trích ré, gà lôi nước ("Hydrophasianus chirurgus"), gà nước vằn ("Rallus striatus"), cuốc ngực nâu ("Porzana fusca"), mòng két ("Anas crecca"), bói cá ("Ceryle rudis").
Tiềm năng du lịch.
Đến Tràm Chim, du khách sẽ bắt gặp ẩn hiện trước cảnh bao la của đất trời Đồng Tháp mênh mông đầy nước. Vào mùa khô từ tháng 12 đến tháng 5 dương lịch, đây là nơi cư trú của khoảng 60% quần thể sếu đầu đỏ, là loài chim cao nhất trong các loại chim bay trên thế giới.
Những vấn đề đặt ra.
Những vấn đề, thách thức mà Ban quản lý VQG đang quan tâm: | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 0.687321 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những khu rừng đặc dụng lớn nhất Việt Nam, thuộc 2 tỉnh Đắk Nông và Đắk Lắk.
Vị trí địa lý.
Vườn quốc gia Yok Don nằm trên địa bàn 7 xã thuộc 3 huyện: Xã Krông Na, huyện Buôn Đôn, xã Ea Bung, Chư M'Lanh huyện Ea Súp (tỉnh Đắk Lắk) và xã Ea Pô huyện Cư Jút (tỉnh Đăk Nông); vườn cách thành phố Buôn Ma Thuột khoảng 40 km về phía tây bắc. Vườn quốc gia Yok Don được phê duyệt theo quyết định số 352/CT ngày 29 tháng 10 năm 1991 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Việt Nam với mục đích bảo vệ 58.200 ha hệ sinh thái rừng khộp đất thấp. Ngày 24 tháng 6 năm 1992 Bộ Lâm nghiệp ra quyết định 301/TCLĐ thành lập Vườn quốc gia Yok Don trực thuộc Bộ Lâm nghiệp. Vườn quốc gia Yok Don được mở rộng theo quyết định số 39/2002/QĐ-TTg ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam.
Toạ độ địa lý: Từ 12°45′ đến 13°10′ vĩ bắc và từ 107°29′30″ đến 107°48′30″ kinh đông. Quy mô diện tích: Được mở rộng với diện tích 115.545 ha, trong đó phân khu bảo vệ nghiêm ngặt là 80.947 ha, phân khu phục hồi sinh thái là 30.426 ha và phân khu dịch vụ hành chính là 4.172 ha. Vùng đệm: có diện tích 133.890 ha, bao gồm các xã bao quanh Vườn quốc gia.
Vườn nằm trên một vùng tương đối bằng phẳng, với hai ngọn núi nhỏ ở phía nam của sông Serepôk. Rừng chủ yếu là rừng tự nhiên, phần lớn là rừng khộp. Yok Don cũng là vườn quốc gia duy nhất ở Việt Nam bảo tồn loại rừng đặc biệt này.
Ranh giới của vườn quốc gia này như sau:
Đa dạng sinh học.
Nơi đây có 89 loài động vật có vú, 305 loài chim, 48 loài bò sát, 16 loài lưỡng cư, 858 loài thực vật, hàng trăm loài cá nước ngọt và hàng ngàn loài côn trùng. Vườn có voi rừng, trâu rừng và bò tót, báo gấm, báo hoa mai, lợn rừng...
Đây là nơi trú ngụ của một số loài động vật nguy cấp mang tính toàn cầu như: bò xám ("Bos sauveli"), mang lớn ("Megamuntiacus vuquangensis"), nai cà tông ("Cervus eldi"), bò banteng ("Bos javanicus"), voi châu Á ("Elephas maximus"), hổ ("Panthera tigris"), sói đỏ ("Cuon alpinus") và chà vá chân đen ("Pygathris nigripes"). Công tác điều tra vẫn đang tiếp tục, nhưng các kết quả nghiên cứu cho thấy vườn quốc gia Yok Đôn là một trong những nơi có khu hệ chim phong phú nhất Đông Dương.
Các vấn đề.
Ngành lâm nghiệp, chính quyền các cấp và ban quản lý vườn quốc gia Yok Don có nhiều nỗ lực trong quản lý bảo tồn đa dạng sinh học của vườn nhưng vẫn phải đối mặt với trạng săn bắt, xâm lấn đất đai và nguy cơ cháy rừng. Bên cạnh đó, xung quanh vườn còn tồn tại nhiều khu rừng rộng lớn, trong đó phần lớn được giao để khai thác gỗ thương phẩm do các lâm trường quốc doanh quản lý. | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vườn quốc gia Xuân Sơn là một vườn quốc gia nằm trên địa bàn huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ. Với kiểu địa hình núi đá vôi đặc trưng. Được chuyển từ khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn thành vườn quốc gia theo Quyết định của Thủ tướng chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số 49/2002/QĐ-TTg ngày 17 tháng 4 năm 2002.
Thông tin chính.
Vị trí địa lý.
Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm ở huyện Tân Sơn, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì 80 km, Hà Nội 120 km, có phạm vi ranh giới được xác định như sau:
Tọa độ địa lý: Từ 21°03' đến 21°12' vĩ bắc và từ 104°51' đến 105°01' kinh đông.
Địa hình.
Vườn quốc gia Xuân Sơn nằm trên hệ thống núi đá vôi có độ cao từ 700 đến 1.300 m. Trong khu vực có rất nhiều hang đá.
Diện tích.
Vườn quốc gia Xuân Sơn có diện tích vùng đệm 18.369 ha, trong đó diện tích vùng lõi là 15.048 ha khu vực bảo vệ nghiêm ngặt là 11.148 ha, phân khu phục hồi sinh thái kết hợp bảo tồn di tích lịch sử: 3.000 ha phân khu hành chính, dịch vụ: 900 ha. Điểm đặc trưng của Xuân Sơn là vườn quốc gia duy nhất có rừng nguyên sinh trên núi đá vôi (2.432 ha). Xuân Sơn được đánh giá là rừng có đa dạng sinh thái phong phú, đa dạng sinh học cao, đa dạng địa hình kiến tạo nên đa dạng cảnh quan.
Diện tích vùng đệm của Vườn quốc gia Xuân Sơn là 18.639 ha, bao gồm các xã: Kiệt Sơn, Lai Đồng, Minh Đài và một phần các xã: Đồng Sơn, Tân Sơn, Kim Thượng, Xuân Đài, đều cùng huyện.
Đa dạng sinh học.
Theo thống kê bước đầu, Vườn quốc gia Xuân Sơn có 1.179 loài thực vật có mạch thuộc 650 chi và 175 họ trong đó có 52 loài thuộc ngành Quyết và ngành Hạt trần. Có 91 loài cá, 75 loài bò sát và lưỡng cư, 241 loài chim, 76 loài thú.
Nằm trong khu vực giao tiếp của hai luồng thực vật Mã Lai và Hoa Nam, hệ thực vật ở Xuân Sơn có các loài re, dẻ, sồi và mộc lan chiếm ưu thế. Ngoài ra, ở Xuân Sơn còn có các loài tiêu biểu cho khu vực Tây Bắc như táu muối, táu lá duối, sao mặt quỷ và chò chỉ, chò vảy, nghiến, dồi, vầu đắng, kim giao (rừng chò chỉ ở Xuân Sơn là một trong những rừng chò chỉ đẹp và giàu nhất miền Bắc). Xuân Sơn còn là kho giống bản địa, kho cây thuốc khổng lồ, đặc biệt là cây rau sắng mọc tự nhiên có mật độ cao nhất miền Bắc. | 25 | 25_vườn_loài_khu_rừng | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cầu Thê Húc là cây cầu ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.
Nối từ Hồ Hoàn Kiếm ra hòn đảo nhỏ nơi có đền Ngọc Sơn, cây cầu này màu đỏ son, làm bằng gỗ, có nhiều trụ liên tiếp. Cầu được Thần Siêu Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" hay "Ngưng tụ hào quang" (棲旭).
Lịch sử.
Năm 1865 dưới triều Tự Đức, Nguyễn Văn Siêu cho xây cầu nối bờ với đền Ngọc Sơn và đặt tên nó là Thê Húc (nghĩa là "giọt ánh sáng đậu lại" hay "Ngưng tụ hào quang"). Cầu gồm 15 nhịp, có 32 chân cột gỗ tròn xếp thành 16 đôi, mặt cầu lát ván, thành sơn màu đỏ sẫm, chữ Thê Húc được thếp vàng. Cầu đã trải qua hai lần tái thiết kể từ khi hoàn tất. Lần thứ nhất là vào năm 1897 triều Thành Thái. Lần thứ nhì là vào năm 1952 dưới thời thị trưởng Thẩm Hoàng Tín (nhiệm kỳ 2/1950-8/1952) sau khi một nhịp cầu gãy vào đêm Giao thừa năm Nhâm Thìn 1952 vì khách đi lễ đền Ngọc Sơn quá đông. Dưới sự giám sát của kiến trúc sư Nguyễn Bá Lăng cầu được xây lại thay vì bằng gỗ thì móng cầu được đúc lại bằng xi măng năm 1953 dưới thời thị trưởng Đỗ Quang Giai (nhiệm kỳ 8/1952-10/1954).
Kết cấu.
Cầu Thê Húc xưa kia được làm bằng gỗ rất thô sơ và sơn màu đỏ. Năm 1952 thị trưởng Hà Nội lúc đó là Thẩm Hoàng Tín đã cho phá bỏ cầu cũ, xây cầu mới sau vụ cầu sập, sử dụng thiết kế của kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Diệm. Cầu được thiết kế vẫn với dáng cầu vòng nhưng độ cong lớn hơn cầu cũ, vẫn giữ nguyên 16 hàng cọc; các dầm ngang và dọc đúc bằng bê tông. Mặt cầu và thành cầu vẫn là gỗ.
Cầu Thê Húc hướng về phía đông, hướng về phía mặt trời mọc để đón được toàn vẹn nguồn dưỡng khí. Với ý nghĩa nên xưa nay cây cầu mang màu đỏ - màu của sự sống, của mọi nguồn hạnh phúc, của ước vọng truyền đời từ thời cổ đại đến nay - cây cầu Thê Húc - biểu tượng của thần mặt trời.
Cả một quần thể di tích nằm trong không gian đầy huyền thoại của Hồ Gươm đều mang dấu ấn về tín ngưỡng thờ thần mặt trời. Từ Đài nghiên, Tháp bút cho đến cây cầu Thê Húc... từ việc chọn hướng đến cấu trúc, màu sắc, biểu tượng cho đến sự liên hoàn giữa các di tích đều ẩn chứa yếu tố linh thiêng này.
Một góc nhìn khác - góc nhìn của thẩm mỹ dân gian thì cây cầu Thê Húc chỉ có thể có một cách chọn lựa duy nhất là sơn màu đỏ, không thể khác. Với điều này, xin được lược trích ý kiến của ông cháu nhà phê bình mỹ học Vũ Ngọc Anh: "... Đúng là cái cầu này đứng giữa thanh thiên bạch nhật thì lúc nào nó chẳng có ánh nắng rọi vào. Tứ thời bát tiết, trong những khung cảnh riêng nào đấy, hình bóng nó cũng mỗi lúc một khác..." | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Ba Đình là một quận trung tâm thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Ba Đình là một trong 4 quận trung tâm của thủ đô. Đây là nơi tập trung nhiều cơ quan quan trọng của Đảng, Nhà nước nói chung và Hà Nội nói riêng.
Địa lý.
Quận Ba Đình nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý:
Dân số năm 2017 là 247.100 người.
Tên gọi.
Tên gọi "Ba Đình" xuất phát từ chiến khu Ba Đình của cuộc khởi nghĩa Ba Đình diễn ra từ năm 1886 - 1887 hưởng ứng phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX của các nhà cách mạng yêu nước là Phạm Bành, Đinh Công Tráng và nhân dân huyện Nga Sơn, Thanh Hóa.
Năm 1945 tên gọi Ba Đình được đặt cho vườn hoa ngã sáu phía sau vườn bách thảo, nơi này Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Năm 1959 tên gọi Ba Đình được đặt cho một trong tám khu phố nội thành của Hà Nội. Năm 1981 khu phố Ba Đình được đổi tên thành quận Ba Đình như tên gọi hiện tại.
Lịch sử.
Địa bàn quận Ba Đình hiện nay nằm trên nền đất xưa vốn thuộc tổng Hữu Nghiêm (sau đổi là Yên Hòa), huyện Thọ Xương và các tổng Yên Thành, Nội, Thượng, Trung, huyện Vĩnh Thuận.
Sau năm 1954, khu vực này được chia thành hai khu, gọi là khu Ba Đình và khu Trúc Bạch.
Năm 1961, thành lập khu phố Ba Đình trên cơ sở sáp nhập khu Ba Đình, khu Trúc Bạch; xã Đông Thái, một phần xã Thái Đô thuộc quận V cũ; 2 xã: Ngọc Hà, Phúc Lệ và một phần xã Thống Nhất thuộc quận VI.
Tháng 6 năm 1981, chuyển các khu phố thành quận, khu phố Ba Đình đổi thành quận Ba Đình, gồm 15 phường: Bưởi, Cầu Giấy, Cống Vị, Điện Biên, Đội Cấn, Giảng Võ, Kim Mã, Ngọc Hà, Nguyễn Trung Trực, Phúc Xá, Quán Thánh, Thành Công, Thụy Khuê, Trúc Bạch, Yên Phụ. Toàn bộ khu vực Hoàng thành Thăng Long khi đó nằm trong quận này.
Tháng 10 năm 1995, 3 phường: Bưởi, Thụy Khuê, Yên Phụ thuộc quận Ba Đình chuyển sang trực thuộc quận Tây Hồ. Quận Ba Đình còn 12 phường: Cầu Giấy, Cống Vị, Điện Biên, Đội Cấn, Giảng Võ, Kim Mã, Ngọc Hà, Nguyễn Trung Trực, Phúc Xá, Quán Thánh, Thành Công, Trúc Bạch.
Ngày 22 tháng 11 năm 1996, phường Cầu Giấy đổi tên thành phường Ngọc Khánh do trùng tên với quận Cầu Giấy mới thành lập.
Ngày 5 tháng 1 năm 2005, điều chỉnh địa giới hành chính giữa hai phường Ngọc Khánh và Cống Vị, đồng thời thành lập 2 phường Liễu Giai (tách ra từ các phường Ngọc Hà và Cống Vị) và Vĩnh Phúc (tách ra từ phường Cống Vị).
Quận Ba Đình có 14 phường như hiện nay.
Hành chính.
Quận Ba Đình có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 14 phường: Cống Vị, Điện Biên, Đội Cấn, Giảng Võ, Kim Mã, Liễu Giai, Ngọc Hà, Ngọc Khánh, Nguyễn Trung Trực, Phúc Xá, Quán Thánh, Thành Công, Trúc Bạch, Vĩnh Phúc.
Hạ tầng.
Hiện nay, các phường phía tây quận Ba Đình là những khu dân cư tập trung với những khu nhà chung cư được xây dựng sớm nhất của Hà Nội như Giảng Võ, Thành Công, Ngọc Khánh, Vĩnh Phúc, Cống Vị, Liễu Giai...
Các dự án đường sắt đô thị đi qua địa bàn quận là các tuyến số 1 (Ngọc Hồi - Yên Viên), tuyến số 2 (Nội Bài - Thượng Đình), tuyến số 3 (Trôi - Nhổn - Yên Sở), tuyến số 5 (Hồ Tây - Hòa Lạc), trong đó tuyến số 3 đoạn Nhổn - Ga Hà Nội (một phần của tuyến Trôi - Nhổn - Yên Sở) hiện đang được thi công; tuyến số 1, tuyến số 2 đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo (một phần của tuyến Nội Bài - Thượng Đình) và tuyến số 5 hiện đang được đầu tư xây dựng.
Trên địa bàn quận Ba Đình đã và đang xây dựng các khu đô thị như: khu đô thị 671 Hoàng Hoa Thám, khu đô thị bệnh viện 354, khu đô thị Vinhomes Gallery Giảng Võ...
Hệ thống đường sắt đô thị.
Tuyến số 3 "(Đang xây dựng)": (Quận Cầu Giấy) ← Ga Cầu Giấy - Ga Kim Mã → (Quận Đống Đa) | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.48738 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Hồ Hòa Bình hay hồ thủy điện Hòa Bình là công trình chứa nước cung cấp cho nhà máy thủy điện Hòa Bình. Dự trữ nước vào mùa khô.
Đây là hồ chứa nước nhân tạo lớn nhất Việt Nam, nằm trên sông Đà, có chiều dài 230 km từ Hoà Bình đi Sơn La. Đập chính của hồ nằm tại thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Dung tích của hồ vào khoảng 9,45 tỷ mét khối. Hồ có tất cả 12 cửa xả đáy. Nếu mở tất cả 12 cửa xả đáy sẽ phải di dân toàn bộ thành phố Hòa Bình và vùng hạ du | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.83693 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đèo núi (quan sơn) hay thường gọi là đèo là một đoạn tuyến đường vượt qua một dãy núi hoặc trên một sườn núi, thường là được bố trí để đi lại thuận tiện nhất qua một dãy núi.
Điểm có độ cao lớn nhất nhất của đường đèo gọi là "đỉnh đèo" hoặc điểm "yên ngựa", nơi hai phía đều có độ cao thấp hơn.
"Đèo đồi" là khái niệm ít dùng, để chỉ các "đèo" vượt qua các đồi thấp.
Đèo tồn tại gắn liền với đường giao thông, nên tùy theo sự phát triển giao thông và du lịch mà đèo có được biết đến hay không.
Đèo nổi tiếng trên thế giới.
Những đèo cao nhất: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.980959 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đèo Pha Đin hay Dốc Pha Đin là đèo núi trên quốc lộ 6 ở giáp ranh giữa xã Phổng Lái huyện Thuận Châu tỉnh Sơn La và xã Tỏa Tình huyện Tuần Giáo tỉnh Điện Biên .
Đèo có độ dài 32 km. Điểm khởi đầu của đèo cách Thành phố Sơn La về phía Tây 66 km còn điểm cuối của đèo cách Thành phố Điện Biên Phủ khoảng 84 km.
Du khách thường xếp đèo Pha Đin vào một trong "tứ đại đỉnh đèo" vùng miền núi phía Bắc, bên cạnh Đèo Ô Quy Hồ, Đèo Khau Phạ và Đèo Mã Pí Lèng. Cũng có khi đèo được xếp cùng nhóm sáu con đèo gây ấn tượng nhất Việt Nam bao gồm Khau Phạ, Hồng Thu Mán (trên Quốc lộ 4D, thuộc Pa So Phong Thổ, Lai Châu), Ô Quy Hồ, Hải Vân và Khánh Lê (huyện Khánh Vĩnh, Khánh Hòa).
Truyền thuyết.
Tên gọi đèo Pha Đin nguyên gốc xuất xứ từ tiếng Thái, "Pha đin", trong đó "Pha" nghĩa là "Trời", "Đin" là "Đất" hàm nghĩa nơi đây là chỗ nơi đất trời gặp nhau.
Người Lai Châu cũ (nay là Điện Biên) và Sơn La từ xa xưa còn lưu truyền câu chuyện kể về cuộc bàn thảo tìm cách vạch định ranh giới của hai địa phương bằng một cuộc đua ngựa vượt dốc Pha Đin. Người và ngựa của cả hai phía đều đồng thời xuất phát từ hai dốc đèo. Hai dũng sĩ và hai con tuấn mã đều có sức mạnh và ý chí như nhau nên khoảng cách mà họ đi được cho tới địa điểm gặp nhau trên đèo không chênh lệch bao nhiêu. Tuy vậy, phần ngựa Lai Châu phi nhanh hơn nên phần đèo thuộc về Lai Châu dài hơn một chút so với phần phía Sơn La.
Đặc điểm.
Theo quốc lộ 6 qua cao nguyên Mộc Châu tới Yên Châu, Mai Sơn, Thuận Châu rồi từ Thuận Châu vượt qua Pha Đin là tới Tuần Giáo, cửa ngõ của Lai Châu cũ và tỉnh mới Điện Biên bây giờ.
Đèo Pha Đin dài khoảng 32 km, từ km số 360 đến km số 392 trên quốc lộ 6, là nơi tiếp giáp theo hướng Đông-Tây giữa tỉnh Sơn La và tỉnh Điện Biên, nằm trong hệ thống cao nguyên Tả Phìn. Điểm cao nhất của đèo là 1.648 mét so với mực nước biển và tại đây có một tháp truyền hình khối lượng khoảng 70 tấn, chịu sức gió 200 km/h. Địa thế đèo rất hiểm trở, chênh vênh, một bên là vách núi và một bên là vực sâu hun hút. Độ dốc của đèo khoảng 10%, có chỗ 12% đến 15% thậm chí cục bộ 19%. Lúc lên dốc và xuống dốc, con đường đèo ngoằn ngoèo với 8 cung đường cua hết sức nguy hiểm, bán kính đường cong dưới 15m và bên cạnh đó là vô số các khúc cua tay áo, cua chữ A, chữ Z trong đó có nhiều đoạn chỉ đủ cho một ô tô đi qua. Khu vực này núi đất đỏ chứ không phải núi đá vôi, nên nền đất đèo nhìn chung tương đối yếu, dễ xảy ra sụt, trượt, lở đất vào mùa mưa và thêm vào đó, bề mặt đường rất thô sơ, cấp phối. Chính vì vậy, có nhiều vụ tai nạn thảm khốc đã thường xuyên xảy ra trên đường đèo.
Trên lưng chừng đèo Pha Đin thường mịt mờ mây phủ, dưới chân đèo là những bản làng lác đác. Đứng trên dốc đèo phía tỉnh Điện Biên nhìn xuống du khách sẽ thấy thung lũng Mường Quài trải rộng với ngút ngàn màu xanh của đồi núi, thấp thoáng những làng bản đầu tiên của huyện Tuần Giáo. Tuy nhiên, khi lên đến gần đỉnh đèo thì hầu như không còn nhìn thấy bản làng nào mà chỉ còn nền trời xanh thẳm và núi rừng hùng vĩ như hòa quyện làm một.
Trong kháng chiến chống Pháp, một trong những tuyến huyết mạch quan trọng tiếp vận vũ khí đạn dược và lương thực cho chiến dịch Điện Biên Phủ (1954) của Việt Minh đi qua đèo này, đã khiến đèo Pha Đin trở thành một biểu tượng của tinh thần gan dạ với hơn 8.000 thanh niên xung phong "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh". Năm 1954, nhằm chặn đứng tuyến tiếp vận này của Việt Minh, suốt 48 ngày đêm ròng rã tướng Pháp Christian de Castries đã cho máy bay oanh tạc đường số 6, trong đó đèo Pha Đin và ngã ba Cò Nòi (di tích lịch sử quốc gia ở huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) là hai nơi hứng chịu nhiều nhất lượng bom đạn đổ xuống. Trên đỉnh đèo Pha Đin hiện còn tấm bia ghi lại dấu ấn lịch sử này.
Những năm gần đây (từ năm 2006 đến năm 2009), dự án cải tạo, nâng cấp quốc lộ 6 đoạn Sơn La-Tuần Giáo với tổng mức đầu tư hơn 1.165 tỷ đồng đã hoàn tất. Tuyến đường tránh đèo Pha Đin được xây dựng bám theo sườn núi các đỉnh đèo phụ phía trái quốc lộ 6 cũ, có độ cao khoảng 1.000m (thấp hơn đèo Pha Đin 200-400m), đã khiến xe cộ ít lưu thông qua cung đường qua đèo Pha Đin và con đèo chỉ còn phù hợp với khách du lịch ưa mạo hiểm.
Đèo Pha Đin trong thơ văn.
Đèo Pha Din mới được sửa chữa, nâng cấp theo tiêu chuẩn đường cấp III miền núi, không còn cua tay áo, độ dốc một số điểm là 10°Có "châm chước".
Trên đèo có cột mốc phân giới giữa Sơn La và Điện Biên. Nhưng cột mốc chỉ mang tính ước lượng, không chính xác.
Trên đỉnh đèo có một chợ chim, bán rất nhiều loại chim do người dân mang ra. Ngoài ra có bán thịt ngựa, măng, táo mèo (theo mùa), rau cải mèo...
Trên đèo có nhiều điểm nước ngầm, gây rất nhiều khó khăn cho việc thi công đèo. Có một số vị trí thường có hiện tượng đá lăn, rất nguy hiểm. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đèo Lũng Lô là đèo trên Quốc lộ 37 ở ranh giới huyện Phù Yên tỉnh Sơn La và huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái, Việt Nam .
Đèo còn có tên gọi khác là Đèo Đao. Đèo Lũng Lô được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch xếp hạng là di tích lịch sử quốc gia tại Quyết định số 1409/QĐ-BVHTTDL ngày 27/8/2012
Địa lý.
Đèo Lũng Lô nằm trên Quốc lộ 37 (tức Đường 379 cũ, nối Quốc lộ 32 với Quốc lộ 32B) tại vùng đất giáp ranh giữa "bản Bau" xã Mường Cơi huyện Phù Yên tỉnh Sơn La và "bản Dạ" xã Thượng Bằng La huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái .
Đèo cách thị trấn Phù Yên huyện Phù Yên, tỉnh Sơn La 33 km về phía đông bắc. Đèo dài 15 km từ Km349 đến Km364, có độ dốc 10%.
Lịch sử.
Trong Chiến tranh Đông Dương, đèo Lũng Lô nằm trên một trong những con đường tiếp vận vũ khí đạn dược và lương thực cho Chiến dịch Điện Biên Phủ. Lực lượng của Pháp ném xuống đây gần 12.000 tấn bom.. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 8 là tuyến giao thông đường bộ cấp quốc gia, toàn tuyến nằm trong địa phận tỉnh Hà Tĩnh. Đây là một phần của đường Xuyên Á AH15.
Quốc lộ 8A.
Phần từ điểm giao cắt với Quốc lộ 1 tại km 482 (Quốc lộ 1) ở địa phận phường Bắc Hồng, thị xã Hồng Lĩnh chạy về phía Tây gọi là quốc lộ 8A; đi qua huyện Đức Thọ (qua cầu Đò Trai, ngã ba Lạc Thiện, ngã tư Bà Viên) đến cầu Linh Cảm lên huyện Hương Sơn (Nầm, thị trấn Phố Châu, cầu Hà Tân, thị trấn Tây Sơn) đến cửa khẩu Cầu Treo (biên giới Việt - Lào). Tổng chiều dài 85 km. Quốc lộ 8A được phát triển từ thời Pháp thuộc. Thời đó, quốc lộ 8 chạy từ Hồng Lĩnh sang bên Lào, giao với quốc lộ 13 Nam của Lào.
Quốc lộ 8B - Quốc lộ 8C.
Phần từ điểm giao cắt với Quốc lộ 1 ở địa phận phường Đậu Liêu, thị xã Hồng Lĩnh chạy về hướng Đông Bắc, ngay dưới chân núi Hồng Lĩnh và bờ phải của sông Lam, đến địa phận thị trấn Xuân An, huyện Nghi Xuân lại gặp Quốc lộ 1, đi tiếp qua thị trấn Nghi Xuân đến cảng Xuân Hải gọi là quốc lộ 8B. Toàn tuyến dài 25 km, đường cụt, trong đó đoạn tới thị trấn Nghi Xuân dài 17 km là đường cấp IV đồng bằng, đoạn còn lại là đường cấp III đảm bảo cho xe tải trọng lớn ra vào cảng. Đây là tuyến đường nối thị xã Hồng Lĩnh với thị trấn huyện lỵ Nghi Xuân của huyện Nghi Xuân.
Tuyến Quốc lộ 8C, với điểm đầu: Km0+00 của ĐT.551 thuộc thị trấn Thiên Cầm, huyện Cẩm Xuyên (giao với QL.15B tại Km48+250/QL.15B); Điểm cuối tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An (giao với QL.46 tại Km71+200/QL.46).
Hướng tuyến xuất phát từ Km0+00, ĐT.551 đi theo các đường ĐT.551 (Km0+00- Km25+200), ĐT.554 (Km60+00- Km32+00), ĐT.550 (Km27+600- Km30+600), QL.15 (Km395+750- Km362+200), QL.8 (15+400- Km19+500), ĐT.8B (cũ) (Km0- Km6+400), đường Sơn Ninh- Sơn Trung, đường Lê Hữu Trác, đường Giang- Lâm- Lĩnh, đường Tây – Lĩnh- Hồng, đường vào Nông trường Chè (tỉnh Nghệ An).
Tổng chiều dài tuyến là 101,1Km (không tính đoạn trùng với QL1 dài 1Km, Quốc lộ 15 dài 33,5Km, Quốc lộ 8 dài 4,1Km).
Hiện nay Sở GTVT Hà Tĩnh đang khẩn trương hoàn tất các thủ tục theo quy định hiện hành để tiến hành xây dựng kế hoạch chi tiết cắm lý trình tuyến, lập hồ sơ quản lý đường;
Xây dựng kế hoạch vốn bảo trì, phương án đấu thầu quản lý, bảo dưỡng thường xuyên để thực hiện hợp đồng giao nhận thầu từ ngày 01/7/2017 (trước mắt đặt hàng) để trình Tổng cục Đường bộ Việt Nam xem xét, chấp thuận. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Chicago ( , ) là thành phố đông dân thứ ba tại Hoa Kỳ, và là thành phố đông dân nhất tiểu bang Illinois và Trung Tây Hoa Kỳ. Vùng đô thị Chicago là nơi cư trú của 9,5 triệu người và là vùng đô thị lớn thứ ba tại Hoa Kỳ. Chicago là thủ phủ của quận Cook.
Chicago được hợp nhất thành một thành phố vào năm 1837, với vị trí nằm gần một dòng nước chuyển tải giữa Ngũ Đại Hồ và lưu vực sông Mississippi, và trải qua phát triển nhanh chóng vào giữa thế kỷ 19. Ngày nay, thành phố là một trung tâm quốc tế về tài chính, thương nghiệp, công nghiệp, kỹ nghệ, truyền thông, và giao thông. Chicago là một thành phố toàn cầu có thứ hạng cao.
Văn hóa Chicago có những đóng góp cho các nghệ thuật thị giác, tiểu thuyết, điện ảnh, sân khấu, âm nhạc, đặc biệt là jazz, blues, soul, và là nơi khởi nguồn của nhạc house. Thành phố có nhiều biệt danh, chúng phản ánh các ấn tượng và đánh giá về Chicago trong lịch sử và đương đại, được biết đến nhiều nhất là "Thành phố lộng gió" và "Thành phố thứ nhì".
Lịch sử.
Tên gọi "Chicago" bắt nguồn từ một bản dịch tiếng Pháp của từ "shikaakwa" trong ngôn ngữ Miami-Illinois của người da đỏ, có nghĩa là "hành dại" hay "tỏi dại". Một hồi ký của Robert de LaSalle vào khoảng năm 1679 có nói về "Checagou", và đây cũng là đề cập đầu tiên được biết đến về địa điểm mà nay là Chicago. Trong hành trình vào năm 1688 của mình, Henri Joutel có ghi lại rằng tỏi dại, được gọi là "chicagoua," mọc nhiều trong khu vực.
Vào giữa thế kỷ 18, người da đỏ Potawatomi định cư tại khu vực, họ chiếm đất của người Miami và Sauk và Fox. Thập niên 1780 xuất hiện việc có người định cư phi thổ dân đầu tiên được biết đến tại Chicago, đó là Jean Baptiste Point du Sable, ông có nguồn gốc châu Phi và châu Âu.
Năm 1795, sau Chiến tranh Da đỏ Tây Bắc, một khu vực mà sau trở thành một phần của Chicago được các bộ lạc thổ dân chuyển giao cho Hoa Kỳ để làm một đồn quân sự theo như Hiệp định Greenville. Năm 1803, Lục quân Hoa Kỳ xây dựng pháo đài Dearborn, song công trình bị phá hủy trong Chiến tranh năm 1812, cụ thể là trận Dearborn và sau đó được xây dựng lại. Các bộ lạc Ottawa, Ojibwe, và Potawatomi nhượng thêm đất cho Hoa Kỳ theo Hiệp định St. Luois năm 1816. Người Potawatomi cuối cùng bị buộc phải dời khỏi vùng đất của họ sau Hiệp định Chicago vào năm 1833.
Ngày 12 tháng 8 năm, 1833, thị trấn Chicago được tổ chức và có dân số khoảng 200. Trong vòng bảy năm, dân số thị trấn tăng lên trên 4.000. Thành phố Chicago được hợp nhất vào Thứ Bảy, 4 tháng 3 năm 1837 và trở thành thành phố phát triển nhanh nhất trên thế giới trong một số thập niên. Thành phố có Chuyển tải Chicago, nổi lên thành một trung tâm giao thông quan trọng giữa miền đông và miền tây Hoa Kỳ. Tuyến đường sắt đầu tiên của Chicago là Đường sắt Liên hiệp Galena và Chicago được khánh thành vào năm 1848. Kênh Illinois và Michigan cũng được khánh thành trong cùng năm, cho phép thuyền hơi nước và thuyền buồm trên Ngũ Đại Hồ kết nối được với sông Mississippi. Do có kinh tế phồn thịnh, cư dân từ các cộng đồng nông thôn và người nhập cư ngoại quốc di cư tới Chicago. Các lĩnh vực chế tạo, bán lẻ và tài chính chiếm ưu thế trong kinh tế thành phố, có ảnh hưởng đối với kinh tế Hoa Kỳ. Sở giao dịch thương phẩm Chicago (thành lập năm 1848) liệt kê những hợp đồng kỳ hạn đầu tiên đã được chuẩn hóa để 'giao dịch', gọi là các hợp đồng tương lai.
Trong những thập niên 1850 và 1860, các kỹ sư đã tiến hành nâng cao nền móng của khu vực trung tâm Chicago. Các con đường, vỉa hè và tòa nhà được nâng lên độ cao mới bằng những con đội. Năm 1871, Đại hỏa hoạn Chicago xảy ra, phá hủy một khu vực lớn của thành phố vào thời điểm đó. Trong giai đoạn tái thiết, tòa nhà chọc trời đầu tiên trên thế giới được xây dựng tại Chicago, sử dụng khung thép. Nền kinh tế hưng thịnh của Chicago thu hút một lượng lớn di dân mới từ châu Âu và di dân từ miền Đông Hoa Kỳ. Năm 1900, không dưới 77% tổng dân số của thành phố sinh tại nước ngoài, hoặc sinh tại Hoa Kỳ với cha mẹ ngoại quốc. Người Đức, Ireland, Ba Lan, Thụy Điển, và Séc chiếm gần hai phần ba trong số cư dân sinh tại ngoại quốc (năm 1900, người da trắng chiếm 98,1% dân số thành phố).
Trong giai đoạn Chiến tranh thế giới thứ nhất và thập niên 1920, ngành công nghiệp của Chicago được mở rộng mạnh, thu hút nhiều người da đen từ miền Nam đến để tìm việc làm. Từ năm 1910 đến 1930, số người da đen tại Chicago tăng từ 44.103 lên 233.903. Hàng trăm người da đen di chuyển đến thành phố trong Đại di cư, những người mới đến có ảnh hưởng lớn về văn hóa, được gọi là "Phục hưng da đen Chicago," một phần của Phong trào Da đen Mới, trong nghệ thuật, văn học, và âm nhạc.
Ngày 2 tháng 12 năm 1942, nhà vật lý học Enrico Fermi thực hiện phản ứng hạt nhân có kiểm soát đầu tiên trên thế giới tại Đại học Chicago, đây là một phần trong Dự án Manhattan tối mật. Điều này dẫn đến việc Hoa Kỳ chế tạo ra bom nguyên tử, và sử dụng nó trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Bắt đầu từ thập niên 1960, giống như hầu hết thành phố tại Hoa Kỳ, nhiều cư dân da trắng của thành phố chuyển đến vùng ngoại ô, các khu phố biến đổi hoàn toàn về phương diện chủng tộc. Thay đổi kết cấu trong công nghiệp khiến những công nhân tay nghề thấp chịu ảnh hưởng nặng nề. Năm 1966, Martin Luther King, Jr. và Albert Raby lãnh đạo Phong trào Tự do Chicago, phong trào lên đến đỉnh với các hiệp định giữa Thị trưởng và các lãnh đạo phong trào. Các dự án xây dựng lớn được tiến hành trong thời gian nhiệm kỳ của Richard J. Daley, gồm có tháp Sears (nay gọi là Willis Tower), Đại học Illinois ở Chicago, McCormick Place, và Sân bay quốc tế O'Hare. Năm 1979, Jane Byrne đắc cử, trở thành nữ thị trưởng đầu tiên của thành phố. Năm 1983, Harold Washington trở thành thị trưởng người da đen đầu tiên của Chicago. Trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông, chính quyền chú ý đến các khu phố thiểu số nghèo và bị lãng quên trước đó.
Địa lý.
Chicago nằm ở đông bắc bộ tiểu bang Illinois, trên bờ tây nam của hồ Michigan. Đây là thành phố chính của vùng đô thị Chicago tại Trung Tây Hoa Kỳ và vùng Ngũ Đại Hồ. Chicago nằm trên một đường phân thủy lục địa tại điểm Chuyển tải Chicago, nối lưu vực sông Mississippi và lưu vực Ngũ Đại Hồ. Thành phố nằm bên hồ nước ngọt Michigan rộng lớn, và hai sông là sông Chicago qua trung tâm và sông Calumet chảy qua vùng công nghiệp South Side. Lịch sử và kinh tế của Chicago gắn chặt với hồ Michigan. Phần lớn vận chuyển hàng hóa bằng đường thủy của khu vực trước đây sử dụng sông Chicago, song hiện nay các tàu to chở hàng trên hồ sử dụng cảng Lake Calumet tại South Side. Hồ Michigan giúp điều hòa khí hậu cho Chicago; khiến cho các khu phố ven hồ có chút ấm hơn vào mùa đông và mát hơn vào mùa hạ.
Độ dốc tổng thể của trung tâm thành phố, các khu vực được xây dựng, là tương đối phù hợp do bằng phẳng tự nhiên, ít có khác biệt giữa các nơi. Cao độ mặt đất bình quân là trên mực nước biển. Các điểm thấp nhất nằm dọc theo bờ hồ với cao độ , còn điểm cao nhất là đỉnh băng tích Blue Island có cao độ ở xa về phía nam.
Một tên gọi không chính thức của toàn bộ vùng đô thị Chicago là "Chicagoland". Không có định nghĩa chính xác cho "Chicagoland", song nó thường có nghĩa là gọi chung thành phố cùng các khu ngoại ô. Báo Chicago Tribune xác định thuật ngữ này gồm có thành phố Chicago, phần còn lại của quận Cook, và tám quận lân cận thuộc tiểu bang Illinois: Lake, McHenry, DuPage, Kane, Kendall, Grundy, Will và Kankakee, và ba quận thuộc tiểu bang Indiana: Lake, Porter và LaPorte.
Nhân khẩu.
Trong 100 năm đầu, Chicago là một trong các thành phố phát triển nhanh nhất trên thế giới. Khi thành lập thành phố vào năm 1833, có ít hơn 200 người định cư tại đây, nơi đương thời là vùng biên giới của Hoa Kỳ. Trong cuộc điều tra nhân khẩu đầu tiên của thành phố, được tiến hành bảy năm sau đó, dân số đạt trên 4.000. Trong khoảng thời gian bốn mươi năm, dân số thành phố tăng từ mức gần 30.000 vào năm 1850 lên trên 1 triệu vào năm 1890. Lúc kết thúc thế kỷ 19, Chicago là thành phố lớn thứ năm trên thế giới, và lớn nhất trong số các thành phố xuất hiện sau thời điểm bắt đầu thế kỷ 19. Trong vòng 60 năm sau Đại hỏa hoạn Chicago năm 1871, dân số tăng từ khoảng 300.000 lên trên 3 triệu, và đạt 3,6 triệu người trong điều tra nhân khẩu năm 1950, đây là con số cao nhất từng ghi nhận được.
Từ hai thập niên cuối của thế kỷ 19, Chicago là điểm đến của các làn sóng nhập cư từ Nam, Trung và Đông Âu, như người Ý, người Do Thái, người Ba Lan, người Bosnia, và người Séc. Giai cấp công nhân công nghiệp của thành phố có nền tảng là các dân tộc gốc Âu này, giai cấp này được bổ sung bằng một dòng người Mỹ gốc Phi từ miền Nam Hoa Kỳ, và dân số của người Da đen tại Chicago tăng gấp đôi từ năm 1910 đến 1920 và lại tăng gấp đôi từ năm 1920 đến 1930. Đại đa số người Da đen Hoa Kỳ chuyển đến Chicago trong những năm này tụ tập tại một khu vực được gọi là "Vành đai Đen" tại South Side. Năm 1930, hai phần ba số người Mỹ gốc Phi tại Chicago sống tại các khu vực mà người Da đen chiếm khoảng 90% dân số. South Side của Chicago là nơi tập trung đông người Da đen đô thị thứ nhì tại Hoa Kỳ, sau Harlem tại New York.
Theo điều tra nhân khẩu năm 2010, có 2.695.598 người với 1.045.560 hộ gia đình tại Chicago. Trên một nửa dân số của tiểu bang Illinois sống tại vùng đô thị Chicago. Chicago là thành phố lớn nhất tại siêu đô thị Ngũ Đại Hồ.
Dân cư gốc Mỹ Latinh hoặc Iberia (Hispanic) chiếm 28,9% tổng dân số thành phố: 21,4% là người Mexico, 3,8% là người Puerto Rico, 0,7% là người Guatemala, 0,6% là người Ecuador, 0,3% là người Cuba, 0,3% là người Colombia, 0,2% là người Honduras, 0,2% là người El Salvador, 0,2% là người Peru. Người da trắng phi Hispanic giảm từ 59% vào năm 1970 xuống 31,7% vào năm 2010. Theo số liệu của Cơ quan Nghiên cứu cộng đồng Hoa Kỳ vào năm 2011, các tổ tiên người Âu lớn nhất là: người Ireland: (208.562), người Đức: (201.863), người Ba Lan: (165.177), người Ý (102.188), người Anh (66.107).
Nhiều lãnh đạo tôn giáo thế giới từng đến Chicago, bao gồm mẹ Teresa và Đạt Lai Lạt Ma thứ 14. Giáo hoàng Gioan Phaolô II đến Chicago vào năm 1979 trong chuyến công du đầu tiên của ông tới Hoa Kỳ sau khi được bầu làm giáo hoàng.
Kinh tế.
Theo ước tính năm 2010, Chicago có tổng sản phẩm đại đô thị cao thứ ba tại Hoa Kỳ, với xấp xỉ 532 tỷ USD, chỉ đứng sau các quần thể đô thị New York và Los Angeles. Thành phố cũng được đánh giá là có kinh tế cân bằng nhất tại Hoa Kỳ, do đa dạng hóa ở mức cao. Năm 2007, Chicago được xác định là trung tâm kinh doanh quan trọng thứ tư trên thế giới theo chỉ số các trung tâm thương nghiệp toàn cầu MasterCard. Ngoài ra, vùng đô thị Chicago ghi nhận số lượng lớn nhất các cơ sở công ty mới hoặc mở rộng tại Hoa Kỳ trong sáu năm trong giai đoạn từ 2001 đến 2008. Vùng đô thị Chicago có lực lượng lao động khoa học và kỹ thuật lớn thứ ba toàn quốc. Năm 2009, Chicago xếp thứ 29 trong danh sách của UBS về các thành thị giàu nhất thế giới.
Chicago là một trung tâm tài chính lớn trên thế giới, có khu thương nghiệp trung tâm lớn thứ hai tại Hoa Kỳ. Thành phố là nơi đặt trụ sở của Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại Chicago, là một trong 12 ngân hàng dự trữ cấp vùng của Hoa Kỳ. Thành phố có các sở giao dịch tài chính và hợp đồng tương lai, bao gồm Sở giao dịch chứng khoán Chicago, CBOE, Sở giao dịch hàng hóa Chicago (the "Merc"), CBOT. Tập đoàn CME Group có trụ sở tại Chicago, và sở hữu the "Merc", CBOT, NYMEX, COMEX và Dow Jones Indexes. Có thể do ảnh hưởng từ học phái kinh tế Chicago, thành phố cũng có một số thị trường giao dịch các hợp đồng bất thường như khí thải (sở giao dịch khí hậu Chicago) và chỉ số phong cách công bằng (trên sở giao dịch hợp đồng tương lai Hoa Kỳ]). Ngân hàng Chase có trụ sở thương mại và bán lẻ của họ tại tháp Chase tại Chicago. Vùng đô thị Chicago là nơi có nguồn lao động lớn thứ hai tại Hoa Kỳ với khoảng 4,25 triệu người lao động. In addition, the state of Illinois is home to 66 Fortune 1000 companies, including those in Chicago. Chế tạo, in ấn, xuất bản và chế biến thực phẩm cũng đóng các vai trò quan trọng trong kinh tế của thành phố.
Chicago là một địa điểm lớn về tổ chức hội nghị trên thế giới, trung tâm hội nghị chính của thành phố là nhà McCormick. Với bốn tòa nhà liền nhau, đây là trung tâm hội nghị lớn nhất tại Hoa Kỳ và lớn thứ ba trên thế giới. Chicago cũng xếp hạng ba tại Hoa Kỳ (sau Las Vegas và Orlando) về số lượng hội nghị tổ chức hàng năm. Năm 2012, Chicago đón 34,07 triệu du khách thư nhàn nội địa, 10,92 triệu du khách thương vụ nội địa và 1,369 triệu du khách hải ngoại, các du khách đóng góp trên 12,8 tỷ USD cho kinh tế Chicago.
Giáo dục.
Thành phố Chicago có nhiều trường đại học đa dạng. Trong số những trường đại học thuộc Top 10 trường đại học nổi tiếng của Mỹ có Đại học Chicago và Đại học Northwestern (Northwestern University) là ở Chicago. Ngoài ra, Chicago còn có những trường đại học lớn khác như Đại học DePaul, Đại học Illinois ở Chicago, Học viện Kỹ thuật Illinois, Đại học Loyola Chicago, Trường thuộc Viện Nghệ thuật Chicago cùng nhiều trường khác. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Ý Yên là một huyện nằm ở phía tây tỉnh Nam Định, Việt Nam.
Vị trí địa lý.
Huyện Ý Yên nằm ở phía tây của tỉnh Nam Định, nằm cách thành phố Nam Định khoảng 27 km về phía tây, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 117 km, có vị trí địa lý:
Dân số năm 2009 là 247.718 người. 10% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Giao thông.
Ý Yên có đường cao tốc Cầu Giẽ – Ninh Bình và đường cao tốc Cao Bồ – Mai Sơn đi qua các xã phía Tây của huyện, có đường sắt Bắc Nam đi qua và có các tuyến quốc lộ như quốc lộ 10, quốc lộ 38B, quốc lộ 37B, quốc lộ 37C. Trên tuyến quốc lộ 37B có phà Đống Cao nối liền hai huyện Nghĩa Hưng và Ý Yên. Quốc lộ 37C nối từ Hưng Thi (Lạc Thủy) qua Nho Quan, Gia Viễn (Ninh Bình) tới Quốc lộ 37B tại xã Ninh Cường. Trong huyện còn có các tuyến tỉnh lộ như 484 (Đường 64 cũ); tỉnh lộ 485 (Đường 57 cũ); tỉnh lộ 486 (Đường 12 cũ).
Ý Yên có sông Đáy, sông Đào hay còn gọi là sông Nam Định, sông Sắt và sông Chanh chảy qua, tạo nên các tuyến giao thông thủy quan trọng.
Hành chính.
Huyện Ý Yên có 31 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lâm (huyện lỵ) và 30 xã: Yên Bằng, Yên Bình, Yên Chính, Yên Cường, Yên Dương, Yên Đồng, Yên Hồng, Yên Hưng, Yên Khang, Yên Khánh, Yên Lộc, Yên Lợi, Yên Lương, Yên Minh, Yên Mỹ, Yên Nghĩa, Yên Nhân, Yên Ninh, Yên Phong, Yên Phú, Yên Phúc, Yên Phương, Yên Quang, Yên Tân, Yên Thắng, Yên Thành, Yên Thọ, Yên Tiến, Yên Trị, Yên Trung.
Lịch sử.
Ý Yên ngày xưa vốn là phần đất quan trọng thuộc phủ Ứng Phong vào thế kỷ XII-XIII; Ý Yên khi đó được xem là khu vực phụ cận của Cố đô Hoa Lư, đồng thời nằm trên đường thiên lý từ Hoa Lư ra Thăng Long nên được các vua Lý, Trần quan tâm phát triển nông nghiệp và xây dựng thành trung tâm Phật giáo. Thời Lý, trung tâm tôn giáo Chương Sơn với tháp Vạn Phong Thành Thiện trên núi Ngô Xá ( Yên Lợi) được xây dựng với quy mô to lớn vào bậc nhất nhì thời đó. Đời Trần, Hoàng đế Trần Nhân Tông - đệ nhất thiền phái Trúc Lâm - đã cho dựng chùa Linh Quang, còn gọi là chùa trăm gian, tại xã Yên Khánh. Cũng vào thời Trần, cuối thế kỷ XIV, chùa Đô Quan, xã Yên Khang được xây dựng, chứng tích còn lại là bệ đá hình hộp hoa sen ở bái đường, một tác phẩm nghệ thuật tôn giáo đẹp và nguyên vẹn.
Ý Yên là huyện giàu truyền thống cách mạng. Năm 1927, tại Ý Yên đã có chi bộ hội Việt Nam cách mạng thanh niên, đồng chí Tống Văn Trân và là một trong những người đảng viên đầu tiên của Ý Yên; Chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện được thành lập tại thôn Tiêu Bảng - xã Yên Trung. Tháng 9 năm 1929, trải qua bao năm đấu tranh anh dũng, kiên cường kể từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ Ý Yên đã lãnh đạo nhân dân trong huyện giành chính quyền và xây dựng cuộc sống mới trên quê hương. Vượt qua bao khó khăn, gian khổ, mất mát, hy sinh, với tất cả tinh thần, nghị lực và nhiệt tình cách mạng Đảng bộ và nhân dân Ý Yên đã lập nhiều thành tích trong chiến đấu và xây dựng, góp phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc. Với những thành tích xuất sắc đó cho đến nay đã có 17/31 xã, thị trấn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Trong kháng chiến chống Pháp, huyện Ý Yên cùng với các huyện Mỹ Lộc và Vụ Bản được nhập vào tỉnh Hà Nam.
Năm 1957, huyện Ý Yên được sáp nhập trở lại vào tỉnh Nam Định.
Ngày 19 tháng 8 năm 1964, sáp nhập xóm Hữu Dụng thuộc xã Thanh Côi, huyện Vụ Bản vào xã Yên Mỹ, huyện Ý Yên.
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, hai tỉnh Nam Định và Hà Nam hợp nhất thành tỉnh Nam Hà, huyện Ý Yên thuộc tỉnh Nam Hà.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, hai tỉnh Nam Hà và Ninh Bình hợp nhất thành tỉnh Hà Nam Ninh, huyện Ý Yên thuộc tỉnh Hà Nam Ninh, gồm 31 xã: Yên Bằng, Yên Bình, Yên Chính, Yên Cường, Yên Đồng, Yên Dương, Yên Hồng, Yên Hưng, Yên Khang, Yên Khánh, Yên Lộc, Yên Lợi, Yên Lương, Yên Minh, Yên Mỹ, Yên Nghĩa, Yên Nhân, Yên Ninh, Yên Phong, Yên Phú, Yên Phúc, Yên Phương, Yên Quang, Yên Tân, Yên Thắng, Yên Thành, Yên Thọ, Yên Tiến, Yên Trị, Yên Trung, Yên Xá.
Ngày 1 tháng 4 năm 1986, thành lập thị trấn Lâm, thị trấn huyện lỵ huyện Ý Yên trên cơ sở 416,04 ha diện tích tự nhiên của xã Yên Xá; 30,37 ha diện tích tự nhiên của xã Yên Ninh; 24,50 ha diện tích tự nhiên của xã Yên Tiến và 4,27 ha diện tích tự nhiên của xã Yên Hồng.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tái lập tỉnh Nam Hà từ tỉnh Hà Nam Ninh cũ, huyện Ý Yên trở lại thuộc tỉnh Nam Hà.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tái lập tỉnh Nam Định từ tỉnh Nam Hà cũ, huyện Ý Yên trở lại thuộc tỉnh Nam Định.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, sáp nhập xã Yên Xá vào thị trấn Lâm.
Huyện Ý Yên có 1 thị trấn và 30 xã như hiện nay.
Danh hiệu.
Trong kháng chiến chống Thực dân Pháp, Ý Yên đã có các chiến công vang dội như: trận Đê Đáy, Cao Bồ, Vũ Dương, An Cừ, La Ngạn, Vọng Doanh, Đông Duy, Đống Cao… đồng thời là hậu phương vững chắc cung cấp sức người, sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ. Với những thành tích đó, năm 2000 huyện Ý Yên được Nhà nước phong tặng Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Huyện Ý Yên có nhiều xã được phong tặng danh hiệu Anh hùng như: xã Yên Dương, xã Yên Quang... 6 Anh hùng LLVT, 2 Anh hùng lao động, và 182 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Là quê hương tiền bối cách mạng, thầy giáo Tống Văn Trân. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 13 là quốc lộ theo hướng Nam – Bắc, từ Thành phố Hồ Chí Minh qua Bình Dương, Bình Phước và kết thúc tại cửa khẩu Hoa Lư, biên giới Việt Nam – Campuchia. Quốc lộ 13 nối với quốc lộ 7 của Campuchia và đến lượt quốc lộ 7 này lại nối với quốc lộ 13 của Lào.
Quốc lộ 13 bắt đầu (km 0) từ ngã 5 Đài Liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh qua quận Bình Thạnh, thành phố Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh), thành phố Thuận An, thành phố Thủ Dầu Một, thị xã Bến Cát và huyện Bàu Bàng (tỉnh Bình Dương), các huyện Chơn Thành, Hớn Quản, thị xã Bình Long và huyện Lộc Ninh, đến cửa khẩu Hoa Lư (tỉnh Bình Phước) (km 140 + 500)
Quốc lộ 13 giao nhau với quốc lộ 14 tại thị xã Chơn Thành, tỉnh Bình Phước. Quốc lộ này khi vào vùng đô thị của tỉnh Bình Dương (từ Thuận An đến Bến Cát) còn có tên gọi khác là Đại lộ Bình Dương.
Thông số chung.
Chiều dài một số đoạn | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 15 (còn gọi là Quốc lộ 15A) là là tuyến quốc lộ thứ yếu khu vực miền Trung và Tây Nguyên đi qua 5 tỉnh: Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình theo quy hoạch mạng lưới đường bộ thời kì 2021-2030, tầm nhìn đến 2050 của chính phủ . Quốc lộ 15 dài 729 km, quy mô tiêu chuẩn cấp III, IV miền núi, 2 làn xe, vận tốc tối đa 60 km/h.
Lộ trình.
Quốc lộ 15 bắt đầu từ Km125 Quốc lộ 6, xã Tòng Đậu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình đến Sơn Thủy, Lệ Thủy, Quảng Bình Trước năm 1980, Quốc lộ 15A bắt đầu từ Suối Rút nối với Quốc lộ 6 cũ, khi bắt đầu xây dựng hồ thủy điện Sông Đà đoạn này bị ngập dưới lòng hồ và Quốc lộ 6 phải xây dựng lại về phía nam hồ do đó Quốc lộ 15A mới bắt đầu từ Tòng Đậu.
Nếu Quốc lộ 1 nối các thị xã của các tỉnh với nhau, thì Quốc lộ 15A chạy gần song song với Quốc lộ 1 và nối các thị trấn miền núi dưới đây với nhau. Quốc lộ 15 đi qua các huyện sau: Mai Châu – Quan Hóa - Lang Chánh - Ngọc Lặc - Thọ Xuân - Như Xuân - Tân Kỳ - Đô Lương - Nam Đàn - Đức Thọ - Hương Khê - Bố Trạch - Lệ Thủy. Hầu hết các thị trấn huyện lỵ của các huyện nói trên đều nằm trên Quốc lộ 15. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.820981 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Hang Đầu Gỗ là hang trên "hòn Đầu Gỗ" trong vịnh Hạ Long, thành phố Hạ Long tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam.
Hang thuộc dạng karst trong khối núi đá vôi. Hang Đầu Gỗ là một trong những hang đẹp nhất Việt Nam, nằm cách Cảng tàu du lịch Bãi Cháy khoảng 6 km.
Mô tả.
Hang Đầu Gỗ rộng khoảng 5000 m2, cửa hang rộng 17 m và cao 12 m. Hang Đầu Gỗ nằm ở độ cao 27m so với mực nước biển, cùng độ tuổi tạo thành với động Thiên Cung - thời Pleistocen muộn cách ngày nay khoảng 2 triệu năm. Hang Đầu Gỗ như tập trung được một quần thể kiến trúc cổ xưa.
Hang Đầu Gỗ toát ra một vẻ đẹp cổ kính, hoang sơ và tĩnh mịch với nhiều cột đá, trụ đá, măng đá nhỏ nhắn, cao vút như muốn vươn tận trời xanh... Hang có hệ động thực vật đa dạng phong phú. Do có cửa hang được mở rộng nên độ ẩm trong lòng hang cao, cộng với sự tác động của ánh sáng mặt trời nên có thể thấy ngay được sự phát triển đa dạng của hệ thực vật, đặc biệt là rêu, cây dương xỉ và cây thân gỗ... Đây là một đặc điểm khác biệt so với nhiều hang động khác trên vịnh Hạ Long. Tự hang này chia thành 3 ngăn. Ngăn thứ nhất, hệ thống nhũ đá có nhiều hình ảnh quen thuộc với cuộc sống: sư tử, trăn, rùa, và thậm chí cả hình ảnh đôi gà chọi... Ngăn thứ hai, bắt đầu bằng một bức tranh hoành tráng - hình ảnh những hòn đảo đá lô nhô trên sóng nước cũng được khắc hoạ rõ nét trên bức tranh này. Ngăn thứ 3, là hình ảnh những cột đá khổng lồ, vừa không thô nhám, cứng nhắc, vừa xinh xắn, mềm mại.
Nguồn gốc tên gọi.
Về nguồn gốc tên gọi Đầu Gỗ, hiện nay, chúng ta thấy trên các tài liệu giới thiệu du lịch vịnh Hạ Long và trong dân gian, có 3 cách giải thích khác nhau.
Thuyết thứ nhất, theo truyền tụng của người dân địa phương và các cụ cao tuổi thì hang Đầu Gỗ cũng có tên là hang Giấu Gỗ (sau gọi chệch thành Đầu Gỗ) vì nó gắn liền với câu chuyện lịch sử. Trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ 13 của vua tôi nhà Trần, là nơi quân sĩ nhà Trần cất giấu những chiếc cọc gỗ trước khi đem xuống cắm dưới lòng sông Bạch Đằng (Yên Hưng) để xây dựng trận địa cọc tiêu diệt binh thuyền giặc. Câu chuyện này đã lý giải cho cái tên thuần Việt độc đáo của hang đồng thời nhắc nhở mọi người nhớ lại sự kiện chiến công oanh liệt của quân dân thời Trần chống quân xâm lược Nguyên Mông cách đây hơn 7 thế kỷ. Người dân vẫn lưu truyền câu ca dao: "Hồng Gai có núi Bài Thơ/ Có hang Đầu Gỗ có chùa Long Tiên".
Còn thuyết thứ 2 thì giải thích dãy đảo Đầu Gỗ có hình cánh cung tạo ra trước hang Đầu Gỗ một vụng kín gió, nên ngư dân thường tụ về đây trong những ngày giông bão, hoặc sau một thời gian đánh bắt, họ thả neo sinh sống đông đúc và sửa chữa đóng lại thuyền bè tại đây nên có nhiều mấu gỗ sót lại. Có lẽ tên hang Đầu Gỗ hình thành từ sự việc này.
Thuyết thứ 3 giải thích, do hang nằm trên dãy đảo mà trông xa có dáng tựa một cây gỗ khổng lồ nên căn cứ vào hình dáng của đảo người ta đặt cho hang là Đầu Gỗ.
Di tích lịch sử trong hang.
Vua khải Định khắc văn bia trong hang.
Không chỉ liên quan đến cuộc xâm lược của người Mông Cổ mà hang Đầu Gỗ còn chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử khác. Năm 1918, vua Khải Định và Paul Doumer, một thống đốc người Pháp, đã đến thăm hang động. Ngạc nhiên trước vẻ đẹp của hang Đầu gỗ, vua Khải Định đã cho khắc một tấm văn bia đặt ở phía bên trái của hang để ca ngợi vẻ đẹp của nó.
Bác Hồ đến thăm hang.
Năm 1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có một chuyến đi đến hang Đầu Gỗ và rất thích thú với di sản thiên nhiên này. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.728947 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Thác Đray Sáp hay Thác Dray Sap là thác trên dòng Serepôk ở vùng đất xã Đăk Sôr, huyện Krông Nô, tỉnh Đắk Nông, Việt Nam.
Thác Đray Sáp còn có tên gọi nữa là thác Chồng. Thác ở cách thành phố Buôn Ma Thuột chừng 30 km về hướng Nam. Cách thác Đray Sáp không xa là thác Đray Nur (hay thác Vợ) thuộc địa phận tỉnh Đăk Lăk. Phía thượng nguồn chừng 3,5 km là Thác Gia Long .
Theo tiếng Ê Đê, "Dray Sap" có nghĩa là "thác khói" ("dray": thác, "sap": Khói), bởi lẽ dòng nước từ trên cao đổ xuống thung lũng tạo thành một khối lớn bụi nước bay là như màu sương khói.
Thác Dray Sáp ở Đắk Nông
huyền thoại.
Truyền thuyết kể rằng, xưa kia ở Đăk Lăk, dòng sông Sêrêpôk chỉ mới là một dòng nước bình thường, chảy quanh thôn làng. Và rồi, ở nơi hai bên bờ sông, một đôi nam nữ đã đem lòng yêu thương nhau, nhưng tình yêu của họ không chỉ bị ngăn cách bởi dòng sông, mà còn bị cấm đoán bởi hai gia đình. Quá đau khổ, trong một đêm tĩnh lặng, đôi tình nhân cùng nhau gieo mình xuống dòng nước để mãi mãi bên nhau. Thời khắc ấy, từ đâu gió to sóng lớn nổi lên cơn thịnh nộ, chia tách sông Sê-rê-pôk thành hai nhánh, mà sau này người dân hay gọi là nhánh sông đực và nhánh sông cái. Dòng chảy của nhánh sông đực đã tạo ra thác Dray Sap và dòng chảy của nhánh sông cái chính là hiện thân của thác Dray Nur
Hệ thống thác Đray Sáp.
Đray Sáp là một hệ thống gồm ba thác ngoạn mục. Dòng sông Sê-rê-pốk từ thượng nguồn đổ xuống tới đây và được chia làm ba tầng. Trước đây du khách thường chỉ đến thác đầu tiên sau khi xuống được các bậc cấp đá. Vào mùa mưa nước đổ dữ dội, bụi nước bắn tung lên lan rộng cả một vùng đến ngàn mét vuông. Ngoài Đray Sáp, còn có hai thác nữa nằm bên kia dòng đổ của thác chính. Khi qua khỏi cầu treo du khách sẽ đến một vùng đất cao thoáng đãng. Đây là một đảo nằm giữa hai dòng thác của hệ thống Đray Sáp. Đó là thác Đray Nu (thác Hầm), cao chừng 12 m, gồm hai dòng nước đổ giữa cảnh quan hùng vĩ và thơ mộng giữa chốn đại ngàn.
Cách thác Đray Nu chừng 100 m là thác lớn, cũng thuộc hệ thống Đrayp Sáp. Thác này cũng có độ cao 12 m nhưng rộng đến 140 m luôn tung bụi nước mịn như sương khói.
Ngày nay, Đray Sáp trở thành điểm tham quan du lịch ở Tây Nguyên. Tất cả các tour du lịch về Đăk Lăk - Buôn Ma Thuột đều ghé lại đây nghỉ ngơi. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.536283 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đèo Ngoạn Mục hay đèo Sông Pha là một ngọn đèo nằm trên Quốc lộ 27 giữa ranh giới huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận và huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam.
Đèo Ngoạn Mục là một trong các đèo núi đẹp nhất Việt Nam, men theo những sườn núi dựng nối thung lũng Ninh Sơn với cao nguyên Lang Biang. Đây là tuyến giao thông huyết mạch, cửa ngõ giữa các tỉnh Tây Nguyên và Duyên hải Miền Trung.
Lịch sử.
Sau khi Yersin phát hiện ra Đà Lạt năm 1893, năm 1897 trong kế hoạch xây dựng thành phố này viên toàn quyền Doumer đã phái một nhóm nghiên cứu thực địa nhằm lập bản đồ mở tuyến đường từ Phan Rang lên Đà Lạt. Dưới sự chỉ huy của đại uý Thouars, nhóm người này đã vẽ được lộ trình dài 122 km từ Phan Rang băng qua xóm Gòn (tên gọi của thung lũng Ninh Sơn lúc bấy giờ) để lên Dran (Đơn Dương), thung lũng Đa Nhim, Klong, Prenn rồi đến Đà Lạt. Lộ trình ấy làm phác thảo một hướng đường bộ qua đèo Bellevue, tức Ngoạn Mục ngày nay và một hướng đường sắt răng cưa được xây dựng đến năm 1917. Ngoạn Mục được coi là con đường được hình thành trong vất vả, giữa lam sơn chướng khí và sự rình rập của thú dữ cùng những toán lục lâm thảo khấu.
Gần một thế kỷ trôi qua, con đường đèo được mở rộng hơn qua 2 lần sửa chữa lớn của Pháp và Nhật về sau này và quá trình tu sửa liên tục của nhà nước Việt Nam trong thời gian gần đây. Khu Bảo tồn Thiên nhiên Đèo Ngoạn Mục được công nhận theo Quyết định số 194/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, ký ngày 09 tháng 8 năm 1986.
Đặc điểm.
Đèo Ngoạn Mục dài khoảng 18 km, có độ dốc trung bình trên 9 độ, là đèo có độ dốc lớn nhất ở các tỉnh phía Nam. Nằm trên quốc lộ từ thành phố Phan Rang - Tháp Chàm đi Đà Lạt, đèo có độ cao trong khoảng 200m ở điểm thấp nhất và lên tới 980 m ở đỉnh đèo. Trên đèo Ngoạn Mục có 4 đoạn cua khuỷu tay rất gấp, con đường uốn lượn mềm mại qua những đồi núi, sườn đồi lớn nhỏ khác nhau tạo hình vòng sóng, tạo nên những tầng đường mà nếu có dịp dừng chân trên đỉnh nhìn xuống, dễ thấy vẻ quyến rũ lãng mạn lẫn hùng vĩ của nó. Từ trên đèo nhìn xuống thấy bờ vực dốc đứng, sâu thẳm, lấp ló qua những rặng thông là con đường ngoằn ngoèo khúc khuỷu với những chiếc ô tô ví như món đồ chơi chậm chạp đang bò lên hay xuống. Xa hơn là đồng bằng Phan Rang với dòng sông Cái uốn lượn. Hai dải núi cao ôm bọc lấy thung lũng Phan Rang chạy ra tận biển. Những ngày đẹp trời, từ trên đèo có thể thấy đường bờ cát trắng và nhấp nhô những con sóng lăn tăn.
Bên đèo Ngoạn Mục là những suối thác cắt ngang vách núi, những dãy núi đồi với hệ thực vật khá phong phú đa dạng, đặc trưng. Hệ thực vật rừng nguyên sinh đèo Ngoạn Mục bao gồm các loài cây ôn đới như thông lá dẹt, thông lá tròn xuất hiện ngày một nhiều theo hướng dốc núi cao dần. Rừng khộp tái sinh với những ưu thế là khá nhiều cây dầu rái, dầu trà ben, tiếp đến là rừng thường với các loài cây xanh vùng nhiệt đới núi thấp. Ở phía đông có các loài dẻ, re, chạy dần sang phía tây là những đồi thông, loài thực vật đặc trưng của vùng khí hậu ôn đới. Tuy vậy, rừng ở đây đã bị tác động nặng nề do hậu quả mà các hoạt động của con người mang lại như việc đặt ống dẫn nước cho thủy điện Đa Nhim, du lịch, khai thác lâm sản, giao thông v.v.
Khí hậu.
Nằm trong khu vực chuyển tiếp giữa vùng đồng bằng ven biển nam Trung Bộ và cao nguyên Đà Lạt, Đèo Ngoạn Mục mang trong mình nhiều trạng thái cảnh quan và khí hậu khác nhau. Nếu đi từ dưới lên, sẽ dễ dàng nhận ra sự giảm dần nhiệt độ qua những thay đổi về hệ sinh thái. Sự xuất hiện dần của thông, hoa dã quỳ hai bên đường tạo nên một ấn tượng về một tiểu vùng khí hậu lạnh hơn và một vùng phong thổ khác. Phân định tại Eo Gió với một khúc cua ngoặt khuỷu tay, khí hậu đột ngột thay đổi từ cái nắng gắt gỏng của Ninh Sơn chuyển sang những đợt gió cao nguyên lạnh buốt.
Du lịch.
Đèo Ngoạn Mục hấp dẫn du khách với cảnh sắc thay đổi liên tục theo thời gian và không gian. Lên Ngoạn Mục vào buổi sáng bằng xe gắn máy, du khách dễ bị choáng ngợp bởi những cụm mây mịt mù. Lên Ngoạn Mục những chiều đông, có thể đứng ở vực cao ngắm ra khoảng rừng những vách đồi trước mặt, thấy những mảng rừng đổi màu lá xanh, lá đỏ. Lên đèo Ngoạn Mục vào những đêm trăng sáng, dễ nhận ra một không gian ảo huyền giữa bao la núi rừng.
Với địa thế khá hiểm trở, Đèo Ngoạn Mục trở thành đoạn đường thú vị cho một tour bằng xe đạp, xe gắn máy trên đường từ phố núi Đà Lạt xuôi về duyên hải Phan Rang. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.748599 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đèo Prenn là một đèo núi nằm ở cửa ngõ phía nam thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Việt Nam.
Đèo dài 7,4 km, kéo dài từ điểm cuối Đường cao tốc Liên Khương – Prenn đến đầu đường Ba Tháng Tư. Mặt đường rộng khoảng 7 m.
Lịch sử.
Đèo Prenn hiện tại được nhà thầu Gross của Pháp xây dựng từ tháng 2 năm 1943 để thay thế cho đoạn đường đèo Prenn cũ từ thác Prenn vào trung tâm Đà Lạt. Đường đèo có 79 đoạn cong, trong đó 18 đoạn cong có bán kính 40 m, các đoạn cong khác có bán kính 50–1.000 m, độ nghiêng tối đa là 3–7%.
Đầu thập niên 2000, để đáp ứng nhu cầu lưu thông ngày càng lớn, chính quyền đã có kế hoạch khôi phục đường đèo Prenn cũ để tạo thành hai con đường song song kết nối vào thành phố Đà Lạt và tổ chức lưu thông một chiều trên mỗi đường. Việc nâng cấp đèo Prenn cũ được hoàn thành vào năm 2002 và con đường này sau đó được đặt tên là đèo Mimosa. Tuy nhiên việc tổ chức lưu thông một chiều không được thực hiện mà thay vào đó, đèo Mimosa trở thành tuyến đường dành cho xe tải chuyên chở nông sản từ Đà Lạt đi các tỉnh thành khác.
Cho đến năm 2016, đèo Prenn vẫn là một phần của Quốc lộ 20 qua địa bàn thành phố Đà Lạt. Tuy nhiên vào cuối năm này, Bộ Giao thông Vận tải đã ra quyết định chuyển hướng tuyến của Quốc lộ 20 sang đèo Mimosa và chuyển đèo Prenn thành đường địa phương do Sở Giao thông Vận tải tỉnh Lâm Đồng quản lý.
Cuối năm 2021, tỉnh Lâm Đồng thống nhất chủ trương cải tạo, mở rộng đường đèo Prenn. Theo đó, dự án có tổng chiều dài 7,4 km, quy mô 4 làn xe ô tô theo tiêu chuẩn đường cấp 3 miền núi, tốc độ thiết kế 60 km/h, nền đường rộng 15 m và mặt đường 14 m (mở rộng gấp đôi). Trên tuyến có bố trí một cầu cạn dài 120 m để cải tạo đoạn cong, kết hợp với bố trí vọng ngắm cảnh, có 2 đường lánh nạn, 4 vịnh đậu xe để hạn chế các phương tiện giao thông dừng đỗ trong phần đường xe chạy. Công trình dự kiến khởi công vào tháng 4 năm 2022, hoàn thành vào tháng 3 năm 2023. Tuy nhiên trên thực tế, đến ngày 6 tháng 2 năm 2023, chính quyền và Tập đoàn Đèo Cả mới chính thức cho đóng đường để khởi công dự án.
Tai nạn giao thông.
Trưa ngày 19 tháng 6 năm 2016, tài xế Trần Ngọc Quang lái xe 47 chỗ của Công ty du lịch Lê Mỹ chở hàng chục hành khách từ Đà Lạt về Thành phố Hồ Chí Minh. Khi đang đổ đèo Prenn, xe tông nam công nhân đang sửa đường, sau đó tiếp tục lao vào mạn trái xe 29 chỗ của hãng Thanh Lịch đang lên đèo rồi lật nghiêng bên vách núi. Vụ tai nạn khiến nam công nhân làm đường và 6 hành khách đi trên xe Thanh Lịch tử vong, hàng chục người bị thương. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sông Đuống, tên chữ gọi là sông Thiên Đức hay Thiên Đức Giang, là một con sông dài 68 km, nối sông Hồng với sông Thái Bình. Sông Đuống là 1 nhánh chảy của sông Hồng, nhưng là phụ lưu của sông Thái Bình.
Sông Đuống là chi lưu của sông Hồng tách ở vùng phía Bắc thành phố Hà Nội, chảy về phía Đông qua tỉnh Bắc Ninh, đổ vào sông Thái Bình ở Lục Đầu. Cũng tại đây, sông Đuống (Thiên Đức)'1' gặp sông Cầu (Nguyệt Đức)'2' từ Thái Nguyên chảy xuống và sông Thương (Nhật Đức)'3' từ Lạng Sơn chảy về. Cả ba sông'1,2,3' hội lại ở Phả Lại thành sông Lục Đầu còn gọi là sông Thao Giang '4'.
