id
stringlengths
2
8
url
stringlengths
31
306
title
stringlengths
1
102
text
stringlengths
32
113k
2921354
https://vi.wikipedia.org/wiki/Catocala%20eliza
Catocala eliza
Catocala eliza là một loài bướm đêm trong họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Catocala
873793
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polyplectropus%20analis
Polyplectropus analis
Polyplectropus analis là một loài Trichoptera trong họ Polycentropodidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai. Tham khảo Động vật khu vực sinh thái Indomalaya Polyplectropus
578011
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pajaroncillo
Pajaroncillo
Pajaroncillo là một đô thị trong tỉnh Cuenca, cộng đồng tự trị Castile-La Mancha Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là người với mật độ người/km². Đô thị này có cự ly km so với tỉnh lỵ Cuenca. Tham khảo Đô thị ở Cuenca
1578377
https://vi.wikipedia.org/wiki/Newton%2C%20Texas
Newton, Texas
Newton là một thành phố thuộc quận Newton, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 2478 người. Dân số Dân số năm 2000: 2459 người. Dân số năm 2010: 2478 người. Tham khảo Xem thêm American Finder Thành phố của Texas Quận Newton, Texas
2535511
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glyphomitrium%20australe
Glyphomitrium australe
Glyphomitrium australe là một loài rêu trong họ Ptychomitriaceae. Loài này được (Hampe) Mitt. mô tả khoa học đầu tiên năm 1882. Chú thích Liên kết ngoài Glyphomitrium Thực vật được mô tả năm 1882
746554
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mitromorpha%20philippinensis
Mitromorpha philippinensis
Mitromorpha philippinensis là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Mitromorphidae, họ ốc cối. Miêu tả Phân bố Chú thích Tham khảo P Động vật được mô tả năm 2001
928281
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pentamesa%20gongana
Pentamesa gongana
Pentamesa gongana là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Wang miêu tả khoa học năm 1992. Chú thích Tham khảo Pentamesa
2920268
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euxoa%20melana
Euxoa melana
Euxoa melana là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Euxoa
1699134
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pristimantis%20uisae
Pristimantis uisae
Eleutherodactylus uisae là một loài động vật lưỡng cư trong họ Strabomantidae, thuộc bộ Anura. Loài này được Lynch mô tả khoa học đầu tiên năm 2003. Tham khảo U Động vật được mô tả năm 2003 Động vật lưỡng cư Colombia Động vật lưỡng cư Andes Động vật đặc hữu Colombia
2153300
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heteroptilis
Heteroptilis
Heteroptilis là chi thực vật có hoa trong họ Apiaceae. Chú thích Tham khảo
2326831
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brexia%20madagascariensis
Brexia madagascariensis
Brexia madagascariensis là một loài thực vật có hoa trong họ Dây gối. Loài này được (Lam.) Thouars ex Ker Gawl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1823. Hình ảnh Chú thích Liên kết ngoài Brexia Thực vật được mô tả năm 1823
1926306
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tristachya%20superba
Tristachya superba
Tristachya superba là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (De Not.) Schweinf. & Asch. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1867. Chú thích Liên kết ngoài Tristachya Thực vật được mô tả năm 1867
2357433
https://vi.wikipedia.org/wiki/Garcinia%20lanceola
Garcinia lanceola
Garcinia lanceola là một loài thực vật có hoa trong họ Bứa. Loài này được Ridl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1938. Chú thích Liên kết ngoài L Thực vật được mô tả năm 1938
1345159
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alfenas
Alfenas
Alfenas là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 848,32 km², dân số năm 2007 là 74505 người, mật độ 91,3 người/km². Tham khảo Liên kết ngoài Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 Đô thị bang Minas Gerais
1811718
https://vi.wikipedia.org/wiki/Emilia%20baumii
Emilia baumii
Emilia baumii là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (O.Hoffm.) S.Moore mô tả khoa học đầu tiên năm 1927. Chú thích Tham khảo Chi Chua lè Thực vật được mô tả năm 1927
1331064
https://vi.wikipedia.org/wiki/M%C3%A8o%20%C4%91%E1%BB%91m%20Oncilla
Mèo đốm Oncilla
Mèo đốm Oncilla (danh pháp hai phần: Leopardus tigrinus), là một loài động vật thuộc họ Mèo được tìm thấy trong các rừng mưa nhiệt đới Trung và Nam Mỹ. Nó là một họ hàng gần của ocelot và margay, và có bộ lông màu vàng nâu phong phú, phát hiện với đốm màu đen. Oncilla là một động vật sống về đêm săn động vật gặm nhấm và các loài chim. Oncilla giống như margay và ocelot, nhưng nhỏ hơn, với thân hình mảnh mai và mõm hẹp. Nó có chiều dài từ 38 đến 59 cm, cộng với chiều dài đuôi 20 đến 42 cm. Trong khi các kích thước này là hơi dài hơn so với mèo nhà trung bình, mèo đốm oncilla nhìn chung là nhẹ hơn, trọng lượng 1,5 đến 3 kg. Lông dày và mềm, màu sắc khác nhau, từ màu nâu đến màu vàng nâu tối, với nhiều đốm đen trên lưng và hai bên sườn. Dưới là nhạt với những đốm đen và đuôi được bao quanh. Hình ảnh Chú thích Tham khảo T Động vật có vú Argentina Động vật có vú Bolivia Động vật có vú Brasil Động vật có vú Colombia Động vật có vú Ecuador Động vật có vú Guyana Động vật có vú Costa Rica Động vật có vú Paraguay Động vật có vú Peru Động vật có vú Venezuela Động vật được mô tả năm 1775 Động vật Guianas Động vật có vú Nam Mỹ
751626
https://vi.wikipedia.org/wiki/Skenella%20wareni
Skenella wareni
Skenella wareni là một loài ốc biển nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Cingulopsidae. Phân bố Miêu tả Độ dài vỏ lớn nhất ghi nhận được là 1.64 mm. Môi trường sống Độ sâu nhỏ nhất ghi nhận được là 15 m. Độ sâu lớn nhất ghi nhận được là 24 m. Chú thích Tham khảo Skenella
1389611
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euscelidia%20cobice
Euscelidia cobice
Euscelidia cobice là một loài ruồi trong họ Asilidae. Euscelidia cobice được Dikow miêu tả năm 2003. Loài này phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai. Chú thích Tham khảo Euscelidia
1177838
https://vi.wikipedia.org/wiki/Proasellus%20cretensis
Proasellus cretensis
Proasellus cretensis là một loài chân đều trong họ Asellidae. Loài này được Pesce & Argano miêu tả khoa học năm 1980. Chú thích Tham khảo Proasellus
930034
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scelolyperus%20megalurus
Scelolyperus megalurus
Scelolyperus megalurus là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Wilcox miêu tả khoa học năm 1965. Chú thích Tham khảo Scelolyperus
707512
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stilla%20flexicostata
Stilla flexicostata
Stilla flexicostata là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Conidae. Miêu tả Phân bố Chú thích Tham khảo Stilla
1773122
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phrynocephalus%20roborowskii
Phrynocephalus roborowskii
Phrynocephalus roborowskii là một loài thằn lằn trong họ Agamidae. Loài này được Bedriaga mô tả khoa học đầu tiên năm 1906. Chú thích Tham khảo Phrynocephalus Động vật được mô tả năm 1906
809450
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%E1%BB%B7%20Quy
Tỷ Quy
Tỷ Quy () là một huyện thuộc địa cấp thị Nghi Xương, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Trên địa bàn huyện có điểm cực đông của khúc hẹp Trường Giang. Hầu hết diện tích của huyện là đồi núi với các ngành nông nghiệp cơ bản và trồng chè. Ngoài ra, cũng có một số mỏ than nhỏ ở các khu vực vùng núi và được vận chuyển theo đường sông. Trung tâm đô thị của huyện nằm sát bên trái bờ hồ đập Tam Hiệp, đây là đập thủy điện ngăn sông lớn nhất của Trung Quốc và cũng là đập thủy điện lớn nhất Thế giới. Trấn Hương Thủy Điền Bá (水田坝乡) Tiết Than (泄滩乡) Mai Gia Hà (梅家河乡) Ma Bình (磨坪乡) Tham khảo Liên kết ngoài Trang thông tin chính thức Đơn vị cấp huyện Hồ Bắc Nghi Xương Thành phố tỉnh Hồ Bắc