Dòng chảy.
Điểm đầu từ ngã ba Dâu (xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội tại địa giới giữa 2 đơn vị hành chính là huyện Đông Anh và quận Long Biên của thành phố Hà Nội).
Điểm cuối là ngã ba Mỹ Lộc (giáp ranh giữa Trung Kênh, Cao Đức và Cổ Thành) phía nam ngã ba Lác (nơi sông Cầu hợp lưu với sông Thương thành sông Thái Bình) khoảng 3 km.
Về tổng thể sông Đuống chảy theo hướng tây-đông. Nó là một phân lưu của sông Hồng, trước đây chỉ là một dòng sông nhỏ, do cửa nối với sông Hồng bị cát bồi cao nên chỉ khi sông Hồng có lũ lớn mới tràn qua được. Từ năm 1958, cửa sông được mở rộng để trở thành một phân lưu quan trọng giảm sức uy hiếp của lũ sông Hồng đối với Hà Nội. So với lượng lũ của sông Hồng tại Sơn Tây thì sông Đuống tiêu được 20-30 %. Theo Bách khoa toàn thư Việt Nam, tại Thượng Cát?, lưu lượng nước trung bình nhiều năm 880 m³/s, còn theo website tỉnh Bắc Ninh thì lưu lượng trung bình đạt khoảng 1.000 m³/s. Lưu lượng đỉnh lũ lớn nhất 9.000 m³/s (ngày 22 tháng 8 năm 1971). Đoạn chảy qua Bắc Ninh dài 42 km. Mực nước cao nhất tại bến Hồ vào tháng 8 năm 1945 là 9,64 m, cao hơn so với mặt ruộng là 3 đến 4 m. Sông Đuống có hàm lượng phù sa cao, vào mùa mưa trung bình cứ 1 m³ nước có 2,8 kg phù sa.
Sông Đuống là đường giao thông thủy nối cảng Hải Phòng với Hà Nội và các tỉnh ở phía bắc Việt Nam.
Các loại tàu thuyền, xà lan tải trọng từ 100 tấn đến 450 tấn có thể vận tải trên sông được cả trong 2 mùa.
Các cây cầu bắc qua sông Đuống.
Hiện trên sông Đuống có 6 cây cầu bắc qua:
Ngoài ra, thành phố Hà Nội sẽ có thêm 3 cầu đường bộ mới sẽ được xây dựng ngang qua sông Đuống trong giai đoạn tới như:
Ngoài ra, tỉnh Bắc Ninh đã có đề án xây dựng một số cầu mới bắc qua sông Đuống trong giai đoạn tới như:
Thơ văn.
Nhà thơ Hoàng Cầm có bài thơ "Bên kia sông Đuống" nổi tiếng. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.872364 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Văn Lãng là một huyện biên giới thuộc tỉnh Lạng Sơn, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Văn Lãng nằm ở phía bắc tỉnh Lạng Sơn, có vị trí địa lý:
Huyện Văn Lãng có diện tích 561 km², dân số năm 2018 là 54.800 người, dân số năm 2019 là 49.696 người. Huyện ly là thị trấn Na Sầm nằm trên đường quốc lộ 4, cách thành phố Lạng Sơn khoảng 30 km về hướng tây bắc, cách thành phố Cao Bằng 95 km về hướng đông nam và cách Cửa khẩu Quốc tế Hữu Nghị 15 km về hướng tây bắc.
Hành chính.
Huyện Văn Lãng có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Na Sầm (huyện lỵ) và 16 xã: Bắc Hùng, Bắc La, Bắc Việt, Gia Miễn, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Việt, Hội Hoan, Hồng Thái, Nhạc Kỳ, Tân Mỹ, Tân Tác, Tân Thanh, Thành Hòa, Thanh Long, Thụy Hùng, Trùng Khánh.
Lịch sử.
Huyện Văn Lãng được thành lập vào ngày 16 tháng 12 năm 1964 trên cơ sở hợp nhất 2 huyện Văn Uyên và Thoát Lãng.
Sau khi thành lập, huyện Văn Lãng bao gồm 2 thị trấn: Na Sầm, Đồng Đăng và 27 xã: An Hùng, Bắc La, Bảo Lâm, Bình Trung, Gia Miễn, Hành Thanh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Việt, Hội Hoan, Hồng Phong, Hồng Thái, Mỹ Cao, Nam La, Nhạc Kỳ, Phú Xá, Phượng Long, Song Giáp, Tân Lang, Tân Tác, Tân Thanh, Tân Việt, Tân Yên, Thành Hòa, Thụy Hùng A, Thụy Hùng B, Trùng Khánh, Trùng Quán.
Năm 1975, hợp nhất 2 tỉnh Cao Bằng và Lạng Sơn thành tỉnh Cao Lạng, huyện Văn Lãng thuộc tỉnh Cao Lạng và đến ngày 29 tháng 12 năm 1978, huyện Văn Lãng thuộc tỉnh Lạng Sơn vừa được tái lập.
Ngày 10 tháng 6 năm 1981, tách 6 xã: Hồng Phong, Phú Xá, Bình Trung, Bảo Lâm, Thụy Hùng A (sau đổi lại xã Thụy Hùng), Song Giáp và thị trấn Đồng Đăng để sáp nhập vào huyện Cao Lộc; sáp nhập xã Hành Thanh và xã Phượng Long thành xã Thanh Long; sáp nhập xã Tân Yên và xã Mỹ Cao thành xã Tân Mỹ; đổi tên xã Thụy Hùng B thành xã Thụy Hùng.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 818/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Lạng Sơn (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Huyện Văn Lãng có 1 thị trấn và 16 xã trực thuộc như hiện nay.
Kinh tế.
Toàn huyện có tổng số 44 trường học, 6 cụm chợ chính là chợ Na Sầm, chợ Tân Thanh, chợ Nà Hình, chợ Hoàng Văn Thụ và chợ Hội Hoan.
Huyện có chợ biên giới với Trung Quốc, nổi tiếng nhất là chợ cửa khẩu Tân Thanh. Huyện có ngọn núi cao là Khâu Khú thuộc xã Thanh Long, với độ cao khoảng 800m so với mặt nước biển.
Danh nhân.
Đây là quê hương của Hoàng Văn Thụ, một nhà cách mạng Việt Nam. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Bà Nà là khu bảo tồn thiên nhiên đồng thời là quần thể du lịch nghỉ dưỡng toạ lạc tại khu vực thuộc dãy Trường Sơn nằm ở xã Hoà Ninh, Huyện Hòa Vang, cách trung tâm Đà Nẵng khoảng 25km về phía Tây Nam. Toàn bộ quần thể du lịch nghỉ dưỡng nằm trên đỉnh Núi Chúa có độ cao 1487 m so với mực nước biển.
Được khám phá từ hơn 102 năm trước, Núi Bà Nà nằm ở dải đất Miền Trung với khí hậu mát mẻ quanh năm. Chỉ hơn 10 năm trở lại đây, Bà Nà Hills mới được nhiều người biết đến với tổ hợp các công trình du lịch, qua đó đạt danh hiệu “Khu du lịch hàng đầu Việt Nam” 4 năm liên tiếp từ năm 2014 – 2017.
Lịch sử.
Trước năm 1945.
Năm 1901, Quan toàn quyền Đông Dương Paul Doumer muốn tìm một nơi tương tự như Đà Lạt để xây dựng khu nghỉ mát, nghỉ dưỡng, chữa bệnh cho các quan chức, binh lính và sĩ quan người Pháp. Nhiệm vụ được giao cho Debay, một Đại úy thủy quân lục chiến, trực tiếp chỉ huy tìm kiếm.
Nhận nhiệm vụ, Đại úy Debay phải mất nhiều tháng trời lang thang khắp Việt Nam để tìm cho ra một Đà Lạt thứ hai. Tháng 4/1901, ông phát hiện ra “Núi Chúa” (tức Bà Nà), một ngọn núi cao với địa hình tương đối bằng phẳng, khí hậu bán ôn đới dễ chịu mát mẻ, tương tự như Đà Lạt và chỉ cách thành phố Đà Nẵng về phía Tây chừng 46km.
Nhận định đây là vùng đất lý tưởng có thể xây dựng khu nghỉ dưỡng theo ý muốn, ngày 30/11/1911, Quan toàn quyền Paul Doumer đã ra nghị định biến Bà Nà thành một khu bảo tồn lâm nghiệp để tiện cho việc nghiên cứu về Bà Nà được kỹ lưỡng hơn.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), người Pháp đẩy mạnh xây dựng khu nghỉ mát Bà Nà, hoàn tất con đường nối Bà Nà với đường thuộc địa số 1 (sau này là quốc lộ 1) ngay trong năm 1919, tạo điều kiện dễ dàng cho những công sở, quan chức và kiều dân Pháp đầu tư xây dựng khu nghỉ dưỡng, kinh doanh ở Bà Nà. Tháng 5 năm 1919, luật sư Beisson trở thành người đầu tiên xây dựng nhà nghỉ ở Bà Nà. Tính đến 23/7/1921, tại Bà Nà đã có 39 lô đất được cấp phép xây dựng của 36 chủ đầu tư, phân bố trải đều theo cụm.
Thống kê của Pháp năm 1925 cho biết, chỉ có chừng 120 du khách chọn Bà Nà để nghỉ ngơi. Năm 1928, đường lên đỉnh núi được hoàn tất, số du khách mới tăng dần, đến năm 1937 đã đạt được con số hơn 1.000 người, phần lớn là người Pháp và quan chức người Việt. Các dịch vụ như điện, nước, bệnh viện, bưu điện, ngân hàng, khách sạn... đã được đưa vào phục vụ du khách. Bà Nà dần trở thành một khu nghỉ dưỡng nổi tiếng không chỉ ở Trung Kỳ mà ở toàn khu vực Đông Dương.
Năm 1938, Bà Nà đã được Phòng Du lịch Đông Dương đưa vào tour du lịch 8 ngày bằng xe hơi tuyến Sài Gòn - Đà Lạt - Nha Trang - Quy Nhơn - Đà Nẵng - Huế - Vinh - Hà Nội - Hải Phòng và ngược lại. Kiệu ghế được xem là một phương tiện di chuyển đầy lý thú và rất điển hình cho du lịch Bà Nà xưa với lượng du khách ngang với những khu nghỉ mát thời đó như Le Bockor (Campuchia), Mũi Saint Jacques (Vũng Tàu), Tam Đảo, Sapa….
Thời kì 1945 - 1975.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Bà Nà dần vắng bóng người. Khi Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam lần thứ 2, nhân dân địa phương thực hiện chủ trương tiêu thổ kháng chiến nên đã triệt hạ các công trình xây dựng ở Bà Nà. Từ đấy, khu nghỉ mát hoang phế dần và bị cây rừng che phủ trong quên lãng gần nửa thế kỷ.
Đến giai đoạn chiến tranh chống Mỹ, quân đội Mỹ chọn đỉnh núi Bà Nà làm nơi quan sát quân sự. Để tạo hành lang an toàn cho đồn bốt, tất cả các công trình còn lại từ thời Pháp bị phá hủy dưới các nòng súng tầm xa của họ.
Tới giai đoạn 1975, hòa bình lập lại, những người dân khó khăn quanh vùng làm lâm nghiệp men theo đường mòn lên núi Bà Nà tìm kiếm một số đồ đạc còn sót lại từ các tàn tích trên núi và đem về phục vụ mục đích sử dụng cá nhân.
Sau năm 1975.
Vào ngày 30/11/1997, UBND thành phố Đà Nẵng quyết định xây dựng lại Bà Nà thành một khu du lịch sinh thái có quy mô lớn với hệ thống nhà nghỉ, nhà hàng, khu bảo tồn... Một con đường huyết mạch từ chân núi lên tới đỉnh núi dài 15km được trải nhựa, tạo thuận lợi cho việc chuyên chở vật liệu lên xây dựng cơ sở vật chất trên đỉnh núi.
Sau năm 2000, thị trấn du lịch Bà Nà đã được đánh thức. Các doanh nhân Đà Nẵng cùng với chính quyền thành phố đã xây dựng Bà Nà thành khu lịch du lịch sinh thái kết hợp nghỉ dưỡng với nhiều cơ sở dịch vụ được đưa vào khai thác. Bà Nà nhanh chóng lấy lại ngôi vị của một trong những khu du lịch nổi tiếng nhất thành phố Đà Nẵng.
Tuy nhiên, ngôi vị ấy được duy trì không lâu. Do tính chất nhỏ lẻ, thiếu đồng bộ của các công trình, dịch vụ ở Bà Nà khi đó, cộng với cách quản lí thiếu chuyên nghiệp, khu lịch du lịch sinh thái đã không thực sự thu hút và đáp ứng được nhu cầu đa dạng và phong phú về du lịch, vui chơi, nghỉ ngơi… của du khách thập phương. Chỉ một thời gian ngắn sau khi được xây dựng lại, du khách thưa dần, Bà Nà lại chìm trong quên lãng.
Năm 2007, UBND thành phố Đà Nẵng quyết định chuyển giao toàn bộ khu du lịch Bà Nà cho Tập đoàn Sun Group - Việt Nam quản lý. Nhằm phục vụ nhu cầu du lịch khám phá, nghỉ dưỡng và du lịch tâm linh của đông đảo du khách, Công ty Cổ phần Dịch vụ Cáp treo Bà Nà đã đầu tư xây dựng tuyến cáp treo Bà Nà - Suối Mơ và chính thức khai thác tuyến cáp treo này vào ngày 25/3/2009 sau 12 tháng thi công và 2 tháng chuẩn bị. Đây là tuyến cáp treo hiện đại bậc nhất thế giới tại thời điểm ấy được xây dựng theo tiêu chuẩn châu Âu với tổng mức đầu tư khoảng 300 tỷ đồng.
Tiếp đó, nhiều công trình mới được xây dựng, gia tăng trải nghiệm vui chơi tham quan cho du khách tới Bà Nà, nổi bật như khu vui chơi giải trí trong nhà rộng 21.000m2 Fantasy Park; tuyến cáp treo bốn kỷ lục thế giới L’Indochine – Thác Tóc Tiên; Tàu hỏa leo núi; Làng Pháp... đáp ứng nhu cầu tham quan và lưu trú của du khách trong và ngoài nước.
Năm 2017, thêm 2 tuyến cáp treo Hội An – Marseille và Bordeaux – Louvre tiếp tục được đưa vào hoạt động. Cũng trong năm này, Bà Nà Hills Mountain Resort chính thức trở thành thành viên của Tập đoàn Sun World, với tên gọi Sun World Ba Na Hills, cùng với Sun World Danang Wonders (Đà Nẵng), Sun World Halong Complex (Hạ Long, Quảng Ninh), Sun World Fansipan Legend (Sa Pa, Lào Cai), Sun World Hon Thom Nature Park (An Thới, Phu Quoc).
Tháng 6/2018, tại Bà Nà có thêm công trình Cầu Vàng - sớm nổi danh trên thế giới nhờ các bài đánh giá trên các tạp chí hàng đầu như: New York Times, Forbes, CNN...
Năm 2019 & 2020, Bà Nà Hills sẽ đưa vào hoạt động tiếp 2 tuyến cáp treo mới, lâu đài phép thuật, khách sạn M Gallery & Cầu Bạc.
Đặc điểm tự nhiên.
Địa hình và địa thế.
Bà Nà là một vùng núi cao, đỉnh cao nhất là Núi Chúa cao 1487m, rặng núi Bà Nà hay còn gọi là rặng núi Lỗ Đông, bản đồ địa lý thủy văn của người Anh gọi là “Đỉnh Tròn”, nằm hơi chếch về phía Tây Nam của thành phố Đà Nẵng. Địa hình nơi đây rất phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các hệ thống sông suối chằng chịt, Núi Bà Nà cũng là thượng nguồn của 3 hệ thống sông chính: sông Túy Loan, sông Lỗ Đông, sông Vàng. Phía Tây sườn dốc đứng, phía Đông Nam và Đông Bắc thấp dần, phần tiếp giáp có địa hình đồi núi thấp vây quanh. Với độ cao trung bình hơn 800m, độ dốc 25o đến 35o, tất cả đã tạo nên một cảnh quan đặc trưng của hệ sinh thái rừng nhiệt đới gió mùa.
Thời tiết và khí hậu.
Một trong những lý do khiến người Pháp chọn Bà Nà xây dựng thành một khu nghỉ mát vì nơi đây có khí hậu được đánh giá là mùa xuân của nước Pháp. Giữa cái nóng oi bức của thành phố Đà Nẵng lên đến 37oC vào mùa hè thì nhiệt độ ở Bà Nà chỉ trung bình khoảng 18oC, nhiệt độ thấp nhất là 2oC vào mùa Đông và cao nhất là 25oC vào mùa Hè. Biên độ nhiệt ngày đêm là 5,3oC.
Độ ẩm trung bình ở Bà Nà lên đến 93% nên thường có sương mù xuất hiện vào buổi chiều và sau các cơn mưa giông tạo nên một cảm giác mát mẻ tuyệt vời.
Khu vực đỉnh Bà Nà một năm có hai mùa rõ rệt: Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, thường có gió mùa Đông bắc hoặc Tây Bắc, mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8, thường có gió mùa Đông Nam, khô ráo. Lượng mưa trung bình là 5.185mm/năm. Những cơn mưa ở Bà Nà thường diễn ra trong thời gian ngắn, sau đó bầu trời thoáng đãng, những làn mây trắng đọng lại ở lưng chừng sườn núi tạo nên một cảm giác bồng bềnh, kì diệu.
Bà Nà nằm gần sát biển nên có gió biển thổi nhẹ êm dịu, phần lớn mùa hè thường có gió mùa Tây Nam, còn gọi là gió Lào, ở đồng bằng thì rất hanh nóng, khó chịu nhưng ở độ cao này luôn mát lạnh và ôn hòa.
Một ngày ở Bà Nà luôn có 4 mùa, sang mùa xuân êm dịu, trưa là mùa hạ chói chang, mùa thu vào buổi chiều khi màn đêm buông xuống và sương mùa kéo về và mùa đông se lạnh vào ban đêm. Khí hậu mát mẻ quanh năm ở Bà Nà là một trong lý do khiến địa danh này có sức hút kì diệu đối với du khách.
Địa chất và thổ nhưỡng.
Bà Nà là rặng núi nổi bật, quan trọng nhất thuộc dãy Trường Sơn và những dãy núi ngang (Hoành Sơn) nằm ở địa thế ven biển. Bà Nà và dãy núi Hải Vân là một sống đá hoa cương chạy từ Lào men sang biên giới phía Nam Thừa Thiên ra thẳng đến vịnh Đà Nẵng, vì vậy, cả khối núi Bà Nà là nham thạch biến tích có độ tuổi khá cao (200 triệu năm) đã từng phân hóa. Cấu tạo địa chất gồm đất sét, thạch anh, lớp đất feralit mùn vàng phủ ở trên tuy không dày nhưng cũng đủ cho thảm thực vật rừng phát triển, là điều kiện tạo nên tính đa dạng sinh học cho Bà Nà.
Hệ động vật.
Bà Nà có những giá trị sinh thái và du lịch to lớn, có thể so sánh với thành phần rừng quốc gia Bạch Mã. Càng lên cao, nhiệt độ càng giảm và độ ẩm càng tăng.
Hệ động vật: 256 loài động vật có xương sống (61 loài thú, 178 loài chim và 17 loài bò sát)
Đặc trưng cho hệ động vật Nam Trường Sơn với các loài Hươu vàng, cheo cheo, chồn dơi, sói vàng, trĩ sao, gà lôi long tía, khỉ đuôi dài, trăn dây... Đặc trưng cho hệ động vật Bắc Trường Sơn là gà tiền mặt vàng, gà lôi lam màu trắng, trút, vượn má hung, gấu đen châu Á… Đặc biệt ở Bà Nà có 44 loài động vật quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam, trong đó có 23 loài thú, 12 loài chim và 9 loài bò sát. Tiêu biểu là hổ, báo, nai, hoẵng, sóc bay, chà vá chân nâu, vượn má hung, chó sói, gấu chó…
Phong phú hơn nữa trong hệ động vật ở Bà Nà là các loài bướm, côn trùng chủ yếu sinh sản vào tháng 4. Đến Bà Nà vào mùa hè, bạn sẽ được chiêm ngưỡng bản nhạc rừng độc đáo của các tiếng ve gọi hè, tiếng hót của chim chóc, và tiếng hú xa xa của bầy vượn…
Hệ thực vật.
Chỉ với một diện tích khá nhỏ (17.641 ha) nhưng theo thống kê, Rừng nguyên sinh Bà Nà có đến 543 loài thực vật bao gồm 4 ngành thực vật bậc cao là Thông đất, Thông, Dương sỉ và Mộc Lan.
Hệ thực vật ở đây phong phú về số lượng loài có giá trị kinh tế, nhưng nghèo về trữ lượng và số lượng cá thể. Đến nay đã thống kê được 74 loài làm thuốc và dược liệu, 41 loài có thể ăn được hoặc làm thức ăn cho người, 15 loài làm cảnh, 134 loài cho gỗ, 5 loài làm thức ăn gia súc, 6 loài làm vật liệu xây dựng, 5 loài làm nguyên liệu cho giấy sợi, 3 loài cho tinh dầu, 3 loài để nhuộm.
Ngoài đa dạng về họ, chi và số lượng cá thể lớn, rừng nguyên sinh Bà Nà cũng có rất nhiều loài quý hiếm được liệt vào sách đỏ Việt Nam như trầm hương, gụ lau, kim giao, hoàng đàn…
Các loài thực vật thân gỗ có nhiều màu sắc thuộc ngành thực vật hạt kín như cây thích ba thùy, chò lào, sồi lá hạnh, chẹo bông, hồng diệp…
Hệ động thực vật Bà Nà không chỉ có tính phong phú, đa dạng cao mà còn hết sức đặc trưng, độc đáo, có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho sự bảo tồn và phát triển.
Năm 1986, Bà Nà đã được Chính phủ công nhận là khu dự trữ thiên nhiên, đối tượng bảo vệ và là rừng nhiệt đới gồm nhiều loại động, thực vật quý hiếm cần được bảo vệ như trầm hương, gụ lau, sến mật, trĩ sao, gấu đen châu Á, vượn má hung... Bà Nà có nhiều khu rừng nguyên sinh được phân bổ theo các sườn dốc khá hiểm trở.
Độc quyền khai thác.
Con đường bộ dẫn lên đỉnh Bà Nà bị tập đoàn Sun Group chặn lại, và nếu muốn lên đó thì phải đi bằng cáp treo với giá từ 350 ngàn đến 500 nghìn đồng. Trong bài báo của báo Tuổi trẻ mang tựa đề “Vụ Bà Nà: An toàn cho khách hay lợi ích cho nhà đầu tư,” người đứng đầu tập đoàn Sun Group nói rằng họ không cấm mà chỉ lo ngại về sự an toàn cho khách lên đỉnh Bà Nà. Cũng trong bài báo này, các nhân viên kiểm lâm có trách nhiệm ở khu vực rừng bảo tồn trên núi Bà nà cũng phải xin phép Sun Group khi vào làm việc trong rừng. Và người có trách nhiệm về tài nguyên môi trường của thành phố Đà Nẵng xác nhận rằng thành phố này đã giao toàn bộ khu du lịch Bà nà cho Sun Group độc quyền khai thác, trong đó có con đường bộ lên đỉnh núi.
Ngày 8/8/2019, Đà Nẵng công bố khôi phục đường bộ lên đỉnh Bà Nà. Sau khi khôi phục, tuyến đường chỉ phục vụ cho hoạt động kiểm lâm, phòng cháy chữa cháy và công tác vận chuyển vật liệu xây dựng và nhu yếu phẩm phục vụ khu du lịch Bà Nà, làm đường thoát hiểm khi có sự cố...
Cáp treo Bà Nà.
TUYẾN CÁP TREO SUỐI MƠ – BÀ NÀ
Ngày 25/03/2009, khu du lịch Bà Nà Hills đưa vào hoạt động hệ thống cáp treo 1 dây đầu tiên mang tên Suối Mơ- Bà Nà.
Hệ thống cáp treo này được xây dựng theo công nghệ của Áo, đảm bảo tiêu chuẩn của Hiệp hội cáp treo châu Âu. Toàn tuyến cáp treo có 22 trụ với 96 cabin, công suất phục vụ 1.500 khách/giờ. Thời gian đi từ ga đi đến ga đến (hoặc ngược lại) là 15,05 phút với vận tốc 6m/giây.
Cáp treo Suối Mơ- Bà Nà đã lập hai kỷ lục thế giới như: tpuyến cáp treo một dây dài nhất thế giới: 5.042,62m; Tuyến cáp có cao độ chênh lệch giữa ga trên và ga dưới lớn nhất thế giới là 1.291,81m.
TUYẾN CÁP TREO DE BAY – MORIN
Tuyến cáp treo trung chuyển Debay – Morin là tuyến cáp treo ngắn nhất trong các hệ thống cáp treo tại Bà Nà Hills, với chiều dài chỉ 690m, bao gồm 17 cabin.
Được khai trương vào tháng 7/2009, tuyến cáp treo Debay – Morin có hệ thống cabin tròn, đảm bảo an toàn trên địa hình đồi núi cao mà không sợ ảnh hưởng xấu của thời tiết, gió bão.
TUYẾN CÁP TREO THÁC TÓC TIÊN – L’ INDOCHINE
Ngày 29/03/2013, tuyến cáp Thác Tóc Tiên- L’Indochine khánh thành. Đây là tuyến cáp số 3 ở Bà Nà, được xây dựng bởi nhà sản xuất cáp Doppelmayr của Áo và CWA của Thụy Sĩ, với kinh phí đầu tư lên đến 30 triệu EUR.
Cáp treo Thác Tóc Tiên- L’Indochine nối thẳng từ chân núi lên đỉnh Bà Nà ở độ cao 1.487m, với thời gian di chuyển 17 phút. Toàn tuyến cáp có 25 trụ và 86 cabin, sức chứa 10 người/cabin, công suất đạt 1.500 khách/h, vận tốc 6 m/s.
Tuyến cáp được Guinness World Records trao tặng 4 kỷ lục thế giới, gồm: Tuyến cáp treo dài nhất là 5.801 mét; Tuyến cáp treo có độ chênh giữa ga đi và ga đến cao nhất thế giới 1.368 mét; Tuyến cáp có tổng chiều dài cáp dài nhất là 11.587 mét; Sợi cáp có trọng lượng cáp nặng nhất thế giới là 141,24 tấn.
TUYẾN CÁP TREO HỘI AN – MARSEILLE
Tuyến cáp treo Hội An – Marseille hay còn gọi là tuyến cáp treo số 4 được đưa vào hoạt động tháng 4/2017. Đây là một trong những hệ thống cáp treo hiện đại bậc nhất thế giới với vận tốc lên đến 7 m/s, gồm 23 trụ đỡ và 144 cabin. Chiều dài của hệ thống cáp 4 là 5.261m, công suất vận chuyển 3000 khách/h với sức chứa 10 người/cabin.
TUYẾN CÁP TREO BORDEAUX – LOUVRE
Tuyến cáp treo Bordeaux – Louvre còn gọi là tuyến cáp treo số 5, được đưa vào hoạt động cùng với tuyến cáp treo số 4, vào tháng 4/2017, nối khu vực vườn hoa Le Jardin với quần thể Làng Pháp trên khu vực đỉnh, có chiều dài 672m, với 4 trụ đỡ, 47 cabin, vận tốc 7 m/s và công suất vận chuyển 4000 khách/h, thời gian di chuyển toàn tuyến chỉ trong khoảng 4 phút.
Các điểm tham quan.
Chùa Linh Ứng.
Tọa lạc ở độ cao trên 1.400m, chùa Linh Ứng được khánh thành ngày 05/03/2004. Kiến trúc chùa chữ Tam gần giống với kiến trúc của chùa Tam Thai, cả khoảng sân rộng được lát bằng đá. Phía trước chùa có một cây thông ba lá quý hiếm có tên trong sách Đỏ Việt Nam.
Chùa có một bức tượng Thích Ca Phật đài uy nghi, cao 27m màu trắng mà những ngày nắng ráo, từ thành phố Đà Nẵng có thể nhìn thấy bức tượng trắng muốt này.
Chùa thuộc hệ phái Bắc Tông. Về kiến trúc và thờ tự, chùa Linh Ứng Bà Nà giống với Chùa Linh Ứng Ngũ Hành Sơn và do cùng một vị sư trụ trì.
Miếu Bà.
Miếu Bà được lập từ năm 1931 bởi người Pháp. Tương truyền thuở ấy, khi Bà Nà - Núi Chúa còn hoang sơ, âm u, cư dân làm nghề rừng còn thưa thớt, trong dân gian vẫn lưu truyền câu "Nhất Cọp Bà Nà, nhì ma Phú Túc". Vì thế, người dân thường thờ cúng thần linh, các “Bà” để cầu cho cuộc sống bình an, yên ổn. Các quan cai trị người Pháp lên khai phá Bà Nà - Núi Chúa xưa cũng tỏ ra kính cẩn những truyền thuyết về Bà và đã cho lập miếu thờ Bà.
Chiến tranh liên miên nhưng Miếu Bà vẫn không bị tàn phá. Dân đi rừng Bà Nà đặc biệt sùng tín và quan tâm gìn giữ Miếu Bà. Miếu Bà hiện đã được trùng tu, nâng cấp và trở thành điểm dừng chân của du khách hành hương vãn cảnh, cầu nguyện may mắn, an lành…
Đền Lĩnh Chúa Linh Từ.
Nằm trên đỉnh cao nhất của Bà Nà, ở độ cao 1487m, đền Lĩnh Chúa Linh Từ (còn gọi là Mẫu Thượng Ngàn hoặc Lâm Cung Thánh Mẫu) là nơi tôn thờ Bà Chúa linh thiêng của cả vùng núi Bà Nà.
Chuyện kể lại rằng, người dân vùng Bà Nà từ bao đời nay được Mẫu Thượng Ngàn che chở, khi có bất kỳ điều gì xảy ra, họ đều đến đây, khấn Bà phù hộ, và tin rằng bà luôn ở bên họ, cho họ sự yên bình, sáng suốt và thanh thản.
Theo truyền thuyết, Bà là con gái của Sơn Tinh và công chúa Mỵ Nương. Lúc còn con gái, Bà có tên là La Bình. Khi Sơn Tinh và Mỵ Nương, theo lệnh Ngọc Hoàng trở về trời thành hai vị thánh bất tử thì La Bình cũng được phong là công chúa Thượng Ngàn, thay cha trông coi tất cả các miền núi non hang động, các miền trung du, đồi, bãi của nước ta.
Một con đường dốc quanh co dẫn lên khoảng sân rộng phía bên trái ngôi đền. Giữa sân là ngôi nhà lục giác, hai tầng mái ngói, làm nơi an vị pho tượng Phật Di Lặc ngồi khá lớn. Sau nhà lục giác là bình phong, án trước khoảng sân nhỏ trước chính điện.
Ngôi chính điện có ba gian, ba tầng mái ngói theo kiến trúc đền miếu truyền thống. Bên ngoài đền có treo bảng sơn nền đỏ, chạm bốn chữ màu vàng bằng Hán tự “Lĩnh chúa linh từ”.
Ngôi đền được trùng tu lại vào năm 2011. Cả 26 góc mái và đầu giông của ngôi nhà lục giác và chính điện đều có đầu rồng chạm trổ khá chi tiết.
Linh Phong Thiền Tự.
Linh Phong Thiền Tự hay còn gọi là Chùa Bắc, được xây dựng hoàn toàn bằng gỗ Lim, theo kiến trúc điển hình của các ngôi chùa ở phía Bắc. Với diện tích 650m², Linh Phong Thiền Tự bao gồm Tiền đường, hậu cung và sân vườn. Tiền đường gồm 3 gian, 2 chái, 2 tầng, 8 mái đao. Hậu cung gồm 2 gian, 3 tầng, 12 mái đao. Ba gian giữa được lắp 3 bộ cử bức bàn “thượng song, hạ bản”, 2 chái xây tường, lắp cửa sổ “sắc không”. Hệ thông cửa được gắn vào hàng cột tạo nên mái hiên rộng, thoáng mát trước chùa.
Thích Ca Phật Đài.
Tọa lạc ở độ cao khoảng 1400m, trong khuôn viên chùa Linh Ứng Bà Nà, Thích Ca Phật Đài cao 27m, ngang gối 14m, thiền định trên đài sen cao 6m, tượng được xây bằng xi măng cốt sắt. Bên dưới đài sen là Tám bức phù điêu, khắc họa cuộc đời của Đức Phật Thích ca.
Từ phía thành phố Đà Nẵng, vào những ngày nắng ráo, có thể nhìn thấy bức tượng này nổi bật trên nền xanh của núi rừng.
Trú Vũ Trà Quán.
Nằm trong quần thể tâm linh trên Núi Chúa, bên cạnh đền Lĩnh Chúa Linh Từ, phía trên là Linh Phong Bảo Tháp với không gian, cảnh sắc thanh tịnh, Trú Vũ Trà Quán có diện tích 350m², bao gồm 3 khối nhà, được xây theo lối kiến trúc truyền thống của miền Bắc Việt Nam, bên trong được bài trí theo thiền. Du khách tham quan thường tới đây để thưởng trà, tĩnh tâm trong âm nhạc thiền.
Lầu Chuông.
Lầu Chuông được xây dựng theo lối kiến trúc nhà Phật, nơi đặt chiếc chuông đồng nặng 1 tấn được đúc ngay tại đỉnh Bà Nà, trong thời gian chưa đến một năm.
Linh Phong Bảo Tháp.
Linh Phong Bảo Tháp được thiết kế với chín tầng, mỗi tầng với bốn mặt có gắn tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đá trắng quay mặt ra bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc. Xung quanh tháp có tượng Tứ Đại Thiên Vương uy phong hộ trì và trấn giữ.
Tàu hỏa leo núi.
Tàu hỏa leo núi là một loại hình vận chuyển sử dụng công nghệ thang máy và công nghệ của ngành đường sắt, ra đời từ cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ thứ 16 tại Áo, dùng để vận chuyển hàng hóa vật liệu lên các tòa thành cao của lâu đài Hohensalzburg. Đến nửa cuối của thế kỷ thứ 19, loại hình vận chuyển này mới được sử dụng cho cư dân thành thị.
Ở Bà Nà, tuyến tàu hỏa leo núi vận chuyển khách tham quan qua các thắng cảnh như: Chùa Linh Ứng, vườn hoa Le Jardin, khu biệt thự cổ. Từ trên tàu, du khách được ngắm cảnh sắc ấn tượng từ núi rừng Bà Nà hùng vĩ.
Tàu hỏa leo núi tại Bà Nà chính thức khai trương vào ngày 26/4/2014, có sức chứa 80 người một cabin, vận tốc 5 m/s, công suất vận hành 1.600 khách một giờ và được Garaventa của Thụy Sĩ sản xuất, có thể vận hành tốt trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào.
Hầm rượu Debay.
Trong quãng thời gian từ năm 1919 đến năm 1938, đồng thời với việc xây dựng hàng trăm ngôi biệt thự cùng bệnh viện, bưu điện, ngân hàng… để phục vụ nhu cầu nghỉ mát của các quan chức, sĩ quan quân đội, thương gia người Pháp và những người Việt giàu có trên đỉnh Bà Nà, người Pháp đã cho xây dựng hầm rượu này vào năm 1923. Mục đích cơ bản của việc xây dựng hầm rượu là để làm nơi cất giữ các loại rượu, đặc biệt là rượu vang mà người Pháp mang sang từ cố Quốc.
Hầm rượu Debay độc đáo bởi nó được đào xuyên vào lòng núi, có tổng chiều dài từ lối vào đến lối ra khoảng 100 mét, chiều cao 2,5 mét, rộng khoảng 2 mét, bên trong có các hầm cất giữ rượu, bar rượu, lò sưởi, sảnh. Vách hầm được xây bằng đá núi và vữa làm từ hỗn hợp đường và nhựa cây bời lời - một loại cây khá phổ biến ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng. Trần hầm được đào theo hình vòm cung, mang đậm lối kiến trúc Pháp. Kiến trúc hình vòm còn giúp tạo nên sự vững chắc cho hầm rượu. Đó là lý do vì sao gần 100 năm qua, hàng trăm ngôi biệt thự lộng lẫy nguy nga một thời nay chỉ còn là những phế tích nhưng hầm rượu vẫn trường tồn với thời gian, bất chấp sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự tàn phá của bom đạn trong chiến tranh. Đây cũng là công trình duy nhất của người Pháp còn lại khá nguyên vẹn tại Bà Nà.
Bên trong hầm rượu hiện có tất cả 14 hốc rượu, gồm có 9 hốc nhỏ và 5 hốc lớn. Chủ nhân của mỗi hốc rượu bên trong hầm rượu Debay cũng là chủ nhân của những ngôi biệt thự hoặc khách sạn tại Bà Nà thời đó. Một số người lớn tuổi trước đây từng làm phu cho người Pháp ở Bà Nà kể lại rằng người Pháp cất giữ rượu vang trong những hốc này và mang ra tiếp đãi khách quý trong những buổi khánh tiết.
Cách đây gần 100 năm, người Việt Nam bình thường hầu như không có cơ hội đặt chân đến đây. Lý do là vì đây là nơi chỉ dành cho giới thượng lưu gồm các quan chức, sĩ quan cao cấp trong quân đội Pháp, các thương gia Pháp và một số rất ít những người Việt Nam giàu có thân Pháp. Đây là nơi Người Pháp gặp gỡ, giao lưu và tổ chức các buổi dạ tiệc, khiêu vũ, khánh tiết…
Năm 1945, khi người Pháp rời khỏi Việt Nam, Bà Nà đã chìm vào quên lãng và hầm rượu cũng chịu chung số phận bị bỏ hoang trong một thời gian dài và bị bom đạn đánh sập một phần. Cùng với sự phát triển của thành phố Đà Nẵng, Bà Nà đã được khôi phục và hầm rượu cũng được phục chế lại tương đối hoàn chỉnh như ban đầu.
Vườn hoa Bà Nà.
Được mở cửa từ tháng 4 năm 2014, Khu vườn hoa L’Jardin d’ Amour có tổng diện tích 8206m² bao gồm 10 khu vườn được thiết kế dựa theo các theo kiểu vườn hoa độc đáo của Châu Âu, gồm: Quảng trường Ước hẹn, Vườn Uyên Ương, Vườn Thiêng, Vườn Địa đàng, Vườn Suối Mơ, Vườn Kí Ức, Vườn Thần Thoại, Vườn Suy Tưởng, Vườn Nho, vườn Bí Ẩn. Mỗi khu vườn mang một chủ đề, được trồng trang trí nhiều loại hoa, tạo nên một không gian thiên nhiên rực rỡ sắc màu, hấp dẫn khách tham quan.
Fantasy Park.
Lấy cảm hứng từ 2 cuốn tiểu thuyết “ Hành trình vào trung tâm trái đất” và “ Hai vạn dặm dưới biển” của nhà văn người Pháp Jules Verne, Fantasy Park là khu vui chơi giải trí trong nhà diện tích 21.000m² với thiết kế 3 tầng bao gồm hơn 100 trò chơi:
- Tầng B1 “Trò chơi mạo hiểm”
- Tầng B2 “ Miền phiêu lưu kỳ thú”
- Tầng B3 “Thế giới huyền bí”.
Các trò chơi tiêu biểu: Công viên khủng long đầu tiên ở Việt Nam có đủ các loại khủng long từ kỷ Jura đến kỳ cận đại, Tháp rơi và xoay tự do trong nhà cao nhất Việt Nam 29m, 3 rạp phim công nghệ: 3D 360, 4D, 5D, xe điện đụng trong nhà, leo núi trong nhà với vách núi cao 21m, đường trượt đôi tốc độ cao 2 vòng xoắn kép…
Khu trưng bày tượng sáp.
Khu trưng bày tượng sáp được khởi công xây dựng tháng 8/2012 và chính thức khai trương ngày 11/7/2013, sau gần 1 năm xây dựng. Đây cũng là khu trưng bày tượng sáp đầu tiên tại Việt Nam.
Hiện khu trưng bày tượng sáp sở hữu 49 tác phẩm nghệ thuật tượng sáp tinh xảo, được thực hiện bởi những nghệ nhân người Ý, là bản sao của các ngôi sao điện ảnh, ca nhạc, doanh nhân, chính trị gia nổi tiếng thế giới như: ca sỹ Lady Gaga, diễn viên Thành Long, cựu tổng thống Mỹ Barack Obama, doanh nhân Steve Job, diễn viên Angelina Jolie…
Làng Pháp.
Làng Pháp được thiết kế dựa trên những nét phác thảo trong cuốn ghi chép của nhà truyền giáo Pigneau De Behaine kể về cuộc hành trình xuyên nước Pháp đầy thú vị của ông. Làng Pháp là bức tranh thu nhỏ của nước Pháp thời trung cổ, được khôi phục lại từ những thị trấn, làng mạc khác nhau trên khắp nước Pháp mà Pigneau từng đi qua.
Với diện tích 45.300 m², Làng Pháp được chia thành 7 khu vực khác nhau gồm: ngôi làng của xứ Bretagne được mệnh danh đẹp nhất nước Pháp; ngôi làng nguyên sơ nhất thời trung cổ ở Pháp là Conques Aveyron; khu vực lâu đài Chateau De Chenonceau; Thánh đường St Denis; ngôi làng Apremont sur Allier…
Cầu Vàng.
Khánh thành đầu tháng 6/2018, Cầu Vàng nối từ nhà vòm Button ở cao trình +1411.5 tới vào vườn Giác quan ở cao trình +1416.00, thuộc quần thể khu vực vườn Thiên Thai, nằm ở độ cao 1.414m so với mực nước biển.
Cầu Vàng gồm 8 nhịp, 7 trụ và 2 mố với tổng chiều dài 150m. Bề rộng toàn bộ cầu là 5m, trong đó phần mặt cầu dành cho người đi lại rộng 3m, hai bồn hoa mỗi bên rộng 1m. Thiết kế độc đáo với ý tưởng hai bàn tay một vị thần nâng đỡ thân cầu, Cầu Vàng đã được nhiều tờ báo, hãng thông tấn uy tín tại Việt Nam và quốc tế như CNN, BBC, The New York Times, Time, FoxNews, The Guardian, Archdaily… ca ngợi. Ngày 23/8/2018, Cầu Vàng lọt top 100 điểm đến tuyệt vời nhất thế giới cho tạp chí TIME bình chọn.
Các khu nghỉ mát.
Trên núi Bà Nà, các khu vực nghỉ mát của binh lính Pháp xuất hiện từ đầu thế kỷ 20. Nhưng cho tới nay, các khu nghỉ mát này chỉ còn tồn tại trong các phế tích giữa rừng.
Hiện các ngôi biệt thự, nhà nghỉ đã được xây dựng lại, hiện đại như Bà Nà by night, Lê Nim, Biệt thự Hoàng Lan... Năm 1997, thành phố Đà Nẵng đã đầu từ, khôi phục và xây dựng một số biệt thự cổ, khu văn hóa Phật giáo, hầm rượu và hàng loạt khách sạn, biệt thự, quán bar, sân tennis, sân cầu lông...
Năm 2007, tập đoàn Sun Group được thành phố Đà Nẵng trao quyền trở thành chủ đầu tư xây dựng khu du lịch Sun World Ba Na Hills. Hiện trong khuôn viên Làng Pháp của Khu du lịch này cũng có thêm khách sạn nghỉ dưỡng Mercure Danang French Village Ba Na Hills đạt tiêu chuẩn 4 sao.
Suối Mơ.
Khi đi Cáp treo để lên đỉnh Bà Nà, du khách nhìn xuống dưới có thể thấy dòng suối Mơ đang chảy ở bên dưới khe núi. Nơi đây có ngọn thác Tóc Tiên 9 tầng trông giống như mái tóc của một nàng tiên.
Quang cảnh.
Từ đỉnh núi Bà Nà, về phía Tây là dãy Trường Sơn, Phía Đông là đồng lúa Hòa Vang. Từ đây dễ dàng nhìn thấy bán đảo Sơn Trà, sông Thu Bồn, Hội An và nội thành Đà Nẵng.
Sự kiện và lễ hội.
Tại khu du lịch Bà Nà Hills, có nhiều lễ hội được tổ chức định kỳ hàng năm, tiêu biểu nhất là:
Lễ hội Hoa.
Thời gian tổ chức: Tháng 2 đến tháng 3 hàng năm.
Lễ hội bia B’estival.
Được tổ chức Kỷ lục Việt Nam trao tặng kỷ lục: “Lễ hội bia có số lượng người tham gia đông nhất Việt Nam” vào ngày 10/06/2018
Thời gian tổ chức: Tháng 5 đến tháng 9 hàng năm.
Lễ hội Halloween.
Thời gian tổ chức: Tháng 9 đến tháng 10 hàng năm.
Lễ hội Mùa Đông.
Thời gian tổ chức: Tháng 11 đến tháng 12 hàng năm.
Sunshine Carnival.
Thời gian tổ chức: Tháng 5 đến tháng 9 hàng năm. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.944256 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Núi đôi Quản Bạ hay núi Cô Tiên Quản Bạ là một thắng cảnh ở thị trấn Tam Sơn huyện Quản Bạ tỉnh Hà Giang .
Vị trí.
Núi đôi Quản Bạ nằm bên quốc lộ 4C, cách thành phố Hà Giang 40 km về phía Bắc, thuộc địa phận thị trấn Tam Sơn, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang.
Đặc điểm.
Đó là hai quả núi trông như hai trái đào tiên.
Giữa những núi đá trùng điệp và ruộng bậc thang nổi lên hai trái núi có hình dáng, thế đứng ngồ ngộ khiến du khách không khỏi ngỡ ngàng trước vẻ đẹp kỳ vĩ của tạo hoá. Hai trái núi gắn với truyền thuyết Núi Cô Tiên.
Truyền thuyết.
Núi Đôi còn gắn với những câu chuyện truyền thuyết được đồng bào các dân tộc nơi đây lưu truyền từ đời này sang đời khác cho đến tận ngày nay. Trong đó có một câu chuyện rất cảm động kể rằng: Xưa kia, ở vùng đất này có một chàng trai người H’mông tuấn tú, có tài thổi đàn môi. Tiếng đàn môi của chàng réo rắt như tiếng suối, ríu rít lảnh lót như tiếng chim rừng, lúc lại sâu lắng, trầm bổng, da diết như tiếng gió giữa đêm khuya cứ bay xa, bay xa mãi. Có một nàng tiên trên thượng giới tên là Hoa Đào xinh đẹp tuyệt trần tình cờ nghe được tiếng đàn môi của chàng đã theo gió trốn xuống trần gian tìm người thổi đàn môi. Phải lòng chàng nên nàng tìm cách ở lại vùng đất này. Họ nên vợ nên chồng và sinh được một bé trai kháu khỉnh. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.747696 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Dãy núi Hồng Lĩnh (chữ Hán: 鴻嶺, tên chữ: Hồng Sơn, tên nôm: Ngàn Hống, tên gọi dân gian: Rú Hốống) là một dãy núi nằm tại tỉnh Hà Tĩnh.
Dãy núi Hồng Lĩnh cùng với sông Lam là địa danh mang tính biểu tượng của Xứ Nghệ (hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay). Đây còn là một trong 9 ngọn núi được khắc vào Cửu Đỉnh ở Cố đô Huế (9 đỉnh đồng tại Kinh thành Huế).
Di tích lịch sử - văn hóa.
Các di sản văn hoá- lịch nổi tiếng từ các di tích như
Dãy núi Hồng Lĩnh đã có 7 sắc phong và 1 công lệnh thời Lê.
Nơi đây có khoảng 100 ngôi chùa và đền miếu. Có ngôi rất cổ như:
Truyền thuyết và sự tích.
Truyền thuyết tạo núi.
Tương truyền núi Hồng Lĩnh có tất cả 99 đỉnh được ông Đùng xếp mà thành.
Thủa hồng hoang khai thiên lập địa, vùng đất Hà Tĩnh và Nghệ An bây giờ núi non mọc ngổn ngang, ngăn cách vùng này với cùng kia. Khi ấy có hai người khổng lồ được dân gian gọi bằng cái tên thân thuộc là ông Đùng và bà Đùng, nhiều lần đã giúp đỡ nhân dân trong vùng.
Một ngày nọ, ông Đùng tới gặp bà Đùng ngỏ ý kết duyên cùng. Bà Đùng thấy núi non vùng này ngổn ngang, nhân dân không có chỗ trông lúa liền thách ông Đùng rằng: ”Ttrước khi gà gáy ngày mai, nếu ông Đùng xếp được 100 ngọn núi thì bà sẽ đồng ý làm vợ”. Nghe xong ông Đùng một mình cặm cụi kéo núi khắp vùng xếp lại đến quên cả ăn quên cả nghỉ. Đến mờ sáng hôm sau, khi đã xếp được 99 ngọn thì đúng lúc bà Đùng tỉnh giấc, thấy ông Đùng đang cặm cụi xếp núi nên đùa vui bằng việc giả tiếng gà gáy. Ông Đùng đang kéo một ngọn núi về cho tròn 100 ngọn, đến bên bờ bắc sông Lam nghe thấy “gà” gáy tưởng thật, nên đứng dậy phủi tay mà đi. Cuối cùng thì bà Đùng cũng chấp nhận đấng phu quân, nhưng do bà Đùng giả tiếng gáy sớm mà dãy núi Hồng Lĩnh chỉ có 99 ngọn núi, còn một ngọn núi đã bị bỏ quên ở bờ bắc sông Lam được người dân gọi là núi Quyết.
Truyền thuyết 100 con chim Phượng Hoàng bay về tìm chốn đậu.
Thủa xưa, vua Hùng có ý tìm trong cả nước vùng đất thích hợp để lập đô. Lạc Tướng tâu rằng xưa Việt Thường từng đóng đô cũ ở Ngàn Hống. Vua nghe vậy liền cất công tới thị sát xem như thế nào. Khi vua Hùng đến nơi, bỗng đâu trên trời xuất hiện 100 con chim Phượng Hoàng đang bay lượn, trông rất đẹp. Vua Hùng mừng lắm, cho rằng đây đã là nơi đặt kinh đô cho muôn đời. Ngờ đâu 100 con chim Phượng Hoàng bay về núi đậu trên 99 đỉnh của dãy Ngàn Hống., còn con dầu đàn không có chỗ đậu nên bay đi; thấy vậy cả đàn Phượng Hoàng cũng bay theo. Vua Hùng cho rằng đây là điềm của trời không thuận không thể đặt làm kinh đô.
Những truyền thuyết khác và sự tích khác.
Truyền thuyết về ông Đùng dùng chân bắc cầu cho dân qua sống.
Truyền thuyết ông Đùng đào quặng sắt trong núi dạy dân Trung Lương làm nghề rèn.
Truyền thuyết về những nàng tiên trên trời xuống tắm mát mà để lại dấu chân trên đá, nhân dân địa phương liền lập nơi thờ tự gọi là chùa Chân Tiên.
Truyền thuyết nàng Công chúa Diệu Thiện con vua Sở Trang Vương lên núi Hương Tích thuộc dãy Hồng Lĩnh lập am tu hành, hiến mắt hiến tay cứu cha mình... mà nay là Chùa Hương Tích | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.914231 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Núi Ngự Bình (: 御屏), gọi ngắn gọn là núi Ngự, trước có tên là Hòn Mô hay Núi Bằng (Bằng Sơn); là một hòn núi đất cao 103 m ở bờ phải sông Hương (giữa Cồn Hến và Cồn Giã Viên), cách trung tâm thành phố Huế (thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, Việt Nam) 4 km về phía Nam .
Giới thiệu.
Núi Ngự có dạng hình thang, đỉnh bằng phẳng , hai bên có hai ngọn núi nhỏ chầu vào gọi là Tả Bật Sơn và Hữu Bật Sơn .
Bởi núi có hình dạng như thế, nên khi chúa Nguyễn Phúc Trăn (ở ngôi: 1687-1691) dời thủ phủ Đàng Trong từ làng Kim Long (thuộc huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên) về làng Phú Xuân (chỗ của Kinh thành Huế ngày nay) vào năm 1687, đã dùng núi ấy làm án (chắn ngang) trước thủ phủ.
Về sau, khi chúa Nguyễn Phúc Khoát (ở ngôi: 1738-1765) xây dựng đô thành Phú Xuân (hoàn tất năm 1739), và vua Gia Long xây dựng Kinh thành Huế (1805) cũng đặt núi Bằng làm án .
Sách "Đại Nam nhất thống chí" của "Quốc sử quán triều Nguyễn" viết:
Sách "Đại Nam dư địa chí ước biên" của Tổng tài Cao Xuân Dục cũng viết về núi này như sau:
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân, thì từ thời Gia Long, tất cả các quan lại không phân biệt phẩm trật lớn nhỏ, mỗi người đều phải trồng ở Ngự Bình một cây thông, cho nên trải các đời vua, Ngự Bình trở thành một rừng thông vi vu. Bởi vẻ đẹp ấy, nên núi được nhiều người đến viếng và làm thơ đề vịnh, trong số đó có vua Minh Mạng và vua Thiệu Trị .
Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình hòa quyện vào nhau tạo nên vẻ sơn thủy hữu tình của Huế, và đã trở thành biểu tượng của thiên nhiên Huế từ rất lâu. Vì vậy, người ta quen gọi Huế là xứ sở của "sông Hương-núi Ngự" .
Có nhiều thơ ca nói đến cặp danh thắng này, trong số ấy có câu: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.817866 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Núi Bà Rá là một ngọn núi tại tỉnh Bình Phước và miền Đông Nam Bộ, Việt Nam. Đây là ngọn núi cao thứ 3 ở Nam Bộ.
Địa lý.
Núi Bà Rá nằm trên địa phận phường Sơn Giang thị xã Phước Long, tỉnh Bình Phước, cách Thành phố Hồ Chí Minh 160 km. Giữa một vùng đồi nhấp nhô lên một ngọn núi cao, cây cối xanh tươi, rậm rạp. Núi cao 736m so với mực nước biển, độ cao thực tế tính từ chân núi là 563m.
Đứng trên lưng chừng núi có thể nhìn thấy cả một khu vực rộng lớn, bao gồm Phường Thác Mơ xinh đẹp (trước đây là tỉnh lỵ của tỉnh Phước Long), hồ Thác Mơ mà trong mùa mưa rộng tới 12.000 ha, cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Thác Mơ.
Núi Bà Rá gắn liền với cuộc kháng chiến của người dân Phước Long. Nơi đây đã xây dựng một nhà bia rất sang trọng để tưởng niệm các bộ đội của MTDTGPMN trong khu vực Bà Rá.
Dưới chân núi, bên cạnh Phường Thác Mơ là di tích của nhà tù Bà Rá, nơi giam cầm nhiều người cộng sản Việt Nam. Xung quanh khu vực Bà Rá còn có nhiều điểm tham quan lý thú khác.
Du lịch núi Bà Rá.
Toàn cảnh nhìn từ lưng chừng núi Bà Rá sáng sớm, từ ngã tư thành phố Đồng Xoài (tỉnh Bình Phước) theo Quốc lộ 741 nối thị xã Đồng Xoài với huyện Phước Long (Bình Phước) - con đường trải nhựa rộng thênh thang xuyên qua những cánh rừng cao su bạt ngàn. Đường vắng, cảnh đẹp, không khí mát lạnh làm cho lữ khách phương xa thấy nao nao. Đi chừng 1/3 đoạn đường thì núi Bà Rá đã hiện ra từ xa trong sương mờ huyền ảo. Từ ngã tư Đồng Xoài (thị xã Đồng Xoài) đến chân núi Bà Rá dài 50 km, khoảng một giờ đi xe gắn máy. Cuộc hành trình chia thành hai đoạn: Từ chân núi lên đồi Bằng Lăng (nằm ở khoảng 1/5 độ cao so với đỉnh) đường đã được trải nhựa, xe gắn máy và xe ô tô có thể chạy lên đến đây. Ở đây có khoảng sân rộng và một trạm kiểm lâm. Tại đồi Bằng Lăng có nhà bia tưởng niệm thờ các anh hùng liệt sĩ. Đỉnh cao Bà Rá này vốn là căn cứ cách mạng, là chiến trường oanh liệt. Núi Bà Rá đã được Bộ Văn hoá thông tin công nhận Di tích lịch sử văn hoá cấp quốc gia (ngày 4.10.1995). Tại núi Bà Rá có xây dựng hệ thống cáp treo để phục vụ khách du lịch hành hương từ chân núi lên đến đỉnh (hiện đã ngừng hoạt động). Cụm di tích - danh thắng: Núi Bà Rá – thị trấn Phước Long – Thác Mơ (cự ly giữa 3 điểm này cách nhau khoảng 10 km) sẽ được quy hoạch thành vùng du lịch sinh thái – văn hóa – chiến trường xưa – hành hương hấp dẫn của tỉnh Bình Phước. Từ đồi Bằng Lăng, bước lên 1.767 bậc đá để lên đến đỉnh. "Nếu so với cách đây 10 năm, đường bây giờ leo lên, đi xuống quá dễ dàng, vì đã được lát bằng đá vững chắc. Còn hồi đó, bậc tam cấp bằng đất. Mùa mưa đi té lăn cù là chuyện thường", người dẫn đường cho biết. Núi Bà Đen (Tây Ninh) cao 984m, còn núi Bà Rá cao 736m nhưng đường lên núi Bà Rá dốc hơn, khó đi hơn. Có những đoạn dốc hơn 45o, phải cố gắng mới bước lên được. Hai thành viên trong đoàn của chúng tôi hơi bị nặng ký, leo không nổi, đành phải bỏ cuộc ở 2/3 đoạn đường. Du khách phải bước 1.767 bậc đá để lên đến đỉnh Bà Rá Đường lên núi khá đẹp, được bao phủ cơ man nào là trúc, lồ ô (hiện đường này đã bị chặn). Đặc biệt hai bên đường đi có nhiều cổ thụ ướm chừng vài trăm năm tuổi. Lên đến đỉnh, mỏi mệt tan biến, do không khí quá mát mẻ. Đứng trên đỉnh Bà Rá, có thể nhìn thấy cả một vùng bình nguyên của tỉnh Bình Phước, thấy thị trấn Thác Mơ và thủy điện Thác Mơ khá rõ ràng. Trên đỉnh có ngọn ăng ten của Đài Phát thanh truyền hình Và Báo Bình Phước, cao 48m.
Lễ hội.
Theo lời của nhân dân địa phương, năm 1943 miếu được xây dựng để tưởng nhớ các tù chính trị bị chôn sống ở gốc cây cầu hiện nay, do những tù nhân chính trị ở nhà tù Bà Rá bí mật xây dựng và làm bài vị thờ tượng trưng có ghi 4 chữ Hán "Chúa Xứ Nương Nương" nhằm che mắt bọn tay sai nên đặt tên là miếu Bà để cho bọn thực dân công nhận ngôi miếu này.
Năm 1956-1957 tỉnh Phước Long được thành lập, một số người dân đã tiến hành dời miếu lên sát đường lộ (cách nơi cũ 500 mét) để bà con tiện đi lại thờ cúng, và cũng từ lúc này Miếu Bà mới có 3 bức tượng thờ. Miếu Bà Rá là một công trình kiến trúc tín ngưỡng dân gian, nằm trong quần thể di tích lịch sử Bà Rá đã được Bộ Văn hoá- Thông tin công nhận mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, nó không chỉ là nơi thờ cúng tín ngưỡng của nhân dân mà còn là một trong những chứng tích về sự xâm lược của thực dân Pháp trên vùng đất Phước Long..
Hàng năm vào ngày mùng 1,2,3,4/3 âm lịch, đông đảo khách thập phương trong và ngoài tỉnh hành hương về đây để " Vía Bà".
Diễn biến lễ hội:
- Ngày mùng 1/3 AL Ban tổ chức tiến
hành làm lễ thay y phục, tắm tượng đến 12 giờ đêm cùng ngày làm lễ rước Bà về. - Ngày mùng 2, tối làm lễ tế Bà khoảng 1 giờ đồng hồ, sau đó để khách hành hương vào làm lễ dâng hương, lễ Bà và xin lộc.
- Ngày mùng 3 tiếp tục khách thập phương dâng lễ.
- Ngày mùng 4/3 AL Ban tổ chức làm lễ tạ Bà vào buổi trưa, kết thúc lễ hội.
Miếu Bà là một trong những di tích lịch sử minh chứng về sự xâm lược của thực dân Pháp, nằm trong các chứng tích khác như: Hàng Điệp, vườn cây lưu niệm Nguyễn Thị Định, Sân bay Phước Bình nơi đồng chí Nguyễn Thành Trung năm 1975 thực hiện phi vụ ném bom dinh Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và lái chiếc F5 đáp xuống sân bay Phước Bình vùng Cách mạng an toàn. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.661286 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Núi Hàm Rồng là tên một ngọn núi thuộc thành phố Thanh Hóa, gắn liền với cuộc chiến đấu chống Mỹ của nhân dân tỉnh này.
Vị trí.
Núi nằm bên bờ Nam sông Mã. Mạch núi từ làng Dương Xá - Xã Thiệu Dương, Thành phố Thanh hóa, men theo Hữu Ngạn sông Mã về đến chân cầu Hàm Rồng, dài khoảng trên 2 km.
Đặc điểm.
Núi Hàm Rồng tức núi Long Hạm, tên cũ là Đông Sơn, quanh co chạy dọc theo triền phía Nam sông Mã. Dãy núi uyển chuyển liên tiếp như dạng hình 9 khúc rồng nhấp nhô uốn lượn dài, bao quanh những đồi thông ngút ngàn và những thung lũng thơ mộng, cuối cùng nổi vọt lên một ngọn núi cao, lớp đá chồng chất, trên núi có động Long Quang. Núi sát bờ sông, trên bờ có mỏm đá dô ra như hình mũi rồng, cho nên gọi là Long tị. Gần mặt nước có hai lớp đá trồng nhau như hàm rồng, đó là Long hàm. Toàn hình, trông từ phương bắc, giống như đầu rồng đương uống nước.
Động Long Quang trên núi Rồng là nơi danh thắng, đã lưu luyến nhiều tao nhân mặc khách. Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông và nhiều văn sĩ khác đã có thơ lưu lại trên động Long Quang. Trên động có hai cửa hai bên, hình như hai mắt rồng, mà thường gọi là Long nhãn.
Vòng theo chân núi Hàm Rồng, ngược lên theo bậc đá dốc chừng 30m thì tới cửa Động Tiên Sơn. Động có 3 - 4 tầng thường được gọi là động 1, động 2, động 3. Trong mỗi động có nét đẹp độc đáo riêng. ở đây nhũ đá tạo hình tuyệt đẹp gắn với những truyền thuyết như tích Phật, tích Tiên, "Hoa quả sơn", "Hội bàn đào tiên"... Từng vách đá, từng ngách hang đâu đâu cũng thấy như trăm ngàn vạn vật đang được sinh ra.
Đối diện với núi Hàm Rồng, bên bờ bắc sông Mã là núi Ngọc hay còn gọi là núi Châu Phong. Nhìn xa, núi giống như con rồng đang vờn hạt ngọc.
Cũng mang tên Hàm Rồng còn có hai dãy núi khác nằm tại tỉnh Gia Lai và thị trấn Sapa, tỉnh Lào Cai. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.76124 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Ngũ Hành Sơn (chữ Hán: 五行山) hay núi Non Nước là một danh thắng gồm 5 ngọn núi đá vôi nhô lên trên một bãi cát ven biển, trên một diện tích khoảng 2 km² nằm cách trung tâm thành phố Đà Nẵng, Việt Nam khoảng 8 km về phía Đông Nam, ngay trên tuyến đường Đà Nẵng - Hội An; nay thuộc phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Ngũ Hành Sơn gồm các ngọn núi: Mộc Sơn, Thủy Sơn (lớn, cao và đẹp nhất), Thổ Sơn, Kim Sơn và Hỏa Sơn (có hai ngọn là "Dương Hỏa Sơn" và "Âm Hỏa Sơn").
Ngày 22 tháng 3 năm 1990, khu danh thắng này đã được Bộ Văn hóa (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) ra quyết định công nhận là "Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia".
Theo Quyết định được Thủ tướng phê duyệt ngày 11/7/2023, danh thắng Ngũ Hành Sơn ở phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn có tổng diện tích quy hoạch 1.049.701 m2. Phía đông khu danh thắng giáp đường Trường Sa và các khu nghỉ dưỡng ven biển, phía tây giáp sông Cổ Cò, phía nam giáp sông Cổ Cò và khu dân cư hiện trạng, phía bắc giáp đường Phạm Hữu Nhật và khu tái định cư.
Về phân khu chức năng, Thủ tướng điều chỉnh mở rộng phạm vi khu vực bảo vệ I của danh thắng thành 189.821 m2, bao gồm diện tích khu vực cảnh quan 6 ngọn núi (Kim Sơn, Mộc Sơn, Thuỷ Sơn, Thổ Sơn, Dương Hỏa Sơn, Âm Hỏa Sơn), núi Ghềnh (8.373 m2) và núi đá phía đông nam Âm Hỏa Sơn (328 m2).
Danh thắng có các công trình, di tích tôn giáo và kiến trúc có giá trị, nhà ở kết hợp kinh doanh đá mỹ nghệ, các khu chức năng, không gian cây xanh chuyên đề, mặt nước, khu vườn tượng, đền thờ tưởng niệm các liệt sĩ và mẹ Việt Nam anh hùng.
Tên gọi.
Tên núi Non Nước (tức "Non Nước sơn") đã có từ lâu đời và đã đi vào ca dao Việt Nam như một tổng kết kinh nghiệm về thời tiết của người dân địa phương:
Cái tên ấy còn tìm thấy trong:
Tên Ngũ Hành Sơn xuất hiện muộn hơn, và đã được Lê Quang Định nói đến trong "Hoàng Việt nhất thống dư địa chí" (1806): "Phía đông bến đò xã Hoàn Ký Đông có núi Ngũ Hành Sơn, năm tòa núi chia làm Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ gọi là núi Non Nước".
Tháng 4 (âm lịch) năm 1825, vua Minh Mạng đến chơi Ngũ Hành Sơn lần đầu. Tuy nhiên, mãi đến năm Minh Mạng thứ 18 (1837), tên của các ngọn núi ấy mới được nhà vua tái xác nhận bằng một văn bản hành chính. Sách "Đại Nam dư địa chí ước biên" có từ thời Nguyễn chép:
Theo một số người, tên Ngũ Hành Sơn không những mang tính hoa mỹ hơn, mà người đặt ra nó đã dựa vào thế đất, thế núi và có kết hợp các yếu tố cơ bản của thuyết âm dương-ngũ hành. Tuy nhiên, ở cuối thế kỷ 19, một nhà nghiên cứu người Pháp là Albert Sallet, thì lại dựa vào chất liệu của núi đá để đặt tên cho thắng cảnh là "Les montagnes de marbre" (Những ngọn núi đá cẩm thạch).
Ngoài ra, Ngũ Hành Sơn còn có các tên khác như: Ngũ Uẩn Sơn, Ngũ Chỉ Sơn,…
Giới thiệu sơ lược.
Mô tả cụm núi này, trong sách "Đại Nam dư địa chí ước biên" có đoạn viết:
Thật vậy, Ngũ Hành Sơn nằm giữa vùng cát trắng mịn từ biển Non Nước kéo dài đến bán đảo Tiên Sa. Theo các nhà địa chất học, cụm núi này trước đây là các hòn đảo ở gần bờ biển do tác dụng của thủy triều, phù sa bồi đắp mà nối liền với lục địa. Dần dà, vì bị nước mưa và khí hậu tác động xói mòn tạo ra những hang động và hình thù kỳ thú. Đặc biệt, đá cẩm thạch tại đây có màu ngũ sắc, phân chia theo từng núi: đá ở Thủy Sơn thường có màu hồng, ở Mộc Sơn thường có màu trắng, ở Hỏa Sơn thường có màu đỏ, ở Kim Sơn thường có màu thủy mặc và ở Thổ Sơn thường có màu nâu. Quanh Ngũ Hành Sơn, về phía đông có biển Đông với bãi cát mịn trắng chạy dọc ven biển; ở phía tây và nam là sông Cổ Cò chảy qua hòa vào nhánh sông Cẩm Lệ. Ở thế kỷ 17-18, nhánh sông này là đường thủy thông thương huyết mạch giữa Đà Nẵng với Hội An, về sau bị bồi lấp.
Các loại thảo mộc quý có mọc ở đây là: Thiên tuế, Thạch trường sanh, Cung-nhân-thảo (Amaryllis) lài trắng, Cảnh-thiên (Crassule), Mộc tê, Chương não, Thử lý (M. Vyridiflora, có tinh dầu dùng để trét ghe thuyền), Tứ quý... Về hoa rừng có nhiều loại phong lan. Về động vật có loài khỉ Dộc hiền, và các loại dơi, chim yến, v.v...
Ngoài các dấu ấn văn hóa lịch sử còn in đậm trong các hang động, và trên mỗi công trình chùa, tháp đầu ở các thế kỷ trước, như mộ mẹ tướng quân Trần Quang Diệu, đền thờ Công chúa Ngọc Lan (em gái vua Minh Mạng), bút tích sắc phong quốc tự còn lưu giữ tại chùa Tam Thai của triều Nguyễn, v.v...; ở đây còn có các di tích lịch sử đấu tranh của nhân dân Việt như Địa đạo núi Đá Chồng, hang Bà Tho, núi Kim Sơn, hang Âm Phủ, v.v...
Thông tin sơ lược mỗi núi.
Kim Sơn.
Kim Sơn ở phía bắc 2 ngọn Hỏa Sơn, phía Đông Nam là đường Sư Vạn Hạnh, phía Bắc là ngọn Thổ Sơn. Hình dáng núi trông như một quả chuông úp sấp, nằm giữa Hỏa Sơn và Thổ Sơn, và bên cạnh dòng sông Trường nối dài với sông Hàn. Ngày nay dòng sông Trường đã bị bồi lấp một phần thành đồng ruộng và ao hồ. Nằm tựa lưng vào ngọn núi này là ngôi chùa Quan Âm cổ kính với động Quan Âm huyền bí.
Mộc Sơn.
Mộc Sơn ở phía Đông Nam, nằm song song với núi Thủy Sơn. Dù mang tên là "mộc" nhưng cây cối ở đây rất ít. Theo Quách Tấn, xưa kia núi này cũng là một hòn kỳ vĩ, với sườn núi dựng đứng, đá trắng nhô lên tua tủa. Về sau, sườn núi ở phía Bắc và phía Nam bị đào xới nhiều nên trông như một bức thành hư lồi lõm.
Thủy Sơn.
Thủy Sơn nằm trên bãi đất rộng theo hướng Đông Bắc, khoảng 15 ha, cao khoảng 160 m. Vì núi có ba đỉnh nằm ở ba tầng, giống như ba ngôi sao Tam Thai ở đuôi chòm sao Đại Hùng (dân gian gọi là "Sao Cày"), nên còn có tên gọi là núi Tam Thai. Đây là ngọn núi lớn, cao và đẹp nhất, thường được nhiều người đến tham quan.
Sơ lược ba đỉnh của núi:
Đặc biệt, trên Thủy Sơn còn có hai di vật cổ quý hiếm, đó là tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật tại động Hoa Nghiêm và tấm Kim bài hình quả tim lửa có bút tích của vua Minh Mạng ban tặng cho chùa Tam Thai. Bia Phổ Đà sơn lập vào năm Canh Thìn (1640) ghi lại danh sách 53 tín hữu (trong đó có ít nhất có 10 gia đình người Nhật Bản) đã cúng hàng ngàn quan tiền, hàng chục lạng bạc nén và hàng trăm cân đồng để xây dựng chùa Bình An. Trong danh sách những người Nhật góp tiền, có người tên Tống Ngũ Lang còn được Chu Thuấn Thủy nhắc đến với tư cách là bạn thân thiết trong An Nam cung dịch kỷ sự (Ký sự đến Việt Nam năm 1657, Vĩnh Sính dịch, Hội Khoa học Lịch Sử Việt Nam xuất bản, 1999, t. 23-24)
Theo thông tin trên "website Ngũ Hành Sơn", thì ngay lần đầu (1825) vua Minh Mạng đến chơi ngọn Thủy Sơn đã cho xây dựng hai con đường bậc cấp đi lên núi, đó là lối đi lên chùa Tam Thai và lối đi lên chùa Linh Ứng (xưa gọi là Ứng Chơn). Ngày nay, hai con đường ấy là cổng phía Tây gồm có 156 bậc đá dẫn đến chùa Tam Thai (xây dựng năm 1630) và cổng phía đông gồm có 108 bậc dẫn đến chùa Linh Ứng.
Hỏa Sơn.
Hỏa Sơn ở phía Tây Nam, nằm đối diện với hòn Kim Sơn, bên trái đường Sư Vạn Hạnh. Ngày xưa con sông Cổ Cò chạy dọc theo phía Nam hòn Hỏa Sơn, nay dấu vết chỉ còn lại một dải nước hẹp nối liền hai đoạn sông Ba Chà và Bãi Dài còn lại ở đầu và cuối phường Hòa Hải. Đây là một hòn kép, gồm có một hòn Âm và một hòn Dương, được nối liền với nhau bằng một đường đá thiên tạo nhô cao hẳn lên. Ở khoảng giữ con đường này có chùa Ứng Thiên.
Tương truyền ở Hỏa Sơn trước đây có một tấm bia đá của vua Lê Thánh Tông, và bên trên có khắc mấy hàng chữ Hán:
Nghĩa là:
Tấm bia ấy nay đã không còn tìm thấy.
Ngày nay, trên sườn núi phía Tây, mặt hướng về phía Bắc, đối diện với Kim Sơn có ba chữ Hán rất to được khắc vào vách đá "Dương Hỏa Sơn" và một dòng chữ nhỏ phải đến gần mới thấy: "Sắc Minh Mạng thập bát niên thất nguyệt nhật cát lợi" (Sắc Minh Mạng năm thứ 18, tháng 7, ngày tốt).
Thổ Sơn.