629545
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calophasidia%20radiata
Calophasidia radiata
Calophasidia radiata là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó là loài đặc hữu của Tây Úc. Liên kết ngoài Australian Moths Online Australian Faunal Directory Chú thích Calophasidia
1896105
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cussonia%20gamtoosensis
Cussonia gamtoosensis
Cussonia gamtoosensis là một loài thực vật có hoa trong Họ Cuồng cuồng. Loài này được Strey mô tả khoa học đầu tiên năm 1975. Chú thích Liên kết ngoài Cussonia Thực vật được mô tả năm 1975
3164093
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Sicard%20%28DD-346%29
USS Sicard (DD-346)
USS Sicard (DD-346/DM-21/AG-100) là một tàu khu trục lớp Clemson được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt theo tên Chuẩn đô đốc Montgomery Sicard (1836-1900), người tham gia cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. Được cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ và xếp lại lớp với ký hiệu lườn DM-21, Sicard đã tiếp tục phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi xung đột kết thúc. Nó ngừng hoạt động năm 1945 và bị bán để tháo dỡ năm 1946. Thiết kế và chế tạo Sicard được đặt lườn vào ngày 18 tháng 6 năm 1919 tại xưởng tàu của hãng Bath Iron Works ở Bath, Maine. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 4 năm 1920, được đỡ đầu bởi bà M. H. Sicard, con dâu Chuẩn đô đốc Sicard; và được đưa ra hoạt động vào ngày 9 tháng 6 năm 1920 dưới quyền chỉ huy tạm thời của Đại úy Hải quân J. K. Davis. Đến ngày 18 tháng 6 năm 1920, Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân G. C. Dichman, chính thức tiếp nhận quyền chỉ huy con tàu. Lịch sử hoạt động Giữa hai cuộc thế chiến Sicard gia nhập Hải đội Khu trục trực thuộc Hạm đội Đại Tây Dương tại Newport, Rhode Island vào ngày 26 tháng 6 năm 1920. Nó hoạt động tại vùng bờ Tây Hoa Kỳ, vùng biển Caribe và vùng kênh đào Panama cho đến năm 1922, tham gia các cuộc thực tập hạm đội và thực hành ngư lôi, các cuộc cơ động hạm đội, và được sửa chữa tại Xưởng hải quân New York. Vào ngày 20 tháng 1 năm 1921, nó băng qua kênh đào Panama, đi sang khu vực Thái Bình Dương để tham gia cuộc tập trận và cơ động phối hợp giữa các hạm đội Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, đi đến Callao, Peru, và quay trở về khu vực Đại Tây Dương vào ngày 24 tháng 2. Sau khi thực hành cơ động mùa Xuân tại vùng Tây Ấn, Sicard đi đến Xưởng hải quân Brooklyn vào ngày 27 tháng 4 năm 1922 để được sửa chữa và trang bị để chuẩn bị nhận nhiệm vụ tại Trạm Á Châu. Nó đi đến Newport vào ngày 15 tháng 6 để nhận thiết bị ngư lôi, và khởi hành cùng với hải đội của nó vào ngày 20 tháng 6 để đến nhiệm sở mới, đi ngang qua Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương. Hải đội đi đến Yên Đài, Trung Quốc vào ngày 26 tháng 8 và gia nhập Hạm đội Á Châu, nơi nó hoạt động trong bảy năm tiếp theo, đặt căn cứ tại Yên Đài và Thanh Đảo trong mùa Hè và Manila, Philippines vào mùa Đông. Nó được đại tu định kỳ tại Xưởng hải quân Cavite, tham gia các cuộc thực tập và cơ động hạm đội, bảo vệ quyền lợi của Hoa Kỳ tại Trung Quốc, Nhật Bản và Philippines, cũng như tham gia các nhiệm vụ tuần tra và hộ tống tại bờ biển Trung Quốc và trên sông Dương Tử trong những giai đoạn bất ổn tại đây. Vào các ngày 30 và 31 tháng 8 năm 1923, khi trận động đất Kantō phá hủy một phần lớn các thành phố Tokyo và Yokohama ở Nhật Bản, Tổng tư lệnh Hạm đội Á Châu, Đô đốc Edwin Anderson, Jr. đã phái mọi tàu chiến sẵn có dưới quyền đi đến khu vực thảm họa với hàng tiếp liệu khẩn cấp để trợ giúp. Sicard đi đến cảng Yokohama vào ngày 11 tháng 9, và hoạt động như một tàu biệt phái đến Tokyo, vận chuyển người tị nạn khỏi thành phố. Từ ngày 25 tháng 9 đến ngày 3 tháng 10, nó thả neo tại cảng Nagasaki như một tàu liên lạc, vì mọi dịch vụ thông tin liên lạc của Tokyo và Yokohama đều không hoạt động. Phản ứng nhanh của Sicard cùng các đơn vị khác của Hạm đội Á Châu đã giúp cứu được sinh mạng hàng ngàn thường dân, và nhận được lời cám ơn từ chính phủ Nhật. Từ ngày 26 tháng 4 đến ngày 30 tháng 6 năm 1924, nó lại được phái đi trong một nhiệm vụ đặc biệt nhân chuyến bay của bốn máy bay Lục quân Hoa Kỳ vòng quanh trái đất. Nó đã đi từ Hong Kong đến Rangoon, Miến Điện và Calcutta, Ấn Độ, canh phòng những chiếc máy bay và duy trì liên lạc. Trong những năm tiếp theo, các chuyến tuần tra của nó tại vùng biển Trung Quốc trở nên thường xuyên do cuộc xung đột giữa lực lượng Quốc gia của Quốc Dân Đảng dưới sự chỉ huy của Tưởng Giới Thạch chống lại các lãnh chúa địa phương phía Bắc. Được thay phiên bởi một hải đội khu trục khác, Sicard và hải đội của nó khởi hành từ Yokohama, Nhật Bản vào ngày 22 tháng 7 năm 1929 để quay về Hoa Kỳ, về đến San Diego, California vào ngày 17 tháng 8. Vào tháng 10 năm 1929, Sicard gia nhập Hải đội Khu trục trực thuộc Hạm đội Chiến trận, và trong nhiều năm đã hoạt động chủ yếu tại vùng bờ Tây Hoa Kỳ, định kỳ được đại tu tại Xưởng hải quân Mare Island. Nó tham gia các cuộc tập trung tập trận hạm đội, thực hành chiến trận và phóng ngư lôi, kéo mục tiêu để huấn luyện tàu ngầm và các phi đội máy bay, canh phòng máy bay cũng như thực hiện các chuyến đi huấn luyện cho Hải quân Dự bị. Từ ngày 15 tháng 2 đến ngày 21 tháng 6 năm 1930, nó đi sang khu vực Đại Tây Dương cùng Hạm đội Chiến trận, tham gia cuộc tập trung Hạm đội Hoa Kỳ cho cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội X tổ chức tại vùng biển Caribe, rồi viếng thăm New York và Hampton Roads cho cuộc Duyệt binh Hạm đội Tổng thống vào ngày 20 tháng 5. Nó cũng tham gia Vấn đề Hạm đội XI tại vùng kênh đào Panama và biển Caribe từ ngày 4 tháng 2 đến ngày 15 tháng 4 năm 1931; Vấn đề Hạm đội XII tại vùng biển Hawaii từ ngày 1 tháng 2 đến ngày 22 tháng 3 năm 1932. Trong giai đoạn từ ngày 24 tháng 3 đến ngày 1 tháng 10 năm 1934, nó được đưa về Hải đội Dự bị Luân phiên 20 tại San Diego, và sau đó gia nhập Hải đội Khu trục 4 để tiếp tục phục vụ cùng Hạm đội Chiến trận tại Thái Bình Dương. Đang khi tham gia cuộc tập trận Vấn đề Hạm đội XVI ngoài khơi Diamond Head, Oahu thuộc quần đảo Hawaii vào ngày 12 tháng 5 năm 1935, Sicard bị tàu khu trục húc phải khiến nó bị hư hại nặng. Nó được chiếc kéo về Xưởng hải quân Trân Châu Cảng để sửa chữa trước khi gia nhập trở lại hải đội để hoạt động vào tháng 8. Đến tháng 5 năm 1937, nó đi vào Xưởng hải quân Trân Châu Cảng để được cải biến thành một tàu rải mìn hạng nhẹ, và vào ngày 20 tháng 6 được xếp lại lớp với ký hiệu lườn mới DM-21. Ngoại trừ một chuyến đi ngắn đến vùng bờ Tây để sửa chữa và huấn luyện từ ngày 20 tháng 9 đến ngày 20 tháng 12 năm 1937, nó hoạt động chủ yếu tại vùng biển Hawaii cho đến năm 1941, tham gia các cuộc thực hành chiến thuật và huấn luyện, tập trận hạm đội và cơ động, các cuộc tập trận phối hợp Hải-Lục quân, thực tập phóng ngư lôi và rải mìn, cùng các nhiệm vụ trinh sát chung quanh Midway và các đảo ngoại vi. Thế Chiến II Sicard đi vào Xưởng hải quân Trân Châu Cảng vào ngày 21 tháng 11 năm 1941, và đang được đại tu khi máy bay từ sáu tàu sân bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản đã bất ngờ tập kích các đơn vị hạm đội tại Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12. Con tàu chỉ có đạn dược cho các khẩu súng máy.30-caliber, nhưng đã giúp vào việc phòng thủ căn cứ khi gửi người sang vận hành các khẩu pháo trên tàu tuần dương hạng nặng và tàu khu trục . Hoàn tất việc đại tu vào ngày 28 tháng 1 năm 1942, Sicard rời Trân Châu Cảng để tuần tra chống tàu ngầm về phía Tây Nam Oahu, nơi nó hộ tống tàu bè trong phạm vi canh phòng và truy tìm tàu ngầm đối phương. Từ ngày 1 đến ngày 9 tháng 4, nó giúp rải một bãi mìn phòng thủ lớn tại French Frigate Shoals, khoảng về phía Tây Bắc Oahu, và từ ngày 10 đến ngày 18 tháng 4 giúp vào việc thiết lập một trạm vô tuyến và khảo sát thời tiết của Thủy quân Lục chiến trên đảo Eastern thuộc nhóm đảo san