Tên dân dã là "núi Đá Chồng" nằm ở phía Tây Bắc. Đây là ngọn núi đất, thấp nhất nhưng cũng dài nhất, trông như con rồng nằm dài trên bãi cát. Núi có hai tầng lô nhô những khối đá trên đỉnh và nhất là ở sườn phía đông. Sườn phía Bắc dốc hơn, có những vách đá dựng đứng, hẹp và thấp. Cây cỏ thưa thớt do bị phá hoại nhiều.
Theo truyền thuyết Thổ Sơn là nơi linh địa, và từ thuở xa xưa người Chăm đã chọn nơi đây làm nơi đồn trú. Hiện nơi đây còn lưu lại dấu tích của một kiến trúc Chăm.
Tại chân núi hiện có chùa Long Hoa, chùa Huệ Quang và dấu tích của một địa đạo. Theo thi sĩ Quách Tấn, sát chân núi có bến đò, gọi là Bến Ngự (sử Nguyễn ghi là bến Hóa Quê), vì xưa kia mỗi lần nhà vua đến viếng Ngũ Hành Sơn thì đậu thuyền tại đó. Tuy nhiên, có người cho rằng bến này ở núi Kim Sơn.
Truyền thuyết về sự hình thành.
Theo truyền thuyết của người Chăm, thuở xa xưa có một lão ngư (ở phương Bắc bị đắm thuyền trôi dạt đến, có sách ghi là một ẩn sĩ) sống giữa bãi cát mênh mông bên bờ biển. Một hôm, lão ngư thấy một con giao long rất lớn (có sách chép là nữ thần Naga) đến đây đẻ trứng. Bỗng từ đâu một con rùa vàng hiện lên, tự xưng là thần Kim Quy, đào cát vùi quả trứng xuống, rồi giao cho ông lão một cái móng chân của mình và dạy cách trông coi trứng rồng. Nhờ có móng rùa thần mà ngư ông đã ngăn chặn được diều hâu và các loài thú dữ đến xâm phạm nơi ấp trứng. Sau đó, quả trứng ngày một lớn dần. Cho đến một hôm, trứng nở ra một thiếu nữ xinh đẹp (có sách ghi là nàng tiên), và vỏ trứng tách thành năm mảnh, trở thành năm ngọn: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Vua Chăm nghe được câu chuyện ấy liền cưới thiếu nữ làm vợ, còn Thần Kim Quy thì chở ông lão lên trời.
Nghề làm đá ở Ngũ Hành Sơn.
Dưới chân ngọn Thủy Sơn là các cơ sở điêu khắc đá mỹ nghệ phát triển từ các làng nghề có tuổi đời trên 400 năm, tổ nghề là Huỳnh Bá Quát, tiên tổ của Đô ngự sử Huỳnh Bá Chánh. Từ các loại đá cẩm thạch có ở Ngũ Hành Sơn, người thợ đã chế tác các tác phẩm tinh xảo. Đá núi ở đây cũng đã từng góp phần trang trí Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thời gian gần đây, để bảo vệ di tích và cảnh quan khu danh thắng, chính quyền thành phố Đà Nẵng đã ra lệnh cấm khai thác đá trên núi. Không thể để làng nghề mai một, những nghệ nhân có tâm huyết với nghề đã tìm được hướng đi mới. Họ đã bỏ công đi khắp trong nước để tìm nguồn nguyên liệu phù hợp. Cuối cùng làng nghề đã được vực dậy với:
Thơ đề vịnh.
Thơ đề vịnh Ngũ Hành Sơn có nhiều, song đa phần đều bằng chữ Hán. Ở đây giới thiệu một bài thơ vịnh bằng chữ Nôm của nữ sĩ Bang Nhãn:
Một vài hình ảnh ở Thủy Sơn:
Sách tham khảo chính.
Và các bài viết ở mục Liên kết ngoài. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.701156 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Hương Sơn là một huyện trung du, miền núi nằm ở phía tây bắc của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Vị trí địa lý.
Huyện Hương Sơn nằm ở phía tây bắc của tỉnh Hà Tĩnh, trung tâm của huyện nằm cách thành phố Vinh khoảng 55 km, cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 70 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 370 km, có vị trí địa lý:
Địa hình đồi núi xen đồng bằng thùng lĩnh sông NGàn Phố, sông Ngàn Sâu và các phụ lưu, dốc từ tây - bắc xuống đông - nam, cao nhất là núi Bà Mụ (1357 m) trên biên giới Việt - Lào.
Các dãy núi chính: Dãy núi Giăng Màn (thuộc dãy Trường Sơn); núi Kim Sơn (rú Vằng); dãy núi Mông Gà; dãy núi Thiên Nhận; núi Hoa Bảy,…
Lịch sử.
Địa bàn huyện Hương Sơn ngày nay nguyên là huyện Dương Toại, thuộc quận Cửu Đức.
Thời Bắc thuộc, đời Tấn Vũ Đế tách lập huyện Phố Dương, có 2 làng Phố Châu và Phúc Dương. Đời Đường, đây là châu Phúc Lộc.
Thời nhà Đinh và nhà Tiền Lê thuộc đất Hoan Châu.
Thời nhà Lý là hương Đỗ Gia thuộc châu Nghệ An.
Thời nhà Trần và thuộc nhà Minh là hai huyện Cổ Đỗ (vùng đất chủ yếu thuộc Hương Sơn ngày nay) và Thổ Hoàng (các vùng đất thuộc hai huyện Hương Khê và Vũ Quang ngày nay)
Thời nhà Hậu Lê ban đầu là huyện Đỗ Gia, từ năm 1469, đời vua Lê Thánh Tông, là huyện Hương Sơn, thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An (sau đó là trấn Nghệ An).
Từ năm 1831, là huyện Hương Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Lúc bấy giờ, Huyện Hương Sơn gồm 8 tổng: Đỗ Xá, An Ấp, Hữu Bằng, Dị Ốc, Đồng Công, Thổ Hoàng, Thổ Lỗi và Bào Khê.
Năm Tự Đức thứ 21 (1868) huyện Hương Khê (vùng đất của huyện Thổ Hoàng trước đây) tách ra khỏi Hương Sơn.
Năm 1931, bỏ cấp phủ, huyện Hương Sơn trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Thời Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945-1975), huyện Hương Sơn vẫn thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Ngày 13 tháng 1 năm 1969, thành lập xã Sơn Hồng trực thuộc huyện Hương Sơn.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Hương Sơn thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh.
Năm 1976, xã Ân Phú thuộc Hương Sơn chuyển sang huyện Đức Thọ và đổi tên thành xã Đức Ân (tuy nhiên đến năm 2000 lại chuyển về huyện Vũ Quang và đổi lại tên cũ là xã Ân Phú). Từ đây, huyện Hương Sơn có 31 xã: Sơn An, Sơn Bằng, Sơn Bình, Sơn Châu, Sơn Diệm, Sơn Giang, Sơn Hà, Sơn Hàm, Sơn Hòa, Sơn Hồng, Sơn Kim, Sơn Lâm, Sơn Lễ, Sơn Lĩnh, Sơn Long, Sơn Mai, Sơn Mỹ, Sơn Ninh, Sơn Phố, Sơn Phú, Sơn Phúc, Sơn Quang, Sơn Tân, Sơn Tây, Sơn Thịnh, Sơn Thọ, Sơn Thủy, Sơn Tiến, Sơn Trà, Sơn Trung, Sơn Trường.
Ngày 22 tháng 7 năm 1989, thành lập thị trấn Phố Châu từ một phần xã Sơn Phố.
Từ năm 1991, huyện Hương Sơn thuộc tỉnh Hà Tĩnh vừa được tái lập.
Ngày 19 tháng 11 năm 1997, thành lập thị trấn Tây Sơn từ một phần các xã Sơn Tây và Sơn Kim.
Ngày 2 tháng 8 năm 1999, sáp nhập xã Sơn Phố vào thị trấn Phố Châu.
Đến năm 2000, huyện Hương Sơn có 2 thị trấn: Phố Châu, Tây Sơn và 30 xã: Sơn An, Sơn Bằng, Sơn Bình, Sơn Châu, Sơn Diệm, Sơn Giang, Sơn Hà, Sơn Hàm, Sơn Hòa, Sơn Hồng, Sơn Kim, Sơn Lâm, Sơn Lễ, Sơn Lĩnh, Sơn Long, Sơn Mai, Sơn Mỹ, Sơn Ninh, Sơn Phú, Sơn Phúc, Sơn Quang, Sơn Tân, Sơn Tây, Sơn Thịnh, Sơn Thọ, Sơn Thủy, Sơn Tiến, Sơn Trà, Sơn Trung, Sơn Trường.
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, xã Sơn Thọ chuyển sang thuộc huyện Vũ Quang.
Ngày 2 tháng 1 năm 2004, chia xã Sơn Kim thành 2 xã: Sơn Kim 1 và Sơn Kim 2.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập ba xã Sơn Tân, Sơn Mỹ và Sơn Hà thành xã Tân Mỹ Hà; sáp nhập ba xã Sơn An, Sơn Thịnh và Sơn Hòa thành xã An Hòa Thịnh; sáp nhập ba xã Sơn Phúc, Sơn Mai và Sơn Thủy thành xã Kim Hoa; sáp nhập xã Sơn Quang và xã Sơn Diệm thành xã Quang Diệm.
Huyện Hương Sơn có 2 thị trấn và 23 xã như hiện nay.
Dân số.
Dân số tính đến năm 2020 là 142.400 người. 11,28% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Hành chính.
Huyện Hương Sơn có 25 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn và 23 xã.
Truyền thống lịch sử-văn hóa.
Hương Sơn xưa kia thuộc phủ Đức Quang (gồm Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc) được xem là vùng đất học của xứ Nghệ. Trong thời kỳ phong kiến, Hương Sơn có khoảng 20 vị đỗ đại khoa (từ phó bảng, tiến sĩ, tạo sĩ trở lên) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Đinh Nho, Tống Trần, Hà Huy, Lê Khánh, Nguyễn Khắc, Đào Duy, Lê Xuân, Văn Đình, Đặng Đình, Trần Đình … và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Hữu Bằng, Tuần Lễ, Gôi Mỹ, Thịnh Xá... Ngày nay có nhiều người thành đạt ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và nước ngoài.
Hương Sơn là quê hương của danh y Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Hiến sát sứ Nguyễn Kính Hài (1448-?), Đô Ngự sử Nguyễn Tử Trọng (1485-?); Hoàng giáp, Thượng thư Nguyễn Văn Lễ (1604-?); Hiến sát sứ, Tiến sĩ Nguyễn Thủ Xứng (1642-?) ; Hiến sát sứ, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vịnh (1679-1750?); Tiến sĩ Đinh Nho Công; Hoàng giáp, Phó Sứ Đinh Nho Hoàn; Tiến sĩ, Thượng thư, Nghĩa quận công Tống Tất Thắng; Tổng binh đồng tri Đinh Nho Côn; Tiến sĩ Đinh Nho Điển; Hoàng giáp Phạm Huy ((1811 - ?)); danh sĩ Lê Hầu Tạo; Thượng thư Đào Hữu Ích; Đốc học, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Đản; Hoàng giáp Nguyễn Khắc Niêm; Phó bảng Lê Kim Thiển; Phó bảng Nguyễn Hoán; Cử nhân Lê Khánh Lam (Tham tri bộ Lễ); các danh tướng Nguyễn Tuấn Thiện, Nguyễn Lỗi, Văn Đình Dận, Cao Thắng, Lương Hiển...
Di tích và danh thắng nổi tiếng.
Ngoài các di tích nổi tiếng nêu trên, ở xã Sơn Phúc còn có cây Thị hơn 100 năm tuổi, nằm ở vườn của gia đình ông Tường, xóm Kim Sơn 2, xã Sơn Phúc. Cây Thị này phải có đến 7 thanh niên nối tay nhau ôm mới xuể. Nhưng ở trong thân cây lại rỗng ruột, muốn leo lên ngọn người ta có thể chui vào trong ruột cây vào leo lên.
Hương Sơn với nghệ thuật.
Hương Sơn có quốc lộ 8 và đường Hồ Chí Minh chạy qua, có cửa khẩu Cầu Treo thông với nước Lào, có con sông Ngàn Phố thơ mộng đi vào thơ ca:
Đặc sản.
Nhung hươu, mật ong rừng, cam bù, cá mát, kẹo cu đơ, trầm hương, nước khoáng, gà đồi, dê núi, chè xanh, trà Tây Sơn, bưởi đường, gỗ quý, măng nứa, hạt dổi, mắc kén, ...
Tham khảo.
Đại Nam nhất thống chí. Viện KHXH Việt Nam - Viện Sử học. Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1997 | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.861912 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Huyện là đơn vị hành chính địa phương cấp hai ở khu vực nông thôn của Việt Nam. Thuật ngữ "cấp huyện" thường được dùng để chỉ toàn bộ cấp hành chính địa phương thứ hai, nghĩa là bao gồm cả thành phố trực thuộc tỉnh, quận, huyện và thị xã.
Một huyện thường được chia thành nhiều xã và có thể có một hay một vài thị trấn hoặc cũng có thể không có thị trấn nào. Một số huyện đảo không phân chia thành các xã, thị trấn do có diện tích hoặc dân số quá nhỏ, thay vào đó chính quyền cấp huyện trực tiếp quản lý tất cả các mặt trên địa bàn huyện. Hiện nay có 5 huyện có chính quyền cấp huyện trực tiếp quản lý gồm: Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Cồn Cỏ (Quảng Trị), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu) và Hoàng Sa (thành phố Đà Nẵng).
Quy định trong luật pháp.
Cấp hành chính.
"1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:"
"Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;"
"Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;"
"Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường."
"Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập."
"Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:"
"1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);"
"2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);"
"3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);"
"4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt."
Như vậy, huyện nằm ở cấp hành chính thứ hai trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, ) của Việt Nam.
Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính.
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại "Điều 2", "Mục 1: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính nông thôn", "Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính" thì một huyện cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau:
"Điều 2. Tiêu chuẩn của huyện"
"1. Quy mô dân số:"
"a) Huyện miền núi, vùng cao từ 80.000 người trở lên;"
"b) Huyện không thuộc điểm a khoản này từ 120.000 người trở lên."
"2. Diện tích tự nhiên:"
"a) Huyện miền núi, vùng cao từ 850 km² trở lên;"
"b) Huyện không thuộc điểm a khoản này từ 450 km² trở lên."
"3. Số đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc có từ 16 đơn vị trở lên, trong đó có ít nhất 01 thị trấn."
Thống kê.
Ngày 31 tháng 12 năm 2009, Việt Nam có 697 đơn vị hành chính cấp huyện, trong đó có 556 huyện.
Đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 705 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm: 1 thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, 82 thành phố thuộc tỉnh (trong đó có 1 thành phố đảo), 52 thị xã, 46 quận và 524 huyện (trong đó có 11 huyện đảo).
huyện Yên Thành (Nghệ An) với 38 xã.
Một số huyện không phân chia thành các đơn vị hành chính cấp xã, gồm các huyện đảo: Cồn Cỏ (Quảng Trị), Bạch Long Vĩ (Hải Phòng), Hoàng Sa (Đà Nẵng), Lý Sơn (Quảng Ngãi), Côn Đảo (Bà Rịa – Vũng Tàu). | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.945947 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Danh sách các núi cao nhất thế giới là danh sách liệt kê 107 đỉnh núi cao nhất đã được biết tới trên thế giới, xếp theo thứ tự từ cao xuống thấp, đo theo độ cao tính từ mực nước biển. Tất cả các đỉnh cao nhất này đều thuộc châu Á.
Sự phân bố.
Hầu hết các đỉnh núi trong danh sách này đều thuộc dãy Himalaya và dãy Karakoram, nằm ở vùng biên giới giữa các nước Ấn Độ, Trung Quốc, Pakistan và Nêpal. Trên thực tế, các đỉnh núi cao hơn 7000 m của thế giới tập trung ở Trung Á, trong một vùng hình chữ nhật với bốn góc là các đỉnh Noshaq (7492 m) trên biên giới Afghanistan - Pakistan ở phía Tây, đỉnh Peak Jengish Chokusu, Tomur Feng (7439 m) ở biên giới Kyrgyzstan-Tân Cương ở phía Bắc, Cống Ca Sơn (Minya Konka) (7556 m) ở Tứ Xuyên phía Đông và Kabru (7412 m) ở biên giới Sikkim - Nepal phía Nam.
Trong hệ Mặt Trời.
Trên các thiên thể thuộc hệ Mặt Trời (trừ bản thân Mặt Trời), người ta quan sát được khá nhiều vùng đất đá nhô cao hơn chung quanh: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.831271 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Núi Non Nước (tên cổ là "Dục Thúy Sơn"), là một núi nhỏ nằm bên ngã ba sông, nơi sông Vân đổ vào sông Đáy, ở giữa cầu Non Nước và cầu Ninh Bình. Núi là một tiền đồn nằm ở cửa ngõ phía đông thành phố Ninh Bình. Lối lên đỉnh Non Nước qua 72 bậc gạch đá, chia làm 5 cấp. Đỉnh núi tương đối bằng phẳng, cây cối xanh mát, có lầu đón gió rất thuận tiện nghỉ ngơi, giải trí cho khách tham quan. Núi Non Nước đã được xếp hạng là di tích lịch sử và thắng cảnh cấp quốc gia đặc biệt quan trọng của Việt Nam, cùng với núi Cá Voi, núi Cánh Diều và núi Kỳ Lân được mệnh danh là Tứ đại danh sơn - tức bốn ngọn núi nổi tiếng của thành phố Ninh Bình.
Dưới chân núi có chùa Non Nước và đền thờ danh sĩ Trương Hán Siêu. Bên núi có nhiều bài thơ được khắc họa vào đá của các thi sĩ như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Nguyễn Du, Thiệu Trị, Tự Đức, Tản Đà...
Lịch sử và sự kiện.
Xưa núi là một vọng gác tiền tiêu bảo vệ thành Hoa Lư. Đặc biệt đây là nơi chứng kiến cuộc chuyển giao chế độ quan trọng trong lịch sử đất nước: từ bến Vân Sàng dưới chân núi, hoàng thái hậu nhà Đinh Dương Vân Nga đã trao áo Long Bào và chờ đợi ngày về cho tướng quân Lê Hoàn cầm quân đánh đuổi quân xâm lược nhà Tống lần thứ nhất, mở ra chiến thắng vang dội trong lịch sử dân tộc.
Trương Hán Siêu là người có công đầu phát hiện và khai thác vẻ đẹp của núi Non Nước. Ông đặt tên núi là "Dục Thúy Sơn" và là người đầu tiên lưu bút tích một bài thơ cho các thi sĩ đến thưởng ngoạn, ngắm cảnh làm những bài thơ khắc vào đá. Đền thờ Trương Hán Siêu và chùa Non Nước được xây dựng bên chân núi. Khu vực này ngày nay là công viên Thúy Sơn của thành phố Ninh Bình. Sách "Đại Nam nhất thống chí" có ghi: "Phía bắc núi có động, trong động có đền thờ Tam Phủ, sườn núi có một tảng đá gần sông có khắc ba chữ "Khán Giao Đình" (Đỉnh xem giao long), phía tây nam núi có đền thờ Sơn Tinh và Thủy Tinh, trên đỉnh có chùa". Ngọn núi này đã chứng kiến dấu tích của nhiều thời kỳ lịch sử. Ngay từ thời Lý Nhân Tông, người Việt đã xây tháp Linh Tế trên núi. Trải qua mưa nắng tháp bị đổ, đến thời Trần Hiển Tông, nhà sư Trí Nhu đã xây lại tháp Linh Tế ở trên đỉnh núi, sáu năm mới xong (1337 - 1342). Trương Hán Siêu, một danh sĩ thời Trần đã có nhiều kỷ niệm với núi Non Nước. Các vua nhà Hậu Lê cũng đặt hành cung ở trên núi này để đến chơi thăm. Nhà Nguyễn cũng cho đặt tường bao quanh gọi là nữ tường, chòi Pháp, xưởng đúc súng ở trên núi...
Núi Non Nước còn là đề tài của các thi nhân xưa và nay. Hiếm có ngọn núi nào có trên 40 bài thơ văn khắc vào núi như núi Thuý và còn đến hàng trăm bài thơ vịnh cảnh của các nhà thơ qua các triều đại như các danh nhân: Trương Hán Siêu, Trần Anh Tông, Trần Minh Tông, Phạm Sư Mạnh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Lê Hiến Tông, Nguyễn Nghi, Nguyễn Huy Oánh, Ngô Phúc Lâm, Ngô Thì Sỹ, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Ninh Tốn, Nguyễn Du, Minh Mạng, Thiệu Trị, Cao Bá Quát, Bùi Văn Dị, Nguyễn Hữu Tường, Phạm Bá Huyền, Phạm Huy Toại, Nguyễn Khuyến, Phạm Văn Nghị, Tự Đức, Từ Đạm, Tản Đà...
Hòn Non Nước nằm ở vị trí rất trọng yếu, án ngữ toàn bộ ngã ba sông Đáy, sông Vân, quốc lộ 10, đường sắt Bắc Nam và gần Quốc lộ 1. Dọc đường lên núi vẫn còn lô cốt với vết tích bom đạn thời chiến. Trên núi có tượng chiến sĩ Lương Văn Tụy.
Trong chiến dịch Quang Trung, cũng trên núi này, thượng tá Giáp Văn Khương làm nhiệm vụ đột kích đồn Hồi Hạc rồi leo lên đỉnh Non Nước mở đột phá khẩu.
Gắn với lịch sử hình thành vùng đất Ninh Bình, núi Thúy - sông Vân trở thành hình ảnh biểu tượng độc đáo đặc trưng của thành phố Ninh Bình.
Các điểm du lịch.
Lầu đón gió.
Nghinh phong các (lầu đón gió) nằm giữa đỉnh núi Non Nước, được xây dựng từ thế kỷ XIV, là nơi Trương Hán Siêu cùng các tao nhân mặc khách tọa đàm ngâm thơ. Xưa trên đỉnh núi có tháp Linh Tế, được xây dựng năm 1091 thời nhà Lý, sau có bài "Linh Tế tháp ký" nổi tiếng của Trương Hán Siêu mô tả tháp này. Nhà chức trách Ninh Bình hiện đang có kế hoạch phục dựng lại tháp Linh Tế trên đỉnh núi Non Nước.
Tượng đài Lương Văn Tụy.
Anh hùng Lương Văn Tuỵ là một chiến sỹ cách mạng trẻ tuổi thời kỳ kháng chiến chống Pháp, người làng Lũ Phong, xã Quỳnh Lưu, huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình. Năm 15 tuổi, Lương Văn Tụy đã bước vào hoạt động cách mạng. Năm 1929, anh được kết nạp vào một tổ chức thanh niên cộng sản ở Ninh Bình được gọi là Đội Võ trang tuyên truyền tỉnh Ninh Bình. Anh được giao nhiệm vụ làm liên lạc, in truyền đơn và các tài liệu bí mật.
Ngày 7/11/1929, chính quyền cách mạng quyết định cắm cờ búa liềm trên núi Non Nước để khích động tinh thần đấu tranh của quần chúng và kỷ niệm cách mạng tháng Mười Nga. Lương Văn Tụy đã nhận nhiệm vụ lịch sử này. Để đánh lừa quân địch, Tụy đã nhanh trí đeo thêm 2 quả lựu đạn giả vào chân cột cờ tạo mối khiếp sợ không dám đến gần.
Sau sự kiện cắm cờ Đảng, ngày 18 tháng 11 năm 1929, trong khi đang mang mang báo “Dân cày” số 2, có in bài tường thuật, kèm theo hình minh họa lá cờ bay trên đỉnh Dục Thúy đến phát ở Yên Mô, quân Pháp đã bắt anh đưa về nhà lao Ninh Bình giam giữ. Ngày 28 tháng 4 năm 1930, anh bị đưa ra xử ở toà thượng thẩm Hà Nội rồi bị đưa đi Côn Đảo. Năm 1932, theo chủ trương của Đảo uỷ, anh cùng một số đồng đội khác vượt biển về đất liền, bị gió to, tất cả đều hy sinh. Năm ấy anh vừa tròn 18 tuổi.
Nhân dân Ninh Bình đã xây dựng tượng đài anh hùng Lương Văn Tụy trên đỉnh núi Non Nước. Tên tuổi của anh cũng được đặt cho một trường trung học nổi tiếng nhất Ninh Bình là Trường Trung học phổ thông chuyên Lương Văn Tụy. Anh cùng với cha mình là Lương Văn Thăng, cậu Đinh Tất Miễn đều được đặt tên cho những đường phố ở thành phố Ninh Bình.
Tượng đài Lương Văn Tụy.
Nhân dân Ninh Bình đã xây dựng tượng đài anh hùng Lương Văn Tụy trên đỉnh núi Non Nước.
Đền thờ Trương Hán Siêu.
Trương Hán Siêu được lập đền thờ tại chân núi Non Nước thuộc công viên Dục Thúy Sơn nằm bên sông Đáy ở thành phố Ninh Bình. Ngôi đền thường là nơi trao các giải thưởng văn hóa và khuyến học ở Ninh Bình như giải thưởng Trương Hán Siêu, giải thưởng học sinh giỏi...
Đền Trương Hán Siêu kiến trúc theo kiểu chữ đinh, gồm 3 gian Bái Đường và 2 gian Hậu cung, hai tầng mái lợp bằng ngói, các góc có các đầu đao cong lên. Trên nóc đền là hai con rồng chầu mặt nguyệt.
Mặt tiền của đền có tấm đại tự bằng chữ Hán "Trương Thăng Phủ Tư". Bái đường có cửa võng, hương án và hai giá ở hai bên cắm bát bửu. Gian cuối của hậu cung có hương án và tượng Trương Hán Siêu được đúc bằng đồng. Gần đền Trương Hán Siêu là di tích lịch sử văn hoá chùa Non Nước, nằm ở phía đối diện qua núi Non Nước. Tất cả hợp lại thành một khu văn hóa, tâm linh đền - chùa - tượng đài - sông núi giữa thành phố Ninh Bình.
Chùa Non Nước.
Ngay dưới chân núi Non Nước là chùa Non Nước - một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời vua Lý Nhân Tông. Năm 2006, chùa được tu bổ.
Từ thời Lý, ngôi chùa này đã xuất hiện tháp là nơi thờ Phật. Trong tháp đặt một tượng Phật chính và một số tượng phụ. Sang thế kỷ XIII, tháp được tách ra, thành hai kiến trúc riêng: chùa và tháp. Tháp không còn là chùa mà trở thành mộ sư. Chính vì vậy, đến đời Trần, tháp Linh Tế đổ vỡ. Đến năm 1337 thời vua Trần Hiến Tông, tháp Linh Tế được khởi công xây dựng lại. Người đứng lên chủ trì việc xây dựng tháp là nhà sư Trí Nhu (người phủ Tràng An, châu Đại Hoàng - tức là người Ninh Bình). Khi đang giữ chức Tả ty Lang trung, Tả giám Nghị đại phu, Trương Hán Siêu đã viết bài "Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký" (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy), nhân việc tháp Linh Tế xây dựng lại xong. Trong bài ký đó, Trương Hán Siêu đã cho biết tháp Linh Tế xây dựng lại cao 4 tầng: "Tháp xây 4 tầng, đêm tỏa hào quang, kẻ xa người gần đều trông thấy rõ".
Cuối thời Hậu Lê tháp Linh Tế bị đổ vỡ. Điều này đã được Phạm Đình Hồ viết trong sách "Tam thương ngẫu lục": "Sau khi vạc đổi, Cung bỏ làm trường lương Tràng An, tháp Linh Tế cũng đổ nát".
Mỗi năm chùa Non Nước đón hàng nghìn lượt khách du lịch trong nước và quốc tế về tham quan.
Động Thủy Thần.
Động Thủy Thần gắn liền với tích truyện con thần nước lấy chàng đánh cá. Thần Nước cai quản tất cả thế giới biển, sông, ao, hồ, làm vua mọi giống thuỷ tộc. Nhưng đôi khi cũng cai quản không chặt chẽ, thậm chí có khi để con gái của mình lên lấy chồng ở trần gian như chuyện xảy ra ở núi Non nước cứ như bây giờ là thuộc về Ninh Bình.
Ngày đó, công chúa con vua Thuỷ Tề đội lốt cá đi ngược dòng sông du ngoạn, không ngờ vô ý thế nào để cho một người thuyền chài đánh lưới bắt được. Người ấy ban đầu thả nuôi ở gầm thuyền. Công chúa phải nhịn đói hơn một ngày khỏng có cái gì ăn. Lúc sắp lả đi vì đói thì may thay được con trai người thuyền chài tuổi còn trẻ ăn cơn đánh đổ xuống gầm thuyền, nhờ đó nàng mới đớp ăn khỏi chết. Hơn nữa, lại nhờ lúc đó, cũng người con trai ấy bắt lên chơi rồi buột tay đánh rơi xuống sông. Thế là công chúa lại được trở về thủy cung.
Nhưng từ ngày về, nàng một phần nhớ ơn, một phần lưu luyến anh con trai ở trần gian, dần dần nhuốm bệnh. Không hiểu về sau nàng làm thế nào mà xin được phép cha đội lốt người, lên ở hẳn trên mặt đất và thoả được nguyện vọng của mình, là kết duyên với chàng trai kia. Bấy giờ gia đình anh chàng cũng trải qua một cuộc tang thương: người cha đã chết, thuyền bị đắm, lưới chài mất sạch. Anh chàng dùng hang Non Nước làm nơi cư trú ngày ngày câu cá sinh nhai. Nàng tìm đến cùng chàng lấy nhau. Tuy sống kham khổ nhưng hai vợ chồng yêu nhau hết mực. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.884961 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Vĩnh Thạnh là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Cần Thơ, Việt Nam.
Trước năm 1975, vùng đất Thốt Nốt (gồm cả toàn bộ huyện Vĩnh Thạnh và một phần huyện Cờ Đỏ) đã từng có thời kỳ thuộc về tỉnh Long Xuyên và sau đó là tỉnh An Giang.
Vĩnh Thạnh là địa danh chỉ mới xuất hiện ở Cần Thơ từ năm 2004 và được dùng để đặt cho tên huyện mới được thành lập của thành phố Cần Thơ. Huyện Vĩnh Thạnh được thành lập vào ngày 2 tháng 1 năm 2004 theo Nghị định số 05/2004/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam trên cơ sở tách phần lớn vùng đất đai phía tây từ huyện Thốt Nốt thuộc tỉnh Cần Thơ cũ, đồng thời là một huyện ngoại thành của thành phố Cần Thơ trực thuộc Trung ương. Ngày 16 tháng 1 năm 2007, lại tách đất các xã Thạnh Quới và Thạnh Mỹ để thành lập mới thị trấn Vĩnh Thạnh.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, theo Nghị định số 12/NĐ-CP của Chính phủ Việt Nam, một phần đất đai phía nam của huyện Vĩnh Thạnh được giao về cho huyện Cờ Đỏ mới được điều chỉnh địa giới hành chính. Hiện nay, huyện Vĩnh Thạnh có 2 thị trấn là thị trấn Vĩnh Thạnh và thị trấn Thạnh An. Huyện lỵ huyện Vĩnh Thạnh được đặt tại thị trấn Vĩnh Thạnh. Đây là huyện có dân số đông nhất của thành phố.
Địa lý.
Huyện Vĩnh Thạnh nằm ở phía tây bắc của thành phố Cần Thơ, cách trung tâm thành phố khoảng 80 km, có vị trí địa lý:
Huyện có diện tích 297,59 km², dân số năm 2019 là 98.399 người, mật độ dân số đạt 331 người/km².
Hạ tầng.
Hiện nay trên địa bàn huyện Vĩnh Thạnh đã và đang hình thành các khu đô thị cao cấp như:
• Khu dân cư, trung tâm thương mại thị trấn Vĩnh Thạnh quy mô 31,55ha ( cung cấp hơn 833 nền ở )
• Khu dân cư Vĩnh Thạnh số 1 quy mô 16,5ha
• Khu dân cư Vĩnh Thạnh số 2 quy mô 8,4ha
• Khu tái định cư Vĩnh Thạnh quy mô 15ha
• Khu tái định cư Vĩnh Trinh ( xã Vĩnh Trinh ) vị trí tiếp giáp QL80 và phạm vi KCN VSIP quy mô 50ha
• Khu tái định cư Vĩnh Trinh ( xã Vĩnh Trinh ) vị trí tiếp giáp QL80 và phạm vi KCN VSIP quy mô 25ha
• Khu dân thương mại TT Thạnh An 1
• Khu dân cư thương mại TT Thạnh An 2
• Khu đô thị Sao Mai - Vĩnh Thạnh ( TT. Thạnh An )
• Khu đô thị Phố Đông Marina Plaza ( xã Vĩnh Trinh ) | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 51 là một trong những quốc lộ tại Việt Nam. Quốc lộ 51 khởi đầu tại thành phố Biên Hòa (tỉnh Đồng Nai) và kết thúc tại thành phố Vũng Tàu (tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu). Quốc lộ bắt đầu tại thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, qua huyện Long Thành (Đồng Nai), tại địa phận tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì Quốc lộ 51 sẽ đi qua các địa phương sau: thị xã Phú Mỹ (huyện Tân Thành cũ), thành phố Bà Rịa và điểm cuối của quốc lộ sẽ nằm tại thành phố Vũng Tàu (Bà Rịa – Vũng Tàu). Quốc lộ 51 chính là một phần của đường Xuyên Á số 17 (AH17). Toàn tuyến quốc lộ dài 86 km.
Lịch sử.
Quốc lộ 51 trước năm 1975 được gọi là Quốc lộ 15, khi đó quốc lộ 15 gồm đoạn từ ngã 3 Vườn Mít đến ngã 3 cầu Suối Quan (gần vòng xoay Cổng 11) và từ ngã 3 cầu Suối Quan đến vòng xoay Cầu Cửa Lấp thuộc TP. Vũng Tàu. Sau khi thống nhất 2 miền, hệ thống quốc lộ ở miền Nam được sắp xếp lại, đồng thời tuyến tránh TP. Biên Hòa từ ngã 3 cầu Suối Quan đến ngã tư Vũng Tàu được xây dựng. Tuyến tránh này cùng với đoạn từ ngã 3 cầu Suối Quan đến vòng xoay Cầu Cửa Lấp được đổi tên thành quốc lộ 51 như hiện nay. Đoạn từ ngã 3 Vườn Mít đến ngã 3 cầu Suối Quan được đổi tên thành đường Phạm Văn Thuận và đường Bùi Văn Hòa
Năm 2014, khi đường Võ Nguyên Giáp hoàn thành, tuyến đường này giao cắt với đường Bùi Văn Hòa tạo thành vòng xoay Cổng 11
Chiều dài.
Chiều dài đi qua của Quốc lộ 51 ở mỗi tỉnh:
Ranh giới giữa tỉnh Đồng Nai và Bà Rịa – Vũng Tàu trên Quốc lộ 51 sẽ nằm tại Khu công nghiệp Sonadezi Gò Dầu, địa giới giáp ranh là ở khu vực Ấp 2, Xã Phước Bình, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai và khu phố Phú Hà, phường Mỹ Xuân, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Các nút giao:.
Trên trục đường này có 3 trạm thu phí, trạm T1 nằm ở Ngã ba Thái Lan thuộc Km11 phường Tam Phước, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trạm T2 thuộc Km29 xã Long An, huyện Long Thành và trạm T3 là trạm Long Sơn thuộc Km56, xã Tân Hải, thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Mặc dù đường rộng (8 làn xe) nhưng mật độ giao thông rất cao do nhu cầu vận tải sắt từ các nhà máy trong KCN Phú Mỹ (Vina Kyeo, PFS, SSC, BSV, ThepViet...), xi măng (Hocilm...), hải sản từ cảng cá Vũng Tàu và các mặt hàng khác về Thành phố Hồ Chí Minh nên con đường trở nên chật hẹp và tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra.
Đường tránh, đường nhánh.
Quốc lộ 51 khi vào thành phố Vũng Tàu chạy ở bờ tây và mở thêm 2 đường về phía đông lần lượt là 51B và 51C.
Ngày 2/8/2009 đã chính thức khởi công dự án mở rộng Quốc lộ 51 lên đến 8 làn xe, tổng mức đầu tư lên đến 3.200 tỷ đồng VND. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Quốc lộ 26 là quốc lộ nối liền 2 tỉnh Khánh Hòa và Đắk Lắk. Tuyến đường bắt đầu từ trung tâm thị xã Ninh Hòa, (Km 1420, Quốc lộ 1, tỉnh Khánh Hòa) đến thành phố Buôn Ma Thuột (tỉnh Đắk Lắk), qua Dục Mỹ, đèo Phượng Hoàng, M'Drắk, Ea Kar; Krông Pắc, Buôn Ma Thuột.
Thông số chung.
Do Công ty Cổ phần Quản lý & Xây dựng đường bộ 26 thuộc Khu Quản lý đường bộ 5 (Nay là Cục Quản đường bộ III) Quản lý tuyến đường, là tuyến đường huyết mạch nối các tỉnh Tây Nguyên với đồng bằng duyên hải Miền trung.
Lý trình chi tiết.
Chiều dài tuyến do Công ty CP QL&XD Đường bộ Khánh Hòa quản lý (Khánh Hòa), dài 32 km.
Chiều dài tuyến do Công ty CP QL&XD Đường bộ 26 Quản lý (Đắk Lắk), dài 119 km. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.811668 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Dãy núi Altay, hay dãy núi Altai, là một dãy núi ở trung tâm châu Á, nằm trên khu vực biên giới Nga, Trung Quốc, Mông Cổ và Kazakhstan, và là thượng nguồn của các con sông lớn như Irtysh, Obi và Enisei. Phần kết thúc phía tây bắc của dãy núi là tọa độ 52° Bắc và trong khoảng 84-90° Đông (tại đây nó nối liền với dãy núi Sayan ở phía đông). Dãy núi này kéo dài về phía đông nam từ đây tới khu vực có tọa độ khoảng 45° Bắc 99° Đông, tại đây nó thấp dần và hòa trộn vào vùng cao nguyên của sa mạc Gobi.
Tên gọi của dãy núi trong tiếng Turk là "Alytau" hay "Altay", trong đó "Al" có nghĩa là "vàng", "tau" là "núi"; trong tiếng Mông Cổ là "Altain-ula", tức "dãy núi Vàng". Dãy núi này còn có tên gọi bản địa khác là "Ek-tagh", "Altai Mông Cổ", "Đại Altai" và "Nam Altai".
Nơi đây có khu vực Các ngọn núi vàng của dãy Altay được công nhận là Di sản thế giới.
Địa thế.
Năm ngọn núi cao nhất của Altai là:
Khu vực phía bắc.
Ở phía bắc của khu vực này là dãy núi Sailughem hay dãy núi Silyughema, còn gọi là "Kolyvan Altai", nó kéo dài từ đông bắc tại khu vực tọa độ 49° Bắc và 86° Đông kéo dài về phía các đỉnh cao phía tây của dãy núi Sayan tại khu vực có tọa độ 51°60' Bắc và 89° Đông. Độ cao trung bình của nó là 1.500-1.750 m. Tuyết bao phủ từ độ cao 2.000 m ở sườn phía bắc và từ độ cao 2.400 m ở sườn phía nam, và phía trên nó là các đỉnh cao gồ ghề cao hơn nữa khoảng 1.000 m. Rất ít các đường đèo vượt ngang qua dãy núi và rất khó đi, chính yếu nhất là Ulan-daban ở cao độ 2.827 m (theo Kozlov là 2.879 m) tại phía nam và Chapchan-daban ở cao độ 3.217 m, tại phía bắc. Ở phía đông và đông nam thì nằm ở sườn dãy núi này là cao nguyên Mông Cổ lớn, chuyển tiếp giữa chúng là các cao nguyên nhỏ, như Ukok 2.380 m với Pazyryk, Chuya 1.830 m, Kendykty 2.500 m, Kak 2.520 m, Suok 2.590 m và Juvlu-kul 2.410 m.
Khu vực này có một vài hồ lớn, như Ubsa-nor 720 m trên mực nước biển, Kirghiz-nor, Durga-nor và Kobdo-nor 1.170 m, và bị cắt ngang bởi nhiều dãy núi khác, trong đó chủ yếu là dãy núi Tannu-Ola, chạy gần như song song với dãy núi Sayan về phía đông tới Kosso-gol, và dãy núi Khan-khu, cũng kéo dài theo hướng đông-tây.
Altai trung tâm.
Các vách núi phía tây bắc và phía bắc của dãy Sailughem là rất dốc và rất khó tiếp cận. Ở phía này là các đỉnh cao nhất của dãy núi, đó là núi đôi Belukha, các đỉnh cao của nó đạt tới độ cao 4.506 và 4.440 m, và là nơi phát sinh của một số sông băng (30 km² trong khu vực tổng thể vào năm 1911). Ở đây còn có Kuitun (3.660 m) và một vài đỉnh núi cao khác nữa. Một số mũi núi khác, tỏa ra theo các hướng từ dãy núi Sailughem và nối liền dãy núi này với vùng đất thấp Tomsk. Chẳng hạn dãy núi Chuya, có độ cao trung bình 2.700 m, với các đỉnh 3.500-3.700 m, và ít nhất 10 sông băng ở sườn phía bắc của nó; dãy núi Katun, có độ cao trung bình khoảng 3.000 m và chủ yếu bị tuyết bao phủ, dãy núi Kholzun; Korgon 1.900-2.300 m, dãy núi Talitskand Selitsk; dãy núi Tigeretsk.
Một vài cao nguyên thứ cấp với độ cao thấp hơn cũng đã được các nhà địa lý phát hiện, Thung lũng Katun bắt đầu như một hẻm núi ở sườn tây nam của Belukha; sau đó qua một khúc uốn cong lớn, con sông Katun dài 600 km này xuyên qua dãy núi Katun và đi vào một thung lũng rộng hơn, nằm ở cao độ từ 600-1.100 m, tại đó nó tiếp tục chảy cho đến khi nó hòa nhập với sông Biya tại khu vực có phong cảnh đẹp. Sông Katun và Biya cùng nhau tạo thành sông Obi.
Thung lũng kế tiếp là Charysh, nó có các dãy núi Korgon, Tigeretsk ở một bên và các dãy núi Talitsk, Bashalatsk ở một bên. Thung lũng này cũng rất màu mỡ. Dãy núi Altai, nhìn từ thung lũng này, tạo thành những phong cảnh đẹp nhất, bao gồm hồ Kolyvan nhỏ nhưng sâu (360 m), được bao quanh bởi các sườn núi granit.
Xa hơn về phía tây là các thung lũng Uba, Ulba và Bukhtarma chạy theo hướng tây-nam về phía sông Irtysh. Phần thấp của thung lũng đầu tiên, tương tự như thung lũng thấp Charysh, có đông dân cư ở; tại thung lũng Ulba là mỏ Riddersk, ở dưới chân đỉnh Ivanovsk (2.060 m), được bao phủ bởi các đồng cỏ vùng núi cao. Thung lũng Bukhtarma có chiều dài 320 km, cũng bắt nguồn từ chân các núi Belukha và Kuitun, và do nó hạ độ cao tới 1.500 m trong khoảng 300 km chiều dài (từ cao nguyên ở độ cao 1.900 m tới pháo đài Bukhtarma ở độ cao 345 m), nó tạo ra một trong những phong cảnh và thảm thực vật tương phản mạnh nhất. Phần trên cao của nó là các sông băng, trong đó được biết đến nhiều nhất là sông băng Berel, bắt nguồn từ Byelukha. Ở phía bắc của dãy núi, nơi chia tách phần thượng của thung lũng Bukhtarma ra khỏi phần thượng của thung lũng Katun là sông băng Katun, sau hai thác băng đã mở rộng ra tới 700–900 m. Từ các hang động trong sông băng này phát sinh sông Katun.
Phần trung và hạ của thung lũng Bukhtarma đã được những người nông dân, nông nô và những người ly giáo ("paskolnik") Nga định cư từ thế kỷ 18, họ đã tạo ra một nước cộng hòa tự do tại đây trên lãnh thổ Trung Quốc; và sau khi phần thung lũng này được sáp nhập vào Nga năm 1869 thì nó đã nhanh chóng bị con người chiếm lĩnh. Các thung lũng cao xa hơn về phía bắc nằm trên cùng một sườn phía tây của dãy núi Sailughem ít được biết đến, chỉ có những người chăn cừu Kirghiz đến đó.
Các sông Bashkaus, Chulyshman và Chulcha đều chảy tới hồ núi cao là hồ Teletskoye (chiều dài 80 km; chiều rộng tối đa 5 km; độ cao 520 m; diện tích 230,8 km²; độ sâu tối đa 310 m; độ sâu trung bình 200 m), xung quanh có người Telengit sinh sống. Các bờ hồ gần như là dốc đứng tới 1.800 m. Từ hồ này phát sinh sông Biya, nối với sông Katun tại Biysk, sau đó chảy quanh co khúc khuỷu qua các thảo nguyên ở tây bắc Altai.
Xa hơn về phía bắc, vùng đất cao Altai kéo dài tới khu vực Kuznetsk, nó có cấu tạo địa chất hơi khác với Altai, nhưng vẫn thuộc về hệ thống Altai. Nhưng sông Abakan phát sinh ở sườn phía tây dãy núi Sayan lại thuộc về hệ thống sông Enisei. Dãy núi Kuznetsk Ala-tau, ở tả ngạn sông Abakan, chạy theo hướng bắc-đông tới khu vực thị trấn Eniseisk, trong khi phức hệ núi (Chukchut, Salair, Abakan) chiếm lĩnh các khu vực theo hướng bắc tới đường sắt xuyên Siberi và về hướng tây tới sông Obi.
Đông Altai.
Ek-tagh hay Altai Mông Cổ chia tách lòng chảo Kobdo ở phía bắc ra khỏi lưu vực sông Irtysh ở phía nam, có thể coi là biên giới thực thụ, tại khu vực này phát sinh các vách núi dốc đứng từ vùng đất thấp Dzungaria (Chuẩn Cát Nhĩ) (470–900 m), nhưng thấp dần về phía bắc tới một cao nguyên có độ dốc tương đối nhỏ (1.150-1.680 m) ở phía tây bắc Mông Cổ. Về phía đông của kinh độ 94° thì dãy núi được nối tiếp bằng một chuỗi kép các dãy núi, tất cả chúng đều ít đáng chú ý về mặt sơn văn học và có độ cao thấp hơn nhiều. Các sườn núi của chuỗi hợp thành hệ thống này chủ yếu là những người Kirghiz du cư sinh sống.
Di sản thế giới.
Là vùng núi có diện tích 16.175 km² bao gồm Altai và Khu bảo tồn thiên nhiên Altai, khu bảo tồn tự nhiên Katun, hồ Teletskoye, đỉnh Belukha và cao nguyên Ukok - tạo thành di sản thế giới tự nhiên của UNESCO, gọi là "Dãy núi vàng Altai". Thông báo trông miêu tả của UNESCO viết: "khu vực tượng trưng cho chuỗi hoàn hảo nhất của các thảm thực vật vùng cao tại trung tâm Siberia, từ thảo nguyên, thảo nguyên-rừng, rừng hỗn hợp, thực vật vùng phụ cận núi cao và thực vật vùng núi cao". Khi đưa ra quyết định của mình, UNESCO cũng đề cập tới tầm quan trọng của Altai thuộc Nga trong việc bảo tồn các động vật có vú đang nguy cấp ở mức độ toàn cầu, chẳng hạn báo tuyết và cừu aga Altai.
Địa chất.
Dãy núi Altai tiêu biểu cho khu vực phía bắc nhất chịu ảnh hưởng của các va chạm kiến tạo của tiểu lục địa Ấn Độ vào châu Á. Các hệ thống đứt gãy lớn chạy suốt trong khu vực, bao gồm khu vực đứt gãy Kurai và khu vực đứt gãy gần đây mới phát hiện ra là khu vực đứt gãy Tashanta. Các hệ thống đứt gãy này là các đứt gãy xô đẩy hoặc trượt, một số trong chúng thuộc dạng đang hoạt động kiến tạo. Các dạng đá điển hình của dãy núi là các loại granit và đá phiến biến chất và một số bị biến dạng lớn gần các khu vực đứt gãy.
Hoạt động địa chấn.
Ngày 27 tháng 9 năm 2003 một trận động đất mạnh, đạt tới 7,3 Mw, đã diễn ra tại khu vực lưu vực Chuya ở phía nam dãy núi Altai. Tuy nhiên, hoạt động địa chấn ít khi xảy ra. Trận động đất này và các dư chấn của nó đã phá hủy nhiều khu vực, gây ra tổn thất ước tính 10,6 triệu USD (theo USGS) và phá hủy hoàn toàn làng Beltir. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.803159 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Châu Thành là một từ được sử dụng khá nhiều làm địa danh ở miền Nam Việt Nam. Trong lịch sử, danh xưng "là một tên chung để gọi “lị sở” hay là “thủ phủ” của tỉnh. Sau biến thành tên riêng của cả loạt “lị sở” hay là “thủ phủ” của nhiều tỉnh ở Nam Kỳ". Ngày nay, địa danh này vẫn còn được sử dụng khá nhiều ở miền Nam Việt Nam, với 11 huyện và 4 thị trấn.
Từ nguyên.
Tài liệu chữ Hán.
Trong các tài liệu chữ Hán, từ "châu thành" được ghi bằng nhiều cách như "州城", "珠城", "周城". Trừ chữ "thành" 城 có nghĩa thống nhất là "thành lũy", thì chữ "châu" lại có nhiều cách ghi nghĩa khác nhau:
Tài liệu Quốc ngữ.
Các tài liệu Quốc ngữ định nghĩa từ "châu thành" như sau:
Trong văn hóa dân gian Nam Bộ.
Theo các nhà nghiên cứu, trong văn học dân gian ở Nam Bộ có khá nhiều câu sử dụng từ “châu thành”, mặc dù trong văn bản được viết hoa, nhưng “châu thành” ở đây được dùng như là một danh từ chung, chỉ nơi phố xá đông đúc, văn minh:
Hoặc:
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thanh Lợi, thì từ “châu thành” xuất hiện muộn nhất vào năm 1859, khi Pháp đánh chiếm Gia Định, suy từ câu ca dao:
Cung theo ông Nguyễn Thanh Lợi, từ "Châu Thành" xuất hiện với tư cách là một địa danh hành chính cấp hạt tham biện (arondissemnent) hay cấp quận về sau này, suy theo 2 câu ca dao sau:
Lịch sử một địa danh.
Trong các tài liệu sử chính thống của triều Nguyễn như Gia Định thành thông chí và Đại Nam nhất thống chí đều không ghi lại địa danh nào là Châu Thành ở vùng đất mới. Thậm chí Đại Nam nhất thống chí dù chép rất chi tiết lỵ sở của Tỉnh thành, Phủ trị, huyện trị, nhưng không có địa danh Châu Thành nào.
Từ lúc kiểm soát được tỉnh Gia Định (1862) cho đến khi chiếm được toàn bộ Nam Kỳ (1867), thực dân Pháp vẫn tạm thời duy trì cách phân chia địa giới hành chánh cũ của triều Nguyễn một thời gian. Thời gian này, người Pháp gọi "département" thay cho phủ, gọi "arrondissement" thay cho huyện ở những vùng họ chiếm được. Tuy nhiên, do tình trạng thiếu hụt nhân sự, người Pháp không duy trì bộ máy hành chính ở cấp tỉnh và cấp phủ, mà cố duy trì bộ máy hành chính cũ ở cấp huyện, với sự hợp tác của các quan lại cũ đã đầu hàng, dưới sự giám sát của các Thanh tra bản xứ vụ (inspecteur des affaires indigènes) người Pháp. Mỗi thanh tra phải kiêm quản việc giám sát của nhiều huyện hợp lại thành địa bàn của hạt thanh tra (inspection). Các hạt thanh tra đặt trực tiếp dưới quyền lãnh đạo của Soái phủ Nam Kỳ. Toàn cõi Nam Kỳ bấy giờ có 27 hạt thanh tra như thế.
Mãi đến sau khi chiếm được Nam Kỳ lục tỉnh, năm 1867, thực dân Pháp bãi bỏ một phần phân cấp hành chính của nhà Nguyễn. Cấp phủ hoàn toàn bị bãi bỏ. Các hạt thanh tra được đặt tên lại, hầu hết theo tục danh bằng tên Nôm của địa danh thôn xã nơi đặt lỵ sở hạt thanh tra. Các hạt của Nam Kỳ bấy giờ bao gồm:
Theo Nghị định ngày 7 tháng 6 năm 1871, chính quyền thuộc địa thay tên gọi hạt thanh tra "inspection" bằng địa hạt "arrondissement". Người đứng đầu địa hạt được gọi là Chánh tham biện ("administrateur"). Toàn cõi Nam Kỳ được thu gọn còn 19 hạt:
Mặc dù vẫn duy trì tên gọi của các tỉnh tương tự như thời Nguyễn, nhưng tên tỉnh không còn bất kỳ một ý nghĩa hành chính đặc biệt nào. Cấp huyện cũng bị bãi bỏ hoàn toàn.
Nơi đặt lỵ sở của các địa hạt được gọi là "chef-lieu" (thủ phủ), cùng tên với tên địa hạt, dân gian gọi là "châu thành". Vì vậy để phân biệt với tên hạt, dân gian thường đặt thêm từ "châu thành" trước tên hạt để phân biệt, lâu dần thành tên thông dụng.
Thực dân Pháp vẫn tiếp tục quá trình cải tổ phân cấp hành chính ở Nam Kỳ theo khuôn mẫu tại chính quốc. Nghị định ngày 16 tháng 1 năm 1899, đổi tên hạt thành tỉnh (province), và từ ngày 1 tháng 1 năm 1900, toàn cõi Nam Kỳ chia thành 20 tỉnh như sau:
Ngoài ra còn có 3 thành phố độc lập là Sài Gòn, Chợ Lớn và Cap Saint Jacques (Vũng Tàu).
Danh xưng người đứng đầu cũng thay đổi, từ Chánh tham biện đổi thành Chủ tỉnh ("chef de la province"), Tòa tham biện gọi là Tòa bố.
Đến đầu thập niên 1900, thực dân Pháp phân chia hành chính tỉnh thành các quận ("circonscription") hoặc đại lý hành chánh (délégation) dưới quyền chủ quận hay phái viên hành chánh; quận chia ra tổng (canton), đứng đầu là cai tổng (chef de canton). Tổng chia thành xã. Hệ thống hành chính cũ của nhà Nguyễn bị xoá bỏ hoàn toàn trên cõi Nam Kỳ.
Bắt đầu từ năm 1912, danh xưng Châu Thành bắt đầu chính thức được đặt cho đơn vị hành chính cấp quận ở Nam Kỳ với sự thành lập của quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho. Tính đến năm 1944, khi quận Châu Thành, tỉnh Tân Bình được thành lập, trong 21 tỉnh trên toàn cõi Nam kỳ, trừ 4 tỉnh Gò Công, Gia Định, Chợ Lớn và Bạc Liêu, các tỉnh còn lại đều thành lập quận Châu Thành trên cơ sở thủ phủ của các địa hạt xưa. Từ đó, danh từ Châu Thành được dùng để đặt cho nhiều địa danh chính thức cho đến tận ngày nay ở miền Nam Việt Nam.
Các đơn vị hành chính hiện hữu.
Ngày nay, từ Châu Thành vẫn còn được sử dụng cho 11 huyện và 4 thị trấn ở Nam Bộ, gồm có:
Các thị trấn huyện lỵ của một số huyện mang tên Châu Thành: | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.440353 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sơn Tây là một thị xã thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Địa lý.
Thị xã Sơn Tây nằm ở phía tây bắc thành phố Hà Nội, là cửa ngõ phía tây của thủ đô, cách trung tâm thành phố Hà Nội 45 km về phía tây theo quốc lộ 32, có vị trí địa lý:
Sơn Tây là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội của cả vùng; có nhiều đường giao thông thủy, bộ nối với trung tâm Thủ đô Hà Nội; các vùng Đồng bằng sông Hồng với Tây Bắc Bộ như: Sông Hồng, sông Tích, Quốc lộ 32, Quốc lộ 21A, Tỉnh lộ 414, 413. Tính đến năm 2018, thị xã Sơn Tây có tổng diện tích tự nhiên là 113,5 km², dân số khoảng 230.577 người, được chia làm 15 đơn vị hành chính gồm 9 phường và 6 xã có 53 cơ quan, doanh nghiệp, bệnh viện, trường học và 30 đơn vị quân đội trên địa bàn.
Lịch sử.
Theo thư tịch cổ thì tên Sơn Tây xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1469, đó là trấn sở Sơn Tây đóng ở xã La Phẩm, huyện Tiên Phong, phủ Quảng Oai (nay thuộc, Tản Hồng, Ba Vì, Hà Nội), thời đó gọi là Sơn Tây Thừa Tuyên. Đến thời Lê Cảnh Hưng do bị ngập lụt, nước làm lở thành, trấn sở được dời về xã Mông Phụ, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai (nay thuộc xã Đường Lâm).
Theo Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu thì: "Năm Minh Mệnh thứ 12 (1832), chia hạt gọi là tỉnh Sơn Tây. (Đặt chức Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc, cai trị các hạt Sơn Tây, Hưng Hóa, Tuyên Quang; tỉnh lỵ trước ở xã Cam Giá (làng Mía) huyện Phúc Thọ, năm Minh Mệnh thứ 3 dời đến xã Thuần Nghệ, huyện Minh Nghĩa (nay (tức năm 1890) là huyện Tòng Thiện))."
Phần đất thị xã Sơn Tây ngày nay vào đầu thế kỷ 19 tương ứng thuộc đất các tổng Cam Giá Thịnh (các làng xã: Cam Giá Thịnh (tức Cam Thịnh hay Yên Thịnh), Yên Mỹ, Cam Tuyền (Cam Lâm), Đông Sàng, Mông Phụ, Giáp Đoài Thượng (Đoài Giáp), Phú Nhi (Phú Nhi, Phú Mai, Phú Hậu), Tân Hội (Hà Tân)..), tổng Phù Sa (làng Phù Sa, Tiền Huân, Thiều Xuân...)... của huyện Phúc Lộc (Phúc Thọ) phủ Quảng Oai và tổng Thanh Vị (các làng xã: Sơn Lộc, Vị Thủy, Thanh Vi, Tây Vị, Nghĩa Đảm (Nghĩa Phủ), Vân Gia, Thanh Trì, Kính Mỗ (Ái Mỗ), Khê Trai, Đạm Trai (Mai Trai), Thuần Nghệ... của huyện Minh Nghĩa phủ Quảng Oai; các làng xã Sơn Đông, Triều Đông (Cổ Đông)... tổng Tường Phiêu huyện Thạch Thất phủ Quốc Oai. Năm 1831, Minh Mạng cải cách hành chính, giải thể Bắc Thành, đổi các trấn thành tỉnh, trấn Sơn Tây đổi thành tỉnh Sơn Tây. Thành trấn Sơn Tây cũ trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây.
Năm 1883 thực dân Pháp chiếm thành Hà Nội lần thứ 2, ép triều đình Huế ký hiệp ước Quý Mùi (Harmand) vào ngày 25 tháng 8 năm 1883. Kháng lệnh triệt binh của triều đình, Bố Chính Sơn Tây Nguyễn Văn Giáp vẫn cầm quân anh dũng giữ thành. Giặc Pháp huy động quân tổng lực tầu chiến từ Sông Hồng, nhiều đại bác quyết chiếm thành Sơn Tây. Để bảo toàn lực lượng, quân ta rút ra ngoài thành (ngày 16 tháng 12 năm 1883) tập hợp và phát triển lực lượng thành cuộc khởi nghĩa Tây Bắc anh dũng, rộng khắp do Nguyễn Quang Bích và Nguyễn Văn Giáp lãnh đạo kéo dài nhiều năm sau. Từ đó thành Sơn Tây lọt vào tay thực dân Pháp. Sau khi ổn định chính quyền cai trị tại Việt Nam, năm 1884, thực dân Pháp thành lập thị xã Sơn Tây để làm thủ phủ của tỉnh Sơn Tây mới với các ranh giới phía tây, phía bắc và phía đông của tỉnh Sơn Tây là sông Đà, sông Hồng và sông Đáy.
Đầu thế kỷ 20 (khoảng năm 1924), phần đất thị xã Sơn Tây ngày nay thuộc các tổng Cam Giá Thịnh (các xã Cam Giá Thịnh, Cam Lâm, Đoài Giáp, Đông Sàng, Mông Phụ, Phú Nhi, Yên Thịnh) và Phù Sa (các xã Phù Sa, Thiều Xuân, Tiền Huân) của huyện Phúc Thọ, các tổng Thanh Vị (các xã Ái Mỗ, Bảo vệ, Yên Vệ, Đạm Trai, Mai Trai, Nghĩa Phủ, Thuần Nghệ, Thanh Trì, Thanh Vị, Tây Vị, Vị Thủy, Sơn Lộc), Nhân Lý (xã Xuân Khanh), Tường Phiêu (Sơn Đông, Sơn Trung..) của huyện Tùng Thiện, (Phúc Thọ và Tùng Thiện là các huyện của phủ Quốc Oai tỉnh Sơn Tây Bắc Kỳ thuộc Pháp).
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, thị xã Sơn Tây là tỉnh lỵ của tỉnh Sơn Tây. Ngày 21 tháng 4 năm 1965 tỉnh Sơn Tây nhập với tỉnh Hà Đông thành tỉnh Hà Tây. Thị xã Sơn Tây từ đó không còn vai trò tỉnh lỵ, mà thay vào đó là thị xã Hà Đông.
Ngày 16 tháng 10 năm 1972, chuyển xã Trung Hưng thuộc huyện Ba Vì và thôn Yên Thịnh II thuộc xã Đường Lâm (sáp nhập vào xã Viên Sơn) về thị xã Sơn Tây quản lý.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, thị xã Sơn Tây trực thuộc tỉnh Hà Sơn Bình, gồm 3 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Quang Trung và 2 xã: Trung Hưng, Viên Sơn.
Ngày 29 tháng 12 năm 1978, thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội.
Ngày 2 tháng 6 năm 1982, chuyển 7 xã Thanh Mỹ, Kim Sơn, Xuân Sơn, Trung Sơn Trầm, Đường Lâm, Sơn Đông, Cổ Đông thuộc huyện Ba Vì về thị xã Sơn Tây quản lý.
Ngày 14 tháng 3 năm 1984, thành lập 2 phường Sơn Lộc (tách ra từ xã Trung Hưng và xã Trung Sơn Trầm) và Xuân Khanh (tách ra từ xã Xuân Sơn và xã Thanh Mỹ).
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, thị xã Sơn Tây lại trở về tỉnh Hà Tây.
Ngày 9 tháng 11 năm 2000, thành lập phường Phú Thịnh trên cơ sở một phần diện tích và dân số của xã Viên Sơn.
Ngày 30 tháng 5 năm 2006, thị xã Sơn Tây được công nhận là đô thị loại III.
Ngày 2 tháng 8 năm 2007, thành lập thành phố Sơn Tây thuộc tỉnh Hà Tây.
Ngày 1 tháng 3 năm 2008, chuyển 3 xã Trung Hưng, Trung Sơn Trầm và Viên Sơn thành 3 phường có tên tương ứng. Thành phố Sơn Tây có 9 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Phú Thịnh, Quang Trung, Sơn Lộc, Trung Hưng, Trung Sơn Trầm, Viên Sơn, Xuân Khanh và 6 xã: Cổ Đông, Đường Lâm, Kim Sơn, Sơn Đông, Thanh Mỹ, Xuân Sơn.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, cùng với toàn bộ tỉnh Hà Tây, thành phố Sơn Tây được nhập về thủ đô Hà Nội.
Ngày 8 tháng 5 năm 2009, Chính phủ ra nghị quyết chuyển thành phố Sơn Tây thành thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội.
Hành chính.
Thị xã Sơn Tây gồm có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: Lê Lợi, Ngô Quyền, Phú Thịnh, Quang Trung, Sơn Lộc, Trung Hưng, Trung Sơn Trầm, Viên Sơn, Xuân Khanh và 6 xã: Cổ Đông, Đường Lâm, Kim Sơn, Sơn Đông, Thanh Mỹ, Xuân Sơn.
Giao thông.
Trong danh sách dưới đây, có một số đường phố có tên trùng với các đường phố của các quận nội thành khác do trước đây các đường phố này thuộc địa phận tỉnh Hà Tây cũ.
Văn hóa.
Ẩm thực.
Bánh tẻ Phú Nhi: Chiếc bánh tẻ nho nhỏ, thon thon, nhân thịt nạc, mộc nhĩ, ăn không biết ngán.
Gà Mía: "Đặc sản tiến vua" Có vẻ đẹp phảng phất như con công, thường được tả là "đầu công, mình cốc, cánh trai, ngắn quản, dài đùi, diều vịt, mã lĩnh"… chính là những chú gà Mía – một giống gà quý giá được người Đường Lâm dày công chăm bẵm và bảo tồn nguồn gen đến tận ngày nay.
Làng nghề truyền thống.
Gạch đá ong: có vẻ đẹp tự nhiên và tiện ích cũng khá đặc biệt. Nhà xây tường gạch đá ong thì không khí trong nhà sẽ rất mát mẻ vào mùa hè, ấm áp vào mùa đông. Màu vàng nâu sậm của gạch đá ong dễ gợi tới vẻ đẹp thâm trầm mà ấm áp của đời sống tinh thần vùng trung du Bắc Bộ. Gạch này chịu lực tốt. Nhìn những ngôi nhà ở vùng Thạch Thất tường được xây bằng gạch đá ong, trần nhà bê tông, thấy được sự chắc chắn, vững vàng. Dấu tích chịu lực công phá còn thấy ở nhiều bức tường gạch đá ong Thạch Thất, Sài Sơn là những vết đạn từ thời chống Pháp lỗ chỗ trên tường, không xuyên được và không phá vỡ được bức tường tưởng chừng như rất thô sơ đó. Điều đặc biệt là tường gạch đá ong được xây không phải bằng vôi vữa, xi măng mà gắn mạch bằng đất màu hoặc đất trộn trấu nhào kĩ. Ấy thế mà sự liên kết lại vô cùng chắc chắn, không thua kém gạch nung xây bằng vữa ba - ta hoặc vữa xi - cát.
Giáo dục.
Thị xã Sơn Tây là nơi có nhiều trường đại học và cao đẳng, đặc biệt là các trường quân sự. Vì vậy, Sơn Tây còn được gọi là "Thủ đô của lính".
Hạ tầng.
Hiện nay, trên địa bàn thị xã Sơn Tây đã và đang hình thành một số khu đô thị cao cấp như: Khu đô thị HUD - Sơn Tây (giữa 3 phường Trung Hưng, Quang Trung và Sơn Lộc), khu đô thị Phú Thịnh (phường Phú Thịnh), khu đô thị Mai Trai - Nghĩa Phủ (phường Trung Hưng), khu đô thị Đồi Dền (phường Trung Sơn Trầm), khu đô thị Green City - Thuần Nghệ (giữa 2 phường Quang Trung và Viên Sơn), khu đô thị Thiên Mã (Xã Sơn Đông)...
Các tuyến xe buýt đi qua và đi từ địa bàn thị xã Sơn Tây: 20A (Cầu Giấy - Bến xe Sơn Tây), 20B (Nhổn - Võng Xuyên - Bến xe Sơn Tây), 67 (Bến xe Phùng - Bến xe Sơn Tây), 74 (Bến xe Mỹ Đình - Xuân Khanh), 89 (Bến xe Yên Nghĩa - Bến xe Sơn Tây), 92 (Nhổn - Phú Sơn (Ba Vì)), 107 (Kim Mã - Làng văn hóa du lịch các dân tộc VN), 110 (Bến xe Sơn Tây - Đá Chông), 111 (Bến xe Sơn Tây - Bất Bạt), 157 (Bến xe Mỹ Đình - Bến xe Sơn Tây).
Du lịch.
Sơn Tây có nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử - văn hóa nổi tiếng như: Hồ Đồng Mô, thành cổ Sơn Tây, làng Việt cổ đá ong Đường Lâm, Chùa Mía, lễ hội đền Và...
Nổi tiếng với sự tích Sơn Tinh - Thủy Tinh.
Kết nghĩa.
Với tỉnh Tây Ninh: Sông Tây Ninh là "tình kết nghĩa" giữa đồng bào miền Bắc với đồng bào miền Nam trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Sông Tây Ninh là con sông đào, chảy qua đồng đất một số xã ở huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây và Hà Tây cũ, nay là ngoại thành Hà Nội. Ngày ấy mỗi tỉnh ở miền Bắc đăng tên kết nghĩa với một hoặc hai tỉnh ở miền Nam. Cả nước ta thành từng cặp tỉnh thành kết nghĩa như: Sơn Tây - Tây Ninh, Hà Đông - Cần Thơ, Hà Nội - Huế - Sài Gòn, Hải Phòng - Đà Nẵng, Thái Nguyên - Nha Trang… | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Mộ Đức là một huyện đồng bằng nằm ở phía đông nam tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Mộ Đức là huyện đồng bằng trọng điểm lúa của tỉnh Quảng Ngãi. Có Quốc lộ 1, Quốc lộ 24 và đường sắt Thống Nhất chạy qua. Nghề chính xưa nay vẫn là nghề nông, công thương nghiệp truyền thống có một số làng nghề đáng chú ý và ngày nay đang được đẩy mạnh. Mộ Đức là quê hương của nhà chính trị, nhà văn hóa lớn Phạm Văn Đồng.
Địa lý.
Huyện Mộ Đức nằm ở phía đông tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý:
Địa bàn huyện tựa như một hình tam giác, nhọn hẹp ở phía bắc, phình rộng ở phía nam. Diện tích tự nhiên của huyện là 212,23 km², dân số là 144.230 người, mật độ dân số đạt 680 người/km².
Cư dân huyện Mộ Đức chủ yếu là người Kinh, năm 2005 chỉ có 36 người Hrê sống ở phía tây xã Đức Phú. Xưa kia có một số người Hoa đến buôn bán, sinh sống ở Lạc Phố. Cư dân chủ yếu sống bằng nghề nông, kết hợp với đánh cá, làm nghề thủ công, buôn bán.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi – Hoài Nhơn đi qua đang được xây dựng.
Khí hậu.
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới, nhiệt độ ở huyện có biên độ dao động thấp, quanh giá trị trung bình hàng năm là 27,5độ C. Thời tiết luôn biến đổi bất thường, làm ảnh hưởng không nhỏ đến việc phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân.
Tự nhiên.
Về tự nhiên, huyện Mộ Đức là dải đồng bằng ven biển, có núi cao ở phía tây như núi Lớn (Đại Sơn), núi Giàng, có các đồi sót ở rải rác trong huyện như núi Long Phụng, núi Điệp, núi Vom, núi Văn Bân, núi Ông Đọ, núi Thụ, núi Long Hồi. Chạy dọc ở phía bắc có sông Vệ (làm ranh giới với huyện Tư Nghĩa), từ sông Vệ có có chi lưu là sông Thoa chảy theo hướng đông nam, qua vùng trung tâm huyện. Từ tây sang đông, Mộ Đức có 4 kiểu địa hình, lần lượt là: vùng cao, vùng trung bình, vùng thấp, doi cát ven biển.
Bờ biển Mộ Đức dài 32 km, nhưng là bãi ngang, chỉ có cửa Lở mở lấp hằng năm.
Đồng bằng Mộ Đức khá màu mỡ, thích hợp với cây lúa nước và nhiều giống cây trồng khác, tuy nhiên một số vùng hay bị úng ngập, nhất là dọc phía đông Quốc lộ 1. Đất gò đồi ở Mộ Đức có nhiều đá ong, có đất cao lanh, ở Tú Sơn, Thạch Trụ có suối khoáng.
Hành chính.
Huyện Mộ Đức có 13 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Mộ Đức (huyện lỵ) và 12 xã: Đức Chánh, Đức Hiệp, Đức Hòa, Đức Lân, Đức Lợi, Đức Minh, Đức Nhuận, Đức Phong, Đức Phú, Đức Tân, Đức Thắng, Đức Thạnh; chia thành 69 thôn và tổ dân phố.
Lịch sử.
Đời nhà Hồ, Mộ Đức có tên là huyện Khê Cẩm thuộc châu Nghĩa, một trong bốn châu của lộ Thăng Hoa (tức Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay). Đời Lê, Mộ Đức có tên là huyện Mộ Hoa bao gồm rẻo đất từ nam sông Vệ đến hết đèo Bình Đê (giáp giới với tỉnh Bình Định ngày nay).
Đời Lê, huyện Mộ Hoa có 53 xã, thôn. Đến đời Nguyễn, năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), vì kỵ huý, huyện Mộ Hoa phải đổi lại là Mộ Đức, tuy địa giới vẫn như trước, nhưng có đến 6 tổng với 175 xã thôn. Sáu tổng ở Mộ Đức là Quy Đức, Cảm Đức, Triêm Đức, Ca Đức, Lại Đức, Tri Đức.
Từ cuối thế kỷ XIX (dưới thời Pháp thuộc), các tổng, xã phía nam tách lập châu rồi huyện Đức Phổ, các xã phía bắc - tây bắc nhập vào huyện Nghĩa Hành.
Năm 1932, huyện Mộ Đức đổi là phủ Mộ Đức.
Sau năm 1945, huyện Mộ Đức mang tên là huyện Nguyễn Bá Loan (tên một chí sĩ yêu nước trong phong trào Cần vương, Duy tân), sau đó lấy lại tên cũ, các tổng được bãi bỏ, các xã cũ hợp lại thành xã mới lớn hơn và trực thuộc huyện.
Sau nhiều lần điều chỉnh, huyện Mộ Đức có 11 xã: Đức Nhuận, Đức Thắng, Đức Chánh, Đức Hiệp, Đức Minh, Đức Thạnh, Đức Tân, Đức Hòa, Đức Phú, Đức Phong, Đức Lân.
Trong thời kỳ chính quyền Sài Gòn kiểm soát, huyện Mộ Đức đổi tên là quận Mộ Đức, kể từ giữa 1958, đổi tên các xã và thành lập xã mới, vẫn giữ chữ "Đức" ở đầu: xã Đức Nhuận đổi là xã Đức Quang; xã Đức Thắng chia thành hai xã Đức Phụng và Đức Hải; xã Đức Chánh đổi là xã Đức Hoài; xã Đức Hiệp đổi là xã Đức Thọ; xã Đức Minh đổi là xã Đức Lương; xã Đức Thạnh đổi là xã Đức Phước; xã Đức Tân đổi là xã Đức Vinh; xã Đức Hòa đổi là xã Đức Thạch; xã Đức Phú đổi là xã Đức Sơn; xã Đức Phong đổi là xã Đức Thuận; xã Đức Lân đổi là xã Đức Mỹ.
Phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng vẫn gọi theo tên xã có từ thời kháng chiến chống Pháp. Riêng xã Đức Hải do chính quyền Sài Gòn thành lập, từ ngày 11 tháng 3 năm 1966, đặt tên là xã Đức Lợi.
Sau năm 1975, huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 12 xã: Đức Chánh, Đức Hiệp, Đức Hòa, Đức Lân, Đức Lợi, Đức Minh, Đức Nhuận, Đức Phong, Đức Phú, Đức Tân (trung tâm huyện), Đức Thắng và Đức Thạnh.
Ngày 12 tháng 3 năm 1987, thành lập thị trấn Đồng Cát (thị trấn huyện lỵ huyện Mộ Đức) trên cơ sở tách thôn 2 (trừ xóm Cây Gạo), thôn 4 (trừ xóm Chùa), thôn 5 và thôn 6 (xã Đức Tân).
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Mộ Đức thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 1 tháng 10 năm 1992, chuyển thôn 4 thuộc thị trấn Đồng Cát về lại xã Đức Tân quản lý (trừ sân vận động và 1,8 ha vùng Gò Giàng), đồng thời sáp nhập 17 ha đất ruộng phía đông bắc cầu Bà Trà, 214 ha đất màu vùng Đá Bàn phía tây kênh nam sông Vệ và diện tích vùng núi lớn (lấy ranh giới là đường phân thủy từ đỉnh Lỗ Tây xuống phía nam hồ Đá Bàn) thuộc xã Đức Tân vào thị trấn Đồng Cát (sau khi điều chỉnh địa giới hành chính) và đổi tên thành thị trấn Mộ Đức.
Huyện Mộ Đức có 1 thị trấn và 12 xã như hiện nay.
Kinh tế.
Về kinh tế, Mộ Đức là huyện trọng điểm lúa của tỉnh Quảng Ngãi. Nghề nông từ xưa đến nay vẫn là ngành sản xuất chính, một nguồn sống quan trọng của nhân dân trong huyện, trong khi tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao và góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, cải biến cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng tiến bộ.
Nông lâm ngư nghiệp:Tính đến năm 2005, trong số trên 144.500 người dân của Mộ Đức, có đến trên 113.000 người sống bằng nghề nông, lâm và ngư nghiệp (chủ yếu là nghề nông) với gần 55.500 lao động (so với 12.500 lao động trong các nghề khác), chiếm khoảng 5/6 tổng số lao động của toàn huyện. Trừ xã Đức Lợi chủ yếu sống bằng ngư nghiệp, các xã khác hầu hết dân số đều sống bằng nghề nông. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản là 397,803 tỉ đồng (giá trị hiện hành 2005), trong đó nông nghiệp chiếm đến 309,399 tỉ đồng (trồng trọt 229,029 tỉ đồng, chăn nuôi 69,162 tỉ đồng), các dịch vụ nông nghiệp trên 11,208 tỉ đồng, lâm nghiệp trên 5,554 tỉ đồng, thủy sản gần 82,850 tỉ đồng.
Ngành chăn nuôi được chú ý phát triển, trong đó chủ yếu là chăn nuôi gia súc, gia cầm như trâu, bò, heo, gà, vịt, dê... | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Ba Tơ là một huyện miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Ba Tơ nằm ở phía tây nam của tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý:
Diện tích tự nhiên của huyện là 113.669,52 ha, lớn nhất trong các đơn vị hành chính cấp huyện thuộc tỉnh Quảng Ngãi và chiếm hơn 1/5 diện tích toàn tỉnh. Dân số của huyện năm 2008 là 49.766 người, chủ yếu gồm các dân tộc: Kinh và H're.
Hành chính.
Huyện Ba Tơ có 19 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 1 thị trấn và 18 xã:
Lịch sử.
Sau năm 1975, huyện Ba Tơ thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 14 xã: Ba Bích, Ba Dung, Ba Trung, Ba Điền, Ba Dinh, Ba Đình, Ba Động, Ba Lế, Ba Nam, Ba Ngạc, Ba Tiêu, Ba Trang, Ba Vinh, Ba Xa.
Ngày 12 tháng 3 năm 1987:
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Ba Tơ thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 26 tháng 12 năm 1990:
Ngày 1 tháng 8 năm 1993:
Ngày 23 tháng 6 năm 1999, thành lập xã Ba Khâm trên cơ sở 5.150 ha diện tích tự nhiên và 1.247 nhân khẩu của xã Ba Trang.
Ngày 10 tháng 3 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2003/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh 1.019 ha diện tích tự nhiên của xã Phổ Phong thuộc huyện Đức Phổ về xã Ba Liên thuộc huyện Ba Tơ quản lý.
Sau khi điều chỉnh, xã Ba Liên thuộc có 4.112 ha diện tích tự nhiên và 935 người. Huyện Ba Tơ có 113.254 ha diện tích tự nhiên và 46.449 người.
Ngày 23 tháng 12 năm 2008, thành lập xã Ba Giang trên cơ sở điều chỉnh 5.419,82 ha diện tích tự nhiên và 1.521 nhân khẩu của xã Ba Dinh.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020, giải thể xã Ba Chùa, địa bàn sáp nhập vào thị trấn Ba Tơ và xã Ba Dinh.
Huyện Ba Tơ có 1 thị trấn và 18 xã như hiện nay.
Kinh tế.
Cơ cấu kinh tế huyện Ba Tơ được xác định gồm: nông - lâm nghiệp, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp, thương mại - dịch vụ. Năm 2004, nông, lâm nghiệp chiếm 71,9%, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp chiếm 13,3%, thương mại - dịch vụ chiếm 14,8%; tổng giá trị sản xuất năm 2004 là 159 tỷ đồng. Năm 2005, giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp 125,700 tỷ đồng, trong khi giá trị sản xuất công nghiệp là 16,161 tỷ đồng.
Du lịch.
Huyện nổi tiếng về đội du kích Ba Tơ và cuộc khởi nghĩa Ba Tơ. Di tích cuộc khởi nghĩa Ba Tơ đã được Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam xếp hạng. Bảo tàng Ba Tơ trưng bày những hiện vật liên quan đến cuộc khởi nghĩa. Huyện còn có làng dệt thổ cẩm nổi tiếng (làng Teng). Từ đây có quốc lộ 24A đi Tây Nguyên, Lào và Campuchia.
Ba Trang là xã nơi bác sĩ Đặng Thùy Trâm đã hy sinh.
Hồ Núi Ngang là công viên giải trí của địa phương, là nơi đăng cai lễ hội đua thuyền truyền thống tỉnh Quảng Ngãi vào năm 2006.
Văn hóa.
Tên của huyện được đặt cho một cây cầu, một con đường và một khu dân cư tại Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Lý Sơn là một huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Trước đây, Lý Sơn được gọi là Cù lao Ré, theo cách lý giải của dân gian là “cù lao có nhiều cây Ré”. Hòn đảo là vết tích còn lại của một núi lửa với 5 miệng, được hình thành cách đây khoảng 25-30 triệu năm. 5 ngọn núi là nguồn giữ các mạch nước ngầm chính cung cấp nguồn nước cho toàn bộ người dân trên đảo.
Huyện Lý Sơn là huyện đảo được tách ra từ huyện Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam năm 1992 và trở thành huyện đảo tiền tiêu từ khi đó. Nói về huyện đảo này, nhân dân địa phương có ca dao thủy trình:
Địa lý.
Huyện đảo nằm về phía đông bắc tỉnh Quảng Ngãi, cách đất liền 15 hải lý.
Diện tích của huyện Lý Sơn là 10,39 km², dân số năm 2019 là 22.174 người, mật độ dân số đạt 2.134 người/km². Gồm 2 đảo: đảo Lớn (Lý Sơn, hoặc gọi cù lao Ré), đảo Bé (cù lao Bờ Bãi) ở phía bắc đảo Lớn và hòn Mù Cu ở phía đông của đảo Lớn.
Vào cuối kỷ Neogen (là một kỷ địa chất của đại Tân Sinh) đầu đệ Tứ, cách ngày nay khoảng 25 - 30 triệu năm, đảo Lý Sơn được hình thành di sự kiến tạo địa chấn với sự phun trào nham thạch của núi lửa. Hiện nay trên đảo có 5 hòn núi đều là chứng tích của núi lửa đã phun trào. Sự phun trào và tắt đi của núi lửa đã tạo nên những cảnh quan thiên nhiên kỳ thú trên đảo. Chúng còn trải trên bề mặt đảo ở phía nam một lớp đất bazan màu mỡ thích hợp cho nhiều loại cây trồng, đồng thời còn tạo nên những rạn đá ngầm là điều kiện tốt cho các loài thủy tộc sinh sống.
Lịch sử.
Các dấu vết khảo cổ từ thời văn hóa Sa Huỳnh có từ sớm hơn 200 năm trước công nguyên đã được tìm thấy trên đảo.
Vào nửa đầu thế kỷ 17, Chúa Nguyễn tổ chức Hải đội Hoàng Sa lấy người từ xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi ra quần đảo Hoàng Sa thâu lượm hàng hóa, khí cụ trên các tàu mắc cạn và đánh bắt hải sản quý hiếm mang về dâng nộp.
Danh sách các cai đội, suất đội thủy quân nhà Nguyễn được cử đi thực thi chủ quyền tại quần đảo Hoàng Sa:
Trong chiến tranh Việt Nam, Lý Sơn là địa điểm mà Hải quân Hoa Kỳ đặt trạm ra đa để quan sát hoạt động của tàu thuyền dọc theo bờ biển Việt Nam. Ngày nay các trạm radar, như trạm rađa tầm xa N50, của Hải quân Việt Nam vẫn hoạt động trên đảo này.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Bình Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, thành lập huyện đảo Lý Sơn theo Quyết định số 337-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng trên cơ sở tách 2 xã Lý Hải và Lý Vĩnh thuộc huyện Bình Sơn.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003:
Cuối năm 2019, huyện Lý Sơn có 3 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm các xã: An Bình, An Vĩnh và An Hải.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, giải thể toàn bộ 3 xã An Bình, An Vĩnh và An Hải để thực hiện chính quyền một cấp trên địa bàn huyện Lý Sơn.
Hành chính.
Trước đây, huyện Lý Sơn được chia làm 3 xã: An Vĩnh, An Hải, An Bình.
Hiện nay, huyện Lý Sơn không phân chia thành các đơn vị hành chính cấp xã, thay vào đó chính quyền cấp huyện trực tiếp quản lý về mọi mặt.
Kinh tế - xã hội.
Người dân trên đảo sống nhờ vào đánh bắt hải sản và trồng tỏi. Tuy nhiên, việc khai thác cát ven bờ biển để trồng tỏi và hành đã gây ra những thiệt hại không nhỏ do hiện tượng xâm thực.
Từ tháng 9/2014 ở Lý Sơn đã được kéo cáp ngầm vượt biển cung cấp điện lưới quốc gia cho hai đảo là An Vĩnh và An Hải (đảo Lớn) góp phần nâng cao đời sống của bà con trên đảo, kèm theo các dịch vụ nhà hàng khách sạn, ăn uống phát triển theo, huyện đảo đang hướng tới là một đảo du lịch trong tương lai.
Ngày 22/01/2016, Công ty Điện lực Quảng Ngãi đã chính thức cấp điện cho 116 hộ dân trên đảo An Bình (đảo Bé)
Dự án Khu đô thị thương mại dịch vụ The Sea Eyes.
Dự án do Công ty CP phát triển Lý Sơn, được thành lập từ ngày 5.12.2018, xin chủ trương đầu tư chỉ 5 ngày sau khi hoạt động và lập tức được ông Trần Ngọc Căng - Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Ngãi ký “thẩm định, trình phê duyệt dự án”. Trong tổng diện tích 54,65ha, Dự án này đều nằm trên thềm lục địa - vũng nước cạn ở phía nam đảo Lý Sơn, kéo dài 2,5 km; phần diện tích còn lại cũng rất sát mép biển.
Với quy mô và vị trí như vậy, người dân lo sợ dự án sẽ bồi lấp, tàn phá một diện tích khá lớn (gần bằng diện tích dự án) thềm lục địa mà ở đó là rạn san hô, rong, cỏ biển nằm trong Khu vực phục hồi và tiếp giáp Khu vực bảo vệ nghiệm ngặt của Khu bảo tồn biển Lý Sơn đang được triển khai nhiều năm trước đó. Nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia về địa chất, bảo tồn biển cũng bày tỏ thêm quan ngại nếu dự án được triển khai sẽ ảnh hưởng đến diện mạo địa chất của đảo Lý Sơn.
Du lịch.
Tỉnh Quảng Ngãi đã khai trương tuyến du lịch "biển đảo Lý Sơn" vào ngày 28 tháng 4 năm 2007. Du khách từ thành phố Quảng Ngãi đi theo quốc lộ 24B về cảng Sa Kỳ, sau đó ra đảo bằng tàu cao tốc và thuê xe máy để đến các di tích trên đảo. Khi lưu trú trên đảo, du khách sẽ được thưởng thức các món hải sản và các đặc sản gỏi tỏi, gỏi cá cơm, rong biển trộn (rau cum cúm), cháo nhum (cầu gai)...
Từ đảo lớn khách du lịch lại có thể đi cano sang đảo bé để tắm và bơi tại bãi dừa. Nước biển tại đây trong và sóng lặng.
Trên đảo có bốn di tích quốc gia: đình làng An Vĩnh (di tích liên quan đến hải đội Hoàng Sa bên trên), đình làng An Hải, Âm linh tự (nơi thờ cúng oan hồn, cô hồn và phối thờ tử sĩ Hoàng Sa - Trường Sa), Chùa Hang. Các di chỉ văn hóa Sa Huỳnh cũng đã được tìm thấy trên đảo, như suối Chình, xóm Ốc và đặc biệt là các dấu vết của văn hóa Chăm Pa. Và 24 chùa, am.
Ngày 13 tháng 7 năm 2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ngãi đã ra quyết định công nhận Tuyến du lịch biển đảo Lý Sơn gồm các điểm du lịch tại huyện Lý Sơn theo các tuyến: Chùa Hang, Đình làng An Hải, Chùa Đục, Miệng núi Lửa, di tích lịch sử Hải đội Hoàng Sa - Trường Sa, Âm linh tự và một số nhà cổ tại huyện Lý Sơn.
Huyện đảo được mệnh danh là "Vương quốc tỏi" vì sản phẩm tỏi có hương vị đặc biệt. Các hàm lượng chất có trong tỏi luôn cao hơn tỏi được trồng ở những nơi khác. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.672698 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đức Phổ là một thị xã ven biển nằm ở phía nam tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Thị xã Đức Phổ nằm ở phía đông nam tỉnh Quảng Ngãi, cách thành phố Quảng Ngãi 48 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Thị xã Đức Phổ có diện tích 372,76 km², dân số năm 2019 là 150.927 người, mật độ dân số đạt 405 người/km².
Đức Phổ đã trở thành một cái tên quen thuộc với nhiều người; là nơi công tác, chiến đấu, hy sinh của liệt sĩ, bác sĩ Đặng Thùy Trâm qua cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm và đặc biệt là nền văn hóa Sa Huỳnh đã trở thành một thuật ngữ của ngành khảo cổ học. Đức Phổ còn là quê hương của Nguyễn Nghiêm, Trần Đức Lương...
Điều kiện tự nhiên.
Địa hình thị xã Đức Phổ khá phức tạp, đa dạng, bị chia cắt mạnh, núi và đồng bằng xen kẽ, một số nhánh núi của dãy Trường Sơn chạy ra tận bờ biển. Có 3 dạng địa hình:
Trên địa bàn thị xã Đức Phổ rải rác có các đồi núi như: núi Dâu, núi Cửa, một phần núi Lớn (núi Dầu Rái), núi Giàng, núi Bé, núi Xương Rồng, núi Chóp Vung, núi Nga, núi Mồ Côi, núi Diêm, núi Giàng Thượng, núi Giàng Hạ, núi Sầu Đâu, núi Khỉ, núi Chà Phun, núi Làng...
Sông lớn nhất là sông Trà Câu, số còn lại chỉ là sông suối nhỏ bắt nguồn từ huyện Ba Tơ chảy về với đặc điểm chung là diện tích lưu vực hẹp, sông nhỏ, lòng dốc.
Vùng dốc dọc sông Trà Câu, trên địa phận các xã Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ An, Phổ Quang có đồng bằng tương đối rộng, là vùng trọng điểm sản xuất lúa của Đức Phổ. Vùng đất nam sông Trà Câu đến núi Dâu và từ núi Dâu đến đèo Bình Đê chỉ có đồng bằng nhỏ hẹp, bị chia cắt, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp.
Đức Phổ có bờ biển dài trên 40 km, có 2 cửa biển Mỹ Á và Sa Huỳnh, là đầu mối giao thông đường thủy và là tụ điểm của nghề cá, đánh bắt và nuôi trồng hải sản.
Ở dọc ven biển phía đông nam Đức Phổ có hai đầm lớn là đầm Lâm Bình và đầm An Khê. Đây cũng là hai đầm đáng kể nhất trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Đầm An Khê xưa còn gọi là đầm Cẩm Khê hay Phú Khê, nổi tiếng có nhiều cá (cá Phú Khê - ngạn ngữ).
Đức Phổ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, có 2 mùa mưa nắng rõ rệt, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 12, mùa khô từ tháng 1 đến tháng 8. Có 2 mùa gió chính là gió mùa đông với hướng gió thịnh hành là tây bắc đến bắc và gió mùa hạ với hướng gió chính là đông đến đông nam. Tốc độ gió trung bình 2 – 4 m/s, nhiệt độ trung bình trong năm là 25,8 °C. Lượng mưa cả năm đạt 1.915mm. Trên biển trung bình hằng năm có 135 ngày gió mạnh (cấp 6 trở lên) gây ảnh hưởng đến thời gian đi biển của ngư dân, nhất là vào các tháng từ tháng 11 đến tháng 1 năm sau.
Lịch sử.
Thời phong kiến.
Địa bàn Đức Phổ nằm trong huyện Khê Cẩm đời nhà Hồ, Mộ Hoa đời nhà Lê và Mộ Đức đời nhà Nguyễn. Năm 1890, vua Thành Thái cho cắt những xã "Thượng bạn" thuộc huyện Mộ Đức, đặt ra châu Đức Phổ trực thuộc nha Sơn phòng Nghĩa Định. Năm 1899 cắt 3 tổng Cảm Đức, Trí Đức, Triêu Đức gồm 79 xã, thôn thuộc tổng Quy Đức huyện Mộ Đức, sáp nhập vào Đức Phổ, đổi châu làm huyện trực thuộc tỉnh. Huyện Đức Phổ có 3 tổng: Phổ Cẩm, Phổ Tri, Phổ Văn, gồm 78 xã, thôn.
Sau năm 1945.
Huyện Đức Phổ đổi tên thành huyện Nguyễn Nghiêm, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn đổi lại là Đức Phổ. Các tổng cũng có sự đổi tên: tổng Phổ Cảm đổi là tổng Trần Kha, tổng Phổ Tri đổi là tổng Huỳnh Lầu, tổng Phổ Vân đổi là tổng Phan Bằng (tên các nhà yêu nước địa phương). Nhưng cũng chỉ sau một thời gian ngắn thì quay lại tên cũ và xóa bỏ luôn cấp tổng. Đức Phổ được hoạch định lại đơn vị hành chính với 13 xã đều lấy chữ Phổ làm đầu: Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Quang, Phổ An, Phổ Nhơn, Phổ Ninh, Phổ Hòa, Phổ Minh, Phổ Vinh, Phổ Khánh, Phổ Cường, Phổ Thạnh. Dưới xã là các thôn. Các thôn thường lấy lại tên làng xã cũ.
Kể từ Hiệp định Genève 1954, sau khi tiếp quản đến năm 1958, chính quyền Sài Gòn thành lập quận Đức Phổ, đổi tên gọi các xã, đặt hai xã mới, tổng cộng có 15 xã, vẫn lấy chữ Phổ ở đầu, nhưng đổi tên chữ sau:
Chính quyền cách mạng vẫn gọi là huyện Đức Phổ và các tên xã như cũ. Riêng 2 xã Phổ Hiệp, Phổ Châu do chính quyền Sài Gòn tách lập vẫn được dùng và cũng được gọi là Phổ Hiệp, Phổ Châu.
Sau năm 1975.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, huyện Đức Phổ thuộc tỉnh Nghĩa Bình vẫn giữ nguyên địa giới hành chính với 12 xã như thời Pháp thuộc, bao gồm: Phổ An Quang, Phổ Cường, Phổ Hòa, Phổ Khánh, Phổ Minh, Phổ Nhơn, Phổ Ninh, Phổ Phong, Phổ Thạnh, Phổ Thuận, Phổ Văn và Phổ Vinh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1979, chia xã Phổ An Quang thành 2 xã: Phổ An và Phổ Quang.
Ngày 12 tháng 3 năm 1987, thành lập thị trấn Đức Phổ (thị trấn huyện lỵ huyện Đức Phổ) trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích và dân số của 3 xã: Phổ Hòa, Phổ Minh và Phổ Ninh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Đức Phổ thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 23 tháng 6 năm 1999, thành lập xã Phổ Châu trên cơ sở 1.985 ha diện tích tự nhiên và 4.675 nhân khẩu của xã Phổ Thạnh.
Ngày 10 tháng 3 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 20/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh 1.019 ha diện tích tự nhiên của xã Phổ Phong thuộc huyện Đức Phổ về xã Ba Liên thuộc huyện Ba Tơ quản lý.
Sau khi điều chỉnh, xã Phổ Phong còn lại 5.407 ha diện tích tự nhiên và 9.177 người, huyện Đức Phổ còn lại 37.167 ha diện tích tự nhiên và 147.427 người.
Ngày 2 tháng 2 năm 2016, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 99/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Đức Phổ mở rộng (gồm thị trấn Đức Phổ và 6 xã) đạt tiêu chuẩn đô thị loại IV.
Ngày 28 tháng 12 năm 2018, Bộ xây dựng quyết định công nhận toàn huyện Đức Phổ (gồm thị trấn Đức Phổ và 14 xã thuộc huyện Đức Phổ) là đô thị loại IV.
Cuối năm 2019, huyện Đức Phổ có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, gồm thị trấn Đức Phổ (huyện lỵ) và 14 xã: Phổ An, Phổ Châu, Phổ Cường, Phổ Hòa, Phổ Khánh, Phổ Minh, Phổ Nhơn, Phổ Ninh, Phổ Phong, Phổ Quang, Phổ Thạnh, Phổ Thuận, Phổ Văn, Phổ Vinh.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó:
Sau khi thành lập, thị xã Đức Phổ có 8 phường và 7 xã như hiện nay.
Hành chính.
Thị xã Đức Phổ có 15 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 8 phường: Nguyễn Nghiêm, Phổ Hòa, Phổ Minh, Phổ Ninh, Phổ Quang, Phổ Thạnh, Phổ Văn, Phổ Vinh và 7 xã: Phổ An, Phổ Châu, Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Nhơn, Phổ Phong, Phổ Thuận.
Kinh tế.
Đức Phổ xuất phát từ kinh tế nông ngư lạc hậu, song có điều kiện tự nhiên và xã hội để phát triển kinh tế khá toàn diện. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá nhanh, nhưng nông, lâm, ngư nghiệp (chủ yếu là nông nghiệp) vẫn chiếm tỷ trọng khá cao. Các ngành kinh tế cơ bản như công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng phát triển, nhưng vẫn chưa chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế Đức Phổ dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng, thương mại - dịch vụ, giảm tỷ trọng nông - ngư - lâm nghiệp. Tỷ trọng ngành nông - lâm - ngư nghiệp từ 58,3% năm 2000, năm 2004 giảm còn 52,4%, đến năm 2015 giảm còn 10.9%. Ngành thương mại - dịch vụ từ 20,7% năm 2000 lên 25,7% năm 2004, đến 2015 đạt 39,6%. Ngành công nghiệp - xây dựng từ 20,8% năm 2000 tăng lên 25,7% năm 2004, đến 2015 đạt 49,5%.
Đến năm 2005, nông - lâm - ngư nghiệp vẫn là lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất của Đức Phổ, tổng giá trị sản xuất nông - lâm - thủy sản là 975.579 triệu đồng, trong đó thủy sản chiếm đến 370.667 triệu đồng, kế đến là nông nghiệp 247.034 triệu đồng, lâm nghiệp 11.442 triệu đồng. Xét về lao động thì toàn huyện Đức Phổ năm 2005 có 81.460 người, trong đó lao động ở ngành nông lâm nghiệp là 56.261 người, ở ngành thủy sản là 8.538 người, công nghiệp và xây dựng là 7.191 người, dịch vụ là 9.470 người.
Đến năm 2015, tổng giá trị sản xuất toàn huyện đạt 7356,9 tỷ đồng, tăng trưởng 18,7 % so với năm 2014.Trong đó:
- Nông lâm thủy sản đạt 803,4 tỷ đồng (chiếm 10,9%)
- Công nghiệp Xây dựng đạt 3.638,5 tỷ đồng (chiếm 49,5%)
- Thương mại dịch vụ đạt 2.915 tỷ đồng (chiếm 39,6%)
Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 ước đạt 50 triệu đồng/ người, tăng 25% so với năm 2014.
Nông nghiệp.
Nhìn chung, điều kiện tự nhiên ở Đức Phổ không thuận lợi như một số huyện khác trong tỉnh Quảng Ngãi cho sản xuất nông nghiệp, nhất là về độ phì nhiêu của đất đai và vấn đề nguồn nước tưới. Trước năm 1945, nghề nông ở Đức Phổ có phương thức sản xuất lạc hậu, ruộng đất phần lớn tập trung trong tay địa chủ phong kiến. Nghề nông trong thời kỳ này mang nặng tính chất tự cấp, tự túc. Theo Quảng Ngãi tỉnh chí (Nam Phong tạp chí, 1933) của Nguyễn Bá Trác và các tác giả thì ở thời điểm này Đức Phổ có 13.244 mẫu 8 sào điền, 3.856 mẫu 9 sào thổ, trong đó có đất lúa 10.084 mẫu (3.630,24ha), thu hoạch hằng năm được 6.280 tấn lúa trong tổng số 44.070 tấn của toàn tỉnh. Năm 1932, Đức Phổ có 600 mẫu đất mía, 600 mẫu đất trồng khoai sắn. Toàn huyện có 21 đập, tưới cho tổng diện tích khoảng 4.970 mẫu, lớn nhất là đập Vực Tre ở xã An Ninh tưới cho khoảng 500 mẫu, đập Liên Chiểu (ở Kim Giao), đập Làng (ở Diên Trường), đập Đồng Nghê (ở Nho Lâm và Hiển Văn), đập Đồng Đồ (ở Hòa Thịnh, Đông Ôn), đập Lâm Bình (ở Hiển Tây, Thanh Hiếu) mỗi đập tưới 400 mẫu.
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nông dân được chia ruộng đất, nghề nông đã có những chuyển đổi mới. Nông dân trồng lúa và các loại cây lương thực khác, bên cạnh đó còn trồng bông, dệt vải, chăn nuôi gia súc, gia cầm. Trong kháng chiến chống Mỹ, về cơ bản nghề nông ở Đức Phổ vẫn phát triển như trước kia. Riêng về thủy lợi có những bước thay đổi về tưới tiêu, nhờ có các loại máy bơm thay cho việc tưới thủ công trước đây. Đồng ruộng cũng phần nào có máy móc thay cho sức kéo trâu, bò. Nhờ những thay đổi đó mà năng suất lúa và hoa màu có sự gia tăng nhất định.
Nông nghiệp Đức Phổ từ 1975 - 2005 phát triển trong điều kiện đất nước hòa bình thống nhất. Ruộng đất được chia đều cho nông dân đã thúc đẩy sản xuất phát triển. Từ 1975 - 1985 hình thành các hợp tác xã nông nghiệp, ruộng đất được đưa vào hợp tác để sản xuất chung, nhưng do cách tổ chức chưa phù hợp nên nông nghiệp không phát triển, đời sống của nông dân còn thấp và gặp nhiều khó khăn. Năm 1981 khi cơ chế "khoán 100" ra đời, sau đó là "khoán 10" được thực hiện, ruộng đất được giao khoán cho nông dân thì nông nghiệp đã có bước phát triển, đời sống của người nông dân được nâng cao rõ rệt. Hiện nay, nông nghiệp ở Đức Phổ phát triển khá toàn diện theo hướng sản xuất hàng hóa. Ngành chăn nuôi được đẩy mạnh. Hệ thống tưới tiêu như hồ Liệt Sơn, hồ Núi Ngang... được xây dựng, mở rộng, hệ thống kênh mương nội đồng Thạch Nham được xây dựng và ngày càng hoàn thiện nhằm đảm bảo diện tích tưới tiêu chủ động cho việc phát triển sản xuất và vật nuôi, cây trồng trên địa bàn huyện.
Tính ở thời điểm năm 2005, sản lượng lương thực có hạt của Đức Phổ đạt 52.412 tấn (trong đó hầu hết là lúa), bình quân lương thực đầu người đạt 342 kg/người/năm(6). Về cây công nghiệp, mía có diện tích 1.512,5ha, sản lượng đạt 73.351 tấn, cây mì có diện tích 1.282ha, năng suất đạt 197,1 tạ/ha, sản lượng 25.265 tấn. Cây đậu phụng có diện tích gieo trồng là 306ha, năng suất bình quân 13,9 tạ/ha, sản lượng 426 tấn.
Trong chăn nuôi, năm 2005 Đức Phổ có đàn trâu 1.234 con, đàn bò 29.469 con, lợn 58.817 con. Trâu nuôi nhiều nhất ở xã Phổ Cường (635 con), các xã Phổ Văn, Phổ Thuận, Phổ Phong (đều trên 100 con); bò nuôi nhiều ở các xã Phổ Khánh (3.578 con), Phổ Phong (2.850 con), Phổ Thuận (2.765 con); lợn nuôi nhiều nhất ở các xã Phổ Ninh (6.700 con), Phổ Văn (6.530 con), Phổ Khánh (6.460 con), Phổ Thạnh (5.570 con).
Lâm nghiệp.
Xa xưa ở Đức Phổ phát triển một cách tự nhiên. Rừng có diện tích khá lớn, động thực vật, lâm sản khá phong phú. Những sản phẩm của rừng phần lớn phục vụ nhu cầu sinh hoạt của con người. Trong kháng chiến chống Mỹ, rừng bị tàn phá nhiều, động thực vật cũng còn lại rất ít. Ngày nay, lâm nghiệp được chú trọng và ngày càng phát triển tốc độ trồng rừng, như phủ xanh đất trống đồi núi trọc được đẩy mạnh, đặc biệt là rừng phòng hộ ven biển và các dự án trồng rừng đã và đang được triển khai có kế hoạch. Năm 2003, diện tích rừng phòng hộ của Đức Phổ tại 4 xã là 1.839ha. Diện tích rừng trồng mới là 300ha. Dự án trồng rừng KFW6 đang được triển khai. Năm 2004, trồng 856ha, chăm sóc rừng 800ha, trong đó có 100ha rừng phòng hộ. Sản lượng gỗ rừng trồng khai thác cả năm là 25.200m3, độ che phủ rừng là 21%. Tính đến năm 2005, trồng rừng 500ha, chăm sóc rừng 1.459ha, khoanh nuôi rừng tái sinh 2.246ha.
Ngư nghiệp.
Đức Phổ có bờ biển khá dài và có hai cửa biển, thuận lợi cho ngư nghiệp phát triển. Ngư nghiệp xưa nay được xem là một thế mạnh của thị xã. Từ xưa, nghề cá luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của nhân dân Đức Phổ. Từ sau năm 1975, ngư nghiệp Đức Phổ đã được phát triển hơn trước, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của ngành thủy sản Quảng Ngãi nói chung. Bên cạnh việc đánh bắt và chế biến hải sản, ngư nghiệp còn có thêm một số nghề mới như: nuôi trồng thủy sản, nuôi tôm trên cát, nuôi cá nước ngọt trên các hồ nước. Năm 2003, toàn huyện có 690 tàu đánh cá, sản lượng khai thác là 31.545 tấn cá, tôm, cua, hải sản khác, diện tích nuôi trồng thủy sản là 75ha, sản lượng nuôi trồng là 431,7 tấn. Năm 2004, sản lượng thủy sản khai thác là 36.300 tấn; năm 2005 tăng lên 42.000 tấn, trong đó xã Phổ Thạnh chiếm 26.463 tấn, xã Phổ Quang 5.071 tấn, còn lại là các xã Phổ Vinh, Phổ Châu, Phổ An. Năm 2005, Đức Phổ có số tàu đánh cá 1.050 chiếc với tổng công suất là 87.195CV, trong đó xã Phổ Thạnh cao tuyệt đối với 671 chiếc có tổng công suất 66.308CV, xã Phổ Quang có 195 chiếc với tổng công suất 8.824CV, còn lại 4 xã khác (Phổ An, Phổ Khánh, Phổ Châu, Phổ Vinh) số tàu đều dưới 100 chiếc và tổng công suất đều dưới 700CV. Ngành nuôi trồng thủy sản ở Đức Phổ cũng nổi trội trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Diện tích nuôi trồng thủy sản 304,3ha, trong đó diện tích nuôi tôm là 94,3ha (diện tích nuôi tôm trên cát 46,6ha, gấp 2,3 lần năm 2003). Sản lượng thủy sản nuôi trồng là 515 tấn, trong đó tôm 410 tấn. Việc nuôi cá lồng ở các hồ, đầm ở các xã có hiệu quả. Năm 2005, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn tiếp tục phát triển, với diện tích 381ha, sản lượng 1.181 tấn hải sản, chủ yếu là tôm. Các xã nuôi thủy sản mạnh nhất là Phổ Quang (diện tích 60,2ha tôm, sản lượng 489,4 tấn), Phổ Khánh 91,7ha (có 31,7ha tôm, sản lượng 280,7 tấn), Phổ Vinh, Phổ An, Phổ Minh, Phổ Hòa, Phổ Thạnh(8). Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của Đức Phổ. Đức Phổ luôn đứng đầu về sản lượng thủy sản so với các huyện khác, có số tàu thuyền cao nhất. Trong tổng giá trị sản xuất thủy sản năm 2005, thì đánh bắt vẫn chiếm tỷ lệ vượt trội so với nuôi trồng (285,455 tỷ đồng so với 85,092 tỷ đồng), mặc dù ngành nuôi trồng thủy sản cũng khá phát triển.
Diêm nghiệp.
Sa Huỳnh là nơi sản xuất muối lớn nhất ở Quảng Ngãi. Năm 1932 có 7.000 tấn muối được xuất cảng ra nước ngoài và nhiều nơi trong nước. Hiện nay, Đức Phổ có 100ha ruộng muối, có khả năng sản xuất từ 10 - 15 nghìn tấn trong năm. Song do chưa tìm được thị trường tiêu thụ, giá cả không ổn định, quy trình làm muối bị đánh giá không đảm bảo chất lượng nên sản lượng muối sản xuất chỉ dừng ở mức 7.500 tấn (2004), 8.000 tấn (2005). Diêm dân làm muối ở Sa Huỳnh gặp rất nhiều khó khăn và đứng trước nguy cơ bỏ làm muối vì giá muối rất thấp (Năm 2016, 1 kg muối giá 200 đồng).
Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Đức Phổ có nhiều cụm công nghiệp, làng nghề, như làng muối Sa Huỳnh,khu công nghiệp Phổ Phong, cụm công nghiệp Sa Huỳnh, cụm công nghiệp Đồng Làng. Nghề thủ công cổ truyền đã có từ xưa ở Đức Phổ như: nghề dệt ở Thạch Bi (Sa Huỳnh); nghề gốm ở Thanh Hiếu, Chỉ Trung; nghề mộc, nghề đan võng ở Hội An, Mỹ Thuận; nghề bạc bịt tháp, chén khay đĩa ở Chỉ Trung. Ở vùng biển có các nghề: làm cá khô, tôm khô, mực khô, nước mắm, đan lưới, đánh nhợ ở Sa Huỳnh. Ngoài ra còn có các nghề như: nghề nấu đường thủ công, nghề làm bún, làm bánh tráng. Ngày nay có nhiều nghề công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp như: sản xuất vật liệu xây dựng, gạch ngói, đá chẻ, đá hoa, đóng và sửa chữa tàu thuyền. Tiểu thủ công nghiệp phát triển các làng nghề: làm chổi đót ở Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn; làm gốm ở Phổ Khánh. Ở xã Phổ Phong đã hình thành khu công nghiệp. Tại Phổ Phong có nhà máy đường có công suất trên 1.000 tấn/ngày, nhà máy gạch ngói Phổ Phong sản xuất 14 triệu viên/năm(đã ngừng hoạt động do thua lỗ).
Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Đức Phổ đạt 225,076 tỷ đồng, trong đó khu vực ngoài quốc doanh đạt 128,752 tỷ đồng, tàu thuyền đóng mới 30 chiếc, sản lượng muối ráo đạt 7.500 tấn, sản xuất đá xây dựng đạt 74.600m3, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện 97%. Năm 2005, giá trị sản lượng công nghiệp tăng lên 302,670 tỷ đồng, trong đó khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 192,623 tỷ đồng. Sản xuất công nghiệp cá thể có 2.209 cơ sở với 5.820 lao động.
Mục tiêu từ năm 2006 - 2010, Đức Phổ sẽ ưu tiên xây dựng 3 vùng kinh tế động lực: phát triển trung tâm thị trấn Đức Phổ lên đô thị loại IV để thành lập thị xã Đức Phổ, xây dựng vùng kinh tế văn hóa Sa Huỳnh và khu công nghiệp Phổ Phong, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của Đức Phổ nói riêng, của tỉnh Quảng Ngãi nói chung.
Thương mại - dịch vụ.
Việc buôn bán xưa ở Đức Phổ thường diễn ra ở các chợ, như chợ Trà Câu, chợ Cây Chay, chợ Bàu Cối, chợ Giếng Thí, chợ Sa Huỳnh. Việc mua bán lúc bấy giờ mang tính tự cấp, tự túc trong một khu vực, ít mang yếu tố buôn bán chuyên nghiệp. Cũng có một số người đi buôn núi, lên giao lưu trao đổi hàng hóa với bà con người Hrê trên nguồn Ba Tơ và một số người sắm ghe bầu đi buôn vào Nam, ra Bắc.
Thương mại ngày nay phát triển nhờ hệ thống các chợ xã, có ba trung tâm thương mại của huyện là thị trấn Đức Phổ, thị tứ Sa Huỳnh (ở phía nam) và thị tứ Trà Câu (ở phía Bắc).
Năm 2004, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của Đức Phổ đạt 487,6 tỷ đồng, năm 2005 là 580,25 tỷ đồng. Toàn huyện có 4.452 cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ (trong đó có 2.492 cơ sở bán lẻ) với 5.172 lao động. Một đề án phát triển thương mại - dịch vụ - du lịch sẽ được thực hiện trong thời gian đến, giúp dịch vụ du lịch phát triển đúng hướng và phát huy được tiềm năng, đạt hiệu quả cao nhất trong phát triển kinh tế - xã hội của huyện.
Dân cư.
Địa bàn thị xã Đức Phổ từng có lớp cư dân cổ là chủ nhân của nền Văn hóa Sa Huỳnh (niên đại cách nay 2.500 - 3.000 năm). Lớp cư dân này sống ở ven biển bằng nghề chài lưới và một số ít làm ruộng. Tiếp theo cư dân Văn hóa Sa Huỳnh, thị xã Đức Phổ còn có cư dân Chămpa, lớp cư dân này tiếp tục sống ở ven biển và cụm lại theo từng xóm nhỏ. Một số nơi trong thị xã ngày nay còn rải rác một số mộ của người Chăm xưa và dấu tích còn lại duy nhất của người Chăm trên mảnh đất này là bi ký Chăm ở khu phố Thạnh Đức 1, phường Phổ Thạnh.
Cư dân Việt định cư trên địa bàn thị xã Đức Phổ từ khá sớm (thế kỷ XV - XVI). Họ sống chủ yếu bằng nghề nông, ngư nghiệp, diêm nghiệp, buôn bán, mang đặc trưng của văn hóa vùng ven.
Thị xã Đức Phổ có dân số, mật độ dân số trung bình so với các huyện đồng bằng của tỉnh Quảng Ngãi. Tính đến năm 2005, số dân, mật độ dân số các xã, phường như sau:
Thống kê cho thấy có sự chênh lệnh khá lớn về dân số, mật độ dân số trên địa bàn thị xã, do sự chi phối của địa hình, điều kiện tự nhiên hơn là do nghề nghiệp.
Về dân số, đông dân nhất là các phường Phổ Thạnh, Phổ Ninh và các xã Phổ Cường, Phổ Khánh, Phổ Thuận, Phổ An.
Về mật độ dân số, ngoài phường Nguyễn Nghiêm tập trung cao về mật độ, thì phường Phổ Văn và xã Phổ Thuận thuộc hạng cao nhất nhưng lại là các xã, phường sống chủ yếu bằng nông nghiệp. Các xã, phường có dân số sống bằng ngư nghiệp là chính, như: Phổ Thạnh, Phổ Quang, Phổ Vinh, Phổ An tuy mật độ dân số có cao nhưng không cao nhất như thường thấy, bởi trên địa bàn phần nhiều là đồi núi, dân số sống tập trung theo từng khu vực nhỏ. Các xã Phổ Phong, Phổ Nhơn và phường Phổ Hòa có mật độ dân số khá thấp cũng vì đất đai trồng trọt ít và đồi núi chiếm phần lớn diện tích tự nhiên.
Giao thông.
Thị xã Đức Phổ có đường Thiên Lý Bắc - Nam, sau này là Quốc lộ 1 chạy qua, dọc theo chiều dài của thị xã; có Quốc lộ 24 nối từ Quốc lộ 1 lên tỉnh Kon Tum chạy qua thị xã ở khu vực xã Phổ Phong; đường sắt Bắc - Nam song song với Quốc lộ 1. Xưa kia, các phương tiện giao thông đường thủy có sông Trà Câu thông thương miền xuôi với miền ngược, tuy nhiên hiện nay vì lòng sông cạn nên khá hạn chế. Có hai cửa biển Mỹ Á và Sa Huỳnh là đấu mối giao thông đường thủy quan trọng, đồng thời là tụ điểm của nghề cá.
Hiện nay, thị xã Đức Phổ đang thực hiện bêtông hóa giao thông nông thôn. Năm 2004, cơ bản hoàn thành thi công 18 tuyến đường ở các xã với tổng chiều dài 17,9 km. Đường huyện đã nhựa cứng được 51,6 km, đường xã được nhựa cứng hóa 33,06 km. Về kiên cố hóa kênh mương, năm 2004 xây dựng 6 tuyến kênh với chiều dài 6,231 km, góp phần phục vụ cho việc phát triển sản xuất của nhân dân thị xã.
Trước năm 1975, điện chỉ có ở các cơ quan chính quyền địch, quận lỵ hoặc các tụ điểm dân cư dọc Quốc lộ 1, dùng máy phát điện nhỏ. Sau 1975, mạng lưới điện được kéo về huyện. Đến nay tại các xã, thôn, xóm 97% số hộ đã được dùng điện cho sinh hoạt và sản xuất.
Về liên lạc, thời phong kiến đến thời Pháp thuộc, việc thông tin liên lạc chủ yếu bằng ngựa trạm và có các dịch trạm. Ở Đức Phổ có trạm Nghĩa Quán (ở xã Quán Sứ), trạm có một tá dịch coi sóc và 1 lính trạm chuyên chuyển công văn, thư từ trong địa phương huyện. Nhìn chung thông tin liên lạc thời kỳ này chuyên phục vụ cho việc công, phổ biến trong nhân dân vẫn là dùng thư tay hay nhắn miệng cho người ở xa. Chính vì vậy, thông tin liên lạc thời kỳ này chưa có tác dụng đối với kinh tế - xã hội. Trải qua thời kháng chiến, thời chính quyền Sài Gòn, đến ngày nay, cùng với tốc độ phát triển khoa học công nghệ toàn cầu, ngành thông tin liên lạc đã phát triển nhanh chóng với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại. Hiện nay bưu điện huyện có 1 bưu cục trung tâm, 2 bưu cục cấp III, có 12 điểm bưu điện văn hóa xã, 3 đại lý đa dịch vụ và hơn 70 đại lý điện thoại được phân bố tại các vùng nông thôn. Tính đến năm 2005, số máy điện thoại cố định trên mạng đã có 10.296 máy, số máy điện thoại di động 1.230 máy. Tổng doanh thu của Bưu cục Đức Phổ là 2.150 triệu đồng (phần lớn là thu từ dịch vụ điện chính). Các dịch vụ bưu chính viễn thông đa dạng và tiện ích của mạng internet đã đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sử dụng của cán bộ và nhân dân địa phương, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí và thực hiện công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi - Bình Định đang được xây dựng đi qua.
Du lịch.
Thị xã Đức Phổ có những thắng cảnh đẹp như: Bãi biển Sa Huỳnh (cũng chính là nơi đầu tiên tìm ra các dấu tích mộ chum của nền văn hóa Sa Huỳnh), bia đá khắc chữ Phạn (làng Thạch Bi) và nơi được biết đến nhiều hơn cả là thắng cảnh Châu Me với những ghềnh đá và bờ biển thoai thoải, nước trong xanh. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Bình Sơn là một huyện đồng bằng ven biển, nằm ở cửa ngõ phía bắc của tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Bình Sơn nằm ở phía bắc của tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý:
Huyện Bình Sơn có diện tích tự nhiên là 426,78 km² và dân số là 182.150 người.
Địa hình của huyện khá phức tạp, có cả vùng đồng bằng, bán bình nguyên và núi cao. Đường bờ biển cắt xẻ tạo thành nhiều vũng vịnh.
Hành chính.
Huyện Bình Sơn có 22 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Châu Ổ (huyện lỵ) và 21 xã: Bình An, Bình Chánh, Bình Châu, Bình Chương, Bình Đông, Bình Dương, Bình Hải, Bình Hiệp, Bình Hòa, Bình Khương, Bình Long, Bình Minh, Bình Mỹ, Bình Nguyên, Bình Phước, Bình Tân Phú, Bình Thanh, Bình Thạnh, Bình Thuận, Bình Trị, Bình Trung.
Lịch sử.
Sau năm 1975, huyện Bình Sơn thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 24 xã: Bình Chánh, Bình Châu, Bình Chương, Bình Đông, Bình Dương, Bình Hải, Bình Hiệp, Bình Hòa, Bình Khương, Bình Long, Bình Minh, Bình Mỹ, Bình Nguyên, Bình Phú, Bình Phước, Bình Tân, Bình Thanh, Bình Thạnh, Bình Thới, Bình Thuận, Bình Trị, Bình Trung, Bình Vĩnh và Bình Yến.
Ngày 23 tháng 10 năm 1978, thành lập xã Bình An tại vùng kinh tế mới.
Ngày 13 tháng 3 năm 1979, sáp nhập hai xã Bình Vĩnh và Bình Yến thành xã Lý Sơn.
Ngày 22 tháng 3 năm 1984, đổi tên xã Bình Vĩnh thành xã Lý Vĩnh, đổi tên xã Bình Yến thành xã Lý Hải.
Ngày 19 tháng 2 năm 1986, thành lập thị trấn Châu Ổ (thị trấn huyện lỵ huyện Bình Sơn) trên cơ sở sáp nhập:
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Bình Sơn thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 1 tháng 1 năm 1993, tách 2 xã Lý Hải và Lý Vĩnh để thành lập huyện đảo Lý Sơn.
Ngày 4 tháng 6 năm 1998, chia xã Bình Thanh thành 2 xã: Bình Thanh Đông và Bình Thanh Tây.
Ngày 1 tháng 2 năm 2020:
Huyện Bình Sơn có 1 thị trấn và 21 xã như hiện nay.
Kinh tế.
Kinh tế của huyện chủ yếu thuần nông. Tuy nhiên, qua khảo sát các vũng, vịnh tại Việt Nam của Đoàn công tác Chính phủ Việt Nam năm 1992 thì vịnh Dung Quất cùng vũng Chân Mây (tỉnh Thừa Thiên Huế) có ưu thế hơn trong việc xây dựng cảng nước sâu, khả năng tiếp nhận được tàu 100.000 tấn.
Năm 1995, nguyên Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt ký quyết định xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất, nhà máy lọc dầu đầu tiên của Việt Nam, tại vịnh Việt Thanh nằm tại xã Bình Trị, huyện Bình Sơn. Sau gần 10 năm xây dựng, năm 2003, phía Việt Nam đã bàn với đối tác Nga để Việt Nam tự đầu tư (do cơ chế liên doanh 50:50 trước đây làm chậm trễ tiến độ xây dựng công trình). Năm 2005, Việt Nam chọn đối tác Technip (Pháp) cùng các nhà thầu phụ (Nhật Bản, Hà Lan, Ý và Tây Ban Nha) để xây nhà máy.
Đã có hơn 100 dự án đầu tư vào khu kinh tế Dung Quất với tổng số vốn xấp xỉ 5,1 tỷ USD, trong đó có 2 dự án đầu tư trực tiếp của nước ngoài có số vốn lớn: Nhà máy luyện thép lò cao của Đài Loan (1,5 tỷ USD) và một dự án đầu tư của nhà đầu tư Hàn Quốc (200 triệu USD). Từ vị trí là tỉnh thu hút trực tiếp đầu tư nước ngoài xếp thứ 37 cả nước, Quảng Ngãi đã vươn lên thành tỉnh có vốn đầu tư FDI xếp thứ 11 cả nước và trở thành một trong năm tỉnh thu hút FDI cao nhất cả nước năm 2006.
Trên địa bàn huyện Bình Sơn hiện đang xây dựng khu đô thị mới Vạn Tường với đầy đủ các tiện ích như: bưu điện, trường dạy nghề, bệnh viện quốc tế, khu chuyên gia, khu du lịch sinh thái Thiên Đàn (hay còn gọi là khu du lịch sinh thái Bốn mùa)... Đối với ngành công nghiệp tại đây, tỉnh xây dựng hệ thống giao thông, điện, nước đến từng hàng rào nhà máy với chính sách ưu đãi.
Tháng 6 năm 2006, tại đây đã khởi công xây dựng tuyến đường nhánh đường Hồ Chí Minh nối khu kinh tế Dung Quất và thị trấn Trà My (huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam). Đây là tuyến huyết mạch nối Dung Quất với vùng đông bắc Campuchia và Lào.
Hệ thống cảng biển.
Trên địa bàn huyện Bình Sơn có 2 cảng biển, gồm:
Du lịch.
Huyện có nhiều bãi tắm đẹp như: Khe Hai (xã Bình Thạnh); Lệ Thủy (biển bậc thang), Dung Quất (xã Bình Thuận), Ba Làng An (xã Bình Châu). Huyện còn có di tích cấp quốc gia về vụ thảm sát Bình Hòa (do lính Hàn Quốc gây ra năm 1966 làm 430 người dân bị thiệt mạng). Tại xã Bình Hải (Vạn Tường) hiện có nhà bảo tàng Chiến thắng Vạn Tường (chiến thắng chiến lược chiến tranh cục bộ, cuộc hành quân "ánh sáng sao", của quân đội Hoa Kỳ ngày 18 tháng 8 năm 1965). | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sơn Tịnh là một huyện đồng bằng thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Sơn Tịnh là một huyện đồng bằng nằm ở phía bắc tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý:
Vào năm 2005, huyện có diện tích 343,57 km², dân số là 194.738 người, mật độ dân số đạt 566 người/km². Hiện nay, huyện có diện tích 243,1 km², dân số năm 2019 là 95.843 người.
Huyện có diện tích 243,86 km², dân số năm 2020 là 96.020 người, mật độ dân số đạt 394 người/km².
Điều kiện tự nhiên.
Hình thể huyện Sơn Tịnh có bề ngang (theo chiều nam – bắc) hẹp. Trước đây huyện có bề dài (theo chiều đông – tây) trải rộng từ chân dãy Trường Sơn giáp đến biển Đông; tuy nhiên sau khi điều chỉnh địa giới hành chính sáp nhập một phần vào thành phố Quảng Ngãi thì huyện không còn giáp biển. Về giao thông, trên địa bàn huyện có Quốc lộ 1 và đường sắt Bắc – Nam chạy qua ở giữa huyện.
Sơn Tịnh là một dải đất dài bên tả ngạn sông Trà Khúc, địa hình khá đa dạng, dốc dần từ tây xuống đông, chia thành bốn vùng: vùng bán sơn địa phía tây, vùng đất cát phía tây bắc, vùng châu thổ dọc sông Trà Khúc, vùng đầm phá, cửa sông, động cát ven biển. Mỗi vùng có đặc điểm thổ nhưỡng khác nhau.
Địa hình.
Núi đồi: Sơn Tịnh có nhiều núi cao thấp khác nhau và những dãy đồi lượn sóng, úp bát khắp trong huyện từ tây xuống đông: núi Dầu, núi Tròn, núi Cà Ty, núi Thiên Ấn cao trên dưới 100m; núi Nhàn, núi Khỉ (còn gọi là núi Bìn Nin hoặc núi Chợ), núi Sứa, núi Long Đầu, núi Ngang, núi Đất, núi Hầm, núi Voi, núi Thiên Mã cao trên dưới 70m; đồi Tranh (Quang Thạnh), đồi Mã Tổ, Gò Đồn, Gò Mạ, Rừng Dê, Rừng Xanh...
Sông, suối: Dọc phía nam huyện có sông Trà Khúc chảy từ tây sang đông, độ dài ở địa hạt Sơn Tịnh gần 40 km, đến xã Tịnh Khê sông đổ ra cửa Cổ Lũy. Trà Khúc là con đường thủy quan trọng giao lưu kinh tế - văn hóa từ vùng biển lên nguồn và ngược lại; là nguồn nước quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt.
Phía tây Sơn Tịnh còn có sông Giang, bắt nguồn từ vùng nam huyện Trà Bồng chảy qua xã Tịnh Giang rồi hợp nước vào sông Trà Khúc. Phía đông Sơn Tịnh có sông Diêm Điền (ở Tịnh Hòa), sông Kinh (ở Tịnh Khê).
Suối từ hướng tây bắc chảy về hướng đông nam khá nhiều, tính từ tây xuống đông có các suối Bàng Lăng, Tam Hân, Bến Ngói, Bến Bè, Bà Mẹo, Bà Tá... Xưa kia các suối khá nhiều nước, người đi đường mùa hè phải lội qua, mùa mưa phải đi đò. Nay hầu hết các suối đều cạn nước, đường qua suối đều có cầu.
Biển và bờ biển: Sơn Tịnh có bờ biển dài 12 km, nằm giữa hai cửa biển Sa Kỳ, Cổ Lũy, nhờ đó có thể mở rộng giao lưu hàng hóa bằng đường biển đi các nơi và cũng là điều kiện tự nhiên thuận lợi cho nghề đánh bắt hải sản, hình thành các cánh đồng muối ở Xuân An (Tịnh Hòa). Những đầm ngập mặn ở ven biển tạo điều kiện thuận lợi cho cư dân ở đây nuôi trồng thủy hải sản xuất khẩu. Các bãi biển đẹp như Mỹ Khê, An Kỳ, An Vĩnh, gắn với di tích Sơn Mỹ đã và đang thu hút khách du lịch đến tham quan, nghỉ ngơi.
Đồng bằng: Ở vùng châu thổ tả ngạn sông Trà Khúc, nhờ được phù sa bồi đắp nên đất đai màu mỡ, phì nhiêu, tạo nên những cánh đồng lúa, mía, ngô, dâu tằm, rau quả với sản lượng cao, phục vụ nhu cầu đời sống của nhân dân và sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Ở các vùng khác, đất đai ít thuận lợi hơn cho sản xuất nông nghiệp.
Khí hậu.
Sơn Tịnh nằm trong vùng nhiệt đới, gió mùa; mỗi năm có hai mùa mưa, nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng chín âm lịch đến tháng 1 năm sau, mùa nắng từ tháng hai đến tháng tám.
Trong tổng diện tích tự nhiên 34.357,4ha của huyện Sơn Tịnh, tính ở thời điểm năm 2005, đất sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy hải sản có 24.400,8ha (71%); đất chuyên dùng có 3.148,7ha (9,2%); đất khu dân cư 1.662,3ha (4,8%); đất phi nông nghiệp 2.809,9ha (8,2%); đất chưa sử dụng 2.335,7ha (6,7%).
Rừng núi và đất đồi Sơn Tịnh trước kia có nhiều cây bằng lăng, bìn nin (loại gỗ quý nhóm I), có nhiều động vật. Ở vùng đất cát tây bắc huyện có cây chổi, được nhân dân khai thác lá, cành chế biến ra dầu chổi (giống như dầu khuynh diệp). Ngày nay, các loại cây trên hầu như không còn. Từ sau ngày giải phóng đến nay, Sơn Tịnh trồng mới hàng ngàn hécta rừng, nhiều nhất là dương liễu ở ven biển, cây điều, bạch đàn ở vùng gò đồi; đồng thời khoanh nuôi, tái sinh, chăm sóc hàng ngàn hécta rừng cũ.
Núi rừng, sông suối Sơn Tịnh là nơi nhân dân khai thác được nhiều đá, cát, sỏi phục vụ cho xây dựng cơ bản. Năm 2004 và 2005, toàn huyện khai thác được trên 39.000m3 gỗ, 319.000 ster củi, 400 ngàn cây tre, 2,8 triệu lá dừa nước.
Dưới lòng đất ở phía tây bắc huyện có mỏ graphit Hưng Nhượng (ở Tịnh Đông) với trữ lượng khoảng trên 40 triệu tấn, có quặng bauxit, silamít, quặng sắt, cao lanh ở Tịnh Hiệp, Tịnh Giang, Tịnh Trà, có đá vôi ở Tịnh Khê...
Dưới biển có nhiều loại hải sản quý.
Về dân cư: Qua một số hiện vật khảo cổ, người ta biết xưa kia ở địa hạt huyện Sơn Tịnh từng có các cộng đồng cư dân cổ, chủ nhân của thời kỳ đồ đá cũ tại khu vực Gò Trá (nay thuộc xã Tịnh Thọ), chủ nhân của nền văn hóa Tiền Sa Huỳnh ở Núi Sứa (nay thuộc xã Tịnh Ấn Tây). Tiếp sau là cư dân Chăm sống rải rác ở nhiều nơi.
Người Việt ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ đã chuyển cư đến vùng đất Sơn Tịnh từ cuối thế kỷ XV, sinh cơ lập nghiệp, mở đất, dựng làng. Một số người Hoa từ thời phong kiến đã sang buôn bán, sinh sống, về sau hòa nhập với cộng đồng người Việt, gọi là người Việt gốc Hoa, tập trung nhiều nhất ở Ba Gia (nay thuộc xã Tịnh Bắc), Đồng Ké (nay thuộc xã Tịnh Giang). Ở các xã cực tây của huyện có một số ít người thuộc dân tộc Hrê sinh sống. Sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, có một số ít người thuộc các dân tộc thiểu số ở miền Bắc theo gia đình về sống ở Sơn Tịnh.
Đến năm 2005, dân số Sơn Tịnh có 194.738 người, trong đó có 194.725 người Việt, 13 người dân tộc Hrê sống ở xã Tịnh Giang cực tây huyện(3).
Hành chính.
Huyện Sơn Tịnh có 11 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 11 xã: Tịnh Bắc, Tịnh Bình, Tịnh Đông, Tịnh Giang, Tịnh Hà (huyện lỵ), Tịnh Hiệp, Tịnh Minh, Tịnh Phong, Tịnh Sơn, Tịnh Thọ, Tịnh Trà với 58 thôn.
Lịch sử.
Thời nhà Hồ, vùng đất Sơn Tịnh ngày nay nằm trong huyện Trì Bình thuộc, châu Tư, lộ Thăng Hoa. Từ thời nhà Lê, huyện Trì Bình đổi tên thành huyện Bình Dương, rồi Bình Sơn.
Năm 1890, các làng, xã, ấp phía nam huyện Bình Sơn được tách ra để lập thành châu Sơn Tịnh thuộc Sơn phòng Nghĩa Định. "Năm thứ 11 đời vua Thành Thái (1899), cải làm huyện, trích 18 xã thôn tổng Bình Thượng huyện Bình Sơn và 8 xã thôn tổng Bình Trung nhập làm tổng Tịnh Thượng; lại trích 25 xã thôn tổng Bình Trung và 3 xã thôn tổng Bình Hạ nhập làm tổng Tịnh Trung thuộc về huyện này.". Thời vua Bảo Đại, tổng Bình Châu nhập về huyện Sơn Tịnh và đổi tên là tổng Tịnh Châu. Năm 1932, huyện Sơn Tịnh thăng làm phủ Sơn Tịnh, bấy giờ gồm 4 tổng: Tịnh Thượng, Tịnh Trung, Tịnh Hòa, Tịnh Châu, với 72 làng, xã, thôn, ấp, vạn, trại.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, phủ Sơn Tịnh được chính quyền Việt Minh đổ tên thành phủ Trương Quang Trọng, đặt theo tên của Bí thư Tỉnh bộ Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội tỉnh Quảng Ngãi. Đến tháng 6 năm 1946, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đổi phủ Trương Quang Trọng thành huyện Sơn Tịnh, hợp nhất các làng xã nhỏ thành 12 xã lớn, lấy chữ Tịnh đứng đầu: Tịnh Giang, Tịnh Hiệp, Tịnh Thọ, Tịnh Minh, Tịnh Bình, Tịnh Sơn, Tịnh Hà, Tịnh Phong, Tịnh Ấn, Tịnh Thành, Tịnh Khê, Tịnh Hòa.
Trong những năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhiều lần thay đổi hành chính các xã thuộc Sơn Tịnh như. Đến năm 1954, huyện Sơn Tịnh còn 19 xã.
Sau năm 1955, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi huyện Sơn Tịnh thành quận Sơn Tịnh, đổi tên các xã, lấy chữ Sơn làm đầu như: xã Tịnh Giang đổi là xã Sơn Tây; xã Tịnh Đông đổi là xã Sơn Đông; xã Tịnh Hiệp đổi là xã Sơn Phương; xã Tịnh Trà đổi là xã Sơn Trà; xã Tịnh Bắc đổi là xã Sơn Bắc; xã Tịnh Minh đổi là xã Sơn Nam; xã Tịnh Sơn đổi là xã Sơn Lộc; xã Tịnh Bình đổi là xã Sơn Châu; xã Tịnh Thọ đổi là xã Sơn Kim; xã Tịnh Phong đổi là xã Sơn Hương; xã Tịnh Hà đổi là xã Sơn Trung; xã Tịnh Ấn đổi là xã Sơn Long; xã Tịnh An đổi là xã Sơn Phú; xã Tịnh Châu đổi là xã Sơn Thành; xã Tịnh Thiện đổi là xã Sơn Hòa; xã Tịnh Long đổi là xã Sơn Hội; xã Tịnh Hòa đổi là xã Sơn Quang; xã Tịnh Khê đổi là xã Sơn Mỹ; xã Tịnh Kỳ đổi là xã Sơn Hải.
Phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn sử dụng phân cấp hành chính của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, vào các giai đoạn 1961 - 1965 và 1970 - 1975, các xã phía đông Quốc lộ 1 của huyện Sơn Tịnh và các xã phía đông huyện Bình Sơn được tổ chức thành huyện Đông Sơn.
Sau năm 1975, huyện Sơn Tịnh thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 19 xã: Tịnh An, Tịnh Ấn, Tịnh Bắc, Tịnh Bình, Tịnh Châu, Tịnh Đông, Tịnh Giang, Tịnh Hà, Tịnh Hiệp, Tịnh Hòa, Tịnh Khê, Tịnh Kỳ, Tịnh Long, Tịnh Minh, Tịnh Phong, Tịnh Sơn, Tịnh Thiện, Tịnh Thọ và Tịnh Trà.
Ngày 12 tháng 3 năm 1987, chia xã Tịnh Ấn thành 3 đơn vị hành chính: xã Tịnh Ấn Đông, xã Tịnh Ấn Tây và thị trấn Sơn Tịnh.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Sơn Tịnh thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Cuối năm 2012, huyện Sơn Tịnh có thị trấn Sơn Tịnh và 20 xã: Tịnh An, Tịnh Ấn Đông, Tịnh Ấn Tây, Tịnh Bắc, Tịnh Bình, Tịnh Châu, Tịnh Đông, Tịnh Giang, Tịnh Hà, Tịnh Hiệp, Tịnh Hòa, Tịnh Khê, Tịnh Kỳ, Tịnh Long, Tịnh Minh, Tịnh Phong, Tịnh Sơn, Tịnh Thiện, Tịnh Thọ, Tịnh Trà.
Ngày 12 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 123/NQ-CP. Theo đó, chuyển toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị trấn Sơn Tịnh và 9 xã Tịnh Ấn Tây, Tịnh Ấn Đông, Tịnh An, Tịnh Long, Tịnh Châu, Tịnh Thiện, Tịnh Khê, Tịnh Hòa, Tịnh Kỳ về thành phố Quảng Ngãi quản lý.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, huyện Sơn Tịnh còn lại 24.341,31 ha diện tích tự nhiên và 95.597 người với 11 xã trực thuộc. Huyện lỵ dời về xã Tịnh Hà.
Kinh tế - xã hội.
Cơ sở giáo dục.
Đến năm 2020, trên địa bàn huyện có 35 trường trong đó có 33 trường công lập và 2 trường tư thục. Mầm non có 7/11 trường đạt chuẩn quốc gia về giáo dục; tiểu học có 11/11 trường đạt chuẩn; trung học cơ sở có 11/11 trường đạt chuẩn; trung học phổ thông có 1 trường đạt chuẩn.
Giao thông.
Huyện có tuyến quốc lộ 24B đi cảng Sa Kỳ. Có quốc lộ 1, đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi và đường sắt Bắc Nam đi ngang qua huyện. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Nghĩa Đàn là một huyện thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam.
Địa lý.
Vị trí địa lý.
Nghĩa Đàn là một huyện miền núi, nằm trong vùng sinh thái phía tây bắc tỉnh Nghệ An có tọa độ 19o13' - 19o33' vĩ độ Bắc, 105o18' - 105o35' kinh độ Đông, cách thành phố Vinh 95 km về phía tây bắc, có vị trí địa lý:
Thị xã Thái Hòa gần như nằm trọn trong lòng huyện.
Huyện Nghĩa Đàn có vị trí kinh tế, chính trị, an ninh - quốc phòng quan trọng, được coi là trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của vùng Tây Bắc tỉnh Nghệ An; có quốc lộ 48 và đường Hồ Chí Minh đi qua, thuận lợi cho việc phát triển, giao thương và hội nhập kinh tế.
Địa hình.
Nghĩa Đàn là huyện có điều kiện địa hình khá thuận lợi so với các huyện trung du, miền núi trong tỉnh. Đồi núi không quá cao, chủ yếu là thấp và thoải dần; bao quanh huyện từ phía Tây sang phía Bắc, phía Đông và Đông Nam là những dãy núi tương đối cao. Một số đỉnh có độ cao từ 300 - 400m như: Dãy Chuột Bạch, dãy Bồ Bố, dãy Cột Cờ...
Khu vực phía Tây Nam và phần lớn các xã trong huyện là đồi thoải. Xen kẽ giữa các đồi núi thoải là những thung lũng có độ cao trung bình từ 50 - 70m so với mực nước biển.
Địa hình toàn huyện được phân bố như sau:
Ngoài ra, do đặc điểm kiến tạo của địa hình, Nghĩa Đàn có những vùng đất tương đối bằng phẳng, có quy mô diện tích lớn, đồi núi thấp là điều kiện thuận lợi để phát triển nông lâm nghiệp phong phú.
Khí hậu.
Nghĩa Đàn có những đặc điểm chung của khí hậu Bắc Trung Bộ: nhiệt đới ẩm gió mùa; đồng thời có thêm những đặc điểm riêng của khu vực trung du đồi núi. Hàng năm, có 2 mùa rõ rệt, mùa hè khô nóng và mùa đông lạnh giá. Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23 °C. Nhiệt độ nóng nhất là 41,6 °C. Nhiệt độ thấp nhất 15 °C.
[null Lượng mưa trung bình năm là 1.694mm, phân bố không đồng đều trong năm. Mưa tập trung vào các tháng 8, 9 và 10 gây úng lụt ở các vùng thấp dọc sông Hiếu; mùa khô lượng mưa không đáng kể do đó hạn hán kéo dài, có năm tới 2 đến 3 tháng.
Ngoài ra, gió Phơn Tây Nam, bão, lốc, sương muối cũng gây tác hại lớn cho quá trình sản xuất nông nghiệp của huyện.
Dân số.
Dân số năm 2022 là 144.736 người. 7,9% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Hành chính.
Huyện Nghĩa Đàn có 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nghĩa Đàn (huyện lỵ) và 22 xã: Nghĩa An, Nghĩa Bình, Nghĩa Đức, Nghĩa Hiếu, Nghĩa Hội, Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nghĩa Khánh, Nghĩa Lạc, Nghĩa Lâm, Nghĩa Long, Nghĩa Lộc, Nghĩa Lợi, Nghĩa Mai, Nghĩa Minh, Nghĩa Phú, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thành, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thọ, Nghĩa Trung, Nghĩa Yên.
Lịch sử.
Vùng đất Phủ Quỳ (Nghĩa Đàn) đã có hàng ngàn năm lịch sử có cư dân sinh sống và ngày càng phát triển. Nếu như cách đây 3.000 năm, Nghĩa Đàn là nơi quần tụ của người Việt cổ sáng tạo nên nền văn hóa Đông Sơn, hoặc xa hơn nữa trên vài vạn năm người Việt cổ ở Nghĩa Đàn đã có nền văn hóa thời kỳ hậu đồ đá cổ. Từ khu di chỉ khảo cổ làng Vạc - Khu di chỉ khảo cổ học về văn hóa Đông Sơn có giá trị nhất khu vực Đông Nam Á hiện nay, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy ở đây những chiếc nồi, những bức tượng, trống đồng... tất cả thể hiện rõ nét về sự phát triển, cuộc sống trù phú, ấm no và đời sống tinh thần phong phú. Văn hóa Nghĩa Đàn từ lâu đã là sự tích hợp của nhiều "dòng văn hóa", trong đó ảnh hưởng lớn là các dòng văn hóa bản địa của người Thổ, người Thái; dòng văn hóa người Kinh di dân đến đây từ cuộc khai thác thuộc địa, xây dựng đồn điền của thực dân Pháp và gần đây là các phong trào di dân làm kinh tế mới.
Từ năm 179 trước công nguyên, Nghĩa Đàn nằm giữa quận Cửu Chân, đến năm 111 trước công nguyên, Nghĩa Đàn thuộc huyện Hàm Hoan, quận Cửu Chân. Thế kỷ thứ 3 trước công nguyên, Nghĩa Đàn thuộc quận Cửu Đức ra đời từ việc tách một phần của quận Cửu Chân; Nghĩa Đàn vẫn thuộc huyện Hàm Hoan, một trong 6 huyện của quận Cửu Đức. Năm 679, nhà Đường chia Nghệ Tĩnh 2 vùng Diễn Châu và Hoan Châu. Nghĩa Đàn thuộc phần lãnh thổ Diễn Châu. Dưới thời Tiền Lê (980-1009), Lê Hoàn chia đất nước thành lộ, phủ, châu, Nghĩa Đàn vẫn thuộc lộ Diễn Châu và đến năm 1396, Lý Thái Tổ đổi lộ thành phủ, Nghĩa Đàn vẫn thuộc phủ Diễn Châu. Năm 1397, Hồ Quý Ly cho đổi phủ Diễn Châu thành trấn Vọng Giang rồi sau thành trấn Linh Nguyên. Tới thời kỳ thuộc Minh có lúc Nghĩa Đàn được cắt ra để sáp nhập với phủ Thanh Hóa. Kháng chiến quân Minh thắng lợi, Lê Lợi lên làm vua, chia đất nước thành 5 đạo, phủ Diễn Châu và phủ Nghệ An thuộc đạo Hải Tây. Năm 1466, Lê Nhân Tông đưa Quỳ Châu (trong đó có Nghĩa Đàn) trở về thừa tuyên Nghệ An, phủ Giang Châu được đặt ngang với phủ Diễn Châu. Năm 1469, Lê Thánh Tông cho vạch lại bản đồ cả nước. Nghĩa Đàn phần lớn thuộc đất Quỳnh Lưu, phần còn lại thuộc huyện Đông Thành, Thúy Vân (thuộc Quỳ Châu và Diễn Châu). Dưới thời Minh Mạng 12 (1831), Nghĩa Đàn thuộc đất Diễn Châu. Nếu tính từ năm Minh Mạng thứ 21 (1840) thì huyện Nghĩa Đàn được thành lập đã là 171 năm khi tổ chức hành chính Nghệ An được sắp xếp lại và lập thêm một số huyện. Phủ Quỳ Châu vốn trước có 2 huyện là Trung Sơn (Quế Phong) và Thúy Vân (gồm phần lớn đất Quỳ Châu và Quỳ Hợp hiện nay). Nhưng nếu tính từ năm có tên là Nghĩa Đàn xuất hiện trong bộ máy nhà nước đến nay là 126 năm, khi vua Đồng Khánh vì húy kỵ nên cho đổi Nghĩa Đường thành Nghĩa Đàn. Nghĩa Đàn có tên từ đó.