hô Midway. Vào ngày 19 tháng 6, nó khởi hành từ Trân Châu Cảng cùng các tàu rải mìn hạng nhẹ khác, nhận mìn tại Seattle, Washington; và trong tháng 7 đã rải một bãi mìn phòng thủ ngoài khơi Kodiak, Alaska. Khi quay về Trân Châu Cảng vào ngày 27 tháng 7, nó tiếp nối các hoạt động tuần tra tại chỗ trước khi lại lên đường vào ngày 16 tháng 9, hướng đến quần đảo Aleut để rải một bãi mìn khác cũng như tiến hành các cuộc tuần tra. Nó khởi hành vào ngày 22 tháng 11, quay trở về San Francisco để đại tu. Hoàn tất việc sửa chữa vào ngày 22 tháng 12, Sicard tham gia các cuộc thực hành đổ bộ ngoài khơi San Diego; rồi lên đường từ San Francisco vào ngày 24 tháng 4 năm 1943 cùng một đoàn tàu vận tải chuyển quân cho cuộc tấn công lên Attu thuộc quần đảo Aleut. Nó được dự định hoạt động như tàu kiểm soát tàu đổ bộ trong chiến dịch; nhưng trong đêm trước ngày đổ bộ nó mắc tại nạn va chạm với tàu khu trục trong thời tiết sương mù dày đặc. Sicard phải kéo McDonough quay trở lại đảo Adak, rồi tiếp tục đi đến San Francisco để sửa chữa, kéo dài cho đến ngày 29 tháng 7. Nó may mắn hơn trong chiến dịch đổ bộ lên Kiska, thành công trong việc hướng dẫn các tàu tấn công đến bãi đổ bộ từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 8. Sau đó nó hoạt động tuần tra và hộ tống vận tải tại chỗ trong khu vực Aleut, trước khi hộ tống một đoàn tàu đi Trân Châu Cảng, đến nơi vào ngày 15 tháng 9. Sicard rời Trân Châu Cảng vào ngày 24 tháng 9 để đi đến khu vực hoạt động mới tại Tây Nam Thái Bình Dương. Nó hộ tống tàu bè đi lại giữa Nouméa và Espiritu Santo, rồi tiếp tục đi đến vịnh Purvis, nơi nó cùng các tàu chị em và hình thành nên một đội rải mìn nhanh. Đội lên đường vào ngày 31 tháng 10 để rải một bãi mìn tấn công ngoài khơi đảo Bougainville. Ngay khi đội hoàn thành nhiệm vụ và bắt đầu rút lui vào sáng sớm ngày 2 tháng 11, họ bị chiếu sáng bởi pháo sáng thả dù từ máy bay đối phương. Không lâu sau đó một lực lượng tàu tuần dương bạn tiếp cận với tốc độ cao theo hướng đối diện và nổ súng vào những kẻ thù vô hình. Nhóm của Sicard vô tình đã đưa những lực lượng đối địch gặp nhau trong Trận chiến vịnh Nữ hoàng Augusta. Sicard cùng với bốn tàu khu trục rải mìn khác đã rải thêm một bãi mìn ngoài khơi Bougainville vào ngày 8 tháng 11, và sau một giai đoạn ngắn làm nhiệm vụ hộ tống, đã rải một bãi mìn thứ ba ngoài khơi quần đảo Shortland vào ngày 24 tháng 11. Từ tháng 12 năm 1943 đến tháng 4 năm 1944, nó hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Espiritu Santo, Guadalcanal, vịnh Purvis, Nouméa, Fiji, New Zealand và Kwajalein. Vào ngày 1 tháng 5 năm 1944, nó tiếp nối nhiệm vụ rải mìn khi rải hai dãi bãi mìn ngoài khơi đảo Buka vào các ngày 2 và 10 tháng 5. Sau một chuyến hộ tống vận tải khác, nó quay trở về Alameda, California vào ngày 11 tháng 7 để đại tu. Sicard hoàn tất việc sửa chữa vào ngày 20 tháng 9 năm 1944, và sau một đợt ôn tập huấn luyện đã lên đường đi Trân Châu Cảng vào ngày 4 tháng 10. Sau một đợt bảo trì khác từ ngày 10 tháng 10 đến ngày 16 tháng 11, nó làm nhiệm vụ huấn luyện tàu ngầm, tiến hành các cuộc thực tập hàng ngày cùng tàu ngầm ngoài khơi Oahu cho đến ngày 9 tháng 1 năm 1945, rồi làm nhiệm vụ tương tự tại Midway cho đến ngày 2 tháng 9. Trong giai đoạn này, nó được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn mới AG-100 từ ngày 5 tháng 6 năm 1945. Sau khi chiến tranh kết thúc, nó đi đến Xưởng hải quân Philadelphia vào ngày 21 tháng 10 để chuẩn bị ngừng hoạt động. Sicard được cho xuất biên chế vào ngày 21 tháng 11 năm 1945; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 19 tháng 12 năm 1945, và nó bị bán cho hãng Hugo Neu ở New York để tháo dỡ vào ngày 22 tháng 6 năm 1946. Phần thưởng Sicard được tặng thưởng hai Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II. Tham khảo Bài này có các trích dẫn từ nguồn :en:Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: http://www.history.navy.mil/danfs/s12/sicard.htm Liên kết ngoài http://www.navsource.org/archives/05/346.htm Lớp tàu khu trục Clemson Tàu khu trục của Hải quân Hoa Kỳ Tàu rải mìn của Hải quân Hoa Kỳ Tàu phụ trợ của Hải quân Hoa Kỳ Tàu rải mìn trong Thế Chiến II