Trên chính vùng đất này ngày 22 tháng 10 năm 1907, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định củng cố lại vùng Quỳ Châu – Nghĩa Đàn, đặt tại Nghĩa Hưng một sở đại diện của chính quyền cấp tỉnh đến ngày 1 tháng 9 năm 1908 thì gọi là trạm Nghĩa Hưng. Ngày 3 tháng 3 năm 1930, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định, nâng trạm Nghĩa Hưng lên thành Sở đại lý Phủ Quỳ với trách nhiệm và quyền hạn lớn hơn trước. Với mục tiêu của những "nhà khai hóa" là củng cố bộ máy thống trị tăng cường đàn áp để chiếm cứ đất đai lập đồn điền; khai thác triệt để nguồn lợi từ vùng Phủ Quỳ giàu có. Huyện Nghĩa Đàn lúc này có 6 tổng (Cự Lâm, Thái Thịnh, Nghĩa Hưng, Thanh Khê, Hạ Sưu, Lâm La) với 58 xã thôn, có con dấu riêng. Huyện đường đặt tại Tân Hiếu (xã Nghĩa Quang ngày nay). Cơ cấu hành chính tồn tại cho đến ngày Cách mạng tháng 8 năm 1945. Sau năm 1945, bỏ cấp phủ, gọi chung là huyện. Huyện Nghĩa Đàn khi đó gồm có 36 xã: Giai Xuân, Nghĩa An, Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Đức, Nghĩa Dũng, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hoàn, Nghĩa Hội, Nghĩa Hợp, Nghĩa Hưng, Nghĩa Khánh, Nghĩa Lạc, Nghĩa Lâm, Nghĩa Liên, Nghĩa Lộc, Nghĩa Lợi, Nghĩa Long, Nghĩa Mai, Nghĩa Minh, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phúc, Nghĩa Quang, Nghĩa Sơn, Nghĩa Thái, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thọ, Nghĩa Thuận, Nghĩa Tiến, Nghĩa Trung, Nghĩa Xuân, Nghĩa Yên, Tam Hợp, Tân Hợp, Tiên Đồng.
Tháng 10 năm 1930, tại hang Rú Ấm, xã Thọ Lộc (nay thuộc xã Nghĩa Đức), một sự kiệ̣n chính trị quan trọng đã xảy ra, chi bộ Đảng đầu tiên của Nghĩa Đàn được thành lập. Đây là một trong những chi bộ Đảng được thành lập đầu tiên ở các huyện miền núi Nghệ An, sau đó nhiều chi bộ Đảng mới được thành lập. Tháng 4 năm 1931, hội nghị hợp nhất giữa các chi bộ Đảng được tổ chức tại làng Lụi xã Nghĩa Mỹ. Sự kiện này được xem như là sự ra đời của Đảng bộ Nghĩa Đàn. Trong suốt 15 năm, Đảng bộ đã nhiều lần phải tổ chức lại nhưng luôn đóng vai trò lãnh đạo và đã giành được chính quyền về tay nhân dân vào ngày 22 tháng 8 năm 1945. Từ sau cách mạng tháng Tám 1945, cùng với cả nước, Nghĩa Đàn bước vào công cuộc "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc". Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cả miền Bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nghĩa Đàn là hậu phương lớn cùng tiền tuyến miền Nam đánh Mỹ. Các nông trường 1/5, nông trường 19/5, Đông Hiếu, Tây Hiếu, Cờ Đỏ... được thành lập trở thành mô hình sản xuất tiên tiến mới của miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Ngày 10 tháng 12 năm 1961, nhân dân Nghĩa Đàn vinh dự được đón Bác Hồ lên thăm, trong cuộc nói chuyện với cán bộ và công nhân Nông trường Đông Hiếu, Bác đã căn dặn: "Các nông trường có nhiệm vụ đoàn kết và tìm cách giúp đỡ đồng bào địa phương. Những kỹ thuật của nông trường tiến bộ hơn, vì vậy, đồng bào địa phương cần đoàn kết với nông trường, xây dựng hợp tác xã cho tốt, đời sống xã viên ngày càng ấm no, thế là chủ nghĩa xã hội".
Danh xưng Nghĩa Đàn Đã trải qua 126 năm và đã nhiều lần thay đổi về địa giới hành chính.
Tháng 5 năm 1963, Hội đồng Chính phủ ban hành quyết định số 52-CP tách 10 xã của huyện Nghĩa Đàn (gồm các xã: Nghĩa Bình, Nghĩa Đồng, Nghĩa Hợp, Nghĩa Dũng, Nghĩa Thái, Nghĩa Hoàn, Giai Xuân, Nghĩa Phúc, Tân Hợp, Tiên Đồng) để thành lập huyện Tân Kỳ và 3 xã: Tam Hợp, Nghĩa Xuân, Nghĩa Sơn để thành lập huyện Quỳ Hợp.
Ngày 16 tháng 7 năm 1965, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 251-NV thành lập thị trấn Nông trường 19-5 thuộc huyện Nghĩa Đàn.
Lúc này Nghĩa Đàn có 24 xã, thị trấn bao gồm: Nghĩa An, Nghĩa Đức, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hội, Nghĩa Hưng, Nghĩa Khánh, Nghĩa Lạc, Nghĩa Lâm, Nghĩa Liên, Nghĩa Lộc, Nghĩa Lợi, Nghĩa Long, Nghĩa Mai, Nghĩa Minh, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Quang, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thọ, Nghĩa Thuận, Nghĩa Tiến, Nghĩa Trung, Nghĩa Yên và thị trấn Thái Hòa (1965).
Ngày 25 tháng 11 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định 83/NĐ-CP thành lập thêm 8 xã mới: Nghĩa Hồng, Nghĩa Sơn, Nghĩa Bình, Nghĩa Phú, Nghĩa Hiếu, Nghĩa Tân, Đông Hiếu, Tây Hiếu trên cơ sở 5 thị trấn nông trường quốc doanh là: 1-5, 19-5, Cờ Đỏ, Đông Hiếu, Tây Hiếu, đưa tổng số xã ở Nghĩa Đàn lên 32 xã, thị.
Cuối năm 2006, huyện Nghĩa Đàn có 32 đơn vị hành chính gồm thị trấn Thái Hòa và 31 xã: Đông Hiếu, Nghĩa An, Nghĩa Bình, Nghĩa Đức, Nghĩa Hiếu, Nghĩa Hòa, Nghĩa Hội, Nghĩa Hồng, Nghĩa Hưng, Nghĩa Khánh, Nghĩa Lạc, Nghĩa Lâm, Nghĩa Liên, Nghĩa Lộc, Nghĩa Lợi, Nghĩa Long, Nghĩa Mai, Nghĩa Minh, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Phú, Nghĩa Quang, Nghĩa Sơn, Nghĩa Tân, Nghĩa Thắng, Nghĩa Thịnh, Nghĩa Thọ, Nghĩa Thuận, Nghĩa Tiến, Nghĩa Trung, Nghĩa Yên, Tây Hiếu.
Ngày 15 tháng 11 năm 2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 164/2007/NĐ-CP điều chỉnh địa giới hành chính chia tách Nghĩa Đàn thành 2 đơn vị hành chính cấp huyện: các xã Nghĩa Hòa, Nghĩa Quang, Nghĩa Thuận, Nghĩa Mỹ, Nghĩa Tiến, Đông Hiếu, Tây Hiếu và thị trấn Thái Hòa thuộc về địa giới hành chính của thị xã Thái Hòa. Các cơ quan trong hệ thống chính trị của thị xã Thái Hòa kế thừa toàn bộ cơ sở vật chất, trụ sở của huyện Nghĩa Đàn cũ. Huyện Nghĩa Đàn mới chuyển trung tâm huyện lỵ về xã Nghĩa Bình mà trước đây là nông trường 1/5.
Ngày 11 tháng 10 năm 2011, thành lập thị trấn Nghĩa Đàn thuộc huyện Nghĩa Đàn trên cơ sở điều chỉnh 455,7 ha diện tích tự nhiên và 3.007 nhân khẩu của xã Nghĩa Bình, 345,5 ha diện tích tự nhiên và 1.763 nhân khẩu của xã Nghĩa Trung, 51,4 ha diện tích tự nhiên và 267 nhân khẩu của xã Nghĩa Hội.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập 3 xã: Nghĩa Tân, Nghĩa Thắng, Nghĩa Liên thành xã Nghĩa Thành.
Huyện Nghĩa Đàn có 1 thị trấn và 22 xã như hiện nay.
Kinh tế.
Các nguồn tài nguyên.
Tài nguyên đất.
Tổng diện tích tự nhiên huyện Nghĩa Đàn là 61.754,55ha theo tài liệu điều tra thổ nhưỡng Nghệ An. Trong đó:
Trên địa bàn huyện có các loại đất chính sau:
Tài nguyên rừng.
Toàn huyện có 18.205,10ha diện tích rừng, trong đó: rừng tự nhiên 9.205,10ha, rừng trồng 9.000ha. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 25,40%. Rừng trồng chủ yếu là keo, tràm; có khả năng phát triển công nghiệp chế biến lâm sản, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái.
Tài nguyên khoáng sản.
Tài nguyên khoáng sản ở Nghĩa Đàn có các loại sau:
- Đá bọt Bazan (làm nguyên liệu phụ gia cho xi măng và xay nghiền đá Puzơlan) phân bố ở các xã Nghĩa Mai, Nghĩa Sơn, Nghĩa Lâm... với trữ lượng khoảng 70 - 100 triệu tấn.
- Mỏ sét ở Nghĩa An, Nghĩa Liên, Nghĩa Lộc, Nghĩa Hồng trữ lượng ít, chỉ khoảng trên 1 triệu m³.
- Mỏ đá vôi ở Nghĩa Tân, Nghĩa Hiếu trữ lượng khoảng 45 triệu m³.
- Mỏ đá xây dựng ở Nghĩa Tân, Nghĩa Hiếu, Nghĩa Trung, Nghĩa Đức...
- Vàng sa khoáng ở sông Hiếu.
- Mỏ than ở Nghĩa Thịnh.
Các loại khoáng sản trên đều chưa được khảo sát chất lượng, trữ lượng cụ thể và thực tế khai thác chưa đáng kể.
Tài nguyên nước, thủy văn.
Nguồn nước mặt: Nghĩa Đàn nằm trong lưu vực sông Hiếu, là nhánh sông lớn nhất của hệ thống sông Cả, bắt nguồn từ biên giới Việt - Lào, qua các huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp về Nghĩa Đàn, Tân Kỳ, gặp sông Cả tại Cây Chanh (huyện Anh Sơn). Sông Hiếu có chiều dài 217 km, đoạn chạy qua Nghĩa Đàn dài 30,10 km (từ ngã ba Dinh đến Khe Đá). Tổng diện tích lưu vực 5.340 km².
Ngoài sông Hiếu, Nghĩa Đàn có 48 sông suối lớn nhỏ, trong đó có năm nhánh chính:] Sông Sào dài 34 km, Khe Cái dài 23 km, Khe Hang dài 23 km, Khe Diên dài 16 km, Khe Đá dài 17 km.
Nguồn nước ngầm: Mạch nước ngầm của Nghĩa Đàn tương đối sâu và có nhiều tạp chất của khoáng vật. Khả năng khai thác nguồn nước ngầm phục vụ các ngành sản xuất là rất khó khăn.
Tài nguyên nhân văn.
Nghĩa Đàn là huyện trung du miền núi nằm về phía Bắc tỉnh Nghệ An. Nơi đây là cái nôi của người Việt cổ, với di chỉ khảo cổ học Làng Vạc, những chiếc trống đồng biểu tượng rực rỡ của nền văn hóa Đông Sơn từ thuở các Vua Hùng dựng nước; là nơi gặp gỡ, hội tụ những nét văn hóa đặc sắc của vùng đất Phủ Quỳ.
Nghĩa Đàn có điều kiện thuận lợi để phát triển du lịch sinh thái gắn với phát triển nông nghiệp, nổi bật như cánh đồng hoa hướng dương của Công ty CP thực phẩm sữa TH, mỗi năm diện tích trồng hoa hướng dương lên tới 50ha, thu hút hàng nghìn du khách về tham quan. Ngoài ra, có những điểm du lịch thu hút nhiều du khách khi đến với Nghĩa Đàn: Thung lũng hoa Phủ Quỳ (Nghĩa Long), Khu sinh thái Hòn Mát (Nghĩa Lộc), Suối cá Khe Tọ (Nghĩa Trung), thác Đá Nhảy (Nghĩa Lạc)...
Ngoài ra, còn có các sản phẩm và làng nghề truyền thống từ hàng trăm năm như: làng nghề chổi đót Hòa Hội (Nghĩa Hội), làng nghề ép mía chế biến đường làng Găng (Nghĩa Hưng) vừa góp phần phong phú trong sinh hoạt vừa nâng cao thu nhập cho người dân.
Một số loại cây trồng.
Cam Vinh.
Với ưu thế về thổ nhưỡng, đất đai của vùng đất Phủ Quỳ; trong những năm gần đây, diện tích trồng cam huyện Nghĩa Đàn có xu hướng tăng; cụ thể năm 2010 diện tích là 320 ha (diện tích kinh doanh 203 ha), năm 2015 là 507,17 ha (diện tích kinh doanh 314,67 ha). Năng suất bình quân đạt 150,98 tạ/ha, sản lượng 4.751 tấn. Cam chủ yếu tập trung ở các vùng Nông trường Cờ Đỏ, Nghĩa Hồng, Nghĩa Sơn, Nghĩa Lâm, Nghĩa Hiếu...
Trên địa bàn đã xây dựng cánh đồng lớn cho cây cam ở các xã như Nghĩa Phú, Nghĩa Minh, Nghĩa Bình, Nghĩa Thọ với quy mô từ 3 - 6 ha, giống cam được sử dụng chủ yếu là cam Xã Đoài.
Bơ.
Tổng diện tích trồng bơ trên địa bàn huyện Nghĩa Đàn khoảng 35ha, tập trung ở các xã Nghĩa Phú, Nghĩa Bình với các giống bơ bản địa được trồng từ hơn 20 năm trước và một số loại giống bơ mới có nguồn gốc từ nước ngoài.
Sản phẩm Bơ trồng tại Nghĩa Đàn có chất lượng không thua kém bơ Daklak và hiện nay đã xây dựng nhãn hiệu tập thể "Bơ Nghĩa Đàn" và thương hiệu "Bơ Phủ Quỳ"
Quýt PQ.
Cây quýt PQ được người dân xã Nghĩa Hồng, Nghĩa Long huyện Nghĩa Đàn lựa chọn đưa vào sản xuất.
Ổi.
Ổi Nghĩa Đàn bước đầu đã tạo dựng được thương hiệu và đã xây dựng thương hiệu "Ổi Nghĩa Đàn".
Rau củ quả.
Sản xuất rau xanh cơ bản được tiêu dùng trên địa bàn và bán ra các địa phương khác với các sản phẩm chính như: bí xanh, bầu đỏ, dưa hấu, dưa chuột... Bước đầu đã hình thành được một số vùng trồng rau tập trung thâm canh theo hướng sản xuất sạch như ở xã Nghĩa Sơn, Nghĩa Thắng, Nghĩa Phú...
Là nhóm cây trồng phong phú về chủng loại; nhờ được quan tâm đầu tư sản xuất, thu nhập từ nghề trồng rau thực phẩm tương đối ổn định và cao hơn nhiều loại cây trồng khác; góp phần nâng cao giá trị kinh tế trên một đơn vị diện tích đất canh tác. Hiện nay, dự án rau sạch FVF theo tiêu chuẩn VietGAP và Organic của Công ty CP sản xuất và cung ứng rau quả Quốc tế được thực hiện tại xã Nghĩa Sơn, huyện Nghĩa Đàn với diện tích hơn 100 ha được trồng trong nhà kính và trên cánh mở. Với quy trình chăm sóc tốt, kiểm soát phân bón chặt chẽ, chất lượng được quản lý nghiêm ngặt cùng nguồn nước sạch và nguồn dinh dưỡng thuần khiết giúp rau củ quả phát triển tự nhiên; đảm bảo cung ứng ra thị trường các sản phẩm sạch và an toàn.
Ngoài ra, trên địa bàn đã thực hiện chuyển đổi cơ cấu cây trồng trên vùng đất cao cưỡng để trồng bí xanh ở xã Nghĩa Lộc, Nghĩa Hội; đậu tương, lạc ở xã Nghĩa Lộc, Nghĩa Trung nhằm tăng năng suất trên đơn vị diện tích và hạn chế sâu bệnh phát triển. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.658663 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Mỹ Khê là một bãi biển ở Huyện Sơn Tịnh, Tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Vị trí.
Bãi biển này thuộc thôn Cổ Lũy, xã Tịnh Khê, Thành phố Quảng Ngãi. Nó cách trung tâm thành phố Quảng Ngãi 12 km về phía Đông, nằm bên cạnh sông Kinh. Mỹ Khê nằm trên quốc lộ 24B, cách cảng Dung Quất 16 km và gần cảng Sa Kỳ. Bãi biển này cách khu chứng tích Sơn Mỹ 3 km - nơi xảy ra vụ thảm sát Mỹ Lai đã từng làm chấn động dư luận thế giới.
Nhận xét.
Trương Đăng Quế khi xin về nghỉ hưu đã từng nói: "nhất Huế nhì đây" (theo: Di tích và thắng cảnh Quảng Ngãi, Sở VHTT Quảng Ngãi xuất bản năm 2001).
Du lịch.
Ngoài Mỹ Lai còn có Tịnh Thiện, Thành phố Quảng Ngãi, Tỉnh Quảng Ngãi mà nơi có cảch đẹp và khí hậu tốt là xóm Nho Lâm, xóm Nho Lâm nằm giữa núi đồn và núi Bé. Có bến Đá, Cầu Kháng chiến. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.742217 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Trà Bồng là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Trà Bồng là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc của tỉnh Quảng Ngãi, có độ cao từ 80 - 1.500 m so với mực nước biển.
Huyện có vị trí địa lý:
Huyện lỵ của huyện là thị trấn Trà Xuân, cách thành phố Quảng Ngãi khoảng 50 km về phía tây bắc theo Quốc lộ 1 và tỉnh lộ 622.
Trà Bồng nằm ở vùng khí hậu á nhiệt đới, nhiệt độ trung bình 26-27 °C, có 2 mùa mưa nắng tương đối rõ rệt. Mùa nắng từ tháng 2 đến tháng 8 (âm lịch), khí hậu mát mẽ, mưa nhiều, lượng mưa trung bình 50-60mm/tháng. Mùa mưa kéo dài từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau, thường hay gây lũ, lụt, sạt lở núi gây khó khăn trở ngại cho đời sống nhân dân các dân tộc trong huyện.
Là một huyện miền núi nên diện tích đồi núi chiếm phần lớn đất đai trong huyện, vùng đồng bằng nằm ở phía Đông huyện, giáp với huyện Bình Sơn và phía hữu ngạn sông Trà Bồng, nằm ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân.
Địa hình huyện Trà Bồng khá phức tạp, bị chia cắt mạnh bởi các khối núi và sông suối chằng chịt trong các thung lũng nhỏ hẹp, núi ở đây có độ dốc lớn.
Dân tộc Kinh sống tập trung chủ yếu ở các xã Trà Phú, Trà Bình và thị trấn Trà Xuân. Người Kor sống rải rác ở các xã còn lại của huyện. Người Kor ở Trà Bồng thuộc nhóm ngữ hệ Môn – Khmer. Người Kor sống thành từng Nóc (làng), có đến vài chục hộ gia đình cùng quần cư trong 1 Nóc, Nóc của người Kor thường ở trên lưng chừng núi hay ven các dòng sông suối hoặc ở giữa thung lũng. Phương thức sản xuất canh tác cũng gần giống với các dân tộc khác ở dọc Trường Sơn - Tây Nguyên, chủ yếu là sản xuất lúa nước kết hợp với kinh tế nương rẫy. Bên cạnh đó người Kor còn săn bắt, hái lượm, đánh cá dọc theo các sông, suối.
Trong quá trình phát triển bên cạnh nét văn hóa chung với các dân tộc khác nhau ở miền Tây Quảng Ngãi, người Kor ở Trà Bồng vẫn bảo lưu và phát triển được vốn văn hóa cổ truyền giàu bản sắc của dân tộc mình như: các lễ hội truyền thống, Nghệ thuật Dân ca, Dân nhạc, Dân vũ, Nghệ thuật Điêu khắc, đan lát, trang sức, trang phục độc đáo riêng có của Trường Sơn – Tây Nguyên.
Trên địa bàn huyện có trên 4 dân tộc cùng sinh sống gồm Kinh, Kor, Hrê và Ca Dong, ngày nay còn có dân tộc Mường và các dân tộc khác... Về tín ngưỡng, tâm linh các dân tộc Trà Bồng đều theo Đảng và Bác Hồ, người Kor Trà Bồng tôn thờ vạn vật hữu linh, một số theo 4 tôn giáo nhỏ là Thiên Chúa, Tin Lành, Phật giáo, Cao Đài.
Lịch sử.
Theo sách "Đại Nam Nhất Thống Chí", Trà Bồng xưa là một trong bốn nguồn (nguyên) của tỉnh Quảng Ngãi, được gọi là "Nguồn Đà Bồng". Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), triều Nguyễn đổi tên thành "Nguồn Thanh Bồng". Năm 1915 Thực dân Pháp đổi thành "Đồn Trà Bồng" gồm 3 tổng: Sơn Bồng, Sơn Thuận và Sơn Thọ, chia làm 34 sách (làng).
Năm 1930, Thực dân Pháp đặt tại đây Đồn kiểm lý, dưới đồn kiểm lý có " Chánh, phó tổng dịch Man" ở các tổng và "Sách trưởng" ở các sách. Sau đó "Đồn Trà Bồng" được đổi tên thành " Châu Trà Bồng". Ở các xã vùng thấp, đồng bào Kinh sinh sống (lúc này thuộc huyện Bình Sơn) gồm: Làng Xuân Khương, ấp Đại An; làng Đông Phú, ấp Phú Tài; làng Bình Hòa, làng An Phong, ấp Thạch Bích; ở mỗi làng Thực dân Pháp đặt một Lý trưởng đứng đầu.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Chính quyền cách mạng đổi tên châu Trà Bồng thành huyện Trà Bồng, các sách cũ nhập thành các xã mới, các làng ở phía tây huyện Bình Sơn nhập vào huyện Trà Bồng, hình thành 10 xã đồng bào dân tộc thiểu số là: Trà Khê, Trà Phong, Trà Quân, Trà Lâm, Trà Giang, Trà Thanh, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thủy, Trà Sơn. Đối với các làng, ấp người Kinh, chính quyền tổ chức lại thành 3 xã: Xuân Khương và Đại An hợp thành xã Nguyễn Lang; Đông Phú và Phú Tài hợp thành xã Đào Yển; Bình Hòa, Vinh Hòa, An Phong, Thạch Bích hợp thành xã Nguyễn Hiệt. Đầu năm 1946, ba xã Nguyễn Lang, Nguyễn Hiệt, Đào Yển hợp nhất thành xã có tên là Võ Cẩn.
Cuối năm 1955, sau khi tiếp quản Trà Bồng, chính quyền Sài Gòn đổi huyện Trà Bồng thành quận Trà Bồng, lập nên 7 xã và 13 ấp. ba xã người Kinh đổi tên gọi là Trà Khương, Trà An, Trà Hòa. Về phía chính quyền cách mạng, để xây dựng căn cứ địa phục vụ cho lãnh đạo, chỉ đạo, vào năm 1957, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách 4 xã người Kor của huyện Sơn Hà là: Sơn Thọ, Sơn Hiệp, Sơn Bùi, Sơn Tân, sáp nhập vào huyện Trà Bồng và lần lượt đổi tên thành: Trà Thọ, Trà Hiệp, Trà Tân, Trà Bùi.
Tháng 5 năm 1958, để thuận lợi cho việc lãnh đạo, chỉ đạo phong trào cách mạng, Tỉnh ủy Quảng Ngãi quyết định tách các xã Đông Bắc của huyện, thành lập khu I (Trà Xuân, Trà Phú, Trà Bình, Trà Sơn, Trà Thủy, Trà Giang) các xã vùng núi Cà Đam thành lập khu II (Trà Tân, Trà Bùi, Trà Phong, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Thọ, Trà Xinh, các xã phía Tây thành lập khu IV (Trà Khê, Trà Thanh, Trà Hiệp, Trà Lâm).
Đầu năm 1970, Trà Bồng được chia làm 2 huyện là Đông Trà và Tây Trà. Cuối năm 1970, Khu ủy V nhập huyện Trà Bồng và Sơn Tây thành Khu Sơn Trà trực thuộc Khu A của Khu ủy V. Cuối năm 1972, Khu Sơn Trà giải thể, các xã Sơn Tây trở lại Sơn Tây, các xã thuộc huyện Trà Bồng được tái lập như cũ.
Sau năm 1975, sau nhiều lần tách, nhập các đơn vị hành chính cơ sở, huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 20 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Tây, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân.
Ngày 20 tháng 4 năm 1978, sáp nhập ba xã Trà Tây, Trà Xinh và Trà Trung vào xã Trà Thọ.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Trà Bồng thuộc tỉnh Quảng Ngãi. gồm 19 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh và Trà Xuân.
Ngày 23 tháng 6 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định 39/1999/NĐ-CP về việc thành lập xã, thị trấn thuộc các huyện Sơn Tây, Đức Phổ, Ba Tơ và Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi. Theo đó, thành lập thị trấn Trà Xuân trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của xã Trà Xuân.
Năm 2002, huyện Trà Bồng có thị trấn Trà Xuân và 18 xã: Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Khê, Trà Lâm, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Phú, Trà Quân, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Thủy, Trà Trung, Trà Xinh.
Ngày 1 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 145/2003/NĐ-CP. Theo đó, tách 9 xã: Trà Khê, Trà Lãnh, Trà Nham, Trà Phong, Trà Quân, Trà Thanh, Trà Thọ, Trà Trung, Trà Xinh để thành lập huyện Tây Trà.
Huyện Trà Bồng còn lại thị trấn Trà Xuân và 9 xã: Trà Phú, Trà Bình, Trà Tân, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Thủy, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Sơn.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 867/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Quảng Ngãi (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó:
Huyện Trà Bồng có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Hành chính.
Huyện Trà Bồng có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Trà Xuân (huyện lỵ) và 15 xã: Hương Trà, Sơn Trà, Trà Bình, Trà Bùi, Trà Giang, Trà Hiệp, Trà Lâm, Trà Phong, Trà Phú, Trà Sơn, Trà Tân, Trà Tây, Trà Thanh, Trà Thủy, Trà Xinh.
Kinh tế.
Kinh tế Trà Bồng nhìn chung còn chậm phát triển so với mặt bằng chung của các địa phương khác trong tỉnh. Hoạt động kinh tế chủ yếu của nhân dân Trà Bồng là Nông – Lâm nghiệp, Công – Thương nghiệp và Dịch vụ, hiện đang trong quá trình trên đà phát triển.
Trong những năm qua mặc dù đời sống kinh tế của nhân dân tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng nhờ sự quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Đảng và Nhà nước, nhiều chương trình được triển khai trên địa bàn: Chương trình 134, 135, 30a, Nông thôn mới từng bước cơ sở hạ tầng được xây dựng khang trang, nhiều hợp phần hỗ trợ sản xuất, cũng như hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo và các chương trình khác được đầu tư trên địa bàn huyện, cho nên nền kinh tế có bước phát triển theo hướng tích cực, từng bước thực hiện công tác giảm nghèo nhanh và bền vững.
Nông nghiệp của huyện chủ yếu là dựa vào trồng lúa, mía, khoai, mì, bắp và trồng quế….chăn nuôi gia súc, gia cầm ở huyện Trà Bồng phổ biến là bò, trâu, gà, vịt.
Tiểu thủ công nghiệp ở Trà Bồng chủ yếu vẫn là các nghề mang tính thủ công tự túc, tự cấp của người Kor, trong đó chủ yếu là đan lát các vật dụng dùng cho sinh hoạt và sản xuất như gùi các loại, chiếu nằm, chiếu phơi lúa… với những nét đan lát tinh xảo, vật liệu chủ yếu dùng mây, cây lùng, nứa sẵn có tại địa phương. Nghề thủ công của người Kinh thì chủ yếu là các nghề thông dụng như hồ, mộc, làm gạch ngói, rèn, khai thác đá và nghề sản xuất đồ thủ công mĩ nghệ từ vỏ quế như bình ly, ống đựng tăm, tinh dầu quế, quả bánh bằng vỏ quế già, sản xuất nhang quế.
Nhiều nhà máy, công ty, xí nghiệp ra đời và phát triển, điển hình là nhà máy sản xuất chế biến quế của công ty TNHH Hương Quế Trà Bồng, có nguồn nước khoáng Thạch Bích tại xã Trà Bình hiện được công ty Đường Quảng Ngãi đang đầu tư khai thác……
Thương mại và dịch vụ Trà Bồng đã và đang được quan tâm đầu tư phát triển. Huyện đã chủ động đầu tư, nâng cấp, mở rộng chợ Trà Bồng, và các chợ khác ở các xã và trung tâm cụm xã. Các loại hình dịch vụ như: internet, karaoke, nhà nghỉ… cũng đang trên đã xây dựng, hình thành và phát triển.
Hạ tầng.
Cơ sở hạ tầng ở huyện đã có bước phát triển khá, hệ thống điện, đường, trường, trạm đã được chú trọng đầu tư, xây dựng và nâng cấp đồng bộ rộng khắp từ thị trấn đến các thôn xã.
Công tác thông tin liên lạc cũng được phát triển, ở huyện đã có Bưu điện huyện, các xã đều có điểm bưu điện văn hóa xã. Hệ thống Viễn thông được đầu tư, mạng cáp quang đã được kéo đến các xã, phục vụ cho việc hiện đại hóa về Công nghệ thông tin. Trung tâm huyện lỵ đã có đường 1 chiều, hệ thống điện đường từng bước được hiện đại hóa, Đường liên xã từ huyện về được nhựa hóa, phục vụ đắc lực cho hoạt động sản xuất và sinh hoạt của cán bộ và nhân dân;
Tính đến nay hầu hết các xã điều có điện, điện kéo về đã góp phần làm thay đổi lớn diện mạo của vùng đất quế, đời sống vật chất và tinh thần của người dân tăng lên rõ rệt.
Cùng với sự phát triển đó, các cơ sở công cộng như cơ quan, trường học, trạm y tế, bệnh viện cũng được đầu tư xây dựng khang trang. Các xã đồng bằng đều đã có nhà xây kiên cố, ở các làng đồng bào Kor, một số hộ gia đình cũng đã xây dựng được cho mình những ngôi nhà ngói khang trang kiên cố. Tuy nhiên việc phát triển không đồng đều giữa người Kinh và người Kor cũng là một trở ngại trên con đường phát triển của huyện nhà.
Văn hóa.
Điểm nổi bật trong văn hóa ở Trà Bồng là các di sản văn hóa cổ truyền và hoạt động văn hóa. Ở dân tộc Kor, di sản văn hóa khá phong phú, đậm nét còn lưu giữ nguyên vẹn. Trà Bồng là nơi cư trú chính của dân tộc Kor, nhà của người Kor thường ở trên lưng chừng núi, hay ven các dòng sông suối, nhà được chia dọc làm hai phần, một nửa chạy dọc suốt từ cầu thang đầu hồi bên này tới đầu hồi cầu thang bên kia gọi là gưl tức nơi sinh hoạt cộng đồng hay nhà khách. Phần còn lại gọi là tum, là nơi sinh hoạt thiêng liêng của từng gia đình,không ai được vào, nếu không có sự đồng ý của gia chủ,nhiều tum gộp lại trở thành 1 nóc (nhà dài hay còn gọi là nhà tàu lửa), đứng đầu mỗi nóc là một già làng. Nơi đây, người dân vẫn bảo tồn được các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể quý báu.
Người Kor vốn có tín ngưỡng nguyên thủy vạn vật hữu linh, thờ những đỉnh núi cao gọi là núi Ông, núi Bà. Trong di sản văn hóa dân tộc Kor có truyện cổ tích (đã được sưa tầm, dịch thuật và xuất bản), có các làn điệu như xà ru, a giới, cà ru, a lát, a-rợp… Người Kor thích đánh chiêng và có nhiều giai điệu chiêng đặc sắc, lễ hội của người Kor thì có lễ ăn lúa mới, làm nhà mới, lễ giã rạ, đặc sắc có lễ cưới, lễ rước hồn lúa, lễ hội hiến trâu rất đậm màu sắc dân tộc. Trong lễ hiến trâu có cây nêu và cây gu, 2 công trình điêu khắc hết sức độc đáo riêng có của Người Kor. Cây nêu của dân tộc Kor được dựng khá cao, với nhiều nét hoa văn, đan, khắc tinh xảo, có hình tượng chim chèo bẻo trên đầu nêu, thể hiện quan niệm thẩm mĩ và bàn tay khéo léo của các nghệ nhân Kor. Riêng bộ gu trong nhà là di sản riêng có của dân tộc Kor, không thể tìm thấy ở các dân tộc khác. Gu có gu pi và gu pô thể hiện giống nòi, sự sinh tồn của dân tộc được treo giữa nhà, có con chim đại bàng lớn được khắc vạch các hoa văn đỏ, trắng trên nền đen. Gu dẹt hay la vang treo ở cửa trước tum. Trên la vang là cả một bức tranh liên hoàn, trong đó có vẽ các hình ảnh, hoa lá, sinh hoạt rất đặc thù. Người Kor giỏi đan lát, trồng trọt, chăn nuôi, săn bắt và hái lượm, những sản phẩm đồ đan của người Kor thật sự là những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo, đẹp mắt. Những kinh nghiệm về trồng, chế biến, khai thác quế, kinh nghiệm chữa bệnh…. cũng là những tri thức dân gian quý báu. Về di sản văn hóa Việt ở Trà Bồng thì có thể kể đến những bài ca dao, các điệu hát dân ca còn lưu truyền tới ngày nay. Giữa người Kor và người Việt ở Trà Bồng cũng có sự giao thoa văn hóa với nhau khá đậm nét đó là người Kor cũng có bộ lễ phục áo dài vốn là sản phẩm của miền xuôi, ở Điện Trường Bà người Kinh, người Kor đều tới cúng lễ, tưởng niệm bà Thánh Mẫu Thiên Y A Na, biểu tượng cho tinh thần đại đoàn kết các dân tộc ở Trà Bồng. Lăng thờ Bạch Hổ ở Thị trấn Trà Xuân cũng là biểu tượng của giao lưu văn hóa Việt – Kor.
Các hoạt động Văn hóa, Thể thao từng bước được đầu tư và phát triển, các thiết chế văn hóa được đầu tư xây dựng từ huyện đến cơ sở, các công trình tiêu biểu: Quảng Trường 28/8, Trung tâm Văn hóa – Thể thao. Sắp đến đầu tư Sân vận động, Khu bảo tồn Văn hóa các dân tộc huyện Trà Bồng, Cung Văn hóa thiếu nhi, Công viên 28/8.
Hoạt động Du lịch được hình thành và từng bước phát triển, góp phần phục vụ nhu cầu tham quan của nhân dân và du khách trong và ngoài tỉnh như. Huyện ủy ban hành Nghị quyết chuyên đề, Hội đồng nhân dân phê duyệt Đề án phát triển Du lịch Trà Bồng giai đoạn 2011-2015, định hướng đến năm 2020.
Hoạt động Y tế, giáo dục được quan tâm đặc biệt, từng bước phát triển. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.474696 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đường Lâm là một xã thuộc thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Địa lý.
Đường Lâm nằm bên hữu ngạn sông Hồng (bờ phía Nam), cạnh đường Quốc lộ 32, tại ngã ba giao cắt với Quốc lộ 21A. Xã cách Hà Nội 50 km về phía Tây. Sông Tích Giang chảy từ hướng hồ Suối Hai qua Đường Lâm để vào thị xã Sơn Tây.
Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Cam Thượng huyện Ba Vì
Phía Tây Nam giáp xã Xuân Sơn
Phía Nam giáp xã Thanh Mỹ
Phía Đông Nam giáp phường Trung Hưng
Phía Đông giáp phường Phú Thịnh
Phía Bắc giáp huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
Tên gọi.
Tên gọi Đường Lâm được nhắc tới trong Đại Việt sử ký toàn thư là nơi sinh của Phùng Hưng, Ngô Quyền. Còn trong An Nam chí lược của Lê Tắc lại ghi kèm Châu Ái. Điều này dẫn tới một số tranh luận gần đây về 3 địa điểm được cho là Đường Lâm thật gồm: Sơn Tây, Thanh Hóa và Hà Tĩnh. Chi tiết xem mục tồn nghi bên dưới.
Nơi này cũng xuất hiện với tên gọi Thôn Đường trong sự kiện Loạn hai thôn Đường Nguyễn xảy ra ở đất Thái Bình (tỉnh Sơn Tây) khi vua Ngô Quyền mất, Dương Tam Kha cướp ngôi và cháu của Ngô Quyền là Ngô Nhật Khánh đã nổi lên chống họ Dương, trở thành một trong 12 sứ quân đóng tại đây.
Trải qua nhiều thời kỳ, tới sau tháng 8/1945 xã Đường Lâm được tái lập từ các làng cũ của tổng Cam Giá Thịnh, huyện Phúc Lộc, vốn là nơi đặt lỵ sở của trấn Sơn Tây.
Hành chính.
Trong số 9 thôn thuộc xã Đường Lâm hiện nay có 5 thôn thực sự là những làng cổ: Cam Thịnh (gọi tắt từ Cam Giá Thịnh), Cam Lâm (trước gọi là Cam Tuyền), Đoài Giáp, Đông Sàng và Mông Phụ. 4 thôn kia thì tương đối mới: vào nửa đầu thế kỷ 19, Phụ Khang là một xóm biệt lập của Mông Phụ; vốn là xóm cũ của Đông Sàng và Cam Thịnh, 2 làng Hà Tân và Hưng Thịnh được biến thành thôn cách đây khoảng 30 - 40 mươi năm; còn Văn Miếu thì mới tách ra từ Mông Phụ.
Lịch sử.
Đường Lâm trở thành làng cổ đầu tiên ở Việt Nam được Nhà nước trao bằng Di tích lịch sử văn hóa quốc gia ngày 19 tháng 5 năm 2006.
Đây là quê hương nhiều danh nhân như bà Man Thiện (mẹ của hai Bà Trưng), Bố Cái Đại vương Phùng Hưng, vua Ngô Quyền, Thám hoa Giang Văn Minh, bà chúa Mía (người xây chùa Mía, vương phi của chúa Trịnh Tráng), Phan Kế Toại, Hà Kế Tấn, Kiều Mậu Hãn, Phan Kế An... Đường Lâm còn được gọi là đất hai vua do là nơi sinh ra Phùng Hưng và Ngô Quyền.
Tuy thường được gọi là "làng cổ" nhưng thực ra Đường Lâm từ xưa "gồm 9 làng" thuộc tổng Cam Giá Thịnh huyện Phúc Thọ trấn Sơn Tây, trong đó 5 làng Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Thịnh, Đoài Giáp và Cam Lâm liền kề nhau. Các làng này gắn kết với nhau thành một thể thống nhất với phong tục, tập quán, và tín ngưỡng hàng ngàn năm nay không hề thay đổi. Đầu thế kỷ 19, Đường Lâm là nơi đặt lỵ sở của trấn Sơn Tây.
Sách Đại Việt địa dư toàn biên, Nguyễn Văn Siêu viết: "... Bố Cái Đại Vương là Phùng Hưng. Tiền Ngô Vương Quyền đều là người Đường Lâm. Nay xã Cam Lâm, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ (xã Cam Lâm trước là xã Cam Tuyền) có 2 đền thờ Bố Cái Đại Vương và Tiền Ngô Vương. Còn có một bia khắc rằng: Bản xã đất ở rừng rậm, đời xưa gọi là Đường Lâm, đời đời có anh hào. Đời nhà Đường có Phùng Vương tên húy Hưng, đời Ngũ Đại có Ngô Vương tên húy Quyền. Hai vương cùng một làng, từ xưa không có. Uy đức còn mãi, miếu mạo như cũ. Niên hiệu đề là Quang Thái năm thứ 3 (Trần Thuận Tông-1390) mùa xuân tháng 2, ngày 18 làm bia này..."
Di sản kiến trúc.
Ngày nay, làng Đường Lâm vẫn giữ được hầu hết các đặc trưng cơ bản của một ngôi làng người Việt với cổng làng, cây đa, bến nước, sân đình, chùa, miếu, điếm canh, giếng nước, ruộng nước, gò đồi. Hệ thống đường sá của Đường Lâm rất đặc biệt vì chúng có hình xương cá. Với cấu trúc này, nếu đi từ đình sẽ không bao giờ quay lưng vào cửa Thánh.
Một điểm đặc biệt là Đường Lâm còn giữ được một cổng làng cổ ở làng Mông Phụ. Đây không phải là một cổng làng như các cổng làng khác ở vùng Bắc Bộ có gác ở trên mái với những mái vòm cuốn tò vò mà chỉ là một ngôi nhà hai mái đốc nằm ngay trên đường vào làng. Cũng ở làng Mông Phụ có đình Mông Phụ - được xây dựng năm 1684 (niên hiệu Vĩnh Tộ đời vua Lê Hy Tông) - là ngôi đình đặc trưng cho đình Việt truyền thống. Sân đình thấp hơn mặt bằng xung quanh nên khi trời mưa, nước chảy vào sân rồi thoát ra theo hai cống ở bên tạo thành hình tượng hai râu rồng. Hàng năm, đình tổ chức lễ hội từ mùng Một đến mùng Mười tháng Giêng âm lịch với các trò chơi như thu lợn thờ, thi gà thờ...
Về nhà cổ, ở Đường Lâm có 956 ngôi nhà truyền thống trong đó các làng Đông Sàng, Mông Phụ và Cam Thịnh lần lượt có 441, 350 và 165 nhà. Cò nhiều ngôi nhà được xây dựng từ rất lâu (năm 1649, 1703, 1850...). Đặc trưng của nhà cổ truyền thống ở đây là tất cả đều được xây từ những khối xây bằng đá ong.
Trong số 8 di tích lịch sử - văn hóa ở Đường Lâm (có đình Mông Phụ), chùa Mía (tức Sùng Nghiêm tự) được Bộ Văn hóa Thông tin xếp vào loại đặc biệt. Chùa có 287 pho tượng gồm 6 tượng đồng, 107 tượng gỗ và 174 tượng đất (làm từ đất sét, thân và rễ cây si).
Văn miếu Sơn Tây.
Văn miếu Sơn Tây là văn miếu cấp vùng của cả vùng xứ Đoài, trước thời nhà Nguyễn cho tới năm 1831, là một trong 4 văn miếu của tứ trấn Thăng Long. Năm 1831 tỉnh Sơn Tây nhà Nguyễn được thành lập, nó trở thành Văn miếu của tỉnh Sơn Tây nhà Nguyễn, thời này nó được đặt ở làng Cam Giá Thịnh (tức thôn Cam Thịnh Đường Lâm ngày nay). Đến tháng 7 âm lịch năm Đinh Mùi, niên hiệu Thiệu Trị thứ 7 (1847), Văn miếu tỉnh Sơn Tây được dời từ Cam Thịnh đến làng (tức xã thời Nguyễn) Mông Phụ thuộc tổng Cam Giá Thịnh, vị trí này nay trùng với vị trí Văn miếu phục dựng năm 2012 thôn Văn miếu xã Đường Lâm. Thời gian này Nguyễn Đăng Giai làm tổng đốc Sơn Hưng Tuyên cho di dời. Năm Thành Thái thứ 3 (1891), tổng đốc Sơn Hưng Tuyên Cao Xuân Dục cho trùng tu lại tại vị trí năm 1847. Tới thời năm 1947, do chủ trương tiêu thổ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh và do chiến tranh tàn phá những năm 1947-1954 di tích này không còn tồn tại. Thời Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trước năm 2012, trên nền di tích chính quyền cho xây dựng một cơ sở cao 7 tầng để chế biến thức ăn và chăn nuôi gia xúc gia cầm (bảo tồn giống gà Mía đặc sản địa phương). Năm 2012, chính quyền thành phố Hà Nội cho di dời cơ sở chăn nuôi này đi chỗ khác để phục dựng lại Văn miếu Sơn Tây.
Nghề truyền thống.
Nghề làm tương ở đây cũng rất nổi tiếng và chất lượng tương của làng không hề thua kém các làng làm tương khác như làng Bần Yên Nhân (Hưng Yên), Cự Đà (Thanh Oai, Hà Tây...).Ngoài ra còn nổi tiếng vời loại kẹo dồi, kẹo lạc, chè lam thơm ngon, đặc sản. Đường lâm cũng nổi tiếng với món thịt quay đòn, hương vị đặc biệt mà chỉ nơi đây mới có.
Tồn nghi.
Vào thế kỷ 13, Lê Tắc, một vị quan nhà Trần đào ngũ theo quân Nguyên, khi quân Nguyên thua trận ông đã sang Trung Quốc và viết quyển sách sử An Nam chí lược, sách này viết rằng: "Ngô Quyền, người Châu Ái, nha tướng của Đình Nghệ, giết Công Tiện, tự lập làm vua."
Vào thế kỷ 15, nhà Minh xâm chiếm Việt Nam, đã đốt toàn bộ sách vở hoặc thu sách vở đem về Trung Quốc. Lê Lợi đánh đuổi người Minh, dựng nên nhà Lê, đến đời cháu ông là Lê Thánh Tông đã sai Sử quan Ngô Sỹ Liên biên soạn bộ sách chính sử là Đại Việt Sử ký Toàn thư. Sách chép rằng Ngô Quyền là người Đường Lâm nhưng chỉ chép mỗi tên Đường Lâm chứ không chép rõ Đường Lâm ở đâu.
Quan điểm 1: Đường Lâm, Sơn Tây.
Khi Phùng Hưng nổi dậy, xưng là Đô Quân đã ngay lập tức nhận được sự ủng hộ của các châu Đường Lâm và Trường Phong (châu Phong) do gia tộc ông là tù trưởng vùng này. Xét về địa lý Đường Lâm (Sơn Tây) và Phong Châu (Phú Thọ) nằm ngay cạnh nhau và là trung tâm của nhà nước Văn Lang thời Hùng Vương. Trong khi đó Ái Châu, Hoan Châu ở rất xa về phía nam và không được nhắc đến trong ghi chép về Phùng Hưng ở Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh - hai tác phẩm được viết vào thời nhà Trần.
Quan điểm này phổ biển nhất và cũng phù hợp lịch sử thôn Đường trong sự kiện Loạn hai thôn Đường Nguyễn và sứ quân Ngô Nhật Khánh là cháu Ngô Quyền cát cứ tại đây, trở thành 1 trong 12 sứ quân tranh giành quyền lực ở trung tâm Đồng bằng sông Hồng. Cả 3 sứ quân Kiều Công Hãn, Kiều Thuận và Đỗ Cảnh Thạc cát cứ ở vùng Sơn Tây Phú Thọ cũng đều là tướng trong triều đình nhà Ngô, trong khi nhiều sứ quân nơi khác chỉ là thổ hào địa phương, không làm việc cho triều đình.
Các ý kiến ủng hộ gồm Ngô Thì Sĩ trong Việt sử tiêu án, Nguyễn Văn Siêu trong Đại Việt địa dư toàn biên căn cứ vào văn bia Phụng tự bi khắc năm Quang Thái thời Trần Thuận Tông, sách Đại Nam nhất thống chí thời Nguyễn và nhà sử học Trần Quốc Vượng là tiếng nói quan trọng ủng hộ quan điểm này.
Quan điểm 2: Đường Lâm, Thanh Hóa (Ái Châu).
Trong tập kỷ yếu hội thảo "Quốc sư Khuông Việt và Phật giáo Việt Nam đầu kỷ nguyên độc lập" tổ chức vào tháng 3 năm 2011, các nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vượng, Trần Trọng Dương, Nguyễn Tô Lan thuộc Viện Nghiên cứu Hán Nôm, với bài viết Đường Lâm là Đường Lâm nào? đã cho rằng tấm bia Đường Lâm là giả mạo, chỉ mới được lập thời Nguyễn. Đồng thời cho rằng tên Đường Lâm mới chỉ có từ sau năm 1945. Do đó căn cứ vào địa danh Châu Ái của Lê Tắc trong An Nam chí lược nhóm này cho rằng Đường Lâm thuộc Thanh Hóa hoặc phía bắc Nghệ An.
Quan điểm 3: Đường Lâm, Hà Tĩnh (Hoan Châu).
Quan điểm này được học giả Đào Duy Anh đề xuất trong sách Đất nước Việt Nam qua các đời, xuất bản năm 1964: "Chúng tôi rất ngờ những lời ghi chú ấy và nghĩ rằng rất có thể người ta đã lầm Đường-lâm là tên huyện đời Đường thuộc châu Phúc-lộc (Phúc-lộc châu có huyện Đường-lâm) thành tên xã Đường-lâm ở huyện Phúc-thọ. Huyện Đường-lâm châu Phúc-lộc là ở miền nam Hà-tĩnh". Quan điểm này được học giả Văn Tân ủng hộ.
Tạm kết
Trên thực tế hiện nay, toàn bộ khu vực 3 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh đều KHÔNG có bất kỳ đền thờ hay di tích hay thần tích nào liên quan đến Phùng Hưng và Ngô Quyền. Nếu hai ông là người ở đây thì điều này đi ngược lại hoàn toàn truyền thống thờ cúng tổ tiên và thờ cúng các vị anh hùng dân tộc của người Việt Nam xưa nay. Vì vậy, việc tất cả các di tích gắn với hai vị anh hùng dân tộc này đều thuộc miền Bắc, chủ yếu tại Hà Nội (Hà Tây cũ), Hải Phòng, Phú Thọ, Hưng Yên, Ninh Bình... đã chứng mình rằng giả thiết quê hương hai ông ở miền Trung là vô lý. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Huyện tự trị dân tộc Dao Hà Khẩu (; Tiếng Cáp Nê: ) là một huyện cửa khẩu của Trung Quốc nằm gần biên giới với Việt Nam, thuộc Châu tự trị dân tộc Cáp Nê, Di Hồng Hà, phía nam của tỉnh Vân Nam, giáp biên giới với tỉnh Lào Cai, Việt Nam. Huyện có diện tích 1.313 km² và có 80.000 dân (thống kê năm 2002), được biết đến nhiều nhất như là huyện có đường xe lửa từ Côn Minh đến Hà Nội.
Hành chính.
Huyện lị là thị trấn Hà Khẩu ("Hà Khẩu trấn"), nhìn sang thành phố Lào Cai của Việt Nam qua sông Nậm Thi.
Huyện Hà Khẩu gồm 2 trấn và 4 hương, là các hương trấnː Liên Hoa Than (ghềnh Liên Hoa, 莲花滩乡), Dao Sơn (瑶山乡), Lão Phạm Trại (老范寨乡), Hà Khẩu (河口镇), Nam Khê (南溪镇), Kiều Đầu (桥头乡).
Lịch sử.
Năm Điều Lộ thứ nhất (679), vua Cao Tông nhà Đường lập ra An Nam đô hộ phủ, đất huyện Hà Khẩu ngày nay thuộc An Nam đô hộ phủ thời đó. Vùng đất huyện Hà Khẩu châu Hồng Hà, một phần Kim Bình châu Hồng Hà và một phần huyện Mã Quan (châu Văn Sơn) ngày nay là là động Thất Quán (七綰洞), thuộc Lâm Tây Nguyên (林西原, Cao nguyên Lâm Tây, ngày nay là tỉnh Lào Cai Việt Nam). Đại Việt địa dư toàn biên của Nguyễn Văn Siêu chép rằngː ""Lâm Tây nguyên ở phía tây Phong Châu, bên cạnh Lâm Tây Nguyên có động Thất Quán của người dân tộc thiểu số mà thủ lĩnh là Lý Do Độc (李猶獨), bộ thuộc có thêm các động như động Đào Hoa (桃花), tất cả đều giúp Trung Quốc canh phòng và thu thuế nơi biên ải với Nam Chiếu. Đường thư chép: Lâm Tây Nguyên trước có binh lính canh phòng cả vào mùa đông. Vào năm Đại Trung thứ tám (854) (thời vua Đường Tuyên Tông), Lý Trác, giữ chức đô hộ An Nam, đã bãi bỏ binh lính biên phòng và giao hết việc phòng biên cho thổ tù Lý Do Độc. Lý Do Độc ở vào thế cô lập không có đủ quân để canh phòng. Nhân đó, viên Thác Đông tiết độ sứ nước Nam Chiếu dụ dỗ mua chuộc ông ta theo về Nam Chiếu. Từ đó, An Nam bắt đầu bị Nam Chiếu xâm lấn. Tân Đường Thư chép rằngː An Nam Đô hộ phủ cai trị quản lĩnh châu Lâm Tây (林西州). Châu này có 2 huyện làː Lâm Tây và Cam Quất (甘橘)." Động Đào Hoa về sau có thể là ải Lê Hoa, tức ải Liên Hoa, nằm trên biên giới Đại Việt và Trung Hoa, nay là hương Liên Hoa Than (Ghềnh Liên Hoa) của huyện Hà Khẩu. Cam Quất có thể là đất thị xã Cam Đường tỉnh Lào Cai Việt Nam ngày nay.
Sách Tân Đường thư cũng chépː "An Nam Đào Lâm nhân giả, cư Lâm Tây nguyên, Thất Quán động thủ lĩnh Lý Do Độc chủ chi, tuế tuế thú biên。Lý Trác chi tại An Nam, dã tấu bãi phòng đông binh lục thiên nhân, vị Do Độc khả đương nhất đội, át man chi nhập。Man tù dĩ nữ thê Do Độc tử, Thất Quán động cử phụ man, Vương Khoan bất năng chế。"" . Dịch nghĩa làː Một người gốc Đào Lâm (桃林) ở An Nam, sống ở Lâm Tây Nguyên (林西原), là chúa Lý Do Độc (李由獨), thủ lĩnh của động Thất Quán (七綰洞), canh gác biên giới hàng năm. Lý Trác (李琢) cũng ở An Nam, tuyên bố rút bỏ 6000 binh lính phòng biên mùa đông, và bảo với Lý Do Độc hãy dùng đội thổ binh duy nhất thuộc quyền để mà kiềm chế sự xâm nhập của Nam Chiếu. Vua Nam Chiếu kết thông gia với Lý Do Độc. Độc đem toàn bộ động Thất Quán theo về Nam Chiếu, mà Vương Khoan (王寬) không thể kiểm soát được. (Vương Khoan làm đô hộ An Nam năm 861). Đại Việt sử ký tiền biên viết: "... "Người Đào Lâm, Phong Châu, An Nam ở động Thất Quán [thuộc] Lâm Tây Nguyên, do thủ lĩnh Lý Do Độc làm chủ, hàng năm vẫn đóng thú biên giới gọi là phòng thủ binh, lại thường giúp Trác [thu] nộp tô thuế. Viên tri châu Phong Châu nói với Trác hãy xin bãi quân đóng thú, chuyên ủy cho Do Độc phòng giữ. Trác tâu xin bãi 6 nghìn người ở phòng thú binh và bảo Do Độc có thể tương đương một đội. Thế là Do Độc thế cô không tự lập được. Quan Thác đông tiết độ của Nam Chiếu viết thư mời Do Độc, rồi đem gả con gái cho con trai Độc, bổ làm Thác đông Thác nha (Thác đông là nói sẽ khai thác biên giới phía đông. Giao Chỉ ở phía đông Nam Chiếu cho nên đặt chức ấy). Từ đó An Nam bắt đầu có mối lo về người Man [Nam Chiếu]." Đất Hà Khẩu ngày nay, thuộc động Thất Quán thời kỳ (854-860) cũng theo về sáp nhập vào Thác Đông tiết độ sứ (拓東節度使) của Nam Chiếu.
Năm 860, Mông Thế Long lên ngôi vua Nam Chiếu sửa quốc hiệu thành Đại Lễ quốc (大禮國), và chia đôi Thác Đông tiết độ. Nửa phía Nam của Thác Đông tiết độ sứ, tiếp giáp An Nam đô hộ phủ của Đại Đường, lập thành Thông Hải đô đốc (通海都督). Đất Hà Khẩu cũng theo Thất Quán động thuộc vào Thông Hải đô đốc, nằm trên vùng biên giới đông nam của Nam Chiếu với An Nam.
Lần thứ hai, đất huyện Hà Khẩu được cho là thuộc lãnh thổ An Nam nhưng là An Nam Quốc, tức Đại Việt của Việt Nam, sớm nhất có thể là từ thời nhà Lý - Vương quốc Đại Lý (khoảng năm 1014-1037) và muộn nhất là thời nhà Minh - Nhà Lê trung hưng (khoảng năm 1644-1660). Đại Việt sử ký toàn thư chépː "Vào năm Quý Sửu, niên hiệu Thuận Thiên thứ tư (1013), mùa đông, tháng 10 âm lịch, châu Vị Long (渭龍) liên kết với man Nam Chiếu (vương quốc Đại Lý) nổi dậy chống nhà Lý. Vua Lý Thái Tổ tự dẫn quân đi đánh châu này. Thủ lĩnh châu Vị Long là Hà Yến Tuấn (何晏俊) sợ hãi, dẫn các thuộc hạ chạy vào rừng núi… Vào năm Giáp Dần niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1014, tức năm Đại Trung Tường Phủ thứ bảy nhà Tống), mùa xuân, tháng Giêng âm lịch, các tướng nước Đại Lý là Dương Trường Huệ (楊長惠), Đoàn Kính Chí (段敬至) dẫn 200000 quân Đại Lý vào cướp phá lãnh thổ Đại Cồ Việt, lập doanh trại ở bến Kim Hoa (金華步), đặt tên là Ngũ Hoa trại (五花寨). Châu mục châu Bình Lâm (平林) là Hoàng Ân Vinh (黃恩榮) đã báo cáo vụ việc cho nhà Lý. Vua sai Dực Thánh Vương (翊聖王) đưa quân đi đánh quân Đại Lý xâm lược, chặt đầu hàng nghìn người và bắt sống vô số binh lính và ngựa chiến. Vua ban chiếu cho các viên ngoại lang là Phùng Chân (馮真) và Lý Thạc (李碩) sang nước Tống báo tin thắng trận, và đem biếu 100 ngựa thu được của quân Đại Lý. Vua Tống ban chiếu cho nơi sở tại đưa các sứ nước Việt đến cửa khuyết và đón tiếp đầy đủ. Khi đến nơi, vua Tống cho mời đoàn của Phùng Chân vào yết kiến tại cung Sùng Đức, rồi theo thứ bậc ban thưởng mũ, áo, vải lụa… Vào năm Ất Mão, niên hiệu Thuận Thiên thứ sáu (1015), mùa xuân, … tháng 2 âm lịch, … Vua ban chiếu cho Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương (武德王) đi đánh các châu Đô Kim (都金), Vị Long (渭龍), Thường Tân (常新), Bình Nguyên (平原) , bắt được thủ lĩnh Hà Yến Tuấn đem về kinh sư, bêu đầu ở chợ Đông." "Năm Đinh Sửu niên hiệu Thông Thụy thứ 4 (1037), mùa xuân, ngày mồng 1 tháng 2, vua Lý Thái Tông thân đi đánh đạo Lâm Tây (林西道), sai Khai Hoàng Vương Nhật Tôn làm Đại nguyên soái đánh các châu Đô Kim, Thường Tân, Bình Nguyên, cho Phụng Càn Vương Nhật Trung làm Kinh sư lưu thủ. Quân đi từ Kinh sư đến đóng ở Lâm Tây, dẹp yên được. Tháng 3, vua từ đạo Lâm Tây về đến kinh.""
Vào thời thuộc Minh và thời nhà Lê sơ của Đại Việt, đất huyện Hà Khẩu là một phần của châu/huyện Thủy Vĩ của Việt Nam. Địa đầu của Thủy Vĩ là ải Lê Hoa (梨花隘), sau được gọi là ải Liên Hoa (蓮花隘), nay thuộc địa phận hương Liên Hoa Than (Ghềnh Liên Hoa, ghềnh hoa sen) huyện Hà Khẩu châu Hồng Hà tỉnh Vân Nam Trung Quốc, là cửa ải biên giới giữa Đại Việt (Việt Nam) và Đại Minh (Trung Quốc). Trong chiến tranh Minh–Việt (1407–1414) và khởi nghĩa Lam Sơn, nhiều lần cánh quân Minh do Mộc Thạnh chỉ huy từ Vân Nam thường tiến vào Việt Nam qua cửa ải này. Tháng 3 năm 1427, Mộc Thạnh cùng tham tướng Từ Hanh và Đàm Trung, theo đường Vân Nam, tiến đánh cửa ải Lê Hoa. Quân của Mộc Thạnh cầm cự với quân do các tướng Phạm Văn Xảo và Trịnh Khả chỉ huy nhưng tới tháng 9 cùng năm nghe tin Liễu Thăng tử trận, phải rút quân. Trịnh Khả nhân đà đang sắc bén, tung quân ra đánh phá; chém hơn vạn thủ cấp, bắt được hơn 1.000 quân và hơn 1.000 ngựa. Mộc Thạnh chỉ kịp một người một ngựa chạy thoát. An Nam truyện trong Minh sử chép: 沐晟軍至水尾, 造船將進, 聞通已議和, 亦引退, 賊乘之, 大敗 (Mộc Thạnh quân chí Thủy Vĩ, tạo thuyền tương tiến, văn Thông dĩ nghị hòa, diệc dẫn thoái, tặc thừa chi, đại bại) nghĩa là ""Mộc Thạnh kéo quân đến Thủy Vĩ, làm thuyền bè, sửa soạn để chực tiến quân. Được tin Thông đã nghị hòa, Thạnh cũng rút lui. Địch thừa thắng đổ ra đánh. Thạnh thua to."'". Theo Minh thực lục, ngày 14 tháng 12 năm 1427, Mộc Thạnh cùng thuộc hạ chạy tới Cao Trại, Thủy Vĩ thì bị quân Lam Sơn phục kích cả trên sông lẫn trên bờ, phải vất vả làm lại thuyền mới đi tiếp được. Hiện nay, tại hương Đại Trại huyện Kim Bình châu Hồng Hà, (tiếp giáp hương Liên Hoa Than), có tồn tại các địa danh là Cao Gia trại (Gaojiazhai 高家寨) và Thủy Vĩ (Shuiwei 水尾).
Địa danh Lãnh Thủy Câu (suối nước lạnh, 冷水沟, Lengshuigou) đầu nguồn con suối chảy vào sông Hồng, thuộc Mạn Chương xã khu của trấn Hà Khẩu, nằm đối diện phía bắc đền Thượng Lào Cai (châu Thủy Vĩ xưa (水尾)), có thể là nơi diễn ra trận Lãnh Câu (冷溝) kết thúc thắng lợi khởi nghĩa Lam Sơn, được Nguyễn Trãi viết trong Bình Ngô đại cáoː (冷溝之血杵漂,江水為之嗚咽;) "Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc".
Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn viết: "... "Sau khi Liễu Thăng thua trận, vua sai đem bốn tên chỉ huy, thiên hộ đã bắt được, và bằng sắc ấn tín của Liễu Thăng, đưa đến cho Mộc Thạnh. Quân sĩ của Thạnh quá kinh hãi tự tan rã. Các ông Phạm Văn Xảo liền tung quân vào đánh, phá tan đạo quân đó ở Lãnh Thủy Câu (冷水溝 [ngòi nước lạnh]) và Đan Xá, chém đầu hơn vạn tên và bắt sống được rất nhiều.""
Các nhóm dân tộc.
Theo số liệu năm 1994, các nhóm dân tộc ở Hà Khẩu bao gồm:
Do nằm sát biên giới Việt Nam, đa số các chủ thể kinh doanh tại Hà Khẩu đều có người Việt hoặc người Trung biết tiếng Việt cơ bản. Tuy nhiên, một số cửa hàng chỉ có người Trung Quốc phục vụ và không sử dụng tiếng Anh.
Giao thông.
Có tuyến xe buýt đến tất cả các điểm đến trong tỉnh Vân Nam, bao gồm cả dịch vụ xe chạy qua đêm từ Côn Minh. Nhiều điểm có thể đến được bằng cách trung chuyển ở Mông Tự.
Xa lộ.
Có một đường cao tốc nối liền Xinjie, một thị trấn thuộc huyện Hà Khẩu, với tỉnh Lào Cai ở miền Bắc Việt Nam. Nó được khai trương vào tháng 2 năm 2008 và đánh dấu việc hoàn thành đường cao tốc đầu tiên nối Vân Nam với một quốc gia láng giềng thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Đường cao tốc Xinhe 56,3 km, 3,58 tỷ nhân dân tệ là một trong nhiều dự án cơ sở hạ tầng sẽ tăng kết nối giữa Vân Nam và ASEAN và tạo điều kiện cho việc vận chuyển người và hàng hóa giữa hai khu vực, dự kiến sẽ thấy sự gia tăng lớn về du lịch và thương mại những năm tới.
Đường sắt.
Tuyến đường sắt Hải Phòng - Vân Nam khổ hẹp, nối Côn Minh với thành phố cảng Hải Phòng, được thực dân Pháp mở cửa năm 1910, đi qua biên giới Trung Quốc-Việt Nam tại Hà Khẩu.
Vào tháng 12 năm 2014, phần cuối cùng (Mông Tự - Hà Khẩu) của tuyến đường sắt Côn Minh - Hà Khẩu tiêu chuẩn mới đã được hoàn thành. Nó kết thúc tại ga đường sắt Bắc Hà Khẩu mới, cũng được kết nối bằng đường ray hẹp đến đường sắt cũ, để tạo điều kiện cho việc di chuyển hàng hóa giữa Trung Quốc và Việt Nam.
Kinh tế.
Tuy chỉ là một thị trấn nhỏ cạnh biên giới, nhưng Hà Khẩu khá tấp nập, nhộn nhịp với nhiều trung tâm thương mại, cửa hàng mua sắm lớn và các khu ẩm thực bao gồm nhà hàng, quán ăn phục vụ các món ăn Trung Hoa như bánh bao, sủi cảo, xá xíu, trà sữa. Trung tâm thương mại Bằng Hữu là trung tâm mua sắm lớn nhất tại Hà Khẩu. Các mặt hàng được bày bán chủ yếu ở đây là quần áo, trang sức và đồ điện tử.
Khu công nghiệp.
Được thành lập lần đầu tiên vào năm 1992, Khu hợp tác kinh tế biên giới Hà Khẩu là khu vực biên giới được Hội đồng Nhà nước tại Trung Quốc phê duyệt nhằm thúc đẩy thương mại giữa Trung Quốc và Việt Nam. Nó có diện tích quy hoạch là 4,02 km2. Khu vực này đã thực hiện một số chính sách để phục vụ khách hàng của mình tại Trung Quốc từ các ngành và lĩnh vực khác nhau bao gồm đầu tư, thương mại, tài chính, thuế, nhập cư, v.v.
Du lịch.
Hà Khẩu đang trở thành một điểm đến mới hấp dẫn cho những du khách Việt Nam muốn tham quan Trung Quốc trong ngày với chi phí phải chăng, do du khách chỉ cần làm sổ thông hành và không phải trải qua các thủ tục xin thị thực thông thường, cũng như vì tiền Việt Nam được chấp nhận ở Hà Khẩu. Sổ thông hành có thời hạn một tháng, nhưng du khách chỉ được phép di chuyển tự do trong bán kính 100 km thuộc phạm vị huyện Hà Khẩu. Du khách đi trong ngày cần về trước 23h (giờ Trung Quốc) tức 22h (giờ Việt Nam). Nếu ở lại qua đêm, cần xin vé ngủ tại khu thương mại tự do thí điểm tỉnh Vân Nam.
Một địa điểm hút khách đáng chú ý ở Hà Khẩu là công viên Sơn Lâm, một công viên nhân tạo được xây theo kiểu vườn Trung Hoa, nằm cách cửa khẩu khoảng 7 km. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.539328 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sông Trà Khúc là con sông lớn nhất ở tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam .
Dòng chảy.
Sông Trà Khúc phát nguồn từ núi Đắc Tơ Rôn với đỉnh cao 2.350 m, do hợp nước của bốn con sông lớn là sông Rhe, sông Xà Lò (Đắk Xà Lò), sông Rinh (Drinh), sông Tang (Ong). Chỗ ngã tư đó còn gọi là ngã tư Ly Lang.
Sông từ đó chảy theo hướng đông qua ranh giới các huyện Sơn Hà, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, thành phố Quảng Ngãi và đổ ra cửa Đại Cổ Lũy (Chiêm lũy lịch môn).
Sông Trà Khúc có độ dài khoảng 135 km, trong đó có khoảng 1/3 chiều dài sông chảy qua vùng núi và rừng rậm, có độ cao 200- 1.000m, phần còn lại chảy qua vùng đồng bằng.
Đây là con sông có độ dốc lớn. Đầu nguồn của sông có công trình thủy lợi Thạch Nham nên khi chảy về hạ lưu ở địa bàn thành phố Quảng Ngãi, huyện Tư Nghĩa và huyện Sơn Tịnh nguồn nước trở nên cạn kiệt. Mùa mưa, sông thường gây lũ lớn.
Những hình tượng.
Tên "Trà Khúc" mang giọng Chiêm vì "Trà" có gốc từ "jaya" trong tiếng Phạn, và là một trong bốn họ chính thống của các vua Chiêm: On, Ma, Trà, Chế.
Bờ xe nước (guồng nước) của sông đã từng là hình ảnh đi vào thi ca. Chính thức ngừng hoạt động năm 1993, mang nước tưới tiêu cho các đồng ruộng mía xứ Quảng; nhưng bây giờ bờ xe nước đã đi vào ký ức. Dự án khôi phục bờ xe nước đã được triển khai.
Cặp núi Thiên Ấn và sông Trà Khúc là biểu tượng của tỉnh Quảng Ngãi. Bài ca "Nhớ Đàn Xe Nước" của tác giả Văn Đông, trong đó có câu: "Ta nhớ quê ta có núi Ấn sông Trà".
Tai nạn.
Trưa 15/4/2016, 11 học sinh lớp 6 trường THCS Nghĩa Hà ra sông Trà Khúc - đoạn thuộc thôn Thanh Khiết, xã Nghĩa Hà, TP Quảng Ngãi - chơi, 9 em tuổi 12-13 đã bị chết đuối, chỉ còn 2 em nữ ở trên bờ. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Chợ Mới là một huyện thuộc tỉnh An Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Chợ Mới nằm ở phía đông của tỉnh An Giang, có địa giới hành chính:
Huyện Chợ Mới được bao bọc bởi sông Tiền, sông Hậu, sông Vàm Nao và rạch Cái Tàu Thượng, có 2 cù lao là cù lao Ông Chưởng và cù lao Giêng.
Chợ Mới có diện tích 355,71 km², dân số là 442.908 người (theo tổng điều tra dân số năm 2020 của huyện để báo cáo Thủ tướng), bao gồm:
Mật độ dân số: 866 người/km².
Tổng diện tích đất tự nhiên: 36.928,9 ha, bao gồm:
Thủy sản:
Mùa lũ có khả năng tải nước 8000 m3/s với tốc độ 1 m/s. Mực nước thấp nhất có lưu lượng dao động 1000 m3/s đến 2000 m3/s xuất hiện vào tháng 4 và đầu tháng 5.
Mùa thường có hệ thống sông ngòi chằng chịt dọc theo các kênh rạch cung cấp đủ lượng nước tưới tiêu cho cả huyện.
Khoáng sản: chủ yếu là bột sét và cát mịn do trầm tích trên sông tụ lại phân bố chủ yếu dọc theo các bờ sông.
Lịch sử.
Nguồn gốc tên gọi Chợ Mới.
Về nguồn gốc của tên gọi Chợ Mới, tương truyền rằng ngày xưa có ngôi chợ cũ tên Phó Định Bài nằm ở bên kia bến đò Kiến An. Về sau, một ngôi chợ khá bề thế được xây dựng tại làng Long Điền thuộc khu vực huyện lỵ ngày nay và được người dân gọi là "Chợ Mới". Trước đó, vào năm 1897 tại làng Long Điền đã có hai ngôi chợ cũ tên là chợ Ông Chưởng và chợ Thủ Chiến Sai.
Ban đầu, địa danh Chợ Mới chỉ là tên một ngôi chợ tại làng Long Điền thuộc tỉnh Long Xuyên. Sau này, thực dân Pháp thành lập quận và đặt tên là quận Chợ Mới do lấy theo tên gọi Chợ Mới vốn là nơi đặt quận lỵ.
Chợ Mới cũng là nơi thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên của tỉnh Long Xuyên và ngày nay là tỉnh An Giang.
Thời phong kiến.
Vào thời nhà Nguyễn độc lập, vùng đất Chợ Mới ngày nay vốn là một phần của huyện Đông Xuyên thuộc phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang.
Thời Pháp thuộc.
Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Vùng đất Chợ Mới lúc này thuộc hạt Thanh tra Long Xuyên. Đồng thời, hạt Long Xuyên cũng lấy thêm địa phận các làng Tân Phú, Tân Thạnh trước đó thuộc tổng Phong Thạnh, huyện Kiến Phong, tỉnh Định Tường để lập tổng mới gọi là tổng Phong Thạnh Thượng trực thuộc hạt Thanh tra Long Xuyên.
Ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt Thanh tra Long Xuyên đổi thành hạt tham biện Long Xuyên, các thôn đổi thành làng. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Long Xuyên.
Năm 1897, ba tổng An Bình, Định Hòa và Phong Thạnh Thượng có các làng trực thuộc như sau:
Năm 1917, thực dân Pháp thành lập quận Chợ Mới thuộc tỉnh Long Xuyên, gồm 3 tổng với 20 làng: tổng Định Hoà có 8 làng, tổng An Bình có 6 làng, tổng Phong Thạnh Thượng có 6 làng. Quận lỵ Chợ Mới đặt bên bến đò Kiến An, sau dời về làng Long Điền, tức thị trấn Chợ Mới ngày nay. Lúc này, số làng đã giảm do thực dân Pháp tiến hành hợp nhất một số làng lại thành các làng mới với các tên gọi mới.
Ngày 1 tháng 1 năm 1920, hợp nhất ba làng Bình Đức Đông, Phú Xuân, Tân Phước thành lập làng mới lấy tên là làng Bình Phước Xuân.
Năm 1939, quận Chợ Mới có 3 tổng:
Ngày 7 tháng 11 năm 1939, ba làng Tấn Đức, Mỹ Hưng, Mỹ Chánh bị giải thể để thành lập hai làng mới là Tấn Mỹ và Mỹ Hiệp.