2609528
https://vi.wikipedia.org/wiki/Erannis%20medio-obscuraria
Erannis medio-obscuraria
Erannis medio-obscuraria là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Erannis
2374157
https://vi.wikipedia.org/wiki/Drypetes%20gardneri
Drypetes gardneri
Drypetes gardneri là một loài thực vật có hoa trong họ Putranjivaceae. Loài này được (Thwaites) Pax & K.Hoffm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1922. Chú thích Liên kết ngoài Drypetes Thực vật được mô tả năm 1922
1345692
https://vi.wikipedia.org/wiki/Par%C3%A1%20de%20Minas
Pará de Minas
Pará de Minas là một đô thị thuộc bang Minas Gerais, Brasil. Đô thị này có diện tích 550,991 km², dân số năm 2007 là 79852 người, mật độ 148,3 người/km². Tham khảo Liên kết ngoài Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 Đô thị bang Minas Gerais
231898
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leave%20Out%20All%20the%20Rest
Leave Out All the Rest
"Leave Out All the Rest" là một bài hát của ban nhạc rock người Mỹ Linkin Park, được phát hành làm đĩa đơn thứ 5 và cũng là đĩa đơn cuối cùng trong album thứ 3 của họ, Minutes to Midnight. Nhờ doanh số cao của bản kỹ thuật số bài hát trong tuần phát hành album, nó đã lọt vào bảng xếp hạng Billboard Pop 100 trong tuần đó. Đĩa đơn được phát hành vào ngày 15 tháng 7 năm 2008. Hoàn cảnh Tựa đề ban đầu của bài hát là "Fear" và "When My Time Comes". Trong lúc sáng tác, ban nhạc đã trải qua hơn 30 phiên bản lời bái hát trước khi hoàn thành phiên bản cuối cùng cho album. Bài hát kết hợp nhiều âm tổng hợp và âm mẫu với tiếng guitar và trống cùng giọng hát mạnh mẽ. Trong một bài phỏng vấn của Kerrang! về ban nhạc và album, giọng ca Chester Bennington đã phát biểu về bài hát, “Ngay từ đầu chúng tôi biết đây sẽ là một đĩa đơn, vì vậy chúng tôi đã làm việc rất nỗ lực để đảm bảo nó có ca từ tuyệt vời. Tôi hát câu 'Pretending someone else can come and save me from myself' ('Giả vờ như ai đó có thể đến và cứu tôi khỏi chính mình') vì nó giống như một lời xin lỗi, như thể tôi đang bước tiếp nhưng tôi muốn mọi người nhớ đến những điều tốt đẹp chứ không phải những điều xấu. Chủ yếu bài hát nói về sự khiêm nhường." Mike Shinoda cũng đã cho rằng Rick Rubin (nhà sản xuất của Minutes to Midnight) là người đầu tiên nói "Bài này nghe như một đĩa đơn tầm cỡ vậy". Góp mặt Bài hát được đưa vào nhạc phim nguyên bản của bộ phim Twilight năm 2008. Nó được phát trong phần danh đề. Ngoài ra, màn trình diễn từ "Road to Revolution" cũng có trong DVD phiên bản đặc biệt của Twilight. "Leave Out All the Rest" là tiêu đề của một tập CSI được phát sóng vào ngày 6 tháng 11 năm 2008. Ban nhạc đã thỏa thuận với CBS để đưa bài hát vào tập phim. Nó bao gồm một số nhạc tố của bài hát được phát ở phần mở đầu và kết thúc của tập phim. Vào năm 2011, loạt phim hành động Alarm für Cobra 11 của Đức sử dụng một phần của bài hát (đoạn điệp khúc) trong một cảnh buồn, đây là lần thứ 5 một bài hát của Linkin Park được sử dụng trong loạt phim. Video âm nhạc Trong một cuộc phỏng vấn với MTV, Mike nói rằng video, do Joe Hahn đạo diễn, lấy bối cảnh trong một thế giới tương lai, chịu ảnh hưởng của khoa học viễn tưởng, và mô tả về cuộc sống hàng ngày của các thành viên ban nhạc sẽ như thế nào nếu họ sống ngoài không gian. Ban nhạc sống trong một môi trường nhân tạo, hoang tàn đang trên một hành trình đi khắp thiên hà. Lúc đầu, họ dành thời gian để thực hiện các công việc cơ bản, nhưng sau đó trọng lực trên tàu bị mất, khiến các thành viên trôi nổi vào Mặt trời hoặc một ngôi sao nào đó. Video không có cảnh trình diễn nhạc nào, mặc dù Chester Bennington hát trong hầu hết các cảnh solo của ông. Đoạn video nhạc chịu ảnh hưởng bởi bộ phim Sunshine của Anh, mượn hình ảnh và khái niệm tương tự. Hahn nói: Đoạn video bị rò rỉ vào ngày 30 tháng 5 năm 2008, cùng ngày ban nhạc nói rằng buổi ra mắt video sẽ diễn ra vào ngày 2 tháng 6 năm 2008. Nó nằm trong 10 bài hát hàng đầu của tuần trên VH1. Tính đến tháng 1 năm 2021, bài hát đã có 165 triệu lượt xem trên YouTube. Doanh số thương mại Bài hát đã đứng 1 tuần trên Billboard Pop 100 mà không được phát hành chính thức dưới dạng đĩa đơn, ở vị trí 98. Bài hát ra mắt trên Billboard Hot Modern Rock Tracks của Mỹ ở vị trí thứ 35 và đạt đỉnh ở vị trí thứ 11. Đây là một trong những bài hát có thứ hạng thấp nhất của Linkin Park ở Anh cho đến nay, đạt vị trí thứ 90, cũng như trên bảng xếp hạng Billboard Modern Rock, chỉ đạt vị trí thứ 11. "Leave Out All the Rest" ra mắt trên Billboard Hot 100 ở vị trí 99 và Billboard Hot Digital Songs ở vị trí 72. Đĩa đơn này sau đó đã đạt vị trí thứ 94 trên Billboard Hot 100. Mặc dù bài hát có doanh số tầm trung, đĩa đơn vẫn được chứng nhận Vàng bởi RIAA vào năm 2009, và sau đó đạt Bạch kim vào năm 2017. Danh sách ca khúc Xếp hạng Bảng xếp hạng cuối năm Chứng nhận Tham khảo Đĩa đơn của Warner Bros. Records Bài hát sản xuất bởi Rick Rubin Rock ballad Bài hát của Linkin Park Đĩa đơn năm 2008 Bài hát năm 2007 Sử dụng Certification Table Entry cho United States Bài hát sáng tác bởi Mike Shinoda
890664
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lasioglossum%20gilesi
Lasioglossum gilesi
Lasioglossum gilesi là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Cockerell mô tả khoa học năm 1905. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Lasioglossum Động vật được mô tả năm 1905
586776
https://vi.wikipedia.org/wiki/Meridulia
Meridulia
Meridulia là một chi bướm đêm thuộc họ Tortricidae. Các loài Meridulia chaenostium Razowski & Wojtusiak, 2006 Meridulia meridana Razowski & Wojtusiak, 2006 Meridulia zerpana Razowski & Wojtusiak, 2006 Xem thêm Danh sách các chi của Tortricidae Chú thích Tham khảo tortricidae.com Euliini
2287315
https://vi.wikipedia.org/wiki/Elaphoglossum%20feei
Elaphoglossum feei
Elaphoglossum feei là một loài thực vật có mạch trong họ Lomariopsidaceae. Loài này được (Bory ex Fée) T. Moore mô tả khoa học đầu tiên năm 1857. Chú thích Liên kết ngoài Elaphoglossum Thực vật được mô tả năm 1857
559900
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syagrus%20picrophylla
Syagrus picrophylla
Syagrus picrophylla là loài thực vật có hoa thuộc họ Arecaceae. Loài này được Barb.Rodr. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1879. Tham khảo Liên kết ngoài Syagrus Thực vật được mô tả năm 1879 Thực vật Brasil
343057
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cortevaix
Cortevaix
Cortevaix là một xã ở tỉnh Saône-et-Loire trong vùng Bourgogne-Franche-Comté nước Pháp. Thông tin nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số 242 người. Xem thêm Xã của tỉnh Saône-et-Loire Tham khảo INSEE IGN Xã của Saône-et-Loire
613443
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lioptilodes%20alolepidodactylus
Lioptilodes alolepidodactylus
Lioptilodes alolepidodactylus là một loài bướm đêm thuộc chi Lioptilodes, có ở Argentina và Chile. Loài bướm này bay từ tháng 10 đến tháng 12, và có sải cánh khoảng23-25 milimét. Chú thích Tham khảo Lioptilodes
969799
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aglymbus%20optatus
Aglymbus optatus
Aglymbus optatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ nước. Loài này được Sharp miêu tả khoa học năm 1882. Chú thích Tham khảo Bọ nước Aglymbus
795267
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C3%A2n%20B%C3%ACnh%20%28t%E1%BB%89nh%29
Tân Bình (tỉnh)