Cũng sau này, quận Chợ Mới được nhận thêm các làng Hội An (trước đây thuộc tổng An Thạnh Thượng, quận Châu Thành, tỉnh Sa Đéc và làng Hòa Bình (trước đây thuộc tổng An Phú, quận Lấp Vò, tỉnh Long Xuyên). Làng Hòa Bình được chính quyền thực dân Pháp thành lập do hợp nhất làng An Hòa và làng Bình Thạnh Tây trước đó. Đặc biệt, tên làng An Hòa đã được dùng để chỉ phà (bắc) An Hòa nối liền hai bờ quận Châu Thành và quận Chợ Mới của tỉnh Long Xuyên lúc bấy giờ (ngày nay nối liền hai bờ thành phố Long Xuyên và huyện Chợ Mới của tỉnh An Giang).
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, Ủy ban Kháng chiến Hành chánh Nam bộ chủ trương bỏ cấp tổng, bỏ đơn vị làng, thống nhất gọi là xã, đồng thời bỏ danh xưng quận, gọi thay thế bằng huyện. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đến năm 1956 cũng thống nhất dùng danh xưng là xã, tuy nhiên vẫn gọi là quận cho đến năm 1975. Huyện Chợ Mới ban đầu vẫn thuộc tỉnh Long Xuyên. Ngày 6 tháng 3 năm 1948, huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Long Châu Tiền. Ngày 27 tháng 6 năm 1951, huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Long Châu Sa. Đến năm 1954, huyện Chợ Mới lại trở về thuộc tỉnh Long Xuyên như cũ.
Giai đoạn 1956-1975.
Việt Nam Cộng hòa.
Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 17 tháng 2 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cắt tổng Phong Thạnh Thượng ra khỏi quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên để nhập vào tỉnh Phong Thạnh mới thành lập, sau đó trở thành quận Thanh Bình của tỉnh Kiến Phong, ngày nay bao gồm huyện Thanh Bình và huyện Tam Nông của tỉnh Đồng Tháp.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Long Xuyên hợp nhất với tỉnh Châu Đốc thành tỉnh An Giang. Ngày 24 tháng 4 năm 1957, quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang, quận lỵ đặt tại xã Long Điền, gồm 2 tổng với 12 xã như sau:
Địa giới này được duy trì cho đến năm 1975, kể cả khi An Giang tách thành hai tỉnh là An Giang và Châu Đốc vào ngày 8 tháng 9 năm 1964. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Năm 1970, quận Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang gồm 12 xã: An Thạnh Trung, Bình Phước Xuân, Hòa Bình, Hội An, Kiến An, Long Điền, Long Kiến, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội Đông, Mỹ Luông, Nhơn Mỹ, Tấn Mỹ. Quận lỵ vẫn đặt tại xã Long Điền.
Chính quyền Cách mạng.
Trong giai đoạn 1957-1965, chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng đặt huyện Chợ Mới thuộc tỉnh An Giang, giống như sự phân chia hành chính của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tháng 12 năm 1965, chính quyền Cách mạng giao huyện Chợ Mới về cho tỉnh Kiến Phong quản lý.
Tháng 5 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền và tỉnh Sa Đéc. Lúc này, huyện Chợ Mới lại thuộc tỉnh Sa Đéc.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Sa Đéc như trước đó cho đến đầu năm 1976.
Từ năm 1976 đến nay.
Tháng 2 tháng 1976, huyện Chợ Mới trở lại thuộc tỉnh An Giang cho đến ngày nay. Huyện Chợ Mới lúc đó bao gồm thị trấn Chợ Mới và 12 xã: An Thạnh Trung, Bình Phước Xuân, Hòa Bình, Hội An, Kiến An, Long Điền, Long Kiến, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội Đông, Mỹ Luông, Nhơn Mỹ, Tấn Mỹ. Trong đó, thị trấn Chợ Mới được thành lập do tách đất từ xã Long Điền.
Ngày 25 tháng 4 năm 1979, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 181-CP về việc điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang như sau:
Ngày 12 tháng 1 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 8-HĐBT về việc phân vạch địa giới phường, thị trấn và một số xã của huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang như sau:
Ngày 17 tháng 10 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 119/2003/NĐ-CP. Theo đó, thành lập thị trấn Mỹ Luông trên cơ sở 808 ha diện tích tự nhiên và 15.540 nhân khẩu của xã Mỹ Luông, đổi tên xã Mỹ Luông thành xã Mỹ An.
Ngày 9 tháng 2 năm 2018, UBND huyện Chợ Mới tổ chức lễ công bố quyết định xã Hội An đạt chuẩn đô thị loại V của UBND tỉnh An Giang.
Ngày 19 tháng 12 năm 2019, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định 1059/QĐ-BXD về việc công nhận thị trấn Chợ Mới mở rộng (gồm thị trấn Chợ Mới và một phần các xã: Long Điền A, Long Điền B, Kiến Thành và Kiến An) là đô thị loại IV.
Ngày 13 tháng 2 năm 2023, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 721/NQ-UBTVQH15 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 10 tháng 4 năm 2023). Theo đó, thành lập thị trấn Hội An trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của xã Hội An.
Từ đó, huyện Chợ Mới có 3 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Hành chính.
Huyện Chợ Mới có 18 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 3 thị trấn: Chợ Mới (huyện lỵ), Hội An, Mỹ Luông và 15 xã: An Thạnh Trung, Bình Phước Xuân, Hòa An, Hòa Bình, Kiến An, Kiến Thành, Long Điền A, Long Điền B, Long Giang, Long Kiến, Mỹ An, Mỹ Hiệp, Mỹ Hội Đông, Nhơn Mỹ, Tấn Mỹ được chia thành 142 ấp.
Nông thôn mới.
Huyện Chợ Mới có 9 xã đạt chuẩn nông thôn mới: Long Điền A, Long Điền B (2015), Kiến Thành (2016), Mỹ Hiệp, Hòa An (2017), Long Kiến, Tấn Mỹ, Bình Phước Xuân (2018), Kiến An (2019), An Thạnh Trung (2021), Long Giang (2022).
Giáo dục.
Trên địa bàn huyện có 97 trường học ở các cấp, trong đó có 7 trường THPT:
Văn hóa - Du lịch.
Văn hóa.
Tôn giáo.
Chợ Mới là nơi có nhiều tôn giáo chung sống: Phật giáo, Hòa Hảo, Thiên chúa, Cao Đài, Tin Lành... | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Mũi Columbia là điểm cực Bắc trên đất liền của Canada, cách Bắc Cực khoảng 769 km, nằm trên đảo Ellesmere tại 83°06'41" Bắc, 69°57'30" Tây. Mũi đất này là điểm đất liền xa nhất về phía tây của biển Lincoln thuộc Bắc Băng Dương.
Mũi Columbia được nhà thám hiểm người Anh George Nares khám phá trong cuộc thám hiểm từ năm 1875 đến 1876.
Trạm trung chuyển tại mũi Columbia là trạm xa nhất về phía Bắc, phục vụ cho việc thám hiểm Bắc Cực. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.804966 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đan Phượng là một huyện ngoại thành thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Đan Phượng (丹鳳) theo nghĩa gốc Hán có nghĩa là "chim phượng đỏ".
Địa lý.
Đan Phượng nằm ở phía tây bắc trung tâm thành phố Hà Nội, tại khoảng giữa của trục đường quốc lộ 32 từ trung tâm Hà Nội đi Sơn Tây, cách trung tâm thành phố khoảng 20 km.
Huyện Đan Phượng có Quốc lộ 32 chạy qua khoảng 4 Km, nếu đi từ phía Hà Nội lên Sơn Tây đến Km 16+500 là ngã Tư Trôi (thuộc huyện Hoài Đức) rẽ phải khoảng 300m là đến huyện Đan Phượng theo tỉnh lộ 422. So với các quận, huyện của thủ đô Hà Nội, Đan Phượng có ít đơn vị hành chính và diện tích tự nhiên thuộc loại nhỏ, nhưng xét về mảng văn hóa giáo dục lại rất phong phú. Tất cả các trường Tiểu học trong huyện đã đạt chuẩn Quốc gia, có những xã đông dân cư khoảng 19.000 người như ở Tân Hội, 25.000 người như ở Tân Lập, hơn 10.000 người như ở thị trấn Phùng, Hồng Hà, Phương Đình...)
Địa hình.
Huyện Đan Phượng là huyện có hệ thống sông Hồng, sông Đáy chảy qua. Xưa kia là ngã ba sông (sông Hồng, sông Nhuệ, sông Đáy) nên địa hình của huyện tương đối bằng phẳng, chủ yếu là đất phù sa. Chiều cao trung bình từ 6-8m.
Dân số năm 2019 là 174.501 người. 5% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Lịch sử.
Huyện được đặt từ thời Trần, trước đây là xứ Đoài, đến thời Minh chiếm đóng thì huyện tên là Đan Sơn thuộc châu Từ Liêm, phủ Giao Châu. Sang thời Hậu Lê huyện lệ về phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Năm 1831, vua Minh Mạng điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập các tỉnh mới. Huyện đựợc tách ra thành huyện riêng vào năm 1832 vẫn thuộc phủ Quốc Oai. Năm 1888, sau khi vua Đồng Khánh cắt Hà Nội cho Pháp. Huyện Đan Phựợng được nhập về phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông.
Sau cách mạng tháng Tám (1945), cấp phủ bị bãi bỏ, nên từ tháng 8 năm 1945 đến tháng 3 năm 1947 sáp nhập một số xã, tổng thuộc huyện Từ Liêm thành huyện Đan Phượng thuộc tỉnh Hà Đông.
Từ tháng 3 năm 1947, 4 huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Trì, Thanh Oai và thị xã Hà Đông được cắt chuyển về thành phố Hà Nội theo quyết định của Khu II (Khi sự kiện 19 tháng 12 năm 1946 nổ ra, Mặt trận Hà Nội được sáp nhập vào Khu II. Từ ngày 1 tháng 11 năm 1948, Khu 2 đặt quyền trực thuộc của Liên khu 3, nhưng đến tháng 5 năm 1949 thì khu Hà Nội lại được tách ra để thành lập Mặt trận Hà Nội độc lập, trực thuộc Bộ Tổng tư lệnh. Tình trạng này được duy trì cho đến sau năm 1954, khi đấy gọi là Khu Hà Nội).
Từ ngày 12 tháng 3 năm 1947 đến tháng 5 năm 1948, huyện Đan Phượng được gộp vào liên quận huyện IV - Hoài Đức và Đan Phượng (theo công văn số: 038/KCT, ngày 13 tháng 3 năm 1947), UBK- Khu XI của Bộ chỉ huy Chiến khu XI). Tháng 5 năm 1947, Trung ương quyết định tách ba tỉnh Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây ra khỏi Khu II, thành lập Khu XI.
Tháng 5 năm 1948 đến tháng 10 năm 1948, Khu XI được Trung ương quyết định giải thể Khu XI và thành lập tỉnh Lưỡng Hà (Hà Đông - Hà Nội) thuộc Liên khu III. Lúc này, liên quận huyện IV - Hoài Đức và Đan Phượng được tách ra thành huyện Liên Bắc. Đan Phượng thuộc huyện Liên Bắc - tỉnh Lưỡng Hà.
Từ tháng 10 năm 1948 đến tháng 3 năm 1954:
Tháng 4 năm 1954, huyện Đan Phượng được tái lập và thuộc tỉnh Sơn Tây quản lý theo quyết định của Liên khu uỷ III.
Tháng 8 năm 1954, huyện Đan Phượng được Liên khu uỷ III cắt chuyển trả lại cho tỉnh Hà Đông.
Ngày 20 tháng 4 năm 1961, 5 xã thuộc huyện Đan Phượng là Tân Dân (Thượng Cát), Tân Tiến (Liên Mạc), Trần Phú (Phú Diễn), Trung Kiên (Tây Tựu) và Minh Khai được cắt chuyển về huyện Từ Liêm (Hà Nội) theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 2 (Khóa II) (nay là địa bàn các phường Thượng Cát, Liên Mạc, Phú Diễn, Phúc Diễn, Tây Tựu, Minh Khai thuộc quận Bắc Từ Liêm).
Ngày 21 tháng 4 năm 1965, huyện Đan Phượng thuộc quyền quản lý của tỉnh mới Hà Tây.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, huyện Đan Phượng là một trong 24 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Sơn Bình, gồm thị trấn Phùng và 15 xã: Đan Phượng, Đồng Tháp, Hạ Mỗ, Hồng Hà, Liên Hà, Liên Hồng, Liên Trung, Phương Đình, Song Phượng, Tân Hội, Tân Lập, Thọ An, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Trung Châu.
Từ ngày 29 tháng 12 năm 1978 đến ngày 12 tháng 8 năm 1991, huyện Đan Phượng được cắt chuyển về thành phố Hà Nội theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 4 (khoá VI) vào cuối tháng 12 năm 1978.
Từ ngày 12 tháng 8 năm 1991 đến ngày 29 tháng 5 năm 2008, huyện Đan Phượng là một trong 14 đơn vị hành chính của tỉnh Hà Tây theo quyết định của Quốc hội tại kì họp thứ 9 (khoá VIII) vào ngày 12 tháng 8 năm 1991.
Ngày 8 tháng 4 năm 2002, mở rộng thị trấn Phùng trên cơ sở điều chỉnh một phần diện tích, dân số của hai xã Đan Phượng và Song Phượng.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, giải thể tỉnh Hà Tây cũ, huyện Đan Phượng thuộc thành phố Hà Nội theo Nghị quyết 15-NQ/QH ngày 29 tháng 5 năm 2008.
Hành chính.
Huyện Đan Phượng có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Phùng (huyện lỵ) và 15 xã: Đan Phượng, Đồng Tháp, Hạ Mỗ, Hồng Hà, Liên Hà, Liên Hồng, Liên Trung, Phương Đình, Song Phượng, Tân Hội, Tân Lập, Thọ An, Thọ Xuân, Thượng Mỗ, Trung Châu.
Các đơn vị hành chính cơ sở cấp xã, thôn, cụm dân cư
1. Thị trấn Phùng 6 phố, thôn: Phan Đình Phùng, Phùng Hưng, Phượng Trì, Nguyễn Thái Học, Tây Sơn, Thụy Ứng
2. Đan Phượng (Phùng) 3 thôn: Đại Phùng, Đoài Khê, Đông Khê
3. Đồng Tháp (Liên Hợp) 5 thôn: Bãi Tháp, Bãi Thuỵ, Đại Thần, Đồng Lạc, Thọ Vực
4. Hạ Mỗ (Hồng Thái) 2 thôn: Hạ Mỗ,Trúng Đích
5. Hồng Hà 4 thôn: Bá Dương Nội, Bá Dương Thị (Bá), Bồng Lai, Tiên Tân (Bến Tiên)
6. Liên Hà 3 thôn: Đoài, Quý, Thượng
7. Liên Hồng 4 thôn: Đông Lai, Hữu Cước, Thượng Trì, Tổ
8. Liên Trung 2 thôn: Hạ Trì, Trung
9. Phương Đình (Liên Minh) 8 thôn: Cổ Ngoã, Địch Trong, Địch Trung, Địch Đình, Địch Thượng, Ích Vịnh, La Thạch, Phương Mạc
10. Song Phượng 4 thôn, xóm: Tháp Thượng, Thu Quế, Thuận Thượng, Thống Nhất
11. Tân Hội 4 thôn: Thượng Hội, Thuý Hội, Phan Long (Sơn), Vĩnh Kỳ
12. Tân Lập 4 thôn: Đan Hội, Hạ Hội, Hạnh Đàn, Ngọc Kiệu (Tên chung: Kẻ Gối hay Tổng Gối) và 4 tổ dân phố Tân Tây Đô.
13. Thọ An 3 thôn: An Thanh (Tây Sơn), Thanh Điềm (Bắc Hà), Thọ Lão (Đông Hải)
14. Thọ Xuân 4 thôn: Tiến Bộ, Thống Nhất, Chiến Thắng, Hoà Bình
15. Thượng Mỗ (Hồng Phong) 3 thôn: Thượng Mỗ, Thượng Bãi, Phùng Hưng
16. Trung Châu 8 thôn: Chu Phan, Hưu Trưng, Nại Yên (Nại Xá, Yên Châu), Phương Lang (Phương Nội), Phương Ngoại, Trung Hà làng, Vạn Vĩ, Văn Môn.
Danh nhân.
Huyện có 15 tiến sĩ có tên trong các văn bia tại Văn miếu Quốc tử giám và nhiều danh nhân nổi tiếng tiêu biểu như:
+ Nghệ sĩ nhân dân Thương Huyền (hát dầu tiên trên sóng Đài TNVN cũng quê ở đây).
Các danh hiệu.
Huyện anh hùng lực lượng vũ trang.
Huyện Anh hùng Lao động.
Huyện Nông thôn mới đầu tiên của Thủ đô Hà Nội.
Các cá nhân được truy tặng, phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân:
1. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Phan Xích (tức Nguyễn Thạc Rương): nguyên chỉ huy trưởng huyện đội Liên Bắc, giặc Pháp tôn là hùm xám Liên Bắc.
2. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Lê Thao (Xã Hạ Mỗ).
3. Anh hùng, liệt sĩ thời kỳ chống Pháp: Hoàng Thị Lê (Thôn Thượng Trì, Xã Liên Hồng).
4. Anh hùng Hoàng Hữu Chuyên (chống Trung Quốc năm 1979)
Làng nghề.
Là một huyện gần trung tâm Hà Nội dân cư đông đúc rất thuận lợi cho việc tiêu thụ các sản phẩm từ nông nghiệp cũng như hình thành các làng nghề, nhóm nghề như mộc nội thất, chế biến thực phẩm, tiêu thụ nông sản, trồng hoa... Khu vực đồng bằng sông Hồng là nơi tập trung nhiều làng nghề. Các làng nghề truyền thống thường tập trung ở các tỉnh thành như Hà Nội, Nam Định, Hà Tây cũ, Thái Bình. Còn các làng nghề và làng có nghề lại thường tập trung ở Hà Nội, Hà Tây cũ, bắc Hưng Yên, nam Vĩnh Phúc, Nam Định. Nghề phụ thường thì tập trung ở khu vực ven đô thị lớn, nơi mật độ dân cư cao hay các đầu mối giao thông thuận lợi. Đan Phượng là huyện nhỏ nhưng hội tụ đầy đủ các yếu tố trên nên cũng có khá nhiều làng nghề truyền thống, làng nghề, làng có nghề và nghề phụ như:
Hạ tầng kỹ thuật.
Hiện nay, trên địa bàn huyện đã hình thành khu đô thị Tân Tây Đô (thuộc xã [[Tân Lập]]), khu nhà ở Tân Lập cũng như khu đô thị Vinhome Wonder Park (đang xây dựng ở xã [[Tân Hội]] và [[Liên Trung]]). Ngoài ra còn có khu đô thị sinh thái The Phoenix (thuộc xã Đan Phượng) và các siêu thị.
Các dự án hạ tầng giao thông đã được quyết định đầu tư như: đường Vành đai 4, đường Tây Thăng Long
Các dự án đường sắt đô thị đi qua địa bàn huyện (dự kiến) là các tuyến số 3 (Trôi - Nhổn - Yên Sở), tuyến số 4 (Liên Hà - Bắc Thăng Long).
Tuyến tàu điện một ray (monorail) Liên Hà - Tân Lập - An Khánh (huyện Đan Phượng và Hoài Đức) | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Phương Đình là tên một xã của huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Xã Phương Đình có các làng Phương Mạc, Ích Vịnh, La Thạch, Cổ Thượng, Cổ Hạ, Trại Cổ Ngõa, Địch Trung, Địch Thượng,Địch Đình,va Địch Trong. Các làng nằm bên dòng sông Đáy gồm có Phương Mạc, La Thạch, và Địch Thượng.
Tham khảo.
Gồm 10 thôn: Phương mạc, ích vịnh, la thach,địch trung, địch đình, địch trong, địch thượng, thón | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Tàu điện ngầm, còn được gọi là đường sắt đô thị ở Việt Nam () là hệ thống giao thông rộng lớn dùng chuyên chở hành khách trong một vùng đô thị, thường chạy trên đường ray. Những tuyến đường này có thể đặt ngầm dưới lòng đất, hoặc trên cao bằng hệ thống cầu cạn. Khác với xe điện mặt đất (tramway), tàu điện ngầm có thể đạt tốc độ cao vì có lối đi riêng, không phải chung đường giao thông với những phương tiện chuyên chở khác.
Tàu điện ngầm chạy nhiều lượt thành nhiều chuyến mỗi ngày trên những tuyến nhất định, nên có thể vận chuyển số lượng lớn hành khách. Vì có nhiều chuyến, việc đi lại bằng tàu điện thuận tiện và thoải mái hơn cho hành khách. Đa số các thành phố lớn trên thế giới đều có hệ thống tàu điện ngầm. Cùng mẫu số với tàu điện (tramway) và xe buýt, tàu điện ngầm có những trạm cố định để dừng cho khách lên xuống nhưng vì có đường đi dành riêng nên tàu điện ngầm đi nhanh hơn, không bị kẹt xe và cũng an toàn hơn.
Nước Anh là nước đầu tiên trên thế giới xây đường tàu điện ngầm, đoạn tàu điện ngầm đầu tiên chỉ dài 6 km.
Tốc độ chạy tàu điện ngầm nhanh nhất ở Mỹ, đạt 72 km/h. Lượng vận chuyển hành khách lớn nhất ở Moskva (Nga), mỗi năm 2,5 lượt tỉ người. Đường tàu điện ngầm thuận tiện nhất ở Paris (Pháp).
Mức độ tự động hoá quản lý của hệ thống tàu điện ngầm rất cao. Thường không có người quản lý, sau khi hành khách bỏ tiền vào máy tự động, máy sẽ tự động đẩy ra tấm card từ có đầy đủ thông tin nhận biết ga xa nhất mà hành khách muốn đến, khi đến cửa ra vào, hành khách nhét vé vào máy soát vé, thanh chắn cửa tự động mở ra. Nếu đi vượt quá quãng đường ghi trên vé thì thanh chắn không mở và hành khách phải bù thêm lượng tiền còn thiếu mới ra được khỏi ga tàu.
Đường tàu điện ngầm thường được hiểu là đi ngầm dưới mặt đất, nhưng hiện nay hơn 60 đường tàu điện ngầm trên thế giới, chỉ có 10 đường là hoàn toàn trong mặt đất, còn lại là kết hợp giữa trên và dưới mặt đất, ở nơi sầm uất thì phải làm dưới mặt đất, còn lại dùng cầu vượt hoặc đi trên mặt đất để giảm bớt khó khăn và giá thành thi công.
Tàu điện ngầm ở một số nước.
Anh Quốc.
Tuyến tàu điện ngầm đầu tiên trên thế giới được khánh thành vào ngày 10 tháng giêng 1863 tại Luân Đôn được gọi là "Metropolitan Railway". Lúc đó đầu tàu vẫn chạy bằng hơi nước. Nó nối những nhà ga "Paddington", "King’s Cross", "St Pancras" và "Euston", mà nằm tương đối xa ngoài trung tâm thành phố, với Thành phố Luân Đôn.
Tàu điện ngầm đầu tiên nằm tuyến đường "City and South London Railway" (bây giờ "Northern Line"), khánh thành vào ngày 4 tháng 11 năm 1890 tại Luân Đôn. Nó dẫn từ trạm "Von" "Stockwell" tới "King William Street". Bắt đầu từ đó nhiều đô thị lớn khác ở Âu châu cũng làm theo, hy vọng là sẽ giải quyết được vấn đề giao thông trong thành phố.
Liên kết ngoài.
Dự án tại VN: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Lai Vung là một huyện nằm ở phía nam tỉnh Đồng Tháp, Việt Nam.
Lai Vung được mệnh danh là "vương quốc quýt hồng", nằm giữa sông Tiền và sông Hậu nên có nguồn nước dồi dào thuận lợi cho trồng cây ăn trái với đặc sản nổi tiếng là quýt hồng, quýt đường, cam sành, bưởi... Đặc biệt "quýt hồng Lai Vung" và "nem Lai Vung" được Cục Sở hữu trí tuệ công nhận và cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu độc quyền của huyện Lai Vung.
Địa lý.
Huyện Lai Vung nằm ở phía nam của tỉnh Đồng Tháp, nằm cách thành phố Cao Lãnh khoảng 27 km, cách thành phố Sa Đéc khoảng 17 km, cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng 11 km, cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 179 km, có vị trí địa lý:
Huyện có diện tích 238 km², dân số năm 2019 là 164.240 người, mật độ dân số đạt 690 người/km².
Lịch sử.
Nguồn gốc địa danh.
Sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức vào thế kỷ XIX đã có ghi chép địa danh Lai Vung. Theo đó, sông Lai Vung là tên tục của Cường Oai giang. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Hữu Hiếu, địa danh Lai Vung thực chất có nguồn gốc từ tiếng Khmer "Sla tamvun", tức là loại cau để chín khô trên cây, vốn được bán rất nhiều ở vùng này, do đó, vùng này cũng được họ gọi là Srôk Sla tamvun. Về sau được người Việt gọi biến âm thành Lai Vung như ngày nay.
Thời Pháp thuộc.
Ngày 01 tháng 4 năm 1916, thực dân Pháp thành lập quận Lai Vung thuộc tỉnh Vĩnh Long, do tách ra từ quận Sa Đéc gồm có 2 tổng là;
Giai đoạn 1956-1975.
Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa quyết định giải thể tỉnh Sa Đéc, sáp nhập vào địa bàn tỉnh Vĩnh Long. Quận Lai Vung khi đó cũng bị giải thể và nhập vào địa bàn quận Lấp Vò thuộc tỉnh Vĩnh Long. Ngày 11 tháng 7 năm 1962, chính quyền Việt Nam Cộng hòa cho lập thêm quận Đức Thành thuộc tỉnh Vĩnh Long trên cơ sở tách đất từ quận Lấp Vò, quận lỵ đặt tại Lai Vung về mặt hành chính thuộc xã Tân Thành. Quận Đức Thành có địa giới hành chính trùng với quận Lai Vung cũ trước năm 1956.
Ngày 24 tháng 9 năm 1966, tỉnh Sa Đéc được tái lập, quận Đức Thành gồm 3 tổng An Khương, Ti Thiện và Tiến Nghĩa với 8 xã. Quận lỵ là Đức Thành đặt tại xã Hòa Long.
Năm 1970, quận Đức Thành gồm 8 xã: Hòa Long, Long Hậu, Long Thắng, Phong Hòa, Tân Hòa Bình, Tân Phước, Tân Thành, Vĩnh Thới.
Chính quyền Cách mạng.
Chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam cũng phân chia, sắp xếp lại các đơn vị hành chính trong tỉnh như bên chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Năm 1957, chính quyền Cách mạng cũng giải thể và sáp nhập tỉnh Sa Đéc vào tỉnh Vĩnh Long. Đồng thời, huyện Lai Vung khi đó cũng bị giải thể và nhập vào địa bàn huyện Lấp Vò thuộc tỉnh Vĩnh Long giống như phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa.
Trong giai đoạn 1966-1974, địa bàn tỉnh Sa Đéc của chính quyền Việt Nam Cộng hòa vẫn do tỉnh Vĩnh Long của chính quyền Cách mạng quản lý. Do đó, huyện Lấp Vò vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Long trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, tên gọi "quận Đức Thành" cũng không được phía chính quyền Cách mạng công nhận và sử dụng.
Tháng 5 năm 1974, Trung ương Cục miền Nam quyết định giải thể các tỉnh Kiến Phong và An Giang để tái lập các tỉnh Long Châu Tiền và tỉnh Sa Đéc. Lúc này, huyện Lấp Vò trực thuộc tỉnh Sa Đéc cho đến đầu năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn đặt huyện Lấp Vò thuộc tỉnh Sa Đéc như trước đó cho đến đầu năm 1976.
Sau năm 1975.
Tháng 2 năm 1976, Lấp Vò là huyện của tỉnh Đồng Tháp, gồm 14 xã: Long Hưng, Dương Hòa, Định Yên, Phong Hòa, Tân Thới, Bình Thành, Vĩnh Thạnh, Bình An Trung, Mỹ An Hưng, Tân Mỹ, Long Hậu, Phước Thành, Tân Khánh Trung, Hòa Thắng.
Ngày 27 tháng 12 năm 1980, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 382/CP về việc điều chỉnh địa giới một số xã thuộc huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp:
Ngày 5 tháng 1 năm 1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 4-CP về việc đổi tên huyện Lấp Vò thành huyện Thạnh Hưng.
Ngày 6 tháng 3 năm 1984, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 36-HĐBT về việc phân vạch địa giới một số xã của huyện Thạnh Hưng thuộc tỉnh Đồng Tháp, theo đó:
Ngày 27 tháng 9 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 149-HĐBT về việc phân vạch lại địa giới hành chính một số xã của huyện Thạnh Hưng thuộc tỉnh Đồng Tháp như sau:
Ngày 27 tháng 6 năm 1989, Hội đồng Bộ trưởng Nhà nước Việt Nam ban hành Quyết định số 77/HĐBT về việc chia huyện Thạnh Hưng thuộc tỉnh Đồng Tháp thành hai huyện Thạnh Hưng và Lai Vung. Theo đó, huyện Lai Vung có 11 xã: Tân Dương, Hòa Thành, Long Thắng, Hòa Long, Long Hậu, Tân Phước, Tân Thành, Vĩnh Thới, Tân Hòa, Định Hòa và Phong Hòa; gồm 23.864 ha diện tích tự nhiên và 142.267 nhân khẩu. Huyện lỵ của huyện Lai Vung đặt tại xã Hòa Long.
Năm 1994, tách một phần diện tích và dân số của xã Hòa Long để thành lập thị trấn Lai Vung, thị trấn huyện lỵ huyện Lai Vung.
Huyện Lai Vung có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
Hành chính.
Huyện Lai Vung có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Lai Vung (huyện lỵ) và 11 xã: Định Hòa, Hòa Long, Hòa Thành, Long Hậu, Long Thắng, Phong Hòa, Tân Dương, Tân Hòa, Tân Phước, Tân Thành, Vĩnh Thới.
Kinh tế - xã hội.
Nông nghiệp.
Chủ yếu trồng cây có múi và cây hoa màu. Huyện có đặc sản là trái cây cam sành, quýt hồng, bưởi, nấm rơm, nem Lai Vung.
Du lịch.
Theo Kế hoạch phát triển Du lịch huyện Lai Vung giai đoạn 2017 đến 2020 và những năm tiếp theo, đã xác định từng bước củng cố và tập trung phát triển 3 sản phẩm du lịch đặc trưng với tiềm năng và lợi thế của du lịch huyện là: Du lịch tham quan vườn cây ăn trái và Trải nghiệm những hoạt động sôi nổi trên mặt nước, mô hình Du lịch thực dưỡng và Du lịch Homestay.
Giáo dục.
Các trường Trung học phổ thông trên địa bàn huyện Lai Vung:
Giao thông.
Mạng lưới giao thông thủy bộ rất thuận lợi, huyện có các tuyến huyện lộ trên 100 km đường nhựa phủ khắp liên thông với Tỉnh lộ 851, 852, 853 nối liền với Quốc lộ 54 và Quốc lộ 80; cách cảng Sa Đéc và cảng Cần Thơ chỉ 20 km đi từ khu công nghiệp sông Hậu. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Thành phố thuộc tỉnh là một loại hình đơn vị hành chính cấp hai tại Việt Nam, tương đương với quận, huyện, thị xã và thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp huyện).
Thành phố thuộc tỉnh là một đô thị lớn về kinh tế, văn hóa và kết nối giao thông của một tỉnh; nó còn là trung tâm hành chính, nơi đặt trụ sở các cơ quan nhà nước của tỉnh đó nếu nó là tỉnh lị. Một số thành phố thuộc tỉnh còn được chỉ định làm trung tâm kinh tế và văn hóa của cả một vùng (liên tỉnh).
Một thành phố thuộc tỉnh được chia thành nhiều phường (phần nội thành) và xã (phần ngoại thành). Do đó, về loại hình, thành phố thuộc tỉnh là một đô thị và dân cư tại đó được xếp là dân thành thị, nhưng vẫn có thể còn một phần dân sống bằng nông nghiệp ở các xã ngoại thành.
Hiện nay, Việt Nam có 7 thành phố thuộc tỉnh có mức độ đô thị hóa cao, chỉ có phường mà không có xã trực thuộc là: Bắc Ninh, Dĩ An, Đông Hà, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Từ Sơn và Vĩnh Long.
Quy định trong luật pháp.
Cấp hành chính.
"1. Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau:"
"Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;"
"Tỉnh chia thành huyện, thị xã và thành phố thuộc tỉnh; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện, thị xã và đơn vị hành chính tương đương;"
"Huyện chia thành xã, thị trấn; thị xã và thành phố thuộc tỉnh chia thành phường và xã; quận chia thành phường."
"Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt do Quốc hội thành lập."
"Các đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm có:"
"1. Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);"
"2. Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp huyện);"
"3. Xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã);"
"4. Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt."
Như vậy, thành phố thuộc tỉnh nằm ở cấp hành chính thứ hai trong 3 cấp hành chính (cấp tỉnh, cấp huyện, ) của Việt Nam.
Tuy nhiên, so với các quận, huyện, thị xã, thì thành phố thuộc tỉnh thường lớn hơn và có vị thế quan trọng hơn. Vai trò này được ghi rõ trong Nghị định số 15/2007/NĐ-CP của Chính phủ: "Thành phố thuộc tỉnh có vị trí là trung tâm chính trị, kinh tế - xã hội hoặc là trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học kỹ thuật, du lịch, dịch vụ, đầu mối giao thông của tỉnh và giao lưu trong nước, quốc tế; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội liên huyện, liên tỉnh và vùng lãnh thổ" (Điều 5). Cũng theo nghị định này thì thành phố thuộc tỉnh là đơn vị hành chính cấp huyện loại I trong tổng số các loại.
Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính.
Theo Nghị quyết số 1211/2016/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành năm 2016, tại "Điều 5", "Mục 2: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính đô thị", "Chương I: Tiêu chuẩn của đơn vị hành chính" thì một thành phố thuộc tỉnh cần phải đáp ứng các tiêu chuẩn như sau:
"Điều 5. Tiêu chuẩn của thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương"
"1. Quy mô dân số từ 150.000 người trở lên."
"2. Diện tích tự nhiên từ 150 km² trở lên."
"3. Đơn vị hành chính trực thuộc:"
"a) Số đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc có từ 10 đơn vị trở lên;"
"b) Tỷ lệ số phường trên tổng số đơn vị hành chính cấp xã từ 65% trở lên."
"4. Đã được công nhận là đô thị loại I hoặc loại II hoặc loại III; hoặc khu vực dự kiến thành lập thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đã được phân loại đạt tiêu chí của đô thị loại I hoặc loại II hoặc loại III."
"5. Cơ cấu và trình độ phát triển kinh tế - xã hội đạt quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Nghị quyết này."
Danh sách thành phố thuộc tỉnh.
Số liệu về dân số chủ yếu lấy theo kết quả sơ bộ của cuộc tổng điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2019 (không tính dân số quy đổi), một số thành phố dùng số liệu dân số quy đổi ("in nghiêng").
Thống kê.
Đến ngày 10 tháng 4 năm 2023, Việt Nam có 82 thành phố thuộc tỉnh. Trong đó: | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cảng Cái Lân là một cảng nước sâu thuộc cụm cảng Hòn Gai tỉnh Quảng Ninh, đang được xây dựng và mở rộng thành một trong những cảng lớn nhất Việt Nam.
Quá trình xây dựng và phát triển.
Tháng 7-1996 Cảng Cái Lân được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đầu tư
Năm 1997 Đưa vào khai thác bến số 1
Tháng 4-2004 Đưa vào khai thác bến 5, 6, 7
Năm 2010 Khởi công xây dựng bến 2, 3, 4
Khả năng lưu thông và tiếp nhận.
Độ sâu luồng tại mức thuỷ triều bằng 0: -10 m.
Vùng quay trở: 350 m.
Kích cỡ tàu có thể tiếp nhận: 5.500 TEU (hàng container) và 85.000 DWT giảm tải (hàng rời).
Độ cao tĩnh không của cầu Bãi Cháy tại điểm thủy triều bằng 0: 55,6 m. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.8609 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp quốc gia, lớn thứ 2 ở Việt Nam sau cảng Sài Gòn và lớn nhất miền Bắc, là cửa ngõ quốc tế của Việt Nam nằm tại ba quận Hồng Bàng, Ngô Quyền và Hải An thành phố, bên cạnh đó cụm cảng Lạch Huyện Cửa ngõ Quốc tế mới loại 1A đang được hoàn thiện sẽ mang một tầm vóc mới cho cảng biển Hải Phòng.
Lịch sử.
Cảng Hải Phòng được người Pháp xây dựng năm 1874, là nơi được sử dụng để đổ bộ và tiếp tế cho quân đội viễn chinh. Sau đó, thương cảng này được nối liền với Vân Nam, Trung Quốc bằng đường xe lửa. Đến năm 1939, cảng này thực hiện 23% khối lượng vận chuyển xuất nhập khẩu của xứ Đông Dương.
Ngày 21/03/1956, Cảng Hải Phòng là một xí nghiệp do Ngành vận tải thủy phụ trách và quản lý. Ngày 10/7/1965, Cảng Hải Phòng là xí nghiệp trực thuộc Cục vận tải đường biển. Ngày 28/11/1978, Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng cục đường biển. Ngày 29/4/1995, Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Ngày 12/10/2007, Cảng Hải Phòng chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty TNHH một thành viên Cảng Hải Phòng trực thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam. Ngày 01/07/2014, Cảng Hải Phòng chuyển sang hoạt động theo mô hình Công ty cổ phần.
Thông số kỹ thuật.
Cảng Hải Phòng hiện nay bao gồm các khu bến cảng chính sau:
Quy hoạch.
Hiện chính phủ Việt Nam đang có kế hoạch nâng cấp cụm cảng Hải Phòng. Khu bến Lạch Huyện sẽ được xây dựng làm cảng tổng hợp và cảng công ten nơ. Đây sẽ là khu bến chính của cảng Hải Phòng có năng lực tiếp nhận tàu trên 100000DWT vào làm hàng. Khu bên Đình Vũ sẽ được nạo vét, cải tạo để có thể tiếp nhận được tàu 20 nghìn đến 30 nghìn DWT. Ngoài ra, còn có bến Nam Đồ Sơn chuyên dùng cho an ninh quốc phòng.
Các cảng ở Hải Phòng.
Cũng ở Hải Phòng, ngoài các cảng trên, còn có hơn 40 bến cảng khác với các chức năng khác nhau, như vận tải chất hóa lỏng (xăng, dầu, khí đốt), bến cảng đóng tàu, bến cho tàu vận tải đường sông nhỏ có trọng tải 1-2 tấn ("tàu chuột"). Các cảng này do nhiều công ty khác nhau quản lý và khai thác. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sơn Hà là một huyện miền núi thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Huyện Sơn Hà nằm ở phía tây của tỉnh Quảng Ngãi, có vị trí địa lý:
Huyện Sơn Hà có diện tích 750,31 km², dân số là 75.000 người, bao gồm các dân tộc: Kinh, H're, Ca Dong, Xơ Đăng
Hành chính.
Huyện Sơn Hà có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Di Lăng (huyện lỵ) và 13 xã: Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Cao, Sơn Giang, Sơn Hạ, Sơn Hải, Sơn Kỳ, Sơn Linh, Sơn Nham, Sơn Thành, Sơn Thượng, Sơn Thủy, Sơn Trung.
Lịch sử.
Sau năm 1975, huyện Sơn Hà thuộc tỉnh Nghĩa Bình, gồm 17 xã: Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Bua, Sơn Cao, Sơn Dung, Sơn Giang, Sơn Hạ, Sơn Kỳ, Sơn Lăng, Sơn Linh, Sơn Mùa, Sơn Nham, Sơn Tân, Sơn Thành, Sơn Thượng, Sơn Thủy và Sơn Tinh.
Ngày 24 tháng 3 năm 1979, sáp nhập xã Sơn Bua và xã Sơn Mùa thành xã Sơn Mùa.
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Sơn Hà thuộc tỉnh Quảng Ngãi, gồm 16 xã: Sơn Hạ, Sơn Thành, Sơn Nham, Sơn Cao, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn Thủy, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Thượng, Sơn Lăng, Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Mùa và Sơn Tân.
Ngày 6 tháng 8 năm 1994, tách 4 xã: Sơn Tinh, Sơn Dung, Sơn Mùa và Sơn Tân để tái lập huyện Sơn Tây.
Huyện Sơn Hà còn lại 12 xã: Sơn Hạ, Sơn Thành, Sơn Nham, Sơn Cao, Sơn Linh, Sơn Giang, Sơn Thủy, Sơn Kỳ, Sơn Ba, Sơn Bao, Sơn Thượng và Sơn Lăng.
Ngày 30 tháng 12 năm 1997:
Huyện Sơn Hà có 1 thị trấn và 13 xã như hiện nay.
Kinh tế.
Kinh tế chủ yếu mang tính chất thuần nông. Trong những năm gần đây, trồng rừng và chăn nuôi là thế mạnh của huyện. Hiện nay, trên địa bàn huyện có Nhà máy Mì Sơn Hải (Nhà máy chế biến sắn) đang hoạt động tạo đầu ra cho nông sản của các dân tộc thiểu số. Hiện tại đang có thêm nhà máy cây keo lai ở xã Sơn Hạ.
Du lịch.
Thạch Bích tà dương, còn gọi là Núi Đá Vách có độ cao 1.095 m là một trong 12 thắng cảnh nổi tiếng của Quảng Ngãi. Đập và hồ Thạch Nham là những địa chỉ du lịch khá nổi tiếng nằm ở địa phận xã Sơn Nham. Ngoài ra còn có Suối Tầm Linh thuộc xã Sơn Linh đây cũng là một khu du lịch sinh thái.
Liên kết ngoài.
Chủ tịch huyện Sơn Hà là bà Đinh Thị Trà, sinh năm 1979 | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Nghĩa Hành là một huyện trung du thuộc tỉnh Quảng Ngãi, Việt Nam.
Địa lý.
Địa hình trung dung chuyển tiếp từ vùng núi phía Tây đến đồng bằng ở phía Đông. Đồi gò thấp và thoải cao từ 25-200 m. Sông Vệ chảy qua huyện với chiều dài khoảng 30 km, sông Phước Giang khoảng 20 km. Đường tỉnh 627 qua suốt chiều dọc huyện, 14 tuyến đường huyện dài 74 km. Đường xe lửa Bắc Nam qua địa phận huyện hai đoạn ngắn.
Hành chính.
Huyện Nghĩa Hành có 12 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Chợ Chùa (huyện lỵ) và 11 xã: Hành Đức, Hành Dũng, Hành Minh, Hành Nhân, Hành Phước, Hành Thiện, Hành Thịnh, Hành Thuận, Hành Tín Đông, Hành Tín Tây, Hành Trung.
- Xã Hành Minh có 4 thôn: Long Bàn Nam, Long Bàn Bắc, Tình Phú Nam, Tình Phú Bắc.
- Xã Hành Đức có 5 thôn: Kỳ Thọ Nam 1, Kỳ Thọ Nam 2, Kỳ Thọ Bắc, Phú Châu, thôn Xuân Vinh.
- Xã Hành Trung có 4 thôn: Hiệp Phổ Nam, Hiệp Phổ Bắc, Hiệp Phổ Trung, Hiệp Phổ Tây.
- Xã Hành Phước có 9 thôn: Hòa Vinh, Đề An, Thuận Hòa, An Chỉ Đông, An Chỉ Tây, Hòa Mỹ, Vinh Thọ, Hòa Sơn, Hòa Thọ.
- Xã Hành Thuận có 7 thôn: Đại An Đông 1, Đại An Đông 2, Đại An Tây 1, Đại An Tây 2, Phúc Minh, Phú Định, Xuân An.
- Xã Hành Dũng có 7 thôn: Kim Thành Hạ, Trung Mỹ, An Hòa, An Sơn, An Phước, An Định, An Tân.
- Xã Hành Nhân có 8 thôn: Đồng Vinh, Kim Thành Thượng, Đông Trúc Lâm, Tân Thành, Bình Thành, Nghĩa Lâm, Phước Lâm, Tân Lập.
- Xã Hành Tín Tây có 9 thôn: Phú Khương, Phú Thọ, Long Bình, Tân Phú 1, Tân Phú 2, Tân Hòa, Đồng Miếu, Trũng Kè 1, Trũng Kè 2.
- Xã Hành Tín Đông có 7 thôn: Thiên Xuân, Nguyên Hòa, Đồng Giữa, Nhơn Lộc 1, Nhơn Lộc 2, Khánh Giang, Trường Lệ.
- Xã Hành Thiện có 7 thôn: Bàn Thới, Ngọc Sơn (Theo chính sách mới thì Ủy ban Nhân dân xã Hành Thiện đã hợp nhất thôn Ngọc Dạ và thôn Mễ Sơn lại với nhau, cái tên Ngọc Sơn là hình thức ghép chữ giữa chữ "Ngọc" trong "Ngọc Dạ" và chữ "Sơn" trong "Mễ Sơn"), Vạn Xuân 1, Vạn Xuân 2, Phú Lâm Đông, Phú Lâm Tây.
- Xã Hành Thịnh có 11 thôn: An Ba, Châu Me, châu Mỹ, Xuân Ba, Mỹ Hưng, Đồng Xuân, Ba Bình, Xuân Đình, Thuận Hòa, Hòa Huân, Xuân Hòa.
Giao thông.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Quảng Ngãi – Hoài Nhơn đi qua đang được xây dựng.
Lịch sử.
Ngày 24 tháng 8 năm 1981, huyện Nghĩa Hành được tái lập, ban đầu gồm 8 xã: Hành Đức, Hành Dũng, Hành Minh, Hành Phước, Hành Thiện, Hành Thịnh, Hành Thuận và Hành Tín.
Ngày 19 tháng 2 năm 1986:
Ngày 30 tháng 6 năm 1989, tỉnh Quảng Ngãi được tái lập từ tỉnh Nghĩa Bình, huyện Nghĩa Hành thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
Ngày 30 tháng 12 năm 1997, chia xã Hành Tín thành hai xã: Hành Tín Đông và Hành Tín Tây.
Huyện Nghĩa Hành có 1 thị trấn và 11 xã như hiện nay.
Một số nhân vật lịch sử: Lê Khiết - tức Lê Tựu Khiết (Hành Thịnh), Nguyễn Công Phương (Hành Phước), Võ Duy Ninh (Hành Thuận), Nguyễn Văn Được (Hành Tín)...
Du lịch.
Suối Chí nằm ẩn mình dưới khu rừng nguyên sinh, tổng diện tích của khu rừng 1.012ha, nhân dân nơi đây thường gọi khu rừng này là rừng Cộng đồng vì toàn bộ khu rừng này đã được giao cho 350 hộ dân thuộc hai thôn Khánh Giang và Trường Lệ, xã Hành Tín Đông quản lý. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.618025 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Sông La là một phụ lưu của sông Lam, dài 12,5 km chảy qua huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Sông La là hợp lưu của hai sông Ngàn Phố (từ Hương Sơn đồ về) và sông Ngàn Sâu (từ Hương Khê và Vũ Quang) tại bến Tam Soa (Linh Cảm, Đức Thọ). Đến lượt nó lại hợp lưu với sông Cả (từ Nghệ An chảy sang) tạo thành dòng sông Lam nằm giữa 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Sông La là một dòng sông rất đẹp, có phong cảnh nên thơ và là nguồn cảm ứng sáng tạo cho nhiều nhạc sĩ.
Sách Đại Nam nhất thống chí viết: "Sông La có hai nguồn: Một nguồn từ động Thâm Nguyên (tức Ngàn Sâu) ở núi Khai Trương (tức núi Giăng Màn) châu Quy Hợp tỉnh Hà Tĩnh (đạo Hà Tĩnh xứ Nghệ xưa), chảy về Đông đến xã Chu Lễ, hợp với sông Tiêm, đến xã Bào Khê gặp sông Trúc, qua sông Cửu Khúc đến xã Vụ Quang thì hội với sông Ác (tức sông Ngàn Trươi), đến xã Đỗ Xá thì gặp sông Ngàn Phố. Nguồn kia là sông La Hà bắt đầu từ ngọn Cốt Đột núi Giăng Màn, chảy về phía Đông gọi là sông Ngàn Phố đến Đỗ Xá hợp với sông La. Sông La chảy đến xã Bùi Xá thì chia ra một nhánh chảy vào sông Minh, chảy tiếp về Đông đến xã Tường Xá thì đổ vào sông Lam."
Các bài hát về sông La: | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Rạch Giá là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Kiên Giang, Việt Nam.
Địa lý.
Thành phố Rạch Giá nằm ở trung tâm tỉnh Kiên Giang, có vị trí địa lý:
Thành phố có diện tích 105,86 km², dân số năm 2020 là 228.416 người, mật độ dân số đạt 2.158 người/km².
Thành phố Rạch Giá có trung tâm đô thị nằm trải dài bên bờ Đông vịnh Thái Lan với 20 km đường bờ biển, chiếm 1/10 chiều dài bờ biển của tỉnh Kiên Giang. Được bao quanh bởi sông Kiên ở phía Bắc và Đông Bắc, sông Cái Lớn ở phía Nam. Rạch Giá cách Thành phố Hồ Chí Minh 245 km về hướng Tây Nam, cách Cần Thơ 116 km về hướng Tây và cửa khẩu quốc tế Hà Tiên 95 km về hướng Đông Nam.
Điều kiện tự nhiên.
Do đặc điểm về điều kiện địa lý và tự nhiên, Vịnh Thái Lan – Rạch Giá là một miền biển trù phú, được biết đến xưa nay với kinh tế rất phong phú, đa dạng. Đó là thương mại-dịch vụ và du lịch, khai thác và chế biến hải sản. Rạch Giá cung cấp cho nhiều nơi trong nước và xuất khẩu đi nhiều nước trên thế giới.
Rạch Giá, tuy không có bãi cát, không có đảo, nhưng nếu du khách đến Rạch Giá bằng đường bộ, sau những cảnh quang mênh mông của ruộng lúa phì nhiêu ở các vùng phụ cận, du khách sẽ cảm nhận được hương vị của biển.
Vị trí thích hợp là dọc theo tuyến ven biển thuộc khu lấn biển 420 ha và khu 16 để ngắm nhìn ra biển vào buổi chiều sẽ thấy mặt trời hoàng hôn đỏ rực về phía biển Tây. Xa xa lô nhô những đảo lớn nhỏ ẩn hiện trên nền xanh của biển. Những tàu đánh cá lướt sóng chập chùng. Những vạt cây rừng của vùng ngập mặn xanh ngát ven bờ…
Tất cả hòa trộn nên cảnh sắc “Hoàng hôn biển Tây” thơ mộng và quang cảnh đặc trưng của Rạch Giá trong quần thể vùng đất Biển – Đảo Kiên Giang.
Kênh rạch và sông ngòi.
Trong thành phố không có sông lớn, chỉ có các kênh đào như:
Ngoài các kênh nói trên, còn có nhiều rạch tự nhiên và kênh nhỏ như rạch Giồng, rạch Vàm Trư, rạch Tà Mưa, rạch Tà Keo, rạch Đường Trâu, rạch Tắc Ráng, kênh Đòn Dông, kênh Cống Đôi... Các kênh rạch lớn nhỏ trên địa bàn thành phố chi phối lẫn nhau về mực nước và lưu lượng. Nó vừa chịu tác động thủy văn của sông Hậu, vừa chịu ảnh hưởng thủy triều của vịnh Rạch Giá.
Địa hình, địa chất và thổ nhưỡng.
Về địa chất, công trình mới sơ bộ thăm dò cho thấy địa tầng có cấu tạo sét pha cát ở độ cao từ 0,5m đến 60m. Nước ngầm trong lòng đất hình thành do nhiều nguồn khác nhau nên có chỗ mặn, chỗ chua lợ, cũng có chỗ nước ngọt cách mặt đất vài ba mét.
Đất mặn chiếm đến 6,231 km2 trong toàn bộ diện tích tự nhiên của thành phố, thuộc các phường Vĩnh Quang, Vĩnh Lạc, An Hoà và Rạch Sỏi. Hàm lượng muối trong đất có đến 0,3% vào mùa khô, song đến mùa mưa thì giảm đi 1/2 nên có thể tận dụng nước mưa để canh tác lúa hai vụ và trồng cây ngắn ngày.
Đất mặn chua nhiều chiếm diện tích tương đương với đất mặn, phân bố chủ yếu ở phường Vĩnh Thanh, Vĩnh Thông và Vĩnh Hiệp. Loại đất này có độ phì khá cao nhưng lại bị nhiễm mặn và nhiều phèn. Độ pH nhỏ hơn 4, năng suất cây trồng thấp. Muốn cải tạo đất, đòi hỏi phải giải quyết nhiều khâu kĩ thuật như phải có nước ngọt để tháo chua, có giống cây trồng thích hợp...
Đất mặn chua ít chiếm diện tích nhỏ (khoảng 1,3km2) phân bố rải rác ở các phường. Đất này có độ chua từ vừa đến ít, độ pH lớn hơn 4,5, là loại đất khá thuần phục. Hàng năm nếu đủ nước từ tháng 5 đến tháng 10 thì đất có khả năng canh tác tốt, trở thành vùng sản xuất lúa cao sản.
Hành chính.
Thành phố Rạch Giá có 12 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc gồm 11 phường: An Bình, An Hòa, Rạch Sỏi, Vĩnh Bảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Lợi, Vĩnh Quang, Vĩnh Thanh, Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thông và xã Phi Thông.
Lịch sử.
Nguồn gốc tên gọi Rạch Giá.
Về tên gọi Rạch Giá có 2 giả thuyết:
Lịch sử.
Thành phố có bề dày lịch sử khai phá hơn 300 năm, trong khi vị trí hiện nay của Rạch Giá từng là cảng thị sầm uất của quốc gia Phù Nam thuộc nền văn hóa Óc Eo tồn tại từ thế kỷ II đến thế kỷ VII, phân định từ di chỉ Nền Chùa (Takev) được khai quật năm 1944 của nhà khảo cổ học người Pháp Louis Malleret.
Giai đoạn thế kỷ XVII - giữa thế kỷ XIX.
Địa danh Rạch Giá được nhắc đến lần đầu tiên trong chính sử Việt Nam là ở cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức, trong đó có đoạn
Theo sách "Hỏi đáp lịch sử Việt Nam" (tập 3) thì ""Năm 1680, Mạc Cửu đã lập ấp rải rác từ Vũng Thơm, Trủng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau" ""." Như vậy địa danh Rạch Giá đã xuất hiện ít nhất từ cuối thế kỉ 17.
Năm 1739, Mạc Thiên Tứ lập ra huyện Kiên Giang, đặt trấn lỵ tại đây. Trong Đại Nam nhất thống chí, mục “Thành Trì” có ghi: “Huyện não (đồn canh của huyện) Kiên Giang mặt trước dài 19 trượng 2 thước, bề ngang dài 12 trượng 6 thước, ở địa phận xã Vân Tập, vào năm Thiệu Trị nguyên niên (1841). Chợ Sái Phu, ở huyện Kiên Giang, tục danh là chợ Rạch Giá, phố xá liền lạc, ghe buôn đến đậu đông đảo.”.
Từ vùng đất rộng người thưa, Rạch Giá là nơi cộng cư của người Việt, Hoa và Khmer, nhưng chiếm đa số là người Việt và Khmer. Trước đời Gia Long, dân chúng đã chọn lựa vài gò cao ven các sông rạch để cư trú. Từ làng chài nhỏ ven cửa sông, Rạch Giá dần phồn thịnh hơn nhờ buôn bán lúa gạo và thương mại sung túc. Vào TK XVII, tức thời chúa Nguyễn ở Đàng Trong, vùng Rạch Giá nay là một trong 7 đơn vị hành chính thuộc Trấn Hà Tiên xưa.
Thời Pháp thuộc.
Sau khi chiếm được Vĩnh Long và Hà Tiên, năm 1867, Pháp bắt đầu tiến đến Rạch Giá. Ngày 18 tháng 8 năm 1867, Pháp đặt hạt thanh tra Rạch Giá do đổi tên từ hạt thanh tra Kiên Giang. Ngày 16 tháng 6 năm 1869, Nguyễn Trung Trực khởi nghĩa ở đây, giết gần như toàn bộ quân lính và viên chức người Pháp.
Ngày 5 tháng 6 năm 1871, Pháp tách vùng Cà Mau ra khỏi Rạch Giá. Ngày 18 tháng 12 năm 1871, Pháp lại nhập Cà Mau vào Rạch Giá. Từ ngày 5 tháng 1 năm 1876, đổi hạt thanh tra thành hạt tham biện, các thôn thành các làng. Ngày 12 tháng 8 năm 1888, hạt tham biện Rạch Giá bị giải thể, nhập vào hạt Long Xuyên. Ngày 27 tháng 12 năm 1892, Pháp tái lập hạt Rạch Giá với 4 tổng.
Ngày 26 tháng 1 năm 1894, chính quyền thực dân Pháp hợp nhất 4 làng Vĩnh Lạc, Vĩnh Hòa, Thanh Lương và Vân Tập thành một làng mới lấy tên là làng Vĩnh Thanh Vân, đồng thời vẫn là nơi đặt lỵ sở của hạt tham biện Rạch Giá như trước đó.
Ngày 1 tháng 1 năm 1900, đổi hạt tham biện Rạch Giá thành tỉnh Rạch Giá. Ngày 25 tháng 5 năm 1900, lập tổng Kiên Tường, tổng Thanh Bình. Ngày 31 tháng 12 năm 1907, lập thêm tổng An Ninh và tổng Thanh Biên. Ngày 6 tháng 1 năm 1916, lập thêm tổng Thanh Tuyên, tổng Thanh Yên.
Ngày 18 tháng 12 năm 1929, toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập thị xã hỗn hợp Rạch Giá trên cơ sở cải biến khu đô thị Rạch Giá, trụ sở tại làng Vĩnh Thanh Vân dưới quyền một viên Thị trưởng và một Hội đồng thị xã.
Ngày 16 tháng 1 năm 1930, Pháp chia địa bàn thị xã Rạch Giá thành 5 khu vực để đánh thuế. Ngày 30 tháng 4 năm 1934, Pháp nâng thị xã lên thành phố và chia thành 3 khu phố.
Giai đoạn 1956-1976.
Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký Sắc lệnh 143/VN để "thay đổi địa giới và tên Đô thành Sài Gòn – Chợ Lớn cùng các tỉnh và tỉnh lỵ tại Việt Nam". Địa giới và địa danh các tỉnh ở miền Nam thay đổi nhiều, một số tỉnh mới được thành lập. Theo Sắc lệnh này, địa phận Việt Nam Cộng hòa gồm Đô thành Sài Gòn và 22 tỉnh. Lúc này, tỉnh Hà Tiên bị bãi bỏ và 4 quận là Châu Thành, Hòn Chông, Giang Thành, Phú Quốc được sáp nhập vào tỉnh Rạch Giá để thành lập tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang đặt tại Rạch Giá và vẫn giữ nguyên tên là "Rạch Giá", về mặt hành chánh thuộc xã Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Kiên Thành.
Sau năm 1956, thị xã Rạch Giá bị giải thể, sáp nhập vào địa bàn xã Vĩnh Thanh Vân thuộc quận Kiên Thành của tỉnh Kiên Giang.
Ngày 20 tháng 11 năm 1970, chính quyền Việt Nam Cộng hòa tái lập thị xã Rạch Giá, là thị xã tự trị trực thuộc chính quyền Trung ương Việt Nam Cộng hòa, đồng thời kiêm tỉnh lỵ tỉnh Kiên Giang. Thị xã Rạch Giá được tái lập trên cơ sở các xã Vĩnh Thanh Vân và An Hòa cùng thuộc quận Kiên Thành trước đó. Từ đó cho đến năm 1975, thị xã Rạch Giá và tỉnh Kiên Giang là hai đơn vị hành chính cấp tỉnh ngang bằng nhau theo sự phân chia sắp xếp hành chính của Việt Nam Cộng hòa.
Ngày 07 tháng 6 năm 1971, thị xã Rạch Giá có 6 khu phố trực thuộc là: Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thanh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hiệp, An Hoà, Phó Cơ Điều.
Tuy nhiên, chính quyền Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (sau này là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn giữ nguyên tên gọi tỉnh Rạch Giá; đồng thời duy trì thị xã Rạch Giá trực thuộc tỉnh Rạch Giá từ năm 1956 cho đến năm 1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam ban đầu vẫn duy trì tỉnh Rạch Giá như trước đó cho đến đầu năm 1976. Lúc này thị xã Rạch Giá vẫn giữ vai trò là tỉnh lỵ tỉnh Rạch Giá.
Từ năm 1976 đến nay.
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Việt Nam quyết định tái lập tỉnh Kiên Giang. Tỉnh lỵ là thị xã Rạch Giá, đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Thị xã Rạch Giá lúc này gồm 5 phường: An Hòa, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Thanh và Vĩnh Thanh Vân.
Ngày 27 tháng 9 năm 1983, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định số 107-HĐBT về việc phân vạch địa giới một số xã, phường của huyện Châu Thành và thị xã Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang như sau:
Ngày 25 tháng 4 năm 1988, thành lập thêm phường Rạch Sỏi trên cơ sở thị trấn Rạch Sỏi của huyện Châu Thành; giải thể phường An Lạc và 2 xã Vĩnh Quang, Vĩnh Trung để thành lập phường Nguyễn Trung Trực; chuyển 3 xã An Hòa, Vĩnh Hiệp và Vĩnh Thông thành 3 phường có tên tương ứng.
Ngày 31 tháng 5 năm 1991, sáp nhập phường An Bình vào phường An Hòa; sáp nhập phường Vĩnh Bảo vào phường Vĩnh Lạc; sáp nhập phường Vĩnh Hòa vào phường Nguyễn Trung Trực và sáp nhập phường Vĩnh Thông vào phường Vĩnh Hiệp. Thị xã Rạch Giá còn 7 phường.
Ngày 24 tháng 4 năm 1993, sáp nhập phường Nguyễn Trung Trực vào phường Vĩnh Thanh. Thị xã Rạch Giá lúc này gồm có 6 phường: An Hòa, Rạch Sỏi, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Thanh, Vĩnh Thanh Vân và xã Phi Thông.
Ngày 18 tháng 3 năm 1997, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 23-CP về việc thành lập phường Vĩnh Thông thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 1.518,56 ha diện tích tự nhiên và 7.151 nhân khẩu của xã Phi Thông.
Ngày 14 tháng 11 năm 2001, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 84/2001/NĐ-CP về việc thành lập các xã, phường thuộc thị xã Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang như sau:
Ngày 11 tháng 2 năm 2003, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 10/2003/NĐ-CP về việc thành lập phường Vĩnh Bảo thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 77,38 ha diện tích tự nhiên và 17.789 nhân khẩu của phường Vĩnh Lạc.
Ngày 8 tháng 1 năm 2004, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 11/2004/NĐ-CP về việc thành lập phường An Bình thuộc thị xã Rạch Giá trên cơ sở 479,75 ha diện tích tự nhiên và 13.794 nhân khẩu của phường An Hòa.
Tháng 10 năm 2004, thị xã Rạch Giá được công nhận là đô thị loại 3. Cuối năm 2004, thị xã Rạch Giá bao gồm 11 phường: An Bình, An Hòa, Rạch Sỏi, Vĩnh Bảo, Vĩnh Hiệp, Vĩnh Lạc, Vĩnh Lợi, Vĩnh Quang, Vĩnh Thanh, Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thông và xã Phi Thông.
Ngày 26 tháng 7 năm 2005, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 97/2005/NĐ-CP về việc thành lập thành phố Rạch Giá thuộc tỉnh Kiên Giang trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên và dân số của thị xã Rạch Giá.
Thành phố Rạch Giá có 9775,42 ha diện tích tự nhiên và 205.660 nhân khẩu, bao gồm 12 đơn vị hành chính trực thuộc, các phường: Vĩnh Thanh Vân, Vĩnh Thanh, Vĩnh Lạc, Vĩnh Bảo, Vĩnh Lợi, Vĩnh Quang, An Hòa, An Bình, Rạch Sỏi, Vĩnh Thông, Vĩnh Hiệp và xã Phi Thông.
Ngày 18 tháng 2 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 268/QĐ-TTg về việc công nhận thành phố Rạch Giá là đô thị loại II trực thuộc tỉnh Kiên Giang.
Kinh tế - xã hội.
Rạch Giá là đô thị kinh tế biển, bao gồm dịch vụ, thương mại và đánh bắt thủy hải sản. Thành phố biển miền Tây Nam này ngày càng có nhiều người biết đến hơn là bởi Rạch Giá đang sở hữu khu đô thị lấn biển đầu tiên và lớn nhất Việt Nam.
Tháng 5 năm 2011, Thủ tướng chính phủ đã cho khởi công tuyến tránh TP Rạch Giá dài 20 km, hiện tại đã hoàn thành. Đây là dự án thành phần của tuyến hành lang ven biển Tây nối Việt Nam với Campuchia và Thái Lan nhằm gắn kết và đẩy mạnh phát triển các thành phố ven Vịnh Thái Lan gồm Pattaya - Sihanouk ville - Hà Tiên.
Do những lợi thế tự nhiên lẫn nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và dân thành phố Rạch Giá mà trong suốt thời gian 15 năm qua kể từ khi Rạch Giá được công nhận là thành phố vào năm 2005 luôn giữ mức tăng trưởng kinh tế từ 14 - 15%/ năm. Cụ thể như:
Tốc độ tăng trưởng bình quân (2005-2010) tăng 14,38%; thu nhập bình quân đầu người từ 870 USD (12,334 triệu đồng) năm 2005 lên 1.637 USD (30,908 triệu đồng); thu ngân sách thành phố năm 2010 đạt 304 tỷ đồng, tăng 1,78 lần so năm 2005, cơ cấu kinh tế chuyển dịch khá nhanh và đúng hướng; các ngành thương mại, dịch vụ chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP là 68,71%, công nghiệp-xây dựng 18,69%, nông nghiệp-hải sản 12,60%.
Năm 2008 - 2013, Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Rạch Giá đạt 15.07%, tổng sản phẩm GDP năm 2013 ở mức 4.700 tỷ đồng (theo giá cố định 1994), tăng gần 16% so với cùng kỳ, thu nhập bình quân đầu người 44.6 triệu đồng/năm. Cơ cấu GDP chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng các ngành dịch vụ chiếm 72,48%, công nghiệp-xây dựng chiếm 16,71%, nông-lâm-thủy sản 10,81%. Năm 2012 thành phố phối hợp với các nhà đầu tư đưa vào khai thác Siêu thị Metro, chợ Vĩnh Thanh 2, chợ Nguyễn Thoại Hầu. Đặc biệt năm qua thành phố phối hợp với các sở ngành tỉnh, nhà đầu tư tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong giải tỏa, bồi thường để triển khai các công trình trọng điểm như: Tuyến tránh Rạch Giá, các cầu trung tâm lấn biển, khu dân cư Phan Thị Ràng...với tổng vốn đầu tư hàng trăm tỷ đồng. Đến cuối măm 2013, tỷ lệ hộ nghèo của thành phố còn 1,2%.
Trong giai đoạn 2010 - 2015, Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân hàng năm đạt 15,1%, tăng 0,85% so nhiệm kỳ trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành dịch vụ từ 69,52% năm 2010 lên 78,46% năm 2015, giảm công nghiệp - xây dựng từ 17,74% năm 2010 còn 13,45%, nông nghiệp từ 12,74% năm 2010 còn 8,09%. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 25.244 tỷ đồng và tăng 3,15 lần. Theo báo cáo của cụ thể của Cục thống kê Kiên Giang ngày 20/8/2015 thì
- Ngành dịch vụ: Được xác định là ngành chủ lực và thế mạnh, đóng góp quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP của Thành phố. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội hàng năm đạt 19.739 tỷ đồng và tăng bình quân 23%/năm, tăng 2,28 lần so 5 năm trước. Hệ thống chợ, siêu thị được đầu tư xây dựng, nâng cấp và khai thác có hiệu quả, cơ bản đáp ứng nhu cầu mua, bán của nhân dân, giữ vai trò là đầu mối giao thương hàng hóa với các nơi trong và ngoài tỉnh, trong đó riêng hệ thống siêu thị có Co.op Mart Rạch Sỏi và Rạch Giá, Metro (Megamart), City Mart. Các loại hình dịch vụ phát triển mạnh về số lượng, quy mô và nâng cao chất lượng phục vụ, bình quân hàng năm thu hút 1,4 triệu lượt khách du lịch.
- Công nghiệp - xây dựng: Giá trị sản xuất bình quân hàng năm đạt 3.700 tỷ đồng, tăng bình quân 8,5%/năm, tăng 1,18 lần so năm 2010. Các ngành đạt mức tăng trưởng khá như: Công nghiệp chế biến nông-thủy sản; cơ khí; đóng, sửa tàu thuyền; sản xuất nước mắm; công nghiệp chế biến hàng tiêu dùng; thủ công mỹ nghệ. Bằng nhiều nguồn vốn đã tập trung đầu tư xây dựng các công trình trọng điểm và hệ thống điện trung thế, hạ thế và giao thông liên tỉnh, giao thông trong nội ô Thành phố.
- Nông nghiệp: Sản lượng lúa bình quân hàng năm đạt 72 ngàn tấn, giá trị sản xuất đất nông nghiệp đạt 76,11 triệu đồng/ha/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân hàng năm 416,8 tỷ đồng, tăng 5%/năm. Giá trị sản xuất thủy - hải sản bình quân hàng năm 3.457 tỷ đồng, tăng 7,39%/năm; sản lượng khai thác hải sản bình quân đạt 198,56 ngàn tấn/năm, tăng 1,26 lần; tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản bình quân hằng năm đạt 796 tấn, tăng 1,68 lần so với năm 2010. Tập trung lãnh đạo chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới, đến năm 2015 xã Phi Thông được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, tăng 1,16 lần so với nhiệm kỳ trước. Quan tâm củng cố kiện toàn, nâng lên chất lượng hoạt động kinh tế tập thể; hợp tác nhân rộng các mô hình sản xuất hiệu quả; liên doanh, liên kết với các doanh nghiệp để bao tiêu các mặt hàng nông, hải sản.
- Tổng thu ngân sách 5 năm được 2.845 tỷ đồng, đạt 115% chỉ tiêu tỉnh giao, tăng 2,2 lần, bình quân tăng 15%/năm. Chi ngân sách 5 năm 2.427 tỷ đồng, tăng 2,7 lần so, bình quân tăng 17%/năm.
Hệ quả là thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 69,51 triệu đồng (tương đương 3.278 USD), gấp 2,3 lần so năm 2010, cao gấp gần 1,6 lần mức thu nhập bình quân đầu người toàn quốc năm 2015 (tương đương 2.058 USD).
Qua 5 năm thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và Nghị quyết Đại hội X của Đảng bộ, thành phố Rạch Giá đã đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế tiếp tục ổn định và phát triển, các chỉ tiêu chủ yếu đều đạt và vượt so Nghị quyết Đại hội.
Năm 2016, Rạch giá đón nhận nhiều nguồn đầu tư với hàng loạt những dự án lớn như khu lấn biển tây bắc, đảo nhân tạo Phú Gia, trung tâm thương mại Vincom Plaza... Ngoài ra, các công trình hạ tầng như trường học, bệnh viện liên tục được triển khai tại đây.
Hiện nay, thành phố đang triển khai đầu tư xây dựng, hoàn thiện khu đô thị Phú Cường và đảo Phú Gia nằm tại khu vực phía Nam thành phố.
Dự kiến trong năm 2019, thành phố sẽ quyết định đầu tư xây dựng thêm khu lấn biển Trần Quang Khải và đảo nhân tạo Phú Quý thuộc khu đô thị lấn biển Tây Nam Rạch Sỏi.
Các dự án lấn biển khu đô thị ở đây sẽ giúp cho Rạch Giá trở thành một đô thị hạt nhân quan trọng của tỉnh và là thành phố đầu tiên ở Việt Nam đang sở hữu dải công viên bờ biển cảnh quan dài nhất khu vực.
Trong nhiệm kỳ 2020-2025, lãnh đạo của thành phố Rạch Giá nhấn mạnh rằng sẽ cố gắng phấn đấu để sớm đưa thành phố trở thành đô thị loại I.
Giáo dục.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Rạch Giá có tổng cộng 7 trường THPT. Trong đó, có một trường THPT chuyên là trường THPT chuyên Huỳnh Mẫn Đạt (phường Vĩnh Lạc). Ngoài ra còn 6 trường THPT khác:
Cũng theo đó, hiện tại, toàn thành phố đã có 4 trường cao đẳng Kiên Giang:
Với sự xây dựng nhiều nhiều trường học như vậy đã phần nào to lớn giúp xóa nạn mù chữ trên địa bàn thành phố nói riêng và toàn tỉnh Kiên Giang nói chung.
Quy hoạch đô thị.
Từ những năm 1997, Rạch Giá đã bắt đầu mở rộng và phát triển đô thị quy mô lớn. Khu Trung tâm Thương mại Rạch Giá, khu đô thị lấn biển Rạch Giá được tiến hành vào những năm 1997 đã tạo tiền đề cho công tác quy hoạch đô thị bài bản và hiện đại. Hệ quả đến hôm nay, Rạch Giá có được những khu dân cư quy hoạch hợp lý, những tuyến phố thương mại tập trung sầm uất. Đồng thời, Rạch Giá được đánh giá là thành phố trực thuộc tỉnh có sức mạnh tổng hợp thuộc top đầu của các trung tâm hàng đầu ở miền Tây. Rạch Giá là một trong những thành phố đông dân nhất Tây Nam Bộ cũng như cả nước.
Công tác quy hoạch và phát triển mở rộng Rạch Giá đã bắt đầu hoạt động từ 1997 đến nay, với hoạt động đáng chú ý là khởi công khu đô thị Lấn biển Rạch Giá vào tháng 12 năm 1997. Rạch Giá đã tranh thủ được nhiều nguồn vốn phát triển trên các lĩnh vực, từ vốn của khối kinh tế tư nhân cho đến vốn trung ương, từ hạ tầng đô thị cho đến công nghiệp dịch vụ. Rạch Giá hiện có khá nhiều công trường, các hoạt động kinh tế và các khu vui chơi.