Tân Bình là tên một tỉnh cũ từng tồn tại một thời gian ngắn tại Việt Nam. Địa bàn tỉnh này tương ứng với một phần Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Lịch sử Ngày 11 tháng 5 năm 1944, Toàn quyền Đông Dương ký nghị định tách một số vùng (nằm kế cận Khu Sài Gòn - Chợ Lớn) của tỉnh Gia Định; bao gồm: Toàn bộ tổng Dương Hòa Thượng (có bảy làng: Bình Hưng Hòa, Phú Nhuận, Tân Sơn Nhì, Tân Sơn Hoà, Tân Hòa, Vĩnh Lộc và Phú Thọ Hoà) của quận Gò Vấp, năm làng (Hanh Thông Xã, Hanh Thông Tây, Bình Hòa Xã, Thạnh Mỹ Tây và An Hội) thuộc tổng Bình Trị Thượng, quận Gò Vấp, năm làng thuộc tổng Bình Trị Hạ (Tân Thuận Đông, Tân Quy Đông, Phú Mỹ Tây, Phước Long Đông và Phú Xuân Hội) cùng một phần làng Long Đức Đông thuộc tổng Dương Hòa Hạ của quận Nhà Bè và một phần làng An Khánh Xã thuộc tổng An Bình của quận Thủ Đức; để lập tỉnh Tân Bình. Tỉnh lỵ tỉnh Tân Bình đặt tại làng Phú Nhuận. Tỉnh này chì có duy nhất quận Châu Thành lập ngày 19 tháng 9 năm 1944, không có tổng trực thuộc, được chia ra ba khu vực quản lý: Gia Định, Thủ Thiêm và Nhà Bè. Tỉnh Tân Bình tồn tại đến khi Cách mạng tháng 8 năm 1945 nổ ra thì tan rã trên thực tế. Sau khi người Pháp tái chiếm Nam Bộ cũng không tái lập lại tỉnh Tân Bình, vì vậy tỉnh xem như bị giải thể. Chú thích Tham khảo Hành chính Thành phố Hồ Chí Minh Tỉnh cũ Việt Nam
2469191
https://vi.wikipedia.org/wiki/Coryphopteris%20andreae
Coryphopteris andreae
Coryphopteris andreae là một loài dương xỉ trong họ Thelypteridaceae. Loài này được Holttum mô tả khoa học đầu tiên năm 1976. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Coryphopteris Thực vật được mô tả năm 1976 Unresolved names
665175
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ictalurus%20australis
Ictalurus australis
The bagre del panuco (Ictalurus australis) là một loài cá thuộc họ Ictaluridae. Đây là loài đặc hữu của México. Nguồn Contreras-Balderas, S. & Almada-Villela, P. 1996. Ictalurus australis . 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy nhập 4 tháng 8 năm 2007. Chú thích Tham khảo Ictalurus Cá Trung Mỹ Cá México
13597355
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ilya%20Kutepov
Ilya Kutepov
Ilya Olegovich Kutepov (; sinh ngày 29 tháng 7 năm 1993) là cầu thủ bóng đá người Nga chơi ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ FC Spartak Moscow. Sự nghiệp câu lạc bộ Anh thi đấu trận đầu tiên ở giải Russian Premier League vào ngày 10 tháng 12 năm 2012 cho câu lạc bộ FC Spartak Moscow trong trận đấu trước FC Rubin Kazan. Sự nghiệp quốc tế Anhđược gọi lên góp mặt trong đội hình đội tuyển Nga vào tháng 8 năm 2016 trong trận đấu trước Thổ Nhĩ Kỳ Và Ghana. Anh ấy có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển vào ngày 9 tháng 10 năm 2016 trong trận giao hữu trước Costa Rica. Vào ngày 11 tháng 5 năm 2018, anh có tên trong đội hình sơ bộ đội tuyển Nga tham dự World Cup 2018. Ngày 3 tháng 6 năm 2018, anh được góp mặt trong đội hình chính thức tham dự World Cup 2018, giải đấu mà chủ nhà Nga đã gây bất ngờ lớn khi lọt vào tứ kết của giải, mặc dù không được đánh giá cao trước khi giải đấu diễn ra. Thống kê sự nghiệp Câu lạc bộ Quốc tế Tính đến ngày 8 tháng 10 năm 2020. Danh hiệu Spartak Moscow Giải bóng đá ngoại hạng Nga: 2016–17 Siêu Cúp Nga: 2017 Chú thích Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Nga Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018 Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Nga
1460915
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kar%C5%9F%C4%B1yaka%2C%20Bart%C4%B1n
Karşıyaka, Bartın
Karşıyaka là một xã thuộc thành phố Bartın, tỉnh Bartın, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 209 người. Chú thích Tham khảo Huyện Bartın Khu dân cư ở tỉnh Bartın Làng Thổ Nhĩ Kỳ theo tỉnh
574795
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BA%A1%20L%E1%BB%85
Hạ Lễ
Hạ Lễ là một xã thuộc huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam. Địa lý Xã Hạ Lễ nằm ở phía nam huyện Ân Thi, có vị trí địa lý: Phía đông giáp huyện Phù Cừ Phía tây giáp xã Hồng Quang Phía nam giáp huyện Tiên Lữ và huyện Phù Cừ Phía bắc giáp xã Hồng Vân và xã Tiền Phong. Xã Hạ Lễ có diện tích 5,76 km², dân số năm 2019 là 5.199 người, mật độ dân số đạt 902 người/km². Lịch sử Hạ Lễ trước kia là vùng lau sậy hoang vu mãi cho tới thời nhà Lê mới có một số dân tới đây lập nghiệp. Hạ Lễ cũng được coi là cái nôi của đạo Công giáo