Rạch Giá ban đầu chỉ là một vùng đất ẩm thấp nhỏ hẹp, sình lầy. Do quá trình bồi tụ của phù sa sông cùng với những dự án lấn biển thành công từ thế kỷ trước đến nay đã mở rộng đáng kể diện tích cũng như thay đổi bộ mặt thành phố.
Theo Ban Quản lý dự án lấn biển Kiên Giang, hiện khu vực vịnh Rạch Giá thuộc TP. Rạch Giá đã hình thành 2 khu lấn biển với tổng diện tích khoảng 520 ha. Trong số này, dự án lấn biển Rạch Giá được chính thức khởi công xây dựng từ năm 1999 theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ với tổng diện tích 420 ha, khu Tây Bắc gần 100 ha (khởi công năm 2015) và khu vực bãi bồi tự nhiên 16 ha. Chỉ riêng dự án lấn biển Rạch Giá đã giải quyết đất ở cho 60.000 người dân cùng với việc xây dựng các công trình công ích xã hội, khu hành chính cấp tỉnh, quảng trường, bệnh viện, trường học,…
Công ty Cổ phần Đầu tư Phú Cường là đơn vị đầu tiên được tỉnh Kiên Giang bàn giao khoảng 160 ha đất trong dự án biển Rạch Giá để xây dựng khu đô thị mới với cơ sở hạ tầng đồng bộ như khu nhà ở, nhà phố, biệt thự hướng biển cao cấp, công viên cây xanh, khu khách sạn từ 3 - 5 sao, khu resort nghỉ dưỡng dọc bờ biển, khu vui chơi giải trí với những trò chơi hiện đại, hấp dẫn phục vụ cư dân địa phương và khách du lịch,…
Trong khi đó, khu lấn biển Tây Bắc đã được chủ đầu tư là doanh nghiệp tư nhân ở địa phương cho xây dựng các công trình công cộng, trung tâm thương mại, dịch vụ du lịch, cao ốc văn phòng, nhà ở thương mại, nhất là tái định cư cho hộ dân đang sinh sống tại các khu nhà ở tạm bợ ven bờ sông, kênh rạch nội ô TP. Rạch Giá. Cùng với đó là hệ thống giao thông, vỉa hè, bờ kè lấn biển; hệ thống thoát nước mưa, nước thải, khu xử lý nước thải, hệ thống chiếu sáng công cộng, công viên và cây xanh.
Mới đây, nhằm quản lý xây dựng khu vực bờ biển TP. Rạch Giá ổn định dài hạn, UBND tỉnh Kiên Giang đã tạm dừng cấp phép đầu tư cho các dự án lấn biển mở rộng tiếp theo của các nhà đầu tư.
Được chọn thí điểm quy hoạch đô thị xanh bởi Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc.
Ngày 7/7, Bộ Xây dựng và Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA) đã phối hợp tổ chức khởi động dự án Hỗ trợ kỹ thuật Quy hoạch đô thị xanh tại Việt Nam (GDSS). Tham dự buổi lễ có Thứ trưởng Bộ Xây dựng Phan Thị Mỹ Linh và Trưởng đại diện KOICA tại Việt Nam Chang Jae Yun.
Dự án GDSS đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án tại Quyết định số 984/QĐ-TTg ngày 01/6/2016. Chính phủ Hàn Quốc sẽ cung cấp khoản viện trợ không hoàn lại cho dự án 6,5 triệu USD (6,955 tỷ Won). Chính phủ Việt Nam sẽ cung cấp một khoản vốn đối ứng từ ngân sách đủ để trang trải các chi phí theo quy định của Việt Nam.
Hai đô thị được lựa chọn áp dụng thí điểm là khu đô thị Yên Bình (tỉnh Thái Nguyên) và TP. Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang).
Để đạt được các mục tiêu trên, các bên sẽ hợp tác thực hiện các nhiệm vụ: Xây dựng bộ chỉ số đánh giá về đô thị xanh, phát triển Hệ thống Hỗ trợ Quyết định trong Quy hoạch Đô thị Xanh (GDSS) và đề xuất khung pháp lý về quy hoạch đô thị xanh cho Bộ Xây dựng Việt Nam; Xây dựng hệ thống GDSS cho đô thị Yên Bình (TP. Rạch Giá); Đề xuất các phương án quy hoạch đô thị xanh cho Yên Bình, Rạch Giá thông qua việc áp dụng GDSS.
Dự án cũng đồng thời thực hiện các khóa đào tạo cho cán bộ Việt Nam về quy hoạch đô thị xanh; Cung cấp phần mềm, trang thiết bị và vật tư trong phạm vi dự án.
Giải thưởng "Quản lý phát triển đô thị xuất sắc".
Ngày 25/ 4/2019, Ban Tổ chức Giải thưởng Quy hoạch đô thị quốc gia lần thứ nhất năm 2019 đã thông báo kết quả Giải thưởng Quy hoạch đô thị quốc gia lần thứ nhất năm 2019: Ủy ban nhân dân thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang là đơn vị đã đạt giải thưởng thuộc thể loại “Quản lý phát triển đô thị xuất sắc”.
Theo nhận định của ban tổ chức Giải thưởng quy hoạch đô thị quốc gia lần thứ nhất thì Rạch Giá cùng ba thành phố vừa và nhỏ khác (Hội An, Sa Đéc và Buôn Ma Thuột) có đồ án quy hoạch xây dựng đô thị và quản lý phát triển đô thị tốt hơn các đô thị hàng đầu như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng.
Văn hoá - du lịch.
Rạch Giá chính là nơi có nhiều cảnh quan và tiềm năng sông nước biển đảo, lại có sức hút mạnh mẽ đối với thực khách phương xa khi đến thăm thành phố. Người Việt, Hoa và Khmer là những con người ấy đã dựng xây, thành tạo nên một nền văn hóa đặc sắc đậm đà bản sắc dân tộc mà người đời thường gọi là văn minh xứ Rạch Giá, cùng vô số đền đài, chùa chiền và hàng trăm công trình thờ tự nổi tiếng khắp vùng Nam Bộ.
Mặc dù là vùng xa xôi của tổ quốc, nhưng đất Rạch Giá không hề vắng bóng những anh hùng dân tộc, hết lòng chặt dạ vì dân vì nước, mà điển hình là Nguyễn Trung Trực đã đền nợ nước khi tuổi chưa đầy ba mươi. Cho đến hôm nay, Lễ tế Anh hùng Dân tộc Nguyễn Trung Trực vẫn được tổ chức trang trọng vào các ngày 26, 27, 28 tháng 8 âm lịch.
Đây là lễ hội lớn nhất và có sức thu hút mạnh nhất ở Rạch Giá. Có thể coi đây là 1 sản phẩm du lịch rất đáng giá và mang lại nhiều giá trị. Ngày nay, lễ hội được tổ chức ngày một trang nghiêm với các hoạt động tế lễ đẹp mắt và văn minh.
Vào dịp lễ hội tháng Tám hàng năm, dân thập phương đổ về Rạch Giá rất đông. Nhiều nhà hảo tâm, và cả người bình dân đã đóng góp tiền của, công sức, cơm gạo để làm cơm thết đãi du khách. Người ta nô nức đi "ăn cơm đình", đó là bát cơm tình nghĩa, bát cơm của người Rạch Giá thết đãi du khách phương xa đã không ngại đường sá xa xôi đến đây dự lễ.
Di tích lịch sử.
Di tích chưa được xếp hạng.
So với các đô thị khác trong vùng và cả nước, đô thị Rạch Giá có một kho tàng văn hóa độc đáo. Đó là sự dung hợp của các tộc người, các nền văn hóa lớn, chủ yếu từ Kinh, Hoa, Khơ Me. Biểu hiện của sự đa dạng và giao lưu văn hóa thể hiện ở các kiến trúc đình, chùa, các công trình thờ tự. Nếu biết khai thác và có định hướng phát triển hợp lý, những di tích văn hóa này đang là một sức hút rất lớn của thành phố Rạch Giá.
Giao thông.
Rạch Giá có nhiều lợi thế về giao thông đường thủy, đường biển, đường bộ và đường hàng không nhằm kết nối với các trung tâm lớn trong nước và khu vực Đông Nam Á...
Về đường bộ, hiện đã hình thành được tuyến đường vành đai phía đông và hệ thống đường kết hợp đê biển phía tây.
Các đại lộ lớn được thiết kế rộng rãi và mỹ quan bao gồm các đại lộ 3/2, đại lộ Lạc Hồng, đại lộ Trần Phú, đại lộ Trần Quang Khải, đại lộ Phan Thị Ràng. Cùng với đường Nguyễn Trung Trực, đường Lâm Quang Ky, đường Tôn Đức Thắng, tất cả làm nên mạng lưới giao thông xương sống của Rạch Giá.
Hiện tại tại Rạch Giá có 2 bến xe lớn: bến xe Rạch Giá và bến xe tỉnh Kiên Giang. Năm 2013, bến xe Rạch Giá đã chuyển chức năng giao thông liên tỉnh cho bến xe tỉnh Kiên Giang tại huyện Châu Thành
Mạng lưới giao thông xe buýt có khá sớm, từ Rạch Giá người ta có thể đi xe buýt theo 4 chuyến đến các huyện khác.
Hiện tại, Cảng hàng không Rạch Giá (Trước đây gọi là sân bay Rạch Sỏi) là sân bay duy nhất ở Rạch Giá với các chuyến bay của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam đi 2 chiều đến cả Thành phố Hồ Chí Minh và Phú Quốc.
Thành phố Rạch Giá có 2 bến tàu khách lớn là bến tàu du lịch Rạch Giá hay bến tàu Phú Quốc và bến tàu Rạch Mẽo. Tàu cao tốc là lựa chọn ít tốn kém hơn cho những ai muốn ra đảo Phú Quốc hay huyện Kiên Hải. Ngoài ra còn bến tàu Rạch Mẽo, chủ yếu vận chuyển hành khách và hàng hóa đi Miệt Thứ - U Minh Thượng.
Tên đường của Rạch Giá trước năm 1975 | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Nghĩa Lộ là một thị xã thuộc tỉnh Yên Bái, Việt Nam.
Địa lý.
Vị trí địa lý.
Thị xã Nghĩa Lộ nằm ở phía Tây Nam tỉnh Yên Bái, cách thành phố Yên Bái 84 km theo quốc lộ 37 và cách thủ đô Hà Nội 190 km theo quốc lộ 32. Thị xã bao trùm toàn bộ cánh đồng lớn thứ hai của miền núi Tây Bắc Bộ: cánh đồng Mường Lò; có vị trí địa lý:
Thị xã Nghĩa Lộ có diện tích 107,78 km², dân số năm 2019 là 68.206 người, mật độ dân số đạt 633 người/km².
Diện tích và dân số.
Có 12 dân tộc anh em cùng sinh sống trên mảnh đất này, nhiều nhất là người Thái và người Kinh (44%), còn lại là các dân tộc Tày, Mường, Nùng...
Điều kiện tự nhiên.
Đây là vùng khí hậu ôn hoà, địa hình tương đối bằng phẳng, tài nguyên nước có trữ lượng lớn.
Nghĩa Lộ nằm trong vùng đất cổ thuộc cấu tạo địa chất Indonixit với hệ thống kiến tạo địa máng mang đậm nét của vùng Tây Bắc Việt Nam. Nằm ở trung tâm vùng lòng chảo Mường Lò rộng lớn, thị xã có địa hình tương đối bằng phẳng, theo hướng nghiêng từ Tây sang Đông, từ Nam lên Bắc, độ cao trung bình 250m so với mặt biển, xung quanh là những dãy núi cao bao bọc.
Vị trí địa lý và địa hình đó đã tạo ra cho Nghĩa Lộ các yếu tố khí hậu mang đặc trưng của tiểu vùng khí hậu Tây Bắc, trong năm có 4 mùa rõ rệt. Nhiệt độ trung bình của cả năm là 22,5 °C, trong đó tháng trung bình cao nhất là 27,4 °C, trung bình tháng thấp nhất là 16,4 °C. Là địa phương có số giờ nắng cả năm hơn 1700 giờ, cao hơn các nơi khác trong tỉnh. Lượng bức xạ nhiệt luôn dương tạo ra các sinh khối lớn thuận tiện cho sự phát triển của cây lúa và các loại cây hoa quả có hạt như nhãn, vải...
Với lượng mưa trung bình một năm từ 1400mm-1600mm, là nơi có lượng mưa thấp so với một số địa phương trong tỉnh. Mưa lớn tập trung vào các tháng 5, 8; mưa nhỏ, lượng mưa không đáng kể tập trung vào tháng 11, 12.
Là khu vực nằm sâu trong nội địa, độ ẩm Nghĩa Lộ thường thấp hơn so với một số nơi trong tỉnh. Độ ẩm tương đối 84% rất thích hợp phát triển cây lương thực, cây công nghiệp, cây ăn quả.
Nguồn tài nguyên đất của thị xã Nghĩa Lộ mang đặc trung địa hình bồn địa, được kiến tạo bồi đắp bằng vật liệu rửa trôi. Với tầng mùn tương đối, tầng dày phong hóa lớn, độ dốc nhỏ đã tạo nên một vùng trọng điểm cây lương thực mà chủ yếu là cây lúa của tỉnh. Trong tổng diện tích đất tự nhiên, diện tích nhóm đất nông nghiệp chiếm 2.069,9ha, trong đó, đất sản xuất nông nghiệp 1.297,4ha, đất lâm nghiệp chiếm 725,05ha; nhóm đất phi nông nghiệp 587,33 ha, đất chưa sử dụng 333,51ha.
Khoáng sản của thị xã Nghĩa Lộ nhìn chung nghèo nàn. Hiện tại, chưa tìm thấy ở địa phương một điểm mỏ nào ngoài nhóm vật liệt xây dựng như đất pha sét để sản xuất gạch và cát, đá, sỏi được khai thác ở ven ngòi, ven suối.
Trên một diện tích hẹp, song chế độ thủy văn ở đây khá phong phú. Bao quanh là Ngòi Thia, Ngòi Nung, Suối Đôi. Ngòi Thia là một phụ lưu cấp I lớn nhất của sông Hồng, bắt nguồn từ vùng núi Trạm Tấu với chiều dài 165 km, đoạn chảy qua thị xã khoảng 5 km. Độ cao bình quân của lưu vực Ngòi Thia tới 907 m, độ chênh lệch lưu lượng giữa mùa lũ và mùa cạn lên tới 480 lần. Đây là yếu tố gây bất lợi cho khai thác tiềm năng nước mặt của Ngòi Thia ở những nơi có nó đi qua. Trong mùa mưa lũ thường gây thiệt hại cho sản xuất, đời sống của nhân dân ven ngòi. Tuy nhiên, cùng với tài nguyên nước ngầm, hệ thống ngòi suối là nơi cung cấp nước chủ yếu cho sản xuất và sinh hoạt.
Các yếu tố về địa hình, khí hậu, tài nguyên đất, thủy văn... đã tạo điều kiện thuận lợi cho thị xã phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên những mặt trái của nó cũng có những ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất và đời sống sinh hoạt.
Hành chính.
Thị xã Nghĩa Lộ có 14 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 4 phường: Cầu Thia, Pú Trạng, Tân An, Trung Tâm và 10 xã: Hạnh Sơn, Nghĩa An, Nghĩa Lộ, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc, Phúc Sơn, Phù Nham, Sơn A, Thanh Lương, Thạch Lương.
Lịch sử.
Trong suốt chiều dài lịch sử, thị xã Nghĩa Lộ ngày nay đã trải qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính.
Thời Hùng Vương dựng nước, mảnh đất này là một trong những địa bàn cư trú quan trọng của cư dân Lạc Việt, vùng đất nằm trong lãnh thổ của Nhà nước Văn Lang.
Thời Tam Quốc, Nhà Ngô thống trị nước ta, Nghĩa Lộ thuộc địa phận quận Tân Hưng, sang đời nhà Tấn đổi thành quận Tân Xương.
Khi nhà Tùy xâm chiếm nước ta, đời Khai Hoàng, Nghĩa Lộ thuộc huyện An Nhân, quận Giao chỉ.
Thời nhà Lý (1009), Nghĩa Lộ thuộc trại Quy Hóa. Đến thời nhà Trần thuộc châu Quy Hóa, trấn Thiên Hưng. Đầu thế kỷ XIX – thời nhà Nguyễn – Nghĩa Lộ là tên gọi của một sách (sách Nghĩa Lộ) thuộc châu Văn Chấn, phủ Quy Hóa, tỉnh Hưng Hóa.
Thời thuộc Pháp (1886) mảnh đất này thuộc hạt Nghĩa Lộ, trực thuộc Đạo quan binh thứ tư miền thượng du Bắc Kỳ.
Ngày 11 tháng 4 năm 1900, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định thành lập tỉnh Yên Bái. Nghĩa Lộ là một xã thuộc tổng Phù Nham, huyện Văn Chấn. Đến năm 1907, tổng Nghĩa Lộ được lập trên cơ sở xã Nghĩa Lộ và một số xã lân cận thuộc tổng Hạnh Sơn – Phù Nham.
Trước Cách mạng tháng Tám có phố Nghĩa Lộ trong xã Nghĩa Lộ thuộc huyện Văn Chấn. sau năm 1952, phố Nghĩa Lộ đổi thành thị trấn Nghĩa Lộ trực thuộc châu Văn Chấn
Ngày 13 tháng 5 năm 1955, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc lệnh 231/SL, chuyển các huyện Văn Chấn, Than Uyên, Phong Thổ thuộc khu tự trị Thái - Mèo (tháng 10 – 1962 khu tự trị Thái - Mèo đổi tên thành Khu tự trị Tây Bắc).
Ngày 27 tháng 10 năm 1962, tại kỳ hợp thứ 5, Quốc hội khóa II đã ra Nghị Quyết thành lập tỉnh Nghĩa Lộ, lập lại các tỉnh Sơn La, Lai Châu. Thị trấn Nghĩa Lộ lúc đó trực thuộc huyện Văn Chấn tỉnh Nghĩa Lộ. Năm 1963, thị trấn Nghĩa Lộ trực thuộc tỉnh Nghĩa Lộ.
Thị xã Nghĩa Lộ được thành lập vào ngày 8 tháng 10 năm 1971 theo Quyết định số 190-CP của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở thị trấn Nghĩa Lộ và một số bản của 3 xã Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc của huyện Văn Chấn. Thị xã Nghĩa Lộ khi ấy là tỉnh lỵ tỉnh Nghĩa Lộ. Trước đó ngày 8 tháng 3 năm 1967, thị trấn nông trường Nghĩa Lộ được thành lập ở huyện Văn Chấn.
Ngày 27 tháng 12 năm 1975, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa V ra quyết định hợp nhất ba tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ, Lào Cai (trừ huyện Bắc Yên và Phù Yên) thành một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Hoàng Liên Sơn. Thị xã Nghĩa Lộ lúc này là thị xã trực thuộc tỉnh Hoàng Liên Sơn.
Ngày 4 tháng 3 năm 1978, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định 56/CP sáp nhập thị xã Nghĩa Lộ với huyện Văn Chấn thành một đơn vị hành chính lấy tên là huyện Văn Chấn. Thị xã Nghĩa Lộ chuyển thành thị trấn Nghĩa Lộ, thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Hoàng Liên Sơn. Các tiểu khu IV, V, VI sáp nhập vào các xã Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc thuộc huyện Văn Chấn.
Ngày 12 tháng 8 năm 1991, tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VII đã quyết định chia tỉnh Hoàng Liên Sơn thành 2 tỉnh là Yên Bái và Lào Cai. Nghĩa Lộ thời kỳ này trực thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Ngày 15 tháng 5 năm 1995, Chính phủ ban hành Nghị định 31-CP về việc thành lập thị xã Nghĩa Lộ thuộc tỉnh Yên Bái với diện tích tự nhiên là 878,5 ha và 15.925 người, bao gồm 4 đơn vị hành chính trực thuộc là các phường: Pú Trạng, Tân An, Trung Tâm và Cầu Thia.
Ngày 24 tháng 12 năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 167/2003/NĐ-CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính mở rộng thị xã Nghĩa Lộ trên cơ sở chuyển 3 xã: Nghĩa An, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc thuộc huyện Văn Chấn về thị xã Nghĩa Lộ quản lý.
Sau khi điều chỉnh mở rộng địa giới hành chính, thị xã Nghĩa Lộ có 2.970 ha diện tích tự nhiên và 40.310 người với 7 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường và 3 xã.
Đến cuối năm 2019, thị xã Nghĩa Lộ có diện tích 30,31 km², dân số là 31.188 người, mật độ dân số đạt 1.029 người/km², gồm 4 phường: Trung Tâm, Tân An, Cầu Thia, Pú Trạng và 3 xã: Nghĩa An, Nghĩa Phúc, Nghĩa Lợi.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 871/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Yên Bái (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó:
Sau khi điều chỉnh, thị xã Nghĩa Lộ có diện tích 107,78 km², dân số là 68.206 người với 14 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 4 phường: Cầu Thia, Pú Trạng, Tân An, Trung Tâm và 10 xã: Hạnh Sơn, Nghĩa An, Nghĩa Lộ, Nghĩa Lợi, Nghĩa Phúc, Phúc Sơn, Phù Nham, Sơn A, Thanh Lương, Thạch Lương.
Văn hóa - du lịch.
Thị xã Nghĩa Lộ nổi tiếng với hoa ban, gạo Mường Lò, xôi ngũ sắc, thổ cẩm, Ngòi Thia và đặc biệt là điệu xòe Thái uyển chuyển.
Chợ văn hóa Mường Lò và mạng lưới thương mại dịch vụ đã làm cho Nghĩa Lộ trở thành trung tâm kinh tế xã hội của các địa phương nằm ở phía tây tỉnh Yên Bái.
Di tích.
Di tích Căng và đồn Nghĩa Lộ thuộc phường Pú Trạng, thị xã Nghĩa Lộ. Nơi đây lưu giữ tư liệu về thực dân Pháp giam giữ người tù. Trong đó có sự kiện 9 chiến sĩ vượt ngục bị giết, rồi bị chôn chung. Nơi đây là chứng tích của chiến thắng đồn Nghĩa Lộ, bắt sống toàn bộ ban tham mưu và quan lính đồn trú của Pháp vào ngày 18 tháng 10 năm 1952 góp phần giải phóng Tây Bắc. Di tích Căng và đồn Nghĩa Lộ được công nhận là Di tích lịch sử cấp Quốc gia năm 1996.
Du lịch.
Về phía bắc của lòng chảo Mương Lò thơ mộng, có một dòng suối lớn. Mùa nước lớn lòng suối rộng tới cả trăm mét. Đó là suối Thia. Tiếng địa phương, Thia nghĩa là nước mắt. Dân địa phương kể rằng, từ ngày xưa đã lâu lắm rồi, có một cô gái yêu một chàng trai miền xuôi, khi chàng trai về xuôi không trở lại, cô gái ngồi khóc một mình, khóc mãi, khóc mãi, nước mắt chảy thành dòng suối còn đến nay. Không biết có phải ngẫu nhiên không, cách cầu Thia chừng 50 m về phía nam, trên đường từ Nghĩa Lộ ra suối Thia còn có ngòi Bùa!
Bài hát hay được các cô gái Mường Lò-Nghĩa Lộ hát nhất là bài "Anh có vào Nghĩa Lộ...", nhạc Trọng Loan phổ thơ Hoàng Hạnh:
Mường Lò cũng nổi tiếng với đội Xòe ở bản Thanh Lương. Đêm hội xòe, bên cạnh những hũ rượu, dưới ánh trăng rực rỡ, các cô gái Thái trong trang phục dân tộc ngay hội, áo chẽn trắng, hàng khuy bạc trên thắt lưng thổ cẩm xanh lục, váy dài thướt tha, vừa cầm tay các chàng trai nhảy xung quanh đống lửa vừa hát mời
Còn lời mời rượu thực đằm thắm, khó chối từ
và chia tay trong cảnh bịn rịn
Mường Lò còn nổi tiếng với suối nước nóng, vào buổi tối, khách du lịch và dân địa phương đến tắm như trẩy hội. Khách du lịch thì vào nhà tắm dịch vụ, còn thanh niên nam nữ địa phương thì tắm tự do ngoài trời.
Mường Lò cũng có chè tuyết, hái từ những cây chè cổ thụ hàng trăm năm tuổi trên núi Suối Giàng với độ cao trên 1000m. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Hồ Bắc (, tiếng Vũ Hán: Hŭbě) là một tỉnh ở miền trung của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Giản xưng chính thức của tỉnh Hồ Bắc là "Ngạc" (鄂), lấy theo tên một nước chư hầu thời xưa, sau trở thành đất thuộc nước Sở và Nhà Tần, nay nằm ở phía đông của tỉnh. Tên "Hồ Bắc" ám chỉ về vị trí của tỉnh này nằm ở phía bắc của hồ Động Đình. Giản xưng không chính thức của Hồ Bắc là Sở (楚), gọi theo nước Sở hùng mạnh ở đây vào thời Xuân Thu Chiến Quốc.
Năm 2018, Hồ Bắc là tỉnh đông thứ chín về số dân, đứng thứ bảy về kinh tế Trung Quốc với 59 triệu dân, tương đương với Ý và GDP đạt 3.937 tỉ NDT (594,9 tỉ USD) tương ứng với Ba Lan.
Hồ Bắc giáp với Hà Nam về phía bắc, An Huy về phía đông, Giang Tây về phía đông nam, Hồ Nam về phía nam, Trùng Khánh về phía tây, và Thiểm Tây về phía tây bắc. Tỉnh này có đập Tam Hiệp vào hàng lớn nhất thế giới tại Nghi Xương ở phía tây.
Tỉnh Hồ Bắc từng là tâm điểm của đại dịch COVID-19 tại Trung Quốc.
Lịch sử.
Hồ Bắc có một lịch sử lâu dài, khi khai quật khảo cổ tại Vân huyện, người ta đã phát hiện ra hóa thạch của người Vân Dương (郧阳人) và người Trường Dương (长阳人) thời viễn cổ. Tại di chỉ văn hóa Khuất Gia Lĩnh (屈家嶺文化) đã phát hiện được một số lượng lớn các công cụ bằng đá và đồ gốm thời đại đồ đá mới, phản ánh nền nông nghiệp, đánh bắt cá, săn bắn, thủ công nghiệp của khu vực đã có sự phát triển đáng kể. Từ thời nhà Hạ, văn minh Trung Nguyên đã có ảnh hưởng đến vùng đồng bằng Giang Hán. Đến thời nhà Thương, Hồ Bắc đã được sáp nhập vào cương vực Trung Hoa. Thời Tây Chu, trên địa phận Hồ Bắc là lãnh thổ của nhiều tiểu quốc chư hầu, có thể kể đến là Ngạc, Đặng, Quyền, Nhược (鄀), Tùy (隨), Tằng (曾), La (罗), Vân (郧), Lại (赖), Dong (庸), Đường (唐), Quân (麇), Đam (聃). Đến thời Xuân Thu (770 TCN - 476 TCN), nước Sở nguyên ở Hà Nam ngày nay trở nên lớn mạnh, dần dần thôn tính các nước khác ở phương nam. Đến khoảng cuối thế kỷ thứ VIII-đầu thế kỷ thứ VII, nước Sở đã dời quốc đô từ Đan Dương (丹阳, nay thuộc Tích Xuyên của Hà Nam), đến Dĩnh (郢, nay thuộc Dĩnh Châu của Hồ Bắc); Dĩnh vẫn vị thế là quốc đô nước Sở cho đến năm 278 TCN. Nước Sở đã góp phần mở rộng nền văn minh Trung Hoa xuống phía nam song cũng có nhiều nét văn hóa độc đáo. Từ lưu vực Trường Giang, Sở tiếp tục mở rộng lãnh thổ lên bình nguyên Hoa Bắc. Sở Trang Vương là một trong Ngũ Bá thời Xuân Thu.
Đến thời Chiến Quốc (475 TCN - 221 TCN), Sở là một trong Chiến Quốc thất hùng. Theo thời gian, nước Sở và nước Tần trở thành hai nước có lãnh thổ rộng lớn nhất. Trong các cuộc chiến tranh giữa Sở và Tần, Sở đã để mất nhiều đất đai, đầu tiên là tầm ảnh hưởng tại bồn địa Tứ Xuyên, đến năm 278 TCN, thì để mất vùng lãnh thổ lõi là tỉnh Hồ Bắc hiện nay và phải dời quốc đô khỏi đất Dĩnh. Sở sau đó triệt thoái về phía đông song đã bị Tần tiêu diệt hoàn toàn vào năm 223 TCN.
Sau khi Tần thống nhất Trung Quốc, nếu muốn đi xuống phía nam cần qua Hồ Bắc nên vùng đất này đã trở thành yếu đạo về giao thông, nhân khẩu bắt đầu gia tăng. Các vùng đầm lầy tại Hồ Bắc đã được con người tiêu thoát nước để trở thành các vùng đất trồng trọt màu mỡ. Nhà Tần cũng thiết lập các đơn vị quận huyện tại địa phận tỉnh Hồ Bắc hiện nay. Do kị húy của Tần Trang Tương Vương (cha Tần Thủy Hoàng), triều đình Nhà Tần đã đổi tên đất Sở thành "Kinh" (荆).
Sau đó, đến thời Nhà Hán, tại Hồ Bắc và Hồ Nam ngày nay đã thiết lập nên Kinh châu, đôi khi được gọi hợp lại thành "Kinh Sở". Thời kỳ cuối của Nhà Hán, tức đầu thế kỷ thứ III, Kinh châu do châu mục Lưu Biểu trấn giữ. Sau khi Lưu Biểu mất, Lưu Tông lên làm Kinh châu mục. Khi Tào Tháo đánh vào Kinh châu, Lưu Tông bèn ra hàng Tào Tháo. Sau khi Tào Tháo thua trận Xích Bích, Lưu Bị lấy danh nghĩa tôn Lưu Kỳ làm thứ sử Kinh Châu để đóng quân ở Kinh châu phát triển lực lượng. Trong và sau trận Xích Bích, phía Đông Ngô tổn thất và tốn kém nhân lực hơn phía Lưu Bị nên không bằng lòng việc Lưu Bị chiếm mấy quận Kinh châu, nhưng vì Lưu Kỳ là con Lưu Biểu - người cai trị cũ của Kinh châu - nhân danh làm chủ Kinh châu nên phía Tôn Quyền đành tạm chấp nhận. Kinh châu thời Lưu Biểu nguyên có 7 quận, lúc đó chiến tranh qua lại giữa 3 phe Tào - Tôn - Lưu sau trận Xích Bích, mỗi bên còn giữ một phần: Lưu Bị có 4 quận Linh Lăng, Quế Dương, Trường Sa, Vũ Lăng và một nửa quận Giang Hạ của Lưu Kỳ (con cả Lưu Biểu); Tôn Quyền chiếm được Giang Lăng, nửa quận Giang Hạ và nửa Nam quận; Tào Tháo còn giữ lại quận Nam Dương và nửa Nam quận. Năm 209, khi Lưu Kỳ qua đời, cuộc tranh chấp Kinh châu giữa Tôn Quyền và Lưu Bị lại căng thẳng, Lưu Bị bị mang tiếng "mượn" Kinh châu lâu ngày không trả. Tháng 12 năm 211, từ Kinh châu, Lưu Bị đưa quân đi đánh Ích châu (nay là Trùng Khánh và Tứ Xuyên), Quan Vũ được giao ở lại giữ Kinh châu. Sau đó, trong khi Quan Vũ mải đánh Vu Cấm (một tướng của Tào Tháo) thì Tôn Quyền sai Lã Mông mang quân đánh úp Kinh châu. Trong vài thập kỉ sau đó, Kinh châu hoàn toàn do Đông Ngô nắm giữ.
Đến thời Tây Tấn, các bộ lạc du mục phía bắc Trung Quốc nổi nên và đến đầu thế kỷ thứ IV đã xâm nhập vào Trung Nguyên, khởi đầu cho gần 300 năm Trung Quốc bị phân liệt. Trong thời gian đó, phía bắc Trung Quốc là những quốc gia và triều đại của các dân tộc du mục (song bị Hán hóa ở các mức độ khác nhau), còn phía nam Trung Quốc do các triều đại của người Hán cai quản. Hồ Bắc thuộc miền Nam và nằm dưới quyền cai trị của Đông Tấn và các Nam triều. Sau loạn Hầu Cảnh, vào tháng 11 năm 552, Tiêu Dịch đã xưng đế ở Giang Lăng, tức Lương Nguyên Đế. Tuy nhiên, sau đó đại quân Tây Ngụy đã chiếm được Giang Lăng, bắt sống các tướng cùng Lương Nguyên Đế, giao cho Tiêu Sát trông giữ và sau đó hành hình Lương Nguyên Đế cùng các tôn thất nước Lương tại đây. Bách tính Giang Lăng hơn 1 vạn người bị Tây Ngụy chia cho tướng sĩ làm nô lệ và bị dẫn hết về Quan Trung. Khi thành Giang Lăng bị bao vây, Lương Nguyên Đế đã ra lệnh thiêu hủy 14 vạn quyển sách rất có giá trị, gây tổn thất cho kho tàng văn hóa Trung Quốc. Tây Ngụy đem Giang Lăng giao cho Tiêu Sát coi giữ, sau đó Tiêu Sát thành lập nước Hậu Lương, tức Lương Tuyên Đế, đóng đô ở Giang Lăng, thần phục nhà Tây Ngụy, tồn tại cho đến năm 587.
Sau khi nhà Tùy thống nhất Trung Quốc, ngoại trừ khu vực phía tây bắc và góc phía đông, tuyệt đại bộ phận Hồ Bắc hiện nay thuộc Kinh châu, gồm các quận Nam, Di Lăng, Cạnh Lăng, Miện Dương, Thanh Giang, Tương Dương, Thung Lăng, Hán Giang, An Lục, Vĩnh An, Giang Hạ. Đến năm Khai Hoàng thứ 9 (589) thời Tùy Văn Đế, Giang Hạ quận trong một thời gian đã được đổi tên thành Ngạc Châu, sau đó Ngạc Châu trở thành tên trị sở của quận này. Giản xưng "Ngạc" hiện nay của Hồ Bắc bắt nguồn từ đây.
Sau khi Nhà Đường thay thế nhà Tùy vào năm 617, toàn quốc được chia thành 10 đạo, tây bộ Hồ Bắc thuộc Sơn Nam Đông đạo còn đông bộ Hồ Bắc thuộc Hoài Nam đạo, đông nam bộ Hồ Bắc thuộc Giang Nam Tây đạo còn tây nam bộ của Hồ Bắc thuộc Kiềm Trung đạo. Trên địa phận Hồ Bắc khi đó có 15 châu. Về sau địa bàn Hồ Bắc hiện nay bị phân chia giữa Sơn Nam Đông đạo tiết độ sứ, Kinh Nam tiết độ sứ và Vũ Xương tiết độ sứ. Trong khoảng thời gian này, Hồ Bắc đã trở thành một trong những khu vực đứng đầu về sản xuất ngũ cốc tại Trung Quốc. Sản xuất và mậu dịch trà, cam quýt và các sản vật khác phát triển rất mạnh. Phát triển kinh tế cũng kéo theo sự phát triển về văn hóa, các thi nhân nổi tiếng đương thời như Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Mạnh Hạo Nhiên, Sầm Than, Lục Vũ, Bì Nhật Hưu khi đi ngao du vùng Kinh Sở đã cho ra đời nhiều thi thiên tráng lệ.
Thời Ngũ Đại Thập Quốc (907-960), bảy châu là Tương, Quân, Phòng, Tùy, Dĩnh, Phục, An tại Hồ Bắc thuộc quyền cai quản của Ngũ Đại; còn các châu Hoàng, Kì, Ngạc thì ban đầu thuộc nước Ngô, sau thuộc nước Nam Đường; hai châu Hoàng, Kì về sau lại rơi vào tay triều Hậu Chu; nước Nam Bình nằm ở khu vực Giang Lăng, chiếm cứ ba châu Kinh, Quy, Hạp; riêng châu Thi thì thuộc Thục.
Nhà Tống đã tái thống nhất Trung Quốc vào năm 982, sau đó đặt Kinh Hồ Bắc lộ (giản xưng là Hồ Bắc lộ, tên gọi Hồ Bắc ra đời từ đây) tại đại bộ phận Hồ Bắc hiện nay, lộ này có các châu Ngạc, Phục, Hạp, Quy và Giang Lăng phủ, Đức An phủ, cùng với Kinh Môn quân, Hán Dương quân. Ở bắc bộ Hồ Bắc, triều đình thiết lập Kinh tây nam lộ, gồm các châu Tùy, Kim, Phòng, Quân, Dĩnh cùng Tương Dương phủ và Quang Hoa quân. Đông bộ Hồ Bắc lấy Trường Giang làm ranh giới, phía Bắc thuộc Hoài Nam Tây lộ, gồm hai châu Kì và Hoàng; phía nam thuộc Giang tây nam lộ, gồm Hưng Quốc quân; Thi châu ở tây bộ Hồ Bắc thuộc Quỳ Châu lộ. Đến cuối thời Bắc Tống, quân Kim Nữ Chân xâm nhập phương Bắc, chiến loạn xảy ra, vì thế có rất nhiều người đã di cư xuống phương Nam. Những di dân đem theo cả nền văn hóa và kỹ thuật nông nghiệp tiên tiến từ phương Bắc xuống, Hồ Bắc vì thế dần trở nên phồn vinh, trở thành vùng sản xuất lương thực trọng điểm.
Sau khi quân Mông Cổ tiêu diệt cả hai triều Kim, Tống và lập ra Nhà Nguyên, đã thiết lập các hành tỉnh làm đơn vị hành chính cấp một. Hồ Bắc khi đó bị phân chia giữa Hà Nam Giang Bắc đẳng xứ hành trung thư tỉnh (河南江北等处行中书省) và Hồ Quảng đẳng xứ hành trung thư tỉnh (湖广等处行中书省). Hồ Quảng hành tỉnh bao gồm đông nam bộ Hồ Bắc và các tỉnh Hồ Nam, Quảng Tây, Hải Nam và góc tây nam của Quảng Đông hiện nay. Tại phần đông nam bộ Hồ Bắc, triều đình Nhà Nguyên đã thiết lập Vũ Xương lộ, Hưng Quốc lộ (Dương Tân) và Hán Dương phủ. Vũ Xương là thủ phủ của Hồ Quảng hành tỉnh, cũng là trung tâm về nông sản của lưu vực Lưỡng Hồ. Đại bộ phận Hồ Bắc thuộc Hà Nam Giang Bắc hành tỉnh, trên địa bàn có Tương Dương lộ, Hoàng Châu lộ, Kì Châu lộ, Hạp Châu lộ (Nghi Xương), Trung Hưng lộ (Kinh Châu) và các phủ Đức An, Miện Dương và An Lục (Chung Tường).
Thời Minh sơ, Hồ Bắc thuộc Hồ Quảng hành tỉnh. Về sau, triều đình chia toàn quốc thành 13 bố chính sứ ti, toàn bộ Hồ Bắc hiện nay về cơ bản thuộc Hồ Quảng thừa tuyên bố chánh sử ti (湖广承宣布政使司), trị sở tại Giang Hạ (nay là Vũ Xương thuộc Vũ Hán). Trên địa bàn Vũ Hán khi đó có các phủ Vũ Xương, Hán Dương, Hoàng Châu, Thừa Thiên, Đức An, Kinh Châu, Tương Dương và Vân Dương. Thời Minh mạt, sau khi Hán Thủy đổi dòng, tại Hồ Bắc đã hình thành nên các thành trấn thương nghiệp mới nổi Hán Khẩu tại vùng bờ lõm phía bắc của dòng chảy mới, thu hút một số lớn bang thương nhân từ Huy Châu, Sơn Tây, Giang Tây đến kinh doanh muối, trà, gỗ, thuốc chữa bệnh và các mặt hàng khác. Khu đô thị ven bờ bắc Hán Thủy trải dài 20 lý, là một trong tứ đại danh trấn đương thời.
Thời Thanh.
Năm Khang Hi thứ 3 (1664) thời Nhà Thanh, Hồ Quảng bố chính sứ ti được phân thành tả và hữu bố chính sứ ti, đến năm Khang Hi thứ 6 (1667), Hồ Quảng tả và hữu bố chính sử ti đổi tên thành Hồ Bắc bố chính sứ ti và Hồ Nam bố chính sứ ti. Hồ Bắc và Hồ Nam ổn định về ranh giới và tên gọi từ đó. Hồ Bắc đặt trị sở tại Vũ Xương. Thời Thanh, ban đầu tỉnh Hồ Bắc được phân thành 8 phủ là Vũ Xương, Hán Dương, Hoàng Châu, An Lục, Đức An, Kinh Châu, Tương Dương, Vân Dương, đến cuối thời Thành thì tỉnh Hồ Bắc tổng cộng có 10 phủ là Vũ Xương, Hán Dương, Kinh Châu, Tương Dương, Hoàng Châu, An Lục, Đức An, Vân Xương, Nghi Xương, Thi Nam và Kinh Môn trực lệ châu.
Năm 1860, Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai kết thúc, tư bản ngoại quốc đổ vào các khu vực ven Trường Giang, Hán Khẩu trở thành một thương cảng hiệp ước, theo đó thiếp lập tô giới Anh tại Hán Khẩu ở hạ du thị trấn cũ. Từ năm 1895 đến 1898, lại tiếp tục thiết lập tô giới Đức tại Hán Khẩu, tô giới Nga tại Hán Khẩu, tô giới Pháp tại Hán Khẩu, tô giới Nhật tại Hán Khẩu. Ngoài ra, vào các năm 1877 và 1896, Nghi Xương và Sa Thị cũng trở thành các thương cảng hiệp ước.
Trong cùng thời kỳ đó, Dương Vụ vận động (洋务运动, nghĩa là phong trào Tây hóa) đã nổi lên, tổng đốc Hồ Quảng Trương Chi Động khi nhậm chức đến Hồ Bắc đã cho thiết lập một số lượng lớn các xí nghiệp theo kiểu Tây, như xưởng luyện thép Hán Dương, xưởng công binh Hán Dương. Ông cũng đã thành lập Xưởng dệt tứ cục Hồ Bắc bao gồm dệt vải, kéo sợi, ươm tơ, chế biến gai. Ông còn lập kế hoạch xây dựng đường sắt Lô Hán (sau đổi tên là Kinh Hán, xây dựng từ năm 1896, hoàn thành năm 1905) nối liền hai miền nam bắc. Hồ Bắc trở thành một trong những tỉnh công nghiệp chủ yếu của Trung Quốc.
Thời Trung Hoa Dân Quốc.
Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc, Hồ Bắc không có nhiều thay đổi về mặt hành chính tổng thể, các phủ, châu và thính đều được chuyển thành huyện. Đến năm 1949, Hồ Bắc có 1 thị (Vũ Xương), 8 khu đốc sát hành chính, 69 huyện. Hán Khẩu khi thì là một thành phố thuộc tỉnh, khi thì là một thành phố đặc biệt trực thuộc chính phủ trung ương. Từ năm 1927 trở đi, Cộng sản đảng bắt đầu tiến hành cách mạng vũ trang, thiết lập các chính quyền Xô viết. Đầu năm 1927, một thời gian ngắn trước khi Tưởng Giới Thạch chiếm giữ được Thượng Hải và chuyển thủ đô về Nam Kinh, phe cánh tả trong Quốc Dân đảng Uông Tinh Vệ đã tuyên bố thủ đô của chính quyền Dân quốc là Vũ Hán. Trong khi cố gắng chỉ đạo chính phủ từ Vũ Hán, Uông đã cộng tác chặt chẽ với những nhân vật cộng sản hàng đầu, bao gồm Mao Trạch Đông, Trần Độc Tú, và Mikhail Markovich Borodin. Tưởng Giới Thạch chiếm được Thượng Hải vào tháng 4 năm 1927, và bắt đầu một cuộc đàn áp đẫm máu đối với cộng sản gọi là thanh đảng. Trong vòng vài tuần lễ Tưởng đàn áp cộng sản tại Thượng Hải, chính phủ cánh tả của Uông đã bị một quân phiệt liên kết với Quốc Dân đảng tấn công và bị tan rã, điều này đã khiến Tưởng Giới Thạch trở thành lãnh đạo hợp pháp duy nhất của Trung Hoa Dân quốc. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, nửa phía đông của Hồ Bắc bị quân Nhật xâm chiếm trong khi nửa phía tây vẫn nằm trong tay các lực lượng Trung Quốc.
Thời Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Trong Cách mạng Văn hóa, Vũ Hán là một trong những trọng điểm hoạt động của Hồng vệ binh. Do lo ngại có thể xảy ra chiến tranh hạt nhân trong thời điểm các xung đột biên giới Trung-Xô vào cuối thập niên 1960, chính quyền Trung Quốc khi đó đã lựa chọn Hàm Ninh làm nơi để xây dựng công trình 131, tên gọi "131" này là do nó được quyết định xây dựng vào ngày 31 tháng 1 năm 1969. Hệ thống đường hầm được thường thuật là dài 456 mét, và có chi phí xây dựng là 130 triệu NDT với mục đích sẽ trở thành trung tâm đầu não của đất nước khi chiến tranh hạt nhân xảy ra. Hồ Bắc nói chung và Vũ Hán nói riêng đã phải hứng chịu ảnh hưởng nặng nề của các trận lụt Trường Giang vào năm 1954. Sau đó, các dự án xây đập quy mô lớn đã được triển khai, đập Cát Châu Bá (葛洲坝) trên Trường Giang đã bắt đầu được xây dựng từ năm 1970 và hoàn thành vào năm 1988; việc xây dựng đập Tam Hiệp ở xa hơn về thượng nguồn đã bắt đầu vào năm 1993 và ngoại trừ thang nâng tàu, đập này đã hoàn thành với đầy đủ chức năng vào tháng 4 năm 2012. Công trình đập Tam Hiệp đã khiến 1,3 triệu cư dân phải di dời, nó trị giá 60 tỷ USD và là công trình thủy điện lớn nhất thế giới.
Địa lý.
Hồ Bắc thuộc khu vực Hoa Trung, do nằm ở phía nam giới tuyến "Tần Lĩnh-Hoài Hà" nên Hồ Bắc thuộc miền Nam Trung Quốc. Đồng bằng Giang Hán chiếm phần lớn trung bộ và đông bộ của Hồ Bắc, cùng với đồng bằng hồ Động Đình của Hồ Nam tạo thành một dải đồng bằng thống nhất. Trên vùng tây bộ và các vùng giáp ranh của Hồ Bắc thì có địa hình nhiều đồi núi hơn. phía tây Hồ Bắc, gần như theo thứ tự từ bắc xuống nam, là các dãy Vũ Đang Sơn, Kinh Sơn (荆山), Đại Ba Sơn (大巴山), Vu Hiệp (巫峡). Dãy Đại Biệt Sơn nằm ở phía đông bắc đồng bằng Giang Hán, tại vùng giáp giới giữa Hồ Bắc với hai tỉnh Hà Nam và An Huy. Dãy Đồng Bách Sơn (桐柏山) nằm ở phía bắc, trên ranh giới giữa Hồ Bắc và Hà Nam. Ở phía đông nam, dãy Mạc Phụ Sơn (幕阜山) tạo thành ranh giới giữa Hồ Bắc và Giang Tây. Đỉnh cao nhất tại Hồ Bắc là đỉnh Thần Nông (神农顶) với cao độ 3.105 m thuộc Đại Biệt Sơn và nằm trên địa phận của lâm khu Thần Nông Giá. Núi non chiếm 55,5% diện tích toàn tỉnh, vùng gò đồi và đồng ruộng chân đồi chiếm 24,5%, vùng đồng bằng và hồ chiếm 20%.
Hai sông lớn tại Hồ Bắc là Trường Giang và phụ lưu tả ngạn của nó là Hán Thủy, đồng bằng Hán Thủy lấy theo tên của hai con sông này. Trường Giang tiến vào Hồ Bắc từ phía tây qua Tam Hiệp, tổng chiều dài đoạn chảy qua Hồ Bắc là 1061 km; nửa phía đông của Tam Hiệp, tức Tây Lăng Hiệp (西陵峡) và một phần Vu Hiệp, nằm ở tây bộ của Hồ Bắc, trong khi nửa phía tây của Tam Hiệp thuộc về Trùng Khánh. Hán Thủy tiến vào Hồ Bắc từ tây bắc, đoạn chảy qua Hồ Bắc dài 878 km. Sau khi chảy qua một đoạn lớn trên địa bàn Hồ Bắc, hai sông này hợp dòng tại tỉnh lị Vũ Hán. Trường Giang chảy dọc theo chiều đông-tây của tỉnh, Hồ Bắc nằm ở cả hai bên sông ngoài một đoạn khi sông tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Hồ Nam và Hồ Bắc. Trong số các chi lưu nổi tiếng của Trường Giang, có suối Thần Nông (神农溪), song nó đã bị ảnh hưởng từ công trình đập Tam Hiệp; sông Thanh (清江), một tuyến thủy đạo chính ở tây nam Hồ Bắc; sông Hoàng Bách (黄柏河) gần Nghĩa Xương; và Phú Thủy (富水) ở phía đông nam tỉnh.
Có hàng nghìn hồ nước nằm rải rác tại vùng đồng bằng Giang Hán của Hồ Bắc, vì thế tỉnh còn có biệt hiệu là "vùng hồ Hoa Trung" (华中屋脊). Các hồ lớn nhất trong số đó là hồ Lương Tử (梁子湖; 304,3 km²) và Hồng Hồ (洪湖, 348 km²). Nhiều đập thủy điện đã tạo nên các hồ chứa lớn, lớn nhất trong số đó là hồ chứa Đan Giang Khẩu (丹江口水库) trên Hán Thủy, ở ranh giới giữa Hồ Bắc và Hà Nam. Đông Hồ ở Vũ Hán với diện tích 33,7 km² là hồ đô thị lớn nhất Trung Quốc, diện tích gấp 6 lần Tây Hồ của Hàng Châu.
Hồ Bắc có khí hậu cận nhiệt đới ẩm ("Cfa" hay "Cwa" theo phân loại khí hậu Köppen), với bốn mùa rõ rệt. Mùa đông tại Hồ Bắc mát hoặc lạnh, với nhiệt trung bình là vào tháng giêng, trong khi mùa hè nóng và ẩm, với nhiệt độ trung bình là vào tháng 7; tỉnh lị Vũ Hán đôi khi có nhiệt độ lên đến hoặc cao hơn. Các khu vực núi non ở phía tây Hồ Bắc, đặc biệt là Thần Nông Giá, có mùa hè mát mẻ hơn, vì thế đã thu hút nhiều du khách từ Vũ Hán và các thành phố vùng thấp khác.
Nhân khẩu.
Năm 2011, số nhân khẩu thường trú của tỉnh Hồ Bắc là 57,6 triệu người, trong đó nam có 29,56 triệu người (51,34%), nữ là 28,02 triệu người (48,66%). Số người trong độ tuổi 0-14 tuổi là 7,99 triệu người (13,88%), từ 15-64 tuổi là 44,33 triệu người (77%), số người trên 65 tuổi là 5,25 triệu người (9,12%). Năm 2010, tuổi thọ bình quân của cư dân Hồ Nam là 75,9 năm. Riêng công trình đập Tam Hiệp đã khiến 1,3 triệu cư dân phải tái định cư. Dân cư Hồ Bắc tập trung cư trú tại đồng bằng Giang Hán.
Tỉnh Hồ Bắc có thành phần dân tộc đa dạng. Theo tổng điều tra nhân khẩu lần thứ 6 vào năm 2010, số người thuộc các dân tộc thiểu số tại Hồ Bắc là 2.468.500 người người, chiếm 4,31% tổng dân số toàn tỉnh. Trong số các dân tộc thiểu số, những dân tộc có dân số trên 10.000 người tại Hồ Bắc là người Thổ Gia (2,1 triệu), người Miêu (177.000), người Hồi (67.000), người Động (52.000), người Mãn (13.000), người Choang (12.000) và người Mông Cổ (~10.000). Tỉnh Hồ Bắc có châu tự trị Ân Thị của người Thổ Gia và Miêu, 2 huyện tự trị là Trường Dương và Ngũ Phong của người Thổ Gia, ngoài ra còn có 12 hương trấn dân tộc của các dân tộc Hồi, Thổ Gia, Động, Bạch và 20 thôn/nhai dân tộc. Tổng diện tích các khu vực tự trị dân tộc của Hồ Bắc là 30.000 km², chiếm khoảng 1/6 diện tích của tỉnh; tổng dân số của các địa phương tự trị dân tộc là 3,87 triệu, chiếm 6,76% tổng dân số toàn tỉnh.
Cư dân Hồ Bắc chủ yếu nói Quan thoại tây nam, Quan thoại Giang Hoài và tiếng Cám.
Các đơn vị hành chính.
Hồ Bắc được chia ra 13 đơn vị cấp địa khu (trong đó có 12 địa cấp thị và 1 châu tự trị), cũng như 3 phó địa cấp thị là các đô thị cấp huyện trực thuộc và một lâm khu cấp huyện trực thuộc.
Các đơn vị trên được chia ra thành 102 đơn vị cấp huyện (38 quận nội thành, 24 thành phố cấp huyện, 37 huyện, 2 huyện tự trị, một lâm khu). Các đơn vị này lại được chia ra thành 1234 đơn vị cấp hương (737 trấn, 215 hương, 9 hương dân tộc và 273 nhai đạo).
Kinh tế.
Nắm 2011, tổng GDP của Hồ Bắc là 1,96 nghìn tỉ NDT, tăng trưởng 13,8% so với năm trước đó và là năm thứ 8 liên tục tăng trưởng hai con số. Trong đó, khu vực một của nền kinh tế đạt giá trị 256,9 tỉ NDT, tăng trưởng 4,4%; khu vực hai của nền kinh tế đạt giá trị 981,9 tỉ NDT, tăng trưởng 17,9%; khu vực ba của nền kinh tế đạt giá trị 853,8 tỉ NDT, tăng trưởng 19,1%. Tỉ lệ giữa ba khu vực của nền kinh tế biến đổi từ 13,6:49,1:37,3 vào năm 2009 thành 13,1:50,1:36,8 vào năm 2011.
Hồ Bắc là khu vực quá độ giữa nền nông nghiệp sản xuất lúa mì ở phía bắc và nền nông nghiệp sản xuất lúa gạo ở phía nam, vì thế có thể trồng một vụ lúa gạo, một vụ lúa mì. Đặc biệt, ở nam bộ Hồ Bắc, còn trồng thêm được vụ màu thứ ba, do vậy sản lượng nông nghiệp ở mức cao. Do Hồ Bắc có nhiều hồ, nuôi trồng thủy sản là một thế mạnh của tỉnh, và là một trong ba tỉnh nuôi trồng thủy sản nước ngọt lớn nhất Trung Quốc. Ngoài ra, nguồn lợi thủy sản tại Trường Giang cũng phong phú. Hồ Bắc thường được gọi là "ngư mễ chi hương" (鱼米之乡), nghĩa đen là vùng đất của cá và gạo, nghĩa bóng có nghĩa là vùng đất sung túc. Các loại nông sản có thế mạnh khác của Hồ Bắc là bông và trà. Năm 2011, giá trị nông lâm mục ngư nghiệp của Hồ Bắc đạt 256,9 tỉ NDT, tăng trưởng 4,4% so với năm trước. Tổng sản lượng lương thực đạt 23,89 triệu tấn, liên tục 8 năm liền được mùa, so với năm trước thì sản lượng tăng 3,14%.
Các ngành công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ tại Hồ Bắc cũng đạt được những bước phát triển nhất định, giá trị sản lượng công nghiệp chiếm hơn một nửa tổng GDP. Trong đó, các ngành công nghiệp nặng tập trung nhiều tại Vũ Hán, Nghi Xương, Hoàng Thạch, Tương Dương và Thập Yển. Các công ty, tập đoàn lớn của Trung Quốc đặt trụ sở tại Hồ Bắc có thể kể đến như Công ty Tập đoàn Gang thép Vũ Hán (Wuhan Iron and Steel), Công ty Ô tô Đông Phong (Dongfeng Motor). Năm 2011, giá trị quy mô ngành công nghiệp toàn tỉnh Hồ Bắc là 856 tỉ NDT, so với năm trước tăng tới 226 tỉ NDT, đạt tốc độ tăng trưởng 20,5%. Các mặt hàng công nghiệp chính của Hồ Bắc là ô tô, sắt thép, hóa dầu, chế biến thực phẩm, thông tin điện tử, dệt may, sản xuất thiết bị và vật liệu xây dựng. Trong năm 2011, đã có 339 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài mới được phê duyệt; với số vốn ký kết đạt 4,97 tỷ USD, số vốn giải ngân trên thực tế là 4,66 tỷ USD.
Hồ Bắc là tỉnh có tài nguyên khoáng sản phong phú, trên toàn tỉnh đã phát hiện được 136 chủng loại khoáng sản, chiếm khoảng 81% chủng loại khoáng sản đã được tìm thấy tại Trung Quốc. Trong đó đã xác minh được trữ lượng của 87 chủng loại khoáng sản, chiếm 56% của cả nước. Theo biểu trữ lượng khoáng sản tỉnh Hồ Bắc, tỉnh có 956 khu khai khoáng, 1287 điểm khoáng sản. Một số loại khoáng sản trên địa bàn Hồ Bắc là borac, wollastonite, đá thạch lựu, marl, sắt, phosphor, đồng, thạch cao, rutile, thạch diêm, hỗn hợp vàng, mangan, vanadi và hongshiite (có chứa đồng và bạch kim), đá vôi. Trữ lượng than đá có thể khai thác của Hồ Bắc là 548 triệu tấn, khá khiêm tốn so với các tỉnh khác của Trung Quốc. Ngoài ra, Hồ Bắc cũng có các mỏ ngọc lam nguyên chất và faustite lục (một loại khoáng sản có chứa nhôm, đồng, hydro, oxy, phosphor, và kẽm).
Khi hoàn thành, đập Tam Hiệp là công trình thủy điện hàng đầu thế giới. Tổng công suất phát điện của công trình này là 22.500 MW. Cùng với chức năng sản xuất điện, công trình còn giúp ngăn lũ lụt, tăng cường năng lực vận chuyển ở vùng hạ du của Trường Giang. Một số đập thủy điện khác tại Hồ Bắc là đập Cát Châu Bá (葛洲坝水利枢纽), đập Đan Giang Khẩu (丹江口大坝), đập Cách Hà Nham (隔河岩大坝), đập Phú Thủy (富水大坝).
Năm 2018, Hồ Bắc là tỉnh đông thứ chín về số dân, đứng thứ bảy về kinh tế Trung Quốc với 59 triệu dân, tương đương với Ý và GDP đạt 3.937 tỉ NDT (594,9 tỉ USD) tương ứng với Đài Loan. Năm 2010, GDP Hồ Bắc đứng hạng 11/31, đến năm 2018 xếp hạng bảy, tốc độ tăng trưởng năm 2018 đạt tớn 7,8%. GDP bình quân đạt 9.917 USD/người. Đó cũng là thành quả bởi nỗ lực chỉ đạo kinh tế của Lý Hồng Trung, Vương Quốc Sinh hay Vương Hiểu Đông giai đoạn 2007 đến nay, và cũng là lý do bầu nhiệm, tin tưởng và thăng cấp.
Đối với Hồ Bắc, tỉnh có vị trí kinh tế đáng chú ý. Tỉnh Hồ Bắc ở miền trung Trung Quốc, khu Hoa Trung, tại ngã ba Vành đai kinh tế sông Dương Tử từ đông sang tây vành đai kinh tế đường sắt Bắc Kinh – Quảng Châu từ bắc xuống nam. GDP của Hồ Bắc kể từ năm 2015 đứng thứ nhì trong số sáu tỉnh ở miền Trung. Đây là nơi có trung tâm giao thông toàn diện lớn nhất ở miền Trung, sở hữu những lợi thế mạnh mẽ trong khu vực, bao gồm có các tổ chức giáo dục và khoa học mạnh, giàu tài nguyên thiên nhiên, có cơ sở hạ tầng giao thông và truyền thông tốt, các cơ sở công nghiệp mạnh. Trung ương vì thế đã phê duyệt kế hoạch tạo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế miền Trung, và lãnh tụ Tập Cận Bình đã thúc giục Hồ Bắc trở thành trụ cột trong sự trỗi dậy của miền Trung trong chuyến thăm tỉnh năm 2013. Hồ Bắc đã và đang tập trung vào phát triển các ngành sản xuất tiên tiến và mới nổi, thúc đẩy mạng lưới và số hóa thông minh ngành sản xuất, khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân với sự trợ giúp của các công nghệ tiên tiến và Internet. Từ năm 2016, Hồ Bắc được phép thành lập Khu vực thương mại tự do với mục tiêu đảm bảo di chuyển công nghiệp có trật tự sang các khu vực trung tâm, thành lập một nhóm các cơ sở công nghiệp cho các ngành công nghiệp công nghệ cao và mới nổi, và là tiêu điểm cho việc thực hiện "Chiến lược phát triển khu vực miền Trung" và phát triển vành đai kinh tế sông Dương Tử." Và đối với Hồ Bắc nói riêng, Hoa Trung nói chung, Thành phố phó tỉnh Vũ Hán là trái tim kinh tế."
Giao thông.
Đường sắt.
Đến cuối năm 2011, tổng chiều dài đường sắt của Hồ Bắc là 3.340 km. Cũng trong năm này, mạng lưới đường sắt Hồ Bắc đã vận chuyển được 85 triệu lượt người, và vận chuyển được 100,59 triệu tấn hàng hóa. Các tuyến đường sắt trên địa bàn Hồ Bắc là:
Đường bộ.
Trong năm 2011, mạng lưới công lộ của Hồ Bắc đã vận chuyển được 1,05 tỉ triệu lượt hành khách và vận chuyển được 827,4 triệu tấn hàng hóa. Tính đến năm này, toàn tỉnh Hồ Bắc có 4007 km đường bộ cao tốc.
Đường thủy.
Trong năm 2011, hệ thống giao thông đường thủy của tỉnh Hồ Bắc đã vận chuyển được 3,48 triệu lượt hành khách, vận chuyển được 173,58 triệu tấn hàng hóa. Trong đó, hai tuyến thủy đạo chính là Trường Giang và Hán Thủy. Tại Hồ Bắc có trên 20 cầu vượt Trường Giang.
Đường không.
Năm 2011, chi nhánh Hồ Bắc của ba công ty lớn là Air China, China Eastern Airlines và China Southern Airlines đã vận chuyển được 9,1 triệu lượt hành khách, khối lượng hàng hóa vận chuyển là 94.300 tấn. Hồ Bắc có bốn sân bay dân dụng lớn và trung bình là: sân bay quốc tế Thiên Hà Vũ Hán (sân bay trung tâm của vùng Hoa Trung), sân bay Tam Hiệp Nghi Xương, sân bay Lưu Tập Tương Phàn, sân bay Hứa Gia Bình Ân Thi
Giáo dục.
Thủ phủ Vũ Hán của tỉnh Hồ Bắc là một trong 5 trung tâm giáo dục lớn nhất Trung Quốc. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Bão Chanchu, được biết đến ở Philippines với tên gọi Bão Caloy, hay Bão số 1 tại Việt Nam, là cơn bão được Đài Quan sát Hồng Kông (HKO) đánh giá là mạnh nhất từng ghi nhận trên biển Đông trong tháng 5. Chanchu là cơn bão đầu tiên được đặt tên của mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2006 và nó hình thành vào ngày 8 tháng 5 ngoài khơi trên khu vực gần Liên bang Micronesia. Ban đầu cơn bão di chuyển theo hướng Tây, dần mạnh lên thành bão nhiệt đới rồi tiếp đến là bão nhiệt đới dữ dội trước khi vượt Philippines. Vào ngày 13 tháng 5, Chanchu tiến vào biển Đông và được Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) nhận định là một cơn bão cuồng phong. Những điều kiện môi trường thuận lợi đã cho phép cơn bão tăng cường nhanh chóng, đạt đến sức gió duy trì 10 phút tối đa 175 km/giờ (110 dặm/giờ) trong ngày 15. Vào khoảng thời điểm đó, Chanchu đột ngột chuyển hướng lên phía Bắc hướng đến miền Đông Nam Trung Quốc. Tiếp theo cơn bão dần suy yếu và đổ bộ lên địa điểm gần Sán Đầu, Quảng Đông vào ngày 17 với cấp độ bão nhiệt đới dữ dội. Chính phủ Trung Quốc đã xem Chanchu như là cơn bão sớm nhất trong năm đổ bộ vào Quảng Đông từng được ghi nhận. Ngày hôm sau, Chanchu tiến ra biển Hoa Đông, rồi trở thành một xoáy thuận ngoại nhiệt đới trong ngày 19 trước khi tan trên khu vực phía Tây Kyushu (Cửu Châu).
Trong giai đoạn đầu, Chanchu di chuyển qua Philippines khiến điện bị mất và gây ra các trận lở đất tại một số hòn đảo. Bất chấp cảnh báo chung về tàu thuyền di chuyển ngoài biển, một chiếc phà đã khởi hành từ Masbate và bị lật làm 28 người thiệt mạng. Tính trên toàn Philippines đã có 41 người chết và tổn thất đạt 117,57 triệu PHP (₱) (tương ứng 2,15 triệu USD). Khi ở trên biển Đông, Chanchu đã khiến rất nhiều ngư dân Việt Nam bất ngờ và mất cảnh giác, hậu quả là 17 tàu thuyền đã bị đắm và một vài chiếc khác bị hư hại. Các tàu của Trung Quốc đã hỗ trợ thực hiện một cuộc tìm kiếm cứu nạn; kết quả cứu được 330 ngư dân từ 22 tàu; tuy nhiên 21 thi thể cũng đã được tìm thấy cùng với đó là 220 người mất tích và được xem như đã chết. Tại miền Nam Trung Quốc, lũ lụt và gió mạnh từ Chanchu đã làm ngập lụt khoảng 14.000 ngôi nhà và gây tổn thất đến hơn 190.000 hecta hoa màu. Sán Đầu là nơi hứng chịu thiệt hại nặng nhất khi cơn bão di chuyển vào đất liền, với nước lũ làm ngập các tuyến đường và tràn vào hàng trăm nhà dân. Tổng thiệt hại tại Trung Quốc là 7 tỉ yuan (RMB, 872 triệu USD), kèm theo 23 trường hợp thiệt mạng. Tại Đài Loan, những trận mưa đã khiến hai người chết và tổn thất mùa màng ước đạt 158,88 triệu NT (Tân Đài tệ, 5 triệu USD). Tiếp đó những cơn sóng lớn đã làm một người thiệt mạng ở Okinawa và làm 5 người khác mất tích, trong khi vùng mưa của cơn bão tiếp tục mở rộng đến Hàn Quốc.
Lịch sử khí tượng.
Một vùng mây đối lưu, hay những đám mây dông, đã hiện hữu trong ngày 5 tháng 5 trên khu vực cách Yap thuộc Liên bang Micronesia (FSM) về phía Đông Nam. Ban đầu hệ thống duy trì bất tổ chức khi di chuyển theo hướng Tây, dù vậy đến ngày mùng 7 đã có thể quan sát thấy một hoàn lưu rõ ràng hơn, dấu hiệu cho thấy cấu trúc đang dần tổ chức. Tại thời điểm 06:00 UTC ngày 8 tháng 5, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) công bố rằng một áp thấp nhiệt đới đã hình thành tại địa điểm cách Palau khoảng 175 km (110 dặm) về phía Đông Bắc. Năm tiếng sau, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) ban hành một Cảnh báo về sự hình thành xoáy thuận nhiệt đới, và đến thời điểm 18:00 UTC cơ quan này đã phân loại hệ thống là áp thấp nhiệt đới 02W. Tiếp theo áp thấp nhiệt đới di chuyển theo hướng Tây - Tây Nam do chịu ảnh hưởng từ áp cao cận nhiệt đới ở phía Bắc. Vào sáng sớm ngày 9 tháng 5, JTWC nâng cấp hệ thống lên thành bão nhiệt đới, và tại thời điểm 12:00 UTC cùng ngày JMA cũng nâng cấp áp thấp nhiệt đới lên thành bão nhiệt đới Chanchu. Cũng trong ngày hôm đó, Cục quản lý Thiên văn, Địa vật lý và Khí quyển Philippines (PAGASA) đã bắt đầu đưa ra những cảnh báo về cơn bão nhiệt đới có tên địa phương là Caloy.
Ở giai đoạn phát triển ban đầu, Chanchu nằm trong một môi trường nhìn chung là thuận lợi. Cơn bão tiếp đó đổi hướng Tây - Tây Bắc do một vùng áp cao hình thành ở phía Nam. Vào cuối ngày 10 tháng 5, JTWC nâng cấp Chanchu lên thành bão cuồng phong với sức gió duy trì một phút ước đạt 140 km/giờ (85 dặm/giờ). Trái ngược với JTWC, JMA ước tinh cường độ của cơn bão chỉ tăng lên đến ngưỡng bão nhiệt đới dữ dội với sức gió duy trì 10 phút 95 km/giờ (60 dặm/giờ). Chanchu đã chuyển dần sang hướng Tây trước khi đổ bộ lên Samar thuộc miền Đông Philippines vào ngày 11. Bất chấp việc di chuyển trên quần đảo, Chanchu đã mạnh thêm một chút trên biển Sibuyan và cơn bão tấn công Mindoro trong ngày 12 với sức gió duy trì một phút 160 km/giờ (100 dặm/giờ) theo JTWC. Vào ngày 13 tháng 5, Chanchu tiến vào biển Đông, và sau đó trong cùng ngày JMA đã nâng cấp nó lên thành bão cuồng phong.
Khi tiến vào biển Đông, Chanchu gặp được một môi trường thuận lợi với nhiệt độ nước biển trên bề mặt ấm và độ đứt gió thấp. Sau khi được cung cấp kênh dòng thổi ra thuận lợi ở phía Nam và Đông nhờ một vùng thấp lõi lạnh ở phía Đông, Chanchu tăng cường mãnh liệt trong ngày 14. Tại thời điểm cơn bão hoạt động, JTWC đã nâng cấp Chanchu lên thành một siêu bão với vận tốc gió duy trì một phút tối đa 250 km/giờ (155 dặm/giờ), dù vậy sau này giá trị sức gió đã được hạ xuống còn 230 km/giờ (145 dặm/giờ). Trong khi đó JMA ước tính sức gió duy trì 10 phút cao nhất đạt 175 km/giờ (110 dặm/giờ) tại thời điểm 00:00 UTC ngày 15. Đài Quan sát Hồng Kông thì nhận định sức gió duy trì 10 phút của cơn bão là 185 km/giờ (115 dặm/giờ), khiến Chanchu trở thành cơn bão mạnh nhất từng được ghi nhận trên biển Đông trong tháng 5.
Vào thời điểm Chanchu đạt cường độ tối đa, một rãnh thấp di chuyển về phía Đông trên đất liền Trung Quốc đã phá vỡ áp cao ở phía Bắc cơn bão, khiến nó chuyển hướng sắc nét lên phía Bắc và đi vào khu vực có môi trường ít thuận lợi hơn. Với dòng thổi ra suy giảm và độ đứt gió cao hơn, Chanchu bắt đầu suy yếu chậm. Ban đầu mắt của cơn bão vẫn duy trì kích cỡ nhỏ, nhưng vào ngày 16 khi đối lưu ở phía Bắc suy giảm thành mắt bão phía ngoài Chanchu trở nên suy thoái. Rãnh thấp mà trước đó làm suy yếu áp cao giờ dẫn Chanchu di chuyển theo hướng Bắc - Đông Bắc và buộc cơn bão thực hiện một sự chuyển đổi sang một hệ thống ngoại nhiệt đới. Cuối ngày 17 tháng 5, JMA giáng cấp Chanchu xuống còn bão nhiệt đới dữ dội. Vào khoảng thời gian đó cơn bão đã đổ bộ lên địa điểm gần Sán Đầu, Quảng Đông thuộc vùng Đông Nam Trung Quốc, cách Hồng Kông khoảng 315 km (195 dặm) về phía Đông. JTWC ước tính sức gió của cơn bão lúc đổ bộ là 130 km/giờ (85 dặm/giờ), còn JMA nhận định sức gió khi đó đạt 110 km/giờ (70 dặm/giờ). Sang sáng sớm ngày 18, JTWC ngừng đưa ra những thông báo về cơn bão, dù vậy JMA vẫn tiếp tục theo dõi Chanchu trên đất liền Trung Quốc. Sau đó trong cùng ngày Chanchu tiến ra biển Hoa Đông, chuyển đổi hoàn toàn thành xoáy thuận ngoại nhiệt đới vào lúc 00:00 UTC ngày 19. Những tàn dư của cơn bão tiếp tục di chuyển hướng đến Nhật Bản trước khi tan tại thời điểm 18:00 UTC cùng ngày ở ngoài khơi phía Tây Kyushu thuộc miền Nam Nhật Bản.
Dự phòng.
Có một thời điểm, Chanchu đã được dự báo sẽ trở thành siêu bão cấp 5 và gây ra lở đất tại khu vực gần Hồng Kông. Phản ứng trước mối đe dọa này, các quan chức của đài thiên văn Hồng Kông, cũng như tại Ma Cao, đã phát đi tín hiệu dự phòng để thông báo cho công chúng về cơn bão đang tới gần.
Trung Quốc cũng đề cập tới khả năng Quảng Đông sẽ chịu ảnh hưởng của cơn bão từ rất sớm vào ngày 11 tháng 5.. Khi Chanchu bắt đầu di chuyển theo hướng bắc, cảnh báo về cơn bão to đã được đưa ra vào ngày 15 tháng 5 . Đây là cảnh báo bão to đầu tiên kể từ khi có sự đưa vào thang sức gió Beaufort mở rộng và phân loại bão mới cho quốc gia này trong cùng ngày . Nó đã được nâng cấp lên thành cảnh báo khẩn cấp vào ngày 16 tháng 5 . Nó cũng là cảnh báo lốc xoáy nhiệt đới đầu tiên trong năm. Khi Chanchu gây ra lở đất tại Quảng Đông vào sáng sớm ngày 18 tháng 5 và suy yếu đi, cảnh báo khẩn cấp đã được hạ xuống thành dông bão nhiệt đới mạnh và sau đó đã được dừng lại .
Cục thời tiết trung ương của Đài Loan cũng đưa ra cảnh báo bão đối với eo biển Bashi và eo biển Đài Loan vào ngày 15 tháng 5. Cảnh báo này đã được mở rộng cho cả Kim Môn, Bành Hồ và vùng biển bắc Đài Loan vào sớm ngày 16 tháng 5.
620.000 dân xung quanh miền đông nam Trung Quốc đã phải sơ tán vào ngày 17 tháng 5.
Ảnh hưởng.
Philipines.
Chanchu làm chết 41 người tại Philipin và 98,6 triệu peso (1,9 triệu USD) tổn thất, chủ yếu là cho nông nghiệp . Trong số đó, 21 người đã chết là từ chiếc tàu "Mae An" bị lật úp, ngoài khơi đảo Masbate ngày 12 tháng 5. Rất may là 18 người khác đã được cứu sống . Tại khu vực Bicol, 300 gia đình bị mất nhà cửa do ngập lụt và gió mạnh . Tại 6 làng trong khu vực Sogod, Nam Leyte, 1.000 người đã bị cô lập do các vụ lở đất nhỏ . Không có thương vong nào được thông báo. Nước sông dâng cao đã phá hỏng con đê vào sớm ngày hôm sau và làm ngập 4 làng đến thắt lưng tại đảo Mindoro, trong khi một chiếc phà với trên 713 người trên boong đã bị mắc cạn . Tổng cộng, trên 600 ngôi nhà đã bị phá hủy hoàn toàn và trên 3.500 ngôi nhà khác bị phá hủy một phần.
Việt Nam.
Mặc dù Chanchu không ảnh hưởng tới vùng ven biển Việt Nam, nhưng nó đã làm chết 28 ngư dân Việt Nam đang làm việc trong khu vực biển Đông. Vào thời điểm bão vào có 45 tàu với hơn 750 ngư dân của Việt Nam đang hoạt động tại vùng nơi cơn bão đi qua. Hơn 600 ngư dân đã sống sót trở về, trong đó có nhiều người được lực lượng cứu hộ Trung Quốc cứu sống (Trung Quốc nói trong chiến dịch cứu hộ lớn nhất của họ trên Biển Đông, con số đó là 330. Tuy nhiên con số này bao gồm cả các ngư dân Việt Nam trú bão ở Trung Quốc và quay lại tìm kiếm đồng bào bị mất tích trước khi gặp tàu cứu hộ Trung Quốc). Chủ tịch Việt Nam, ông Trần Đức Lương đã gửi lời cảm ơn chính quyền Trung Quốc vào ngày 22 tháng 5 . Tại tỉnh Phú Yên, 3 học sinh cũng đã mất tích, được thông báo là bị cuốn đi xa trong khi đang tắm biển.
Tính đến ngày 28 tháng 5 năm 2006, hàng chục tàu đánh cá của Việt Nam bị ảnh hưởng mạnh bởi bão Chanchu. Trong đó 14 tàu chìm và 4 tàu khác mất tích với tổng số 322 ngư dân. Đến nay số mất tích là gần 250 người. Một số ý kiến cho rằng thảm họa này xảy ra do công tác dự báo khí tượng thủy văn của Việt Nam không tốt. Các dự báo này đã có sự sai lệch so với dự báo của đài khí tượng khu vực của Philipine, Hồng Kông, Nhật Bản, Hawaii, Hải quân Mỹ v.v. Tuy nhiên, ý kiến này đã bị người đứng đầu Trung tâm dự báo khí tượng thủy văn Trung ương Việt Nam bác bỏ. Mặc dù phủ nhận khả năng dự báo sai, chỉ vài ngày sau ông ta đã bị "thay" chức.
Trung Quốc.
Chanchu làm chết ít nhất 25 người tại Trung Quốc . Tại Sán Đầu, đã có các vụ lở đất và sập nhà cửa, làm chết 3 người. 192 ngôi nhà bị ngập lụt và nước ngập sâu tới 1,6 m . Một công viên đã bị tổn hại nghiêm trọng và phải đóng cửa để sửa chữa . Tổn thất kinh tế ước đạt khoảng 2,6 tỷ nhân dân tệ . Tại tỉnh Phúc Kiến, 15 người đã chết do lở đất và 4 người mất tích . Tổn thất tại Phúc Kiến ước đạt 480 triệu USD (2006 USD). Tại Thượng Hải, vận tốc tối đa tại cầu Đông Hải đã phải giảm một nửa do gió mạnh
Hồng Kông.
Tại Hồng Kông, tổn thất là không đáng kể. Mực nước dâng lên tới 2,8 m (tren biểu đồ dữ liệu) do sóng đánh và ngập lụt nhỏ xảy ra tại Thượng Hoàn . Một số chuyến bay đã phải hủy bỏ và một số tuyến phà phải tạm ngừng . Do điều kiện biển xấu, các chuyến tàu khách với trên 1.000 hành khách đã phải lùi hành trình trở về của chúng từ Cao Hùng tới Hồng Kông .
Đài Loan.
Đài Loan cũng có hai người chết là hai chị em bị lũ đột ngột cuốn đi ở gần cầu Sandimen tại huyện miền nam Bình Đông ngày 17 tháng 5 . Đảo này cũng gánh chịu những trận mưa núi to và gió giật đáng kể tại nhiều huyện thị miền tây. Tàu chở dầu "Lucky Star" mang quốc tịch Bolivia đã mắc cạn do sóng to ở bờ biển thành phố Cao Hùng .
Nhật Bản.
Sóng to tại miền nam Nhật Bản đã cuốn trôi ba học sinh 17 tuổi đang bơi tại vùng biển thuộc đảo Hateruma, làm một người chết và một người mất tích. Người còn lại được cứu sống . | 17 | 17_bão_cơn_đới_nhiệt | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Thuận An là một thành phố trực thuộc tỉnh Bình Dương, Việt Nam.
Địa lý.
Thành phố Thuận An nằm ở phía nam tỉnh Bình Dương, giữa thành phố Thủ Dầu Một và Thành phố Hồ Chí Minh, có vị trí địa lý:
Thành phố Thuận An có diện tích 83,71 km², dân số năm 2021 là 618.984 người, mật độ dân số đạt 7.394 người/km².
Thành phố Thuận An là trung tâm kinh tế và là thành phố lớn nhất tỉnh về dân số.
Lịch sử.
Từ trước năm 1976.
Năm 1926, thực dân Pháp thành lập quận Lái Thiêu thuộc tỉnh Thủ Dầu Một.
Năm 1956, chính quyền Việt Nam Cộng hòa chia tỉnh Thủ Dầu Một thành 3 tỉnh Bình Dương, Bình Long và Phước Long. Quận Lái Thiêu thuộc tỉnh Bình Dương, gồm 1 tổng Bình Chánh với 11 xã: Tân Thới, Phú Long, Vĩnh Phú, Bình Nhâm, Bình Hòa, An Phú, Hưng Định, An Thạnh, An Sơn, Thuận Giao, Bình Chuẩn; quận lỵ đặt tại xã Tân Thới.
Về phía chính quyền Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, huyện Lái Thiêu vẫn thuộc tỉnh Thủ Dầu Một cho đến năm 1975 (tỉnh Thủ Dầu Một lúc này có địa giới gần tương ứng với tỉnh Bình Dương của chính quyền Việt Nam Cộng hòa).
Từ năm 1976 đến 1986.
Từ năm 1976, tỉnh Thủ Dầu Một hợp nhất với 2 tỉnh Bình Long và Phước Long và 3 xã An Bình, Bình An, Đông Hòa thuộc huyện Thủ Đức thành tỉnh Sông Bé. Lúc này huyện Lái Thiêu thuộc tỉnh Sông Bé.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 55-CP hợp nhất huyện Lái Thiêu với huyện Dĩ An thành huyện Thuận An thuộc tỉnh Sông Bé.
Khi hợp nhất, huyện Thuận An có 14 xã: An Bình, An Phú, An Sơn, An Thạnh, Bình An, Bình Chuẩn, Bình Hòa, Đông Hòa, Hưng Định, Lái Thiêu, Tân Bình, Tân Đông Hiệp, Thuận Giao, Vĩnh Phú.
Từ năm 1986 đến nay.
Ngày 29 tháng 8 năm 1994, chuyển xã An Bình thành thị trấn Dĩ An, chuyển xã An Thạnh thành thị trấn An Thạnh, chia xã Lái Thiêu thành thị trấn Lái Thiêu và xã Bình Nhâm.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tỉnh Sông Bé chia tách thành hai tỉnh Bình Dương và Bình Phước, huyện Thuận An trực thuộc tỉnh Bình Dương.
Đến cuối năm 1998, huyện Thuận An có 3 thị trấn: Lái Thiêu (huyện lỵ), An Thạnh, Dĩ An và 12 xã: An Phú, An Sơn, Bình An, Bình Chuẩn, Bình Hòa, Bình Nhâm, Đông Hòa, Hưng Định, Tân Bình, Tân Đông Hiệp, Thuận Giao, Vĩnh Phú.
Ngày 23 tháng 7 năm 1999, Chính phủ ban hành Nghị định số 58/1999/NĐ-CP, chia tách huyện Thuận An thành huyện Thuận An và huyện Dĩ An. Huyện Thuận An với 10 đơn vị hành chính gồm 8 xã: Vĩnh Phú, Bình Hòa, Thuận Giao, Bình Chuẩn, An Phú, Bình Nhâm, Hưng Định, An Sơn và 2 thị trấn: Lái Thiêu, An Thạnh, 56 khu phố (ấp) với dân số là 108.505 người. Địa giới huyện Thuận An lúc này trùng với huyện Lái Thiêu trước đây.
Ngày 23 tháng 9 năm 2010, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 858/QĐ-BXD về việc công nhận đô thị Thuận An là đô thị loại IV.
Ngày 13 tháng 1 năm 2011, theo Nghị quyết số 04/NQ-CP của Chính phủ, thị xã Thuận An được thành lập với diện tích tự nhiên 84,26 km², dân số 382.034 người. Đồng thời chuyển 2 thị trấn Lái Thiêu, An Thạnh và 5 xã Vĩnh Phú, Bình Hòa, Thuận Giao, An Phú, Bình Chuẩn thành 7 phường có tên tương ứng. Thị xã Thuận An gồm 7 phường và 3 xã.
Ngày 29 tháng 12 năm 2013, theo Nghị quyết số 136/NQ-CP của Chính phủ, chuyển 2 xã Bình Nhâm và Hưng Định thành 2 phường có tên tương ứng. Thị xã Thuận An gồm 9 phường và 1 xã.
Ngày 7 tháng 3 năm 2017, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định số 114/QĐ-BXD công nhận thị xã Thuận An là đô thị loại III thuộc tỉnh Bình Dương.
Ngày 10 tháng 1 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 857/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 2 năm 2020). Theo đó, thành lập thành phố Thuận An thuộc tỉnh Bình Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích và dân số của thị xã Thuận An.
Hành chính.
Thành phố Thuận An có 10 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 9 phường: An Phú, An Thạnh, Bình Chuẩn, Bình Hòa, Bình Nhâm, Hưng Định, Lái Thiêu, Thuận Giao, Vĩnh Phú và xã An Sơn.
Trong đó, hai phường Lái Thiêu và An Thạnh trước đây là hai thị trấn thuộc huyện Thuận An cũ, được xem là hai trung tâm dân cư và thương mại lâu đời nhất tại Thuận An từ thời vua Minh Mạng.
Kinh tế.
GDP tăng bình quân của thành phố Thuận An đạt khoảng 18,5%/năm. Lĩnh vực kinh tế chuyển biến tích cực theo cơ cấu công nghiệp, dịch vụ - thương mại, nông nghiệp năm 2018, tỷ lệ công nghiệp — xây dựng chiếm 79,48%, thương mại - dịch vụ — du lịch chiếm 20,44% và nông lâm nghiệp chiếm 0,08%.
Toàn thành phố hiện có 3 khu công nghiệp và 2 cụm công nghiệp tập trung, thu hút 2.368 doanh nghiệp trong và ngoài nước. Trong đó, số doanh nghiệp hoạt động trong các khu công nghiệp và cụm công nghiệp là 400 doanh nghiệp.
Các khu công nghiệp và cụm công nghiệp trên địa bàn thành phố Thuận An: KCN VSIP (Việt Nam – Singapore), KCN Việt Hương, KCN Đồng An, cụm công nghiệp An Thạnh, cụm công nghiệp Bình Chuẩn.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Thuận An đã và đang hình thành một số khu đô thị mới như khu đô thị An Phú Hưng, khu đô thị An Thạnh, khu đô thị Eco Xuân Lái Thiêu, khu đô thị The Seasons Lái Thiêu, khu đô thị Vĩnh Phú I...
Những năm qua, do tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa tại Thuận An diễn ra nhanh, cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư hoàn thiện đã góp phần thu hút nhiều doanh nghiệp đến đầu tư, thành lập mới và mở rộng sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp trên địa bàn thích nghi tốt với cơ chế thị trường, nhanh nhạy trong điều hành sản xuất, kinh doanh, mở rộng thị trường, linh hoạt tiếp cận các nguồn vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh.
Năm 2017, ước giá trị sản xuất công nghiệp của thành phố Thuận An thực hiện là 195.614 tỷ đồng, tăng 9% so với cùng kỳ và đạt 100% so với Nghị quyết của HĐND thành phố. Các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố cơ bản đã lấp kín diện tích. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong nước ước đạt 60.180 tỷ đồng, tăng 8,8% so với năm trước. Giá trị sản xuất tăng mạnh ở các ngành như chế biến thực phẩm và đồ uống, giày dép, may mặc, sản phẩm từ kim loại... Trong cơ cấu giá trị sản xuất doanh nghiệp trong nước trên địa bàn có 9 ngành chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số 27 ngành đang hoạt động, như: Công nghiệp chế biến thực phẩm chiếm 19%, công nghiệp sản xuất đồ uống 12%, công nghiệp sản xuất hàng mộc 14%, công nghiệp sản xuất các sản phẩm từ kim loại 13,4%...
Thành phố Thuận An hiện có khoảng 30.000 hộ hoạt động kinh doanh thương mại - dịch vụ, 5 siêu thị, 7 trung tâm thương mại (trong đó có 3 trung tâm thương mại quy mô lớn là AEON, Minh Sáng Plaza và Lotte Mart), 24 chợ theo quy hoạch hoạt động ổn định.
Thành phố Thuận An đã đạt được kết quả phát triển ấn tượng trong nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Thu ngân sách trên địa bàn thành phố tăng bình quân 6,43%/năm, chi ngân sách tăng bình quân 13,24%/năm, thu nhập bình quân đầu người 143,88 triệu đồng/người/năm, đạt 2,4 lần so với cả nước, mức tăng trưởng kinh tế trung bình 3 năm (2016 – 2018) đạt 10,5% (cao hơn mức bình quân của tỉnh là 1,63, đẩy mạnh đầu tư phát triển toàn xã hội với tổng số vốn lên đến 116.249 tỷ đồng, bình quân tăng 6%/năm.
Trong đó, giá trị sản xuất công nghiệp tăng bình quân 8%/năm; tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng bình quân 21%/năm. Giá trị sản xuất nông nghiệp giảm bình quân 9,2%/năm, tỷ lệ đô thị hóa 98,5%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp toàn đô thị trên 70%. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Hồ Zaysan (tiếng Nga: озеро Зайсан) là hồ nước ngọt nằm ở miền đông Kazakhstan, diện tích khoảng 1.810 km² (700 dặm vuông). Hồ nằm ở chỗ trũng giữa hai dãy núi Altai và Tarbagatay.
Hồ nằm ở độ cao 420 m so với mặt biển, dài 105 km và rộng từ 22–48 km, chỗ sâu nhất là 15 m. Những nguồn nước chính đổ vào hồ là các sông Kara-Irtysh (Irtysh đen) và Kendyrlyk từ phía đông, nguồn duy nhất chảy từ hồ ra là sông Irtysh (hay Irtysh Trắng).
Hồ rất lắm cá. Hồ đóng băng bắt đầu từ đầu tháng 11 cho đến hết tháng 4. Từ khi có đập nước Bukhtarma, mực nước của hồ đã dâng cao thêm 6 m (20 ft) so với mức tự nhiên của nó. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.787546 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Đức Thọ là một huyện trung du nằm ở phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Vị trí địa lý.
Huyện Đức Thọ nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 57 km về phía bắc, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 325 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Huyện Đức Thọ có diện tích 20.904 ha, dân số năm 2009 là 104.536 người. 11% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Đây cũng là địa phương có dự án Đường cao tốc Diễn Châu – Bãi Vọt và dự án Đường cao tốc Bãi Vọt – Hàm Nghi đang được xây dựng đi qua.
Hành chính.
Huyện Đức Thọ có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Đức Thọ (huyện lỵ) và 15 xã: An Dũng, Bùi La Nhân, Đức Đồng, Đức Lạng, Hòa Lạc, Lâm Trung Thủy, Liên Minh, Quang Vĩnh, Tân Dân, Tân Hương, Thanh Bình Thịnh, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Tùng Châu, Yên Hồ.
Lịch sử.
Thời Hùng Vương, Đức Thọ thuộc bộ Cửu Đức trong tổng số 15 bộ của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
Thời Nhà Tần (221 TCN - 206 TCN), nhà Hán (206 TCN – 220) đô hộ, Đức Thọ nằm trong địa phận huyện Hàm Hoan (bao gồm toàn bộ vùng đất Nghệ Tĩnh) thuộc huyện Cửu Chân.
Thời nhà Đường 629 (Đường Cao Tổ) đô hộ đến thời nhà Lý, Đức thọ có tên là Cổ La thuộc Hoan Châu.
Đến thế kỷ X, vùng đất Đức Thọ nằm trong huyện Cửu Đức.
Thời nhà Lý và nhà Trần, Đức Thọ có tên là Chi La thuộc phủ Đức Quang, Nghệ An châu.
Thời Lê sơ, Đức Thọ có tên là La Giang (1428) thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An.
Thời Lê Trung Hưng (1729 - 1740) để tránh trùng với tên huý của chúa Trịnh Giang nên đổi La Giang thành La Sơn thuộc phủ Đức Quang, trấn Nghệ An.
Thời Minh Mạng (1822) vì trùng tên huý nên phủ Đức Quang đổi tên thành phủ Đức Thọ. Huyện La Sơn (thuộc phủ Đức Thọ) tồn tại đến đầu thế kỷ XX, do phủ Đức Thọ kiêm nhiếp.
Năm Duy Tân thứ 9 (1915), tách tổng Đồng Công nhập về Đức Thọ. Tổng Đồng Công khi đó gồm các xã: Đức Hoà, Đức Lạc, Ân Phú.
Năm Khải Định thứ 6 (1921), tách tổng Lai Thạch thuộc Đức Thọ chuyển về huyện Can Lộc.
Sau 1945, huyện La Sơn đổi thành huyện Đức Thọ như hiện nay.
Trong các năm 1946 - 1947, sáp nhập các làng: Lâm Thao, Hòa Duyệt thuộc tổng Hương Khê, các làng: Thượng Bồng, Hạ Bồng, Phương Duệ, Yên Duệ thuộc tổng Thượng Bồng và xã Ân Phú thuộc tổng Dị Ốc, huyện Hương Sơn vào huyện Đức Thọ và chuyển thành 7 thôn thuộc xã Đồng Công (xã Đồng Công bao gồm 2 xã Ân Phú, Hoà Lạc ngày nay).
Năm 1948, lại tách nhập các xã, xã Ân Phú đổi tên thành xã Đức Ân, năm 1972 lại đổi trở lại là Ân Phú.
Ngày 13 tháng 1 năm 1969, thành lập xã Tân Hương ở vùng khai hoang thuộc huyện Đức Thọ.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm thị trấn Đức Thọ và 40 xã: Ân Phú, Châu Phong, Đức An, Đức Bồng, Đức Bùi, Đức Châu, Đức Diên, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Giang, Đức Hòa, Đức Hương, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Liên, Đức Lĩnh, Đức Long, Đức Nhân, Đức Ninh, Đức Phúc, Đức Quang, Đức Tân, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thuận, Đức Thủy, Đức Trường, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Xá, Đức Yên, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trung Lương, Tùng Ảnh, Yên Thái.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, hợp nhất 2 xã Đức Tân và Đức Trường thành xã Trường Sơn, sáp nhập xóm Minh Giang của xã Đức Giang vào xã Đức Đồng.
Ngày 1 tháng 2 năm 1978, hợp nhất 2 xã Đức Bùi và Đức Xá thành xã Bùi Xá, hợp nhất 2 xã Đức Diên và Đức Phúc thành xã Yên Hồ, hợp nhất 2 xã Đức Ninh và Yên Thái thành xã Liên Minh, hợp nhất 2 xã Châu Phong và Tùng Ảnh thành xã Tùng Ảnh, sáp nhập xóm Bồng Phúc của xã Đức Bồng vào xã Đức Lạng.
Ngày 19 tháng 9 năm 1981, thành lập thị trấn Hồng Lĩnh.
Từ năm 1991, huyện Đức Thọ thuộc tỉnh Hà Tĩnh, gồm 2 thị trấn: Đức Thọ (huyện lỵ), Hồng Lĩnh và 35 xã: Ân Phú, Bùi Xá, Đức An, Đức Bồng, Đức Châu, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Giang, Đức Hòa, Đức Hương, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Liên, Đức Lĩnh, Đức Long, Đức Nhân, Đức Quang, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thuận, Đức Thủy, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Yên, Liên Minh, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trung Lương, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Yên Hồ.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, tách thị trấn Hồng Lĩnh, xã Trung Lương, xã Đức Thuận và một phần xã Đức Thịnh thuộc huyện Đức Thọ để thành lập thị xã Hồng Lĩnh.
Sau khi thành lập thị xã Hồng Lĩnh, huyện Đức Thọ còn lại thị trấn Đức Thọ và 33 xã: Ân Phú, Bùi Xá, Đức An, Đức Bồng, Đức Châu, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Giang, Đức Hòa, Đức Hương, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Liên, Đức Lĩnh, Đức Long, Đức Nhân, Đức Quang, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thủy, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Yên, Liên Minh, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Yên Hồ.
Ngày 8 tháng 6 năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định số 48-CP. Theo đó, sáp nhập toàn bộ 197 ha với 1.730 nhân khẩu của thôn Mai Hồ thuộc xã Đức Yên vào thị trấn Đức Thọ.
Ngày 4 tháng 8 năm 2000, tách 6 xã: Ân Phú, Đức Liên, Đức Hương, Đức Bồng, Đức Lĩnh và Đức Giang để thành lập huyện Vũ Quang. Huyện Đức Thọ còn lại 1 thị trấn và 27 xã.<ref name=27/2000/NĐ-CP></ref>
Đến cuối năm 2018, huyện Đức Thọ có thị trấn Đức Thọ và 27 xã: Bùi Xá, Đức An, Đức Châu, Đức Đồng, Đức Dũng, Đức Hòa, Đức La, Đức Lạc, Đức Lâm, Đức Lạng, Đức Lập, Đức Long, Đức Nhân, Đức Quang, Đức Thanh, Đức Thịnh, Đức Thủy, Đức Tùng, Đức Vĩnh, Đức Yên, Liên Minh, Tân Hương, Thái Yên, Trung Lễ, Trường Sơn, Tùng Ảnh, Yên Hồ.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Huyện Đức Thọ có 1 thị trấn và 15 xã như hiện nay.
Văn hóa.
Truyền thống.
Đức Thọ xưa kia có tên gọi là La Sơn thuộc phủ Đức Quang (gồm cả Hương Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc...) được xem là vùng "địa linh nhân kiệt" của xứ Nghệ. Trong thời kỳ phong kiến, Đức Thọ có 39 vị đại khoa (Tiến sĩ) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Lê Văn, Hoàng Xuân, Phan Đình, Hà Học... và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Yên Hồ, Đông Thái, Trung Lễ, Bùi Xá...
Thời phong kiến Hà Tĩnh có 4 vị trạng nguyên thì Đức Thọ có 2 vị là Đào Tiêu và Đoàn Nguyên Lợi đều quê ở Yên Hồ.
Nhiều người thành đạt xuất thân từ Đức Thọ, như nhà ngoại giao Nguyễn Biểu (đời Trần), nhà văn hóa Bùi Dương Lịch; Hoàng giáp Bùi Thức Kiên; Thượng thư, Tiến sĩ Phan Bá Đạt; lãnh đạo phong trào Cần Vương, Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng, các chí sĩ Lê Văn Huân, Lê Thước, Lê Ninh, nhà cách mạng Trần Phú, nhà thơ Huy Cận, nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn, Luật sư Phan Anh, Luật sư Phan Mỹ, nhà toán học Lê Văn Thiêm, nhà văn Hoàng Ngọc Phách, Trung tướng Hoàng Hữu Thái, Tư lệnh Hải Quân QĐND Việt Nam, Phạm Văn Huyến; nhà thơ Thái Can, Luật sư Phạm Khắc Hòe.
Ngoài ra, còn có một nhân vật lịch sử khác cũng rất nổi tiếng nữa là Hoàng Cao Khải. Ông bị xem khinh vì đã cam tâm phục vụ hết lòng thực dân Pháp xâm lược, nhưng chính người Pháp từng nghi ngờ ông là một trợ lực ngầm cho phong trào Duy tân và Đông du, và ngay Phan Châu Trinh cũng có liên lạc thư từ với ông.
Trong số những người nổi tiếng hiện nay, từ huyện Đức Thọ có: | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Nghi Xuân là một huyện nằm ở phía bắc tỉnh Hà Tĩnh, vùng Bắc Trung Bộ, Việt Nam.
Vị trí địa lý.
Huyện Nghi Xuân nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 47 km, cách trung tâm thủ đô Hà Nội khoảng 310 km về phía bắc, có vị trí địa lý:
Huyện Nghi Xuân có diện tích 218 km² và dân số năm 2019 là 102.160 người. Huyện Nghi Xuân cách sân bay Vinh chưa đầy 20 km, đi cửa khẩu Cầu Treo biên giới Việt-Lào 110 km theo đường quốc lộ 8, đi khu kinh tế Vũng Áng (Kỳ Anh) 115 km. Có khu du lịch Xuân Thành, cảng cá Xuân Hội, cảng Xuân Hải; có hệ thống giao thông khá thuận lợi với hai nhánh đường quốc lộ với chiều dài gần 35 km; có 32 km bờ biển với các bãi biển thoải, nước biển trong xanh; sông Lam chảy ven phía tây bắc với chiều dài trong địa phận huyện là 28 km. 3,72% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Lịch sử hình thành và phát triển.
Từ thời nhà Đường đến nhà Ngô, Đinh, Tiền Lê, địa bàn huyện Nghi Xuân thuộc đất Hoan Châu.
Thời nhà Lý, nhà Trần: Nghi Xuân thuộc Nghệ An châu, Nghệ An trại.
Thời nhà Hậu Lê, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Quang, xứ Nghệ An (rồi trấn Nghệ An).
Thời nhà Nguyễn, huyện Nghi Xuân thuộc phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
Từ năm 1832 đến năm 1975, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Từ năm 1976 đến năm 1991, huyện Nghi Xuân trực thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 17 xã: Cổ Đạm, Cương Gián, Tiên Điền, Xuân An, Xuân Đan, Xuân Giang, Xuân Hải, Xuân Hội, Xuân Hồng, Xuân Lam, Xuân Liên, Xuân Mỹ, Xuân Phổ, Xuân Thành, Xuân Trường, Xuân Viên, Xuân Yên.
Ngày 5 tháng 9 năm 1975, sáp nhập xóm Hội Phúc thuộc xã Xuân Hội vào xã Xuân Trường.
Ngày 23 tháng 2 năm 1977, thành lập xã Xuân Lĩnh tại vùng đất khai hoang.
Ngày 1 tháng 3 năm 1988, tách toàn bộ 59,30 ha diện tích tự nhiên và 507 nhân khẩu của xóm Tiến Hòa, xã Tiên Điền; toàn bộ 22,5 ha diện tích tự nhiên và 588 nhân khẩu của xóm Giang Thủy, xã Xuân Giang cùng 2.298 nhân khẩu là cán bộ, công nhân viên Nhà nước và người ăn theo của các cơ quan đóng trên địa bàn này để thành lập thị trấn Nghi Xuân, thị trấn huyện lỵ huyện Nghi Xuân.
Từ năm 1991 đến nay, huyện Nghi Xuân thuộc tỉnh Hà Tĩnh.
Ngày 8 tháng 6 năm 1994, chuyển xã Xuân An thành thị trấn Xuân An.
Ngày 1 tháng 1 năm 2020, sáp nhập xã Tiên Điền và thị trấn Nghi Xuân thành thị trấn Tiên Điền, sáp nhập xã Xuân Đan và xã Xuân Trường thành xã Đan Trường.
Hành chính.
Huyện Nghi Xuân có 17 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Tiên Điền (huyện lỵ), Xuân An và 15 xã: Cổ Đạm, Cương Gián, Đan Trường, Xuân Giang, Xuân Hải, Xuân Hội, Xuân Hồng, Xuân Lam, Xuân Liên, Xuân Lĩnh, Xuân Mỹ, Xuân Phổ, Xuân Thành, Xuân Viên, Xuân Yên.
Văn hóa.
Nghi Xuân có nhiều di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu như Ca trù Cổ Đạm, Trò Kiều Tiên Điền và Xuân Liên, Sắc Bùa Xuân Lam, Chầu Văn Xuân Hồng, trò Sĩ - Nông - Công - Thương - Ngư Xuân Thành, Lễ hội Cầu ngư Xuân Hội, các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh...
Danh nhân.
Nghi Xuân khi xưa thuộc phủ Đức Quang (gồm cả Hương Sơn, Can Lộc, Đức Thọ, Thanh Chương, Nghi Lộc) được xem là vùng "địa linh nhân kiệt" của xứ Nghệ. Trong thời kì phong kiến, Nghi Xuân có 21 vị đỗ Đại khoa (Tiến sĩ) với những dòng họ nổi tiếng khoa bảng như: Nguyễn Tiên Điền, Ngụy Khắc, Trần, Phan, Uông, Đậu, và các làng giàu truyền thống văn hoá như: Tiên Điền, Uy Viễn, Cương Gián, Cổ Đạm, Tả Ao, Phan Xá.
Những danh nhân, nhà khoa bảng, văn nhân và quan lại nổi tiếng :
Những người nổi tiếng, tiêu biểu hiện nay, xuất thân từ huyện Nghi Xuân:
"- Văn hóa, giáo dục, khoa học, chính trị:"
"- Tướng lĩnh trong lực lượng vũ trang:"
Du lịch.
Hình thế đất Nghi Xuân như chiếc mũ cánh chuồn nhìn nghiêng, ba mặt là núi, sông biển. Thế đất tam hợp của núi, sông và biển chung tụ tạo nên một miền quê có nhiều cảnh quan danh thắng và di tích.
Danh thắng.
Nói tới cảnh đẹp Nghi Xuân, thường người dân nơi đây hay nhắc tới câu ""Nghi Xuân bát cảnh"" có từ xưa"." Tám cảnh đó là:
"Hồng Sơn liệt chướng" (Núi Hồng thành dựng)
"Đan Nhai quy phàm" (Đan Nhai buồm về)
"Song Ngư hý thủy" (Đảo Song Ngư như đôi cá giỡn nước)
"Cô Độc" "lâm lưu" (Núi Cô Độc như con nghé lội rào)
"Giang Đình cổ độ" (Bến đò cổ Giang Đình)
"Quần Mộc bình sa" (Bãi cát bằng Quần Mộc)
"Uyên Trừng" "danh tự" (Chùa Uyên Trừng cảnh đẹp)
"Hoa Phẩm thắng triền" (Chợ Hoa Phẩm hàng đầy).
Lý giải cụ thể hơn tám cảnh nói trên, theo thứ tự từ núi đến sông và chảy xuôi ra biển:
Hồng Sơn liệt chướng:
Đây là dãy núi phía nam huyện, là phên dậu che chở cho Nghi Xuân, có 9 xã trong huyện nằm ven chân núi. Hồng Sơn là núi Hồng, là dải Hồng Lĩnh và còn được gọi là Ngàn Hống.
Cái tên Hồng bắt nguồn từ truyền thuyết: Dãy núi xưa có 100 đỉnh, có đỉnh Mồng Gà, đỉnh Đầu Voi, đỉnh Đầu Ngựa... Phải chăng vì thế mà đỉnh Ngọc tưởng mình là cao sang, tách ra khỏi quần thể, đứng một mình trên đất Đức Thuận (thuộc thị xã Hồng Lĩnh). Đàn chim Hồng nghe nơi đây có núi trăm đỉnh, bèn gửi 100 con đến tọa lạc, làm đẹp cho dãy núi, tạo cho thế đất càng linh hơn. Sau khi có 99 con hạ cánh đỗ lên 99 đỉnh, còn 1 con dù biết kia là đỉnh Ngọc, đậu lên đấy có thể sáng chói hơn, mà cũng chỉ cách có nửa dặm. Nhưng vì không muốn xa bầy, bèn bay lượn quanh. Một nông dân xã Mỹ Dương (nay là Xuân Mỹ) nhìn thấy, phần thì thương con chim lẻ loi, phần thì sợ đàn chim bỏ đi, nên ông cùng với một số bạn bè đến sát chân núi đắp một "Cục lịp" (lịp là hình cái nón) cho chim đậu. Cảm thông, con chim thứ 100 sà xuống đậu, nhưng do đắp vội, cục lịp vỡ ra, con chim đành bay lên. Cả đàn bèn cùng cất cánh bay theo. Sau này núi nối tiếc, mang tên Hồng làm kỷ niệm. Cục lịp vẫn còn cùng với dải Hồng Lĩnh thơ mộng, tạo nên nhiều cảnh đẹp. Có nền Trang Vương xa xưa với chùa Hương Tích đẹp và cổ kính, có dãy Ngũ Mã với đền Củi linh thiêng, có lăng mộ Ngọc Trần vợ vua Lê Lợi ở núi Na, có bàn cờ Tiên, có đá Ông, đá Mụ, có đá Nhoi nơi những người có tâm huyết với đất nước ở ẩn, có truông Cồng Khánh con đường mà Đại thi hào Nguyên Du đi tắt vượt Treo Vọt để hát phường vải, có di chỉ văn hóa Phôi Phối...
Hoa Phẩm thắng triền:
Hoa Phẩm là tên chợ nằm trước chân núi Na (trong dải Hồng Lĩnh, thuộc địa phận xã Xuân Lam), chợ nằm gần sông, gần đường cái quan, thông thương nam bắc, là cảnh "Chênh vênh quán lá chen hoa tím, vắt vẻo đường quan hương thoáng bay", chợ lại ở một bên trạm nơi dừng chân của các cuộc kinh lý, cũng gần nhà quản nên sầm uất. Sau này, khi táng bà Lê Nguyên Phi (vợ vua Lê Lợi) ở núi Na, chợ dời đến bãi Chế sát bờ sông, cảnh trên bến dưới thuyền tấp nập, trù phú, nên đã có những câu ngợi ca "chợ Chế một tháng sáu phiên. Một quan mà bán tám tiền cũng đi" (một quan = mười tiền).
Cô Độc lâm lưu:
Từ chợ Củi, xuôi xuống chút nữa ta gặp hòn núi Cô Độc (thuộc nhóm Ngũ Mã trong dải Hồng Lĩnh, địa phận xã Xuân Hồng). Nhìn cả nhóm núi như đàn trâu đang cúi mình và một con nghé đứng riêng. Chuyện kể: Trong lúc cả đàn đang ăn cỏ, một chú nghé non ngẩng đầu nhìn sang bên kia sông, nơi ấy cỏ hình như xanh hơn, mịn màng hơn, êm ả hơn, ngon lành hơn. Chú lặng lẽ tách khỏi đàn định vượt sông, khi hai chân trước vừa bước xuống sông, điều không may đã đến, trời bắt chú hóa đá. Thế là có một ngọn núi đá nằm bên bờ sông, lại có một phần chân núi cắm ra ngoài sông, nước chảy lồng phía dưới, thuyền chạy luồn thú vị biết bao...
Uyên Trừng danh tự:
Từ hòn Cô Độc xuôi dòng rồi rẽ vào hói Dằng (xã Xuân Hồng), trên sườn hữu ngạn là chùa Uyên Trừng, chùa còn có những tên khác nhau như chùa Hoa Tàng, Ba Tằng, tên nôm thường gọi là chùa Dằng. Chùa toạ lạc trong một cảnh quan đẹp trên dải Hồng Lĩnh, ẩn trong rừng cây cổ thụ, ba mặt là núi Hồng, có Am viện, trước chùa là con khe nhỏ, có cầu gỗ mảnh mai bắc qua. Phía trước chùa có vực sâu (chừng 2 cây nứa). Chuyện kể: Có nhiều người nghe được tiếng động lao xao dưới đáy. Cảnh chùa tĩnh mịch, huyền bí trong tiếng chuông ngân, nối với ngoài bằng tiếng chim. Đây là ngôi chùa cổ linh thiêng, nổi tiếng trên đất Nghi Xuân. Theo truyền ngôn, chùa có từ thời nhà Lý, nhưng cũng không rõ xây từ năm nào. Trong chiến tranh chống Mỹ, đây là khu vực bị ném bom rất ác liệt, cả một vùng rộng lớn bị tàn phá.
Ngày nay, di tích chùa Uyên Trừng và những cảnh quan vùng này đã khác hẳn xưa bởi thời gian và chiến tranh làm đảo lộn.
Quần Mộc bình sa:
Từ chùa Uyên Trừng trở ra Sông Lam, xuôi qua Bến Thủy ta trông thấy cồn nổi giữa sông, đó là Quần Mộc (nay thuộc xã Xuân Giang). Xưa Quần Mộc là bãi cát bồi bằng phẳng, viền quanh là rừng bần tươi xanh, trông như đang nổi bồng bềnh giữa sông, cứ chiều đến là hàng ngàn cò trắng về đậu trên rừng bần, trông như những đóa hoa trắng và buổi bình minh đàn chim lại bay kiếm ăn xa, dưới ánh nắng ban mai, cánh chim rực hồng lan tỏa. Ở đây xưa còn là bàn đạp để tấn công sang hai bờ và trở thành bãi chiến trường.
Ngày trước, Quần Mộc có khi còn chọn làm trường thi an toàn, dễ kiểm soát. Thời Tây Sơn ở đây còn đắp thành lũy.
Hiện nay, đây là vùng dân cư, đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt quanh năm. Trong làng có nhà thờ họ Hồ nổi tiếng.
Giang Đình cổ độ:
Quần Mộc đi xuôi chút nữa là bến Giang Đình. Xưa, đây là bến đò ngang nằm ở trung tâm huyện lại sát huyện lỵ, nên được chọn làm nơi gặp mặt trên sồng, về sau là nơi đón khách xa đến huyện (theo đường thủy), rồi là nơi đón các ông nghè vinh quy, mở hội ãn mừng và được rước về quê quán.
Bến Giang Đình đẹp, vì ngoài có rừng bần chắn gió, bến dốc nên sạch, trên bờ là nhũng cây cổ thụ rợp bóng mát; ngay sát là chợ huyện, nên chợ cũng được mang tên Giang Đình. Trên chợ dưới thuyền rất thuận lợi, buôn bán sầm uất. Bến xưa, có lúc là đón người vinh hiển, có lúc lại xôn xao với vành yếm thắm, cũng có lúc đò sang tím lại bởi tiếng tầm tình.
Đan Nhai quy phàm:
Rời bến Giang Đình xuôi ra cửa Sông Lam, trước đây gọi là cửa Đan Nhai còn nay gọi là cửa Hội (cửa Đan Nhai là tên của xã Đan Nhai, cửa Hội là tên của xã Hội Thống, còn nay là xã Xuân Hội).
Ngày trước, khi trời chiều buông xuống, ráng đỏ phủ lên cảnh vật, nhiều cánh buồm no gió lướt như đan nhau về bến cửa, những cánh buồm óng ánh đỏ, mật nước như tím lại, trên nền trời in những bóng hải âu sải cánh... Hơn nữa, cửa Đan Nhai là vùng cát bồi trên chân núi Hồng Lĩnh, sách cũ còn ghi: Cửa Đan Nhai đá chìm lởm chởm, thuyền bè rất khó ra vào cửa sông. Chính vì lẽ ấy, khi thuyền vào cửa lạch không thể chạy theo một đường thắng, mà còn phải căn cứ vào chớn nước để thay đổi đường đi, lúc "bát", lúc "cạy" (sang phải, sang trái) làm cho những cánh buồm no gió dập dờn qua lại khác nào đàn bướm đang vờn hoa, đàn cá đang dỡn nước.
Song Ngư hý thủy:
Đứng trên cửa biển Đan Nhai xưa, nay là đất xã Xuân Hội, nhìn về phương bắc sẽ thấy hòn đảo mang tên Song Ngư (đảo nay thuộc tỉnh Nghệ An quản lý). Đảo như hai con cá lớn đầy đủ thân và đuôi, đang châu đầu vào nhau như đùa giỡn trên biển. Nhất là những hôm sóng to, vỗ vào thân núi trắng xóa như hai con cá đang lội. Còn đứng trong làng nhìn ra, bị cây che lấp phía dưới, phía thân núi còn lại như thân hai con trâu, lưng oằn xuống, như đang gục đầu vào nhau thử sức.
Trong tám cảnh này, có những cảnh "Thiên phú" như Hồng Sơn liệt chướng, Song Ngư hý thủy sẽ trường tồn với thời gian. Có những cảnh thiên nhiên và con người cùng tác động đến như: Cô Độc lâm lưu, Quần Mộc bình sa. Có những cảnh do con người tác động đến mới có như: Hoa Phẩm thắng triền, Uyên Trừng danh tự, Giang Đình cổ độ, Đan Nhai quy phàm.
Nghỉ dưỡng.
"Khu du lịch biển Xuân Thành:"
Là bãi biển thuộc địa phận thôn Đông Hội xưa, ngày nay là Khu du lịch sinh thái Xuân Thành, ở xã Xuân Thành. Bãi biển Xuân Thành trải dài hơn 5 km vớỉ độ dốc thoai thoải, cát trắng mịn màng, nước biển ở đây có độ mặn vừa phải, trong, xanh và sạch. Bãi biển Xuân Thành còn giữ được vẻ nguyên sơ, kỳ bí, thơ mộng của núi, rừng và biển.
Điều tạo ra sự khác biệt cho bãi biển Xuân Thành chính là song song với biển là một dòng sông nước ngọt từ núi Hồng Lĩnh chảy qua các xã Xuân Giang, Tiên Điền, Xuân Mỹ, Xuân Yên tạo thành đầm Công Chúa. Từ đầm Công Chúa chảy về hướng thôn Hải Phòng, thuộc xã Xuân Hải rồi chuyển sang hướng nam đổ ra cửa lạch Đào ở bãi tắm ngày nay. Dòng nước ngọt chảy quanh co, uốn lượn theo chiều dài của biển, với những rặng dừa ngày đêm soi bóng. Lạch Đào không sâu nhưng nước không bao giờ cạn. Hai bên bờ lạch là thảm thực vật xanh tốt. Ngày nay, đoạn dòng chảy ở của lạch Đào được các chủ cơ sở kinh doanh du lịch bắc cầu cong nối liền đôi bờ dòng chảy. Đứng trên cầu bắc ngang qua sông, du khách sẽ được ngắm nhìn cảnh sắc bao la của biển cả. Khu du lịch biển Xuân Thành có thể xem là một cảnh biển mới hấp dẫn của đất Nghi Xuân.
Sau gần 20 năm đưa vào khai thác, đến nay Khu du lịch biển Xuân Thành đã có hơn 150 đơn vị, cá nhân đầu tư hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ, nhiều nhà hàng và các cơ sở lưu trú với hơn 500 phòng nghỉ, trong đó có 9 cơ sở được thẩm định xếp hạng. Hiện tại, ở đây đã có cơ sở nghỉ dưỡng đạt tiêu chuẩn 5* là Khách sạn Mường Thanh.
Di tích.
Nghi Xuân có trên 200 di tích văn hóa - lịch sử, trong đó có 83 di tích đã được cấp bằng di tích cấp tỉnh, cấp quốc gia, gồm 1 di tích cấp quốc gia đặc biệt, 8 di tích cấp quốc gia và 74 di tích cấp tỉnh. Sau đây là một số di tích nổi bật: | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.688639 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Can Lộc là một huyện thuộc tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.
Địa lý.
Vị trí địa lý:.
Trong vùng nội chí tuyến bắc bán cầu, địa phận Can Lộc nằm gọn trên tọa độ từ 18o20' vĩ độ Bắc đến 18o30' vĩ độ Bắc, từ 105o37' kinh độ Đông đến 108o40' kinh độ Đông.
Huyện Can Lộc nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, nằm cách thành phố Hà Tĩnh khoảng 20 km về phía nam, có vị trí địa lý:
Diện tích và dân số:.
Theo thống kê của UBND huyện Can Lộc có tổng diện tích tự nhiên 373,03 km², dân số năm 2003 là 175.298 người, mật độ dân số 473 người/km², chiếm 6% diện tích và 13,6% dân số toàn tỉnh Hà Tĩnh. 17,2% dân số theo đạo Thiên Chúa.
Địa hình:.
Can Lộc có đa dạng các loại địa hình bao gồm: đồng bằng, đồi núi, đầm lầy, sông suối... Đồng bằng của Can Lộc nằm gọn giữa hai triều núi là Trà Sơn và Hồng Lĩnh gần như cân đối giữa địa phận.
Sông Nghèn là con sông chính chảy qua đây, bắt nguồn từ sông Lam chảy theo hướng tây bắc – đông nam rồi kết thúc ở cửa Sót đổ ra Vịnh Bắc Bộ. Sông Nghèn uốn lượn quanh co đan xen với sông Nhà Lê cùng các khe suối, kênh mương lớn nhỏ khác nhau chia cắt đồng bằng ra thành nhiều mảng.
Đồi núi của Can Lộc chủ yếu có độ cao vừa phải, phân chia thành từng quần thể núi nối tiếp nhau phân bố không đồng đều, dáng vóc không giống nhau. Đứng trên bất cứ đâu tại huyện Can Lộc, đưa mắt nhìn về tứ phía, không gần thì xa, phía nào cũng có núi sông chằng chịt.
Khí hậu:.
Khí hậu Can Lộc phân chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa hè từ tháng 5 đến tháng 10, mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Can Lộc có lượng mưa hàng năm tương đối ít, tập trung vào các tháng 7 đến tháng 11, đạt từ 120mm đến 700, số giờ nắng trong năm tương đối lớn và chịu ảnh hưởng của hiệu ứng phơn (gió Lào).
Giao thông:.
Xưa kia, giao thông của Can Lộc chủ yếu là đường sông. Ngày nay, đường Quốc lộ 1 là con đường huyết mạch chạy qua địa bàn huyện.
Lịch sử.
Can Lộc theo từ Hán Việt thì từ "Can" (甘) có nghĩa là bằng lòng, từ "Lộc" (禄) có nghĩa là bổng lộc, tốt lành.
Lịch sử Can Lộc bắt đầu từ rất sớm.
Thời Hồng Bàng, từng là nơi đặt kinh đô của nước Việt Thường Thị, sau đó cùng với Hà Tĩnh trở thành 1 bộ của nước Văn Lang.
Trong thời kỳ Bắc Thuộc, địa phận Can Lộc thuộc quận Cửu Chân. Huyện Can Lộc lúc đó mang nhiều tên gọi khác nhau như: Phù Lĩnh (dưới thời nhà Ngô), Việt Thường rồi Hà Hoàng (dưới thời nhà Đường).
Thời nhà Trần đặt là huyện Phỉ Lộc.
Thời Lê sơ, năm 1469, vua Lê Thánh Tông đặt là huyện Thiên Lộc thuộc phủ Đức Quang, thừa tuyên Nghệ An.
Thời Nguyễn, năm Tự Đức thứ 15 (1862) cho đổi tên thành Can Lộc.
Năm 1976, huyện Can Lộc thuộc tỉnh Nghệ Tĩnh, gồm 32 xã: An Lộc, Bình Lộc, Đại Lộc, Đậu Liêu, Đồng Lộc, Gia Hanh, Hồng Lộc, Ích Hậu, Khánh Lộc, Kim Lộc, Mỹ Lộc, Phú Lộc, Phù Lưu, Quang Lộc, Sơn Lộc, Song Lộc, Tân Lộc, Thanh Lộc, Thiên Lộc, Thịnh Lộc, Thuận Lộc, Thuần Thiện, Thượng Lộc, Thường Nga, Tiến Lộc, Trung Lộc, Trường Lộc, Tùng Lộc, Vĩnh Lộc, Vượng Lộc, Xuân Lộc và Yên Lộc.
Ngày 27 tháng 10 năm 1984, thành lập thị trấn Can Lộc trên cơ sở 81 hécta đất thuộc xã Đại Lộc và 44 hécta đất thuộc xã Thiên Lộc.
Năm 1991, tỉnh Hà Tĩnh được tái lập từ tỉnh Nghệ Tĩnh, huyện Can Lộc thuộc tỉnh Hà Tĩnh, bao gồm thị trấn Can Lộc và 32 xã: An Lộc, Bình Lộc, Đại Lộc, Đậu Liêu, Đồng Lộc, Gia Hanh, Hồng Lộc, Ích Hậu, Khánh Lộc, Kim Lộc, Mỹ Lộc, Phú Lộc, Phù Lưu, Quang Lộc, Sơn Lộc, Song Lộc, Tân Lộc, Thanh Lộc, Thiên Lộc, Thịnh Lộc, Thuận Lộc, Thuần Thiện, Thượng Lộc, Thường Nga, Tiến Lộc, Trung Lộc, Trường Lộc, Tùng Lộc, Vĩnh Lộc, Vượng Lộc, Xuân Lộc, Yên Lộc.
Ngày 2 tháng 3 năm 1992, tách 2 xã Đậu Liêu và Thuân Lộc để thành lập thị xã Hồng Lĩnh.
Ngày 2 tháng 8 năm 1999, Sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Đại Lộc vào thị trấn Can Lộc (thị trấn huyện lỵ) và đổi tên thành thị trấn Nghèn, thị trấn Nghèn có 1.136 ha diện tích tự nhiên và 11.824 nhân khẩu.<ref name="63/1999/NĐ-CP"></ref>
Ngày 7 tháng 2 năm 2007, điều chỉnh 7.579,8 ha diện tích tự nhiên và 43.204 nhân khẩu của huyện Can Lộc (gồm toàn bộ diện tích tự nhiên và nhân khẩu của các xã: Ích Hậu, Hồng Lộc, Phù Lưu, Bình Lộc, Tân Lộc, An Lộc, Thịnh Lộc) để thành lập huyện Lộc Hà.
Huyện Can Lộc còn lại 30.084,58 ha diện tích tự nhiên và 137.647 nhân khẩu với 23 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Nghèn và 22 xã: Thường Nga, Song Lộc, Phú Lộc, Gia Hanh, Thượng Lộc, Đồng Lộc, Yên Lộc, Kim Lộc, Trường Lộc, Thanh Lộc, Trung Lộc, Vĩnh Lộc, Khánh Lộc, Mỹ Lộc, Sơn Lộc, Quang Lộc, Xuân Lộc, Tiến Lộc, Vượng Lộc, Thiên Lộc, Thuần Thiện, Tùng Lộc.
Ngày 11 tháng 7 năm 2018, thành lập thị trấn Đồng Lộc trên cơ sở toàn bộ 18,69 km² diện tích tự nhiên và 6.076 người của xã Đồng Lộc.
Ngày 21 tháng 11 năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 819/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp xã thuộc tỉnh Hà Tĩnh (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 1 năm 2020). Theo đó:
Huyện Can Lộc có 2 thị trấn và 16 xã như hiện nay.
Hành chính.
Huyện Can Lộc có 18 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 2 thị trấn: Nghèn (huyện lỵ), Đồng Lộc và 16 xã: Gia Hanh, Khánh Vĩnh Yên, Kim Song Trường, Mỹ Lộc, Phú Lộc, Quang Lộc, Sơn Lộc, Thanh Lộc, Thiên Lộc, Thuần Thiện, Thượng Lộc, Thường Nga, Trung Lộc, Tùng Lộc, Vượng Lộc, Xuân Lộc.
Danh nhân.
Theo sử liệu, thời phong kiến, Can Lộc có tới 40 vị đỗ đại khoa (Tiến sĩ) cùng rất nhiều các danh nhân nổi tiếng khác:
Thời nhà Trần: Thám hoa Đặng Bá Tĩnh (đời nhà Trần); danh tướng Đặng Tất và Đặng Dung (thời Hậu Trần);
Thời Lê sơ: Quốc tử giám Tế tửu Phan Viên (1421-?); Thượng thư kiêm Sử quán Tổng tài Đặng Minh Khiêm, Đặng Chiêm, Tiến sĩ Nguyễn Hành,Trấn quốc Thượng tướng quân Tuy thọ Hầu Trần Phúc Tuy; Quan tổng trị thống lĩnh đạo Nghệ An Trần Đình Tương; Đội trưởng quản Phủ Trịnh Trần Tất Thục; La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp; danh tướng Ngô Phúc Vạn, nhà văn hóa Hà Tông Mục, Thượng thư Hà Tông Trình; Đình nguyên, Hoàng giáp Vũ Diễm; Tể tướng Dương Trí Trạch; Đình nguyên Thám hoa Nguyễn Huy Oánh; nhà thơ Nguyễn Huy Tự; nhà thơ Nguyễn Huy Hổ; Đình nguyên Lưỡng quốc Thám hoa Phan Kính.
Thời Tây Sơn: Đô đốc Phan Văn Lân, Đại Tư mã Ngô Văn Sở (danh tướng nhà Tây Sơn).
Thời nhà Nguyễn: chí sĩ Ngô Đức Kế; nhà yêu nước Võ Liêm Sơn; chí sĩ Nguyễn Trạch, nhà cách mạng Đặng Văn Cáp, chỉ huy trưởng của lực lượng Biệt động Sài Gòn-Gia Định Nguyễn Đức Hùng...
Người nổi tiếng.
Những người nổi tiếng ngày nay có: nhà thơ Xuân Diệu, nữ anh hùng La Thị Tám, Giáo sư vật lý hạt nhân Nguyễn Đình Tứ, Giáo sư toán học Phan Đình Diệu, Giáo sư, TS, NGND Trần Văn Huỳnh (nguyên Hiệu trưởng trường Đại học Mỏ- Địa chất); Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thụ (nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Y Hà Nội); Giáo sư - Viện sĩ Nguyễn Huy Mỹ; Trung tướng, phó giáo sư Trần Văn Độ (phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao), Thiếu tướng, Giáo sư Lê Năm (Giám đốc Viện bỏng quốc gia Lê Hữu Trác); Giáo sư TSKH Nguyễn Tử Cường; phó Giáo sư, Viện sĩ, Thiếu tướng Nguyễn Trường Cửu; TSKH Phan Xuân Dũng-Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban KHCN&MT của Quốc hội; Tiến sĩ Trần Hồng Hà- Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Lê Quang Tùng- Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị, Giáo sư TSKH toán học Nguyễn Tử Cường, anh hùng phi công Phan Như Cẩn...và nhiều chính khách, nhà khoa học, doanh nhân khác.
Kinh tế.
Người dân làng Vĩnh Hoà (nay thuộc huyện Lộc Hà) mưu sinh với các nghề: nấu gang; đúc lưỡi cày; dệt võng.
Làng Trường Lưu (xã Trường Lưu), huyện Can Lộc trước đây đã hình thành phường vải và hát ví phường vải cũng phát triển ở đây nhưng nay nghề dệt vải ở đây đã mai một.
Nghề dệt chiếu Trảo Nha (thị trấn Can Lộc).
Nghề làm áo tơi ở xóm Yên Lạc - Quang Lộc, áo tơi là một biểu tượng của người dân xứ nghệ.
Văn hóa.
Tôn giáo.
Công giáo và phật giáo là hai tôn giáo chính tại Can lộc. Can Lộc nổi tiếng bởi chùa Hương Tích, đại diện tiêu biểu cho phật giáo nơi đây. Chùa Hương Tích được mệnh danh là Hoan Châu đệ nhất danh thắng, xếp vào hàng 21 thắng cảnh nước Nam xưa kia. Chùa không có các Tăng ni, hay tu sĩ phật giáo cư ngụ.
Riêng Công giáo, Can Lộc là một huyện có đông đồng bào Công giáo sinh sống với gần 18.000 giáo dân, chiếm gần 14% dân số toàn huyện, sinh hoạt tại 7 giáo xứ, 23 giáo họ và sinh sống tại 31 xóm, trong đó có 16 xóm giáo toàn tòng.
Di tích và danh thắng nổi tiếng.
+ Nhà thờ Nguyễn Văn Mạo ở Phúc Giang Vĩnh Lôc Can lộc. Một vị tướng thời Tây sơn
Truyền thống.
Đầu tiên phải kể đến công lao lớn của dòng họ Trần ở Thiên Lộc là những người lập địa nên xã Thiên Lộc ngày nay, đóng góp 3 vị tướng vào thời Hậu Lê và nhà Nguyễn. Ba vị tướng đó là: Trần Phúc Tuy, Trần Đình Tương, Trần Tất Thục.
Sự đóng góp của người Can Lộc với dân tộc có thể tính từ sự nghiệp của hai cha con hậu duệ của Thám hoa Đặng Bá Tĩnh là Đặng Tất và Đặng Dung- những danh tướng thời nhà Hậu Trần.
Thế kỷ 17 nhân dân Can Lộc đã ủng hộ nhà Lê xây dựng sự nghiệp của một quốc gia. Ở Can Lộc nổi bật lên một dòng thế tướng, truyền suốt mấy thế hệ gần 300 năm, đó là dòng họ Ngô với các tên như: Ngô Phúc Vạn, Ngô Văn Sở... Thế kỷ này các văn thần ở Can Lộc cũng rất nhiều. Tể tướng Nguyễn Văn Giai (nay thuộc huyện Lộc Hà) là trọng thần coi sóc đến sáu bộ; Dương Trí Trạch đi sứ Trung Quốc; Hà Tông Mục kinh lý đất Tuyên Quang...
Sang thế kỷ 18 người Can Lộc đã đóng góp tích cực nhất cho văn hoá. Danh tiếng "Thiên Lộc tứ hổ" không kém gì "Tràng An tứ hổ". Kinh thành Thăng Long còn lưu truyền câu phương ngôn "Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc". Có rất nhiều người làm quan và đỗ Thám hoa, Bảng nhãn: Phan Kính, Đặng Văn Kiều, Nguyễn Huy Oánh, Vũ Diễm... Giai đoạn này Can Lộc có rất nhiều ẩn sĩ nổi tiếng, giúp ích nhiều cho đất nước như Nguyễn Thiếp.
Phần đóng góp quan trọng nhất của Can Lộc đối với văn hóa cuối thế kỷ 17 là Can Lộc cùng với Nghi Xuân đã tạo ra một điểm giao lưu văn hóa có ảnh hưởng lớn trong văn học. Can Lộc có làng Trường Lưu, quê hương của hát phường vải nổi tiếng. Nguyễn Huy Oánh là một cây đại thụ trong nền văn hóa Hồng Lam. Nguyễn Huy Tự soạn cuốn "Hoa Tiên" tạo điều kiện mở đầu cho người chú vợ là Nguyễn Du sáng tác nên tác phẩm vĩ đại "Truyện Kiều".
Nguyễn Huy Hổ lại tiếp nhận ảnh hưởng Hoa Tiên - Kiều viết nên "Mai Đình Mộng ký". Đến bây giờ ý kiến về có một Hồng Sơn văn phái đã được chấp nhận.
Can Lộc còn cung cấp ba dòng họ văn hóa nổi tiếng cho truyền thống dòng họ văn hóa đặc biệt của Hà Tĩnh, đó là dòng họ Ngô ở Trảo Nha, dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu và dòng họ Nguyễn Chi ở Ích Hậu.
Những năm đầu thế kỷ 20 là những năm sôi nổi mãnh liệt nhất của người dân Can Lộc. Đỉnh cao là phong trào chống thuế 1908 hạt nhân của Nghệ Tĩnh do Nguyễn Hàng Chi cầm đầu, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931. Can Lộc do Đội Khởi nghĩa vũ trang thuộc Đoàn Thanh niên cứu quốc Can Lộc (mà một trong ba người lãnh đạo là nhà văn hóa Nguyễn Đổng Chi) đã giành chính quyền sớm hơn 3 ngày so với các địa phương khác tại Việt Nam trong cao trào Cách mạng tháng Tám (16/8/1945). Ngã ba Đồng Lộc chứng tích lịch sử. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 1 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Xứ Nghệ là tên chung của vùng Hoan Châu (驩州) cũ từ thời nhà Hậu Lê, tức Nghệ An và Hà Tĩnh hiện nay. Hai tỉnh này cùng chung một vùng văn hóa gọi là văn hóa Lam Hồng, có chung biểu tượng là núi Hồng - sông Lam. Núi Hồng Lĩnh nằm trọn trong đất Hà Tĩnh và sông Lam nằm ở ranh giới giữa Nghệ An và Hà Tĩnh. Trung tâm của Xứ Nghệ nằm ở hai bên dòng sông Lam là phủ Đức Quang và phủ Anh Đô khi xưa, tức là các huyện Hương Sơn, Đức Thọ, Can Lộc, Nghi Xuân, thị xã Hồng Lĩnh của Hà Tĩnh và các huyện Thanh Chương, Nghi Lộc, thành phố Vinh, Hưng Nguyên, Nam Đàn, Đô Lương, Anh Sơn của Nghệ An ngày nay.
Danh xưng Nghệ An có từ năm 1030 thời nhà Lý, niên hiệu Thiên Thành thứ 2 đời Lý Thái Tông. Lúc đó gọi là Nghệ An châu trại (乂安州寨), sau đó thì đổi thành trại Nghệ An rồi Nghệ An phủ (乂安府), Nghệ An thừa tuyên (乂安承宣). Năm 1490, vua Lê Thánh Tông (niên hiệu Hồng Đức thứ 21) đổi tên từ Nghệ An thừa tuyên thành xứ Nghệ An (gọi tắt là xứ Nghệ) đồng thời với các đơn vị hành chính khác lúc bấy giờ như: xứ Kinh Bắc, xứ Sơn Nam, xứ Đông, xứ Đoài, xứ Thanh Hóa, xứ Lạng Sơn... Năm 1831, thời vua Minh Mệnh, Xứ Nghệ bị tách thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Năm 1976, hai tỉnh lại hợp thành tỉnh lớn Nghệ Tĩnh. Năm 1991, tách ra thành Nghệ An và Hà Tĩnh như ngày nay.
Cương vực xứ Nghệ bắt đầu được mở rộng sang lãnh thổ Lào ngày nay từ thời nhà Lê sơ, phát triển đến rộng nhất là thời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (với 11 phủ), đến thời Pháp thuộc thì người Pháp cắt khoảng nửa về cho đất Lào (5/11 phủ), phần còn lại tương đương với lãnh thổ 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay.
Lịch sử.
Thời Pháp thuộc.
Cùng với việc phân lại địa giới hành chính giữa các kỳ và các xứ thuộc địa của Pháp trong Liên bang Đông Dương, người Pháp đã cắt một số các phủ huyện thuộc tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc xứ Trung Kỳ cho Lào thuộc Pháp vào các năm 1895 và 1903, bao gồm các vùng: phủ Trấn Biên (khoảng phía Đông Nam tỉnh Hủa Phăn), phủ Trấn Ninh (Xiêng Khoảng, Hủa Phăn (phần phía Nam Hủa Phăn)), phủ Trấn Định (Bô Ly Khăm Xay, Khăm Muộn (phía Bắc tỉnh Khăm Muộn)), phủ Trấn Tĩnh (khoảng phía Đông tỉnh Khăm Muộn, giáp các huyện Hương Khê tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, Tuyên Hóa, Minh Hóa tỉnh Quảng Bình ngày nay), phủ Lạc Biên (khoảng bờ Bắc và thượng lưu sông Xê Bang Phai và sông Xê Nơi, phía Nam tỉnh Khăm Muộn). Đất Nghệ An-Hà Tĩnh trở nên giống với hiện trạng ngày nay và lúc đó chỉ còn lại phần đất thuộc 6 phủ: Hà Hoa, Đức Quang, Anh Đô, Trà Lân, Diễn Châu, Quỳ Châu. | 0 | 0_xã_dân_huyện_thị | 0.535827 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Nhà máy Thủy điện Hoà Bình được xây dựng tại tỉnh Hòa Bình (từ năm 1979 đến năm 1991 là tỉnh Hà Sơn Bình), trên dòng sông Đà thuộc Bắc Bộ. Đây là nhà máy thủy điện lớn nhất Việt Nam và Đông Nam Á từ năm 1994 đến 2012 (Bị phá vỡ kỉ lục vào năm 2012 bởi Nhà máy thủy điện Sơn La). Nhà máy thủy điện Hòa Bình do Liên Xô (sau năm 1991 đến 1994 là Liên bang Nga) viện trợ kinh phí, hỗ trợ công tác xây dựng và hướng dẫn vận hành.
Công trình khởi công 6/11/1979, khánh thành 20/12/1994.
Bài thơ "Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà" do nhà thơ Quang Huy sáng tác nói về tình cảm xúc động trước sự giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam trong công cuộc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình.
Quá trình xây dựng.
Ngày 6 tháng 11 năm 1979: Giải phóng mặt bằng bên sông
Ngày 12 tháng 1 năm 1983: Ngăn sông Đà đợt 1
Ngày 09 tháng 1 năm 1986: Ngăn sông Đà đợt 2
Ngày 30 tháng 12 năm 1988: Tổ máy số 1 hòa lưới điện quốc gia.
Ngày 04 tháng 4 năm 1994: Tổ máy số 8 hòa lưới điện quốc gia.
Ngày 20 tháng 12 năm 1994: Sau 15 năm xây dựng công trình, trong đó có 9 năm vừa quản lý vận hành vừa giám sát thi công các tổ máy, nhà máy thủy điện Hoà Bình đã được khánh thành.
Ngày 19 tháng 10 năm 2007: Ông Đào Văn Hưng, Chủ tịch Hội đồng quản trị EVN đã ký Quyết định số 845/QĐ-EVN-HĐQT về việc phê duyệt Quyết toán vốn đầu tư công trình Nhà máy Thủy điện Hoà Bình với giá trị là: 1,904,783,458,926 VND.
Thông số kĩ thuật chính.
Thủy điện Hòa Bình có thiết kế mực nước dâng bình thường cao 117 m;
Mực nước gia cường: 120 m;
Mực nước chết: 80m;
Các thông số trên đo độ cao so với mực nước biển;
Diện tích hồ chứa: 208 km²;
Dung tích toàn bộ hồ chứa: 9,45 tỉ mét khối nước;
Công suất lắp máy: 1.920 MW, gồm 8 tổ máy;
Điện lượng bình quân hằng năm: 8,6 tỉ KWh
Cao độ phát điện cột nước là 70m theo chiều thẳng đứng.
Đập thủy điện Hòa Bình có 12 cửa xả và 8 tổ máy phát điện;
Mỗi tổ máy có công suất 240 MW;
Vốn đầu tư: 1.904.783.458.926 đồng (150 triệu Đô la Mỹ) - Tỉ giá năm 1994.
Công dụng.
Công trình phòng chống lũ lụt của tỉnh và vùng Đồng bằng sông Hồng.
Sông Đà là một trong ba phụ lưu chính của hệ thống sông Hồng chiếm 55% lượng nước. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có thủ đô Hà Nội.
Phát điện.
Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng Đường dây 500 kV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền Trung Việt Nam. Nhà máy cung cấp khoảng 27% (Thời điểm trước năm 2010) nguồn điện của cả nước.
Cung cấp nước tưới tiêu.
Đập thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô. Điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông.
Phục vụ giao thông - vận tải.
Cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004, công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này.
Tặng thưởng.
Danh hiệu Anh hùng thời kỳ đổi mới (tháng 6 năm 1998)
Huân chương Lao động hạng Nhất, Nhì, Ba.
24 Huân chương Lao động hạng Nhì, Ba cho các đơn vị trực thuộc và cá nhân
5 cờ luân lưu của Chính phủ
2 cờ luân lưu của Tổng liên đoàn lao động Việt Nam
2 cúp kim cương - chứng nhận chất lượng quốc tế.
Nhiều cờ, bằng khen của các Bộ, các cấp, các ngành và tỉnh Hòa Bình.
Tổn thất.
Trong quá trình xây dựng thủy điện Hòa Bình, 168 người đã hi sinh (do tai nạn lao động hoặc bệnh tật), trong đó có 11 chuyên gia Liên Xô. Đài tưởng niệm những người này được xây dựng cách nhà máy thủy điện về phía hạ lưu sông Đà khoảng 300 mét.
Thư gửi thế hệ năm 2100.
Tại sân truyền thống nhà máy Thủy điện Hòa Bình có một khối bê tông hình chóp cụt, trên đó có tấm biển thép khắc dòng chữ: "Nơi lưu giữ bức thư của những người xây dựng Thủy điện Hòa Bình gửi thế hệ mai sau. Thư được mở vào ngày ngày 1 tháng 1 năm 2100". "Kho lưu trữ" lá thư thực chất chỉ là một khối bê tông hình chóp cụt tứ giác đều (4 mặt bên hình thang cân) có cạnh đáy 2 mét, chiều cao 1,8 mét, cạnh trên 0,8 mét, nặng gần 10 tấn. Sau khi được Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng và đồng chí Đỗ Mười đồng ý, lãnh đạo Tổng Công ty Xây dựng nhà máy Thủy điện Hòa Bình mời một số nhà văn, nhà báo, nhà trí thức tham gia viết thư. Tuy nhiên, đồng chí Đỗ Mười cũng khuyên là vì Việt Nam chưa có tục lệ này, cho nên không được "chôn" vào lòng đập mà nên đặt ở chỗ nào trang trọng. Và thế là sau khi bàn bạc với chuyên gia Liên Xô, lãnh đạo tổng công ty quyết định đặt lá thư đó vào lòng khối bê tông. Lá thư hiện nay để trong khối bê tông là một công trình tập thể. Sau khi lá thư được hoàn chỉnh về nội dung, một cán bộ viết chữ đẹp được giao nhiệm vụ chép hai bản đó với tiếng Việt và tiếng Nga bằng mực Tàu.
Thơ ca và nghệ thuật.
Nhà thơ Quang Huy đã sáng tác bài thơ "Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà" vào tháng 11 năm 1979, khi nhà máy mới được khởi công. Bài thơ lấy hình ảnh một cô gái Nga đang chơi một bản nhạc bằng chiếc đàn balalaika bên sông Đà để nói lên tình hữu nghị Việt-Xô và sự giúp đỡ của nhân dân Liên Xô trong việc xây dựng nhà máy thủy điện Hòa Bình. Bài thơ đạt giải nhất trong cuộc thi thơ năm 1983 của Hội hữu nghị Việt Nam-Liên Xô
Có 14 nhạc sĩ đã phổ nhạc cho bài thơ này, trong đó phiên bản của nhạc sĩ An Thuyên đạt giải nhất của Hội Âm nhạc năm 1984.
Một đoạn trích của bài thơ "Tiếng đàn Balalaika trên sông Đà" đã được đưa vào sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 của Nhà Xuất bản Giáo dục Việt Nam.
Nguy cơ.
Các chuyên gia đã tính toán và đưa ra cảnh báo: "Nếu vỡ đập thủy điện Hòa Bình thì toàn bộ 6 tỉnh đồng bằng sông Hồng sẽ bị cuốn trôi ra biển chỉ trong một ngày và Hà Nội sẽ ngập dưới 30 mét nước tính từ chỗ cao nhất của nhà ga Hà Nội." Do đó, cần phải chuẩn bị sẵn kịch bản đối phó nếu lũ quá lớn nếu đập thủy điện không chống chọi được
Tháng 10 năm 2017, sau 21 năm, thủy điện Hòa Bình - dung tích 9,74 tỉ m3 - đã phải xả 8/12 cửa xả đáy sau nhiều đợt mưa lớn kéo dài làm nước dâng cao hơn giới hạn cho phép gần 5 mét và đạt mức 117m so với mức tối đa cho phép là 120m. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.616249 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Chợ 19 tháng 12 (thường gọi là Chợ Âm Phủ) là chợ họp hàng ngày trên suốt chiều dài phố "19 tháng 12", Quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Chợ nổi tiếng với món thịt chó.
"Phố 19 tháng 12" là một phố ngắn nằm cạnh Tòa án Nhân dân Hà Nội, một đầu đâm ra phố Lý Thường Kiệt, đầu kia đâm ra phố Hai Bà Trưng. Thời thuộc Pháp, phố có tên "Rue Simoni", tên một viên quan Pháp đã có thời kỳ giữ chức Thống sứ Bắc Kỳ (1909-1912). Năm 1945 - 1946, phố được đổi tên thành phố Lê Chân.
Năm 1946-1947, toàn quốc kháng chiến nổ ra ở Hà Nội, nơi đây thành khu mộ tập thể của các nạn nhân chết trong khu vực Hàng Bông - Cửa Nam. chính vì khu mộ tập thể nên khi động thổ xây dựng các công trình không được, phải làm chợ chỉ chuyên bán thịt chó đuổi ma tà. Năm 1986, di cốt các nạn nhân chiến tranh được chuyển đi nơi khác và phố được đặt tên mới là "Phố 19 tháng 12" để kỷ niệm ngày Toàn quốc Kháng chiến và tưởng niệm các nạn nhân chiến tranh trong thời gian đó.
Chợ bắt đầu họp rải rác trên phố từ thời Hà Nội bị ném bom trong Chiến tranh Việt Nam, khi một số người buôn bán dạt từ chợ Hàng Da và Hàng Bè về để tránh bom Mỹ. Chợ tạm đông dần. Năm 1986, sau khi di cốt nạn nhân chiến tranh được chuyển đi, chợ được chính thức đặt tên là "Chợ 19 tháng 12", nhưng dân gian vẫn quen gọi là "Chợ Âm Phủ".
Cuối năm 2008, chợ này nằm trong kế hoạch xây lại thành trung tâm thương mại với một lối đi cho xe thành "Tổ hợp công trình thương mại - dịch vụ 19/12" Tuy vậy sau đó không xây trung tâm thương mại ở đây, chợ bị giải tỏa và phố 19 tháng 12 trở thành phố đi bộ, bán sách. | 8 | 8_đường_sông_tuyến_đảo | 0.858643 | Địa lý & Hành chính | null | null |
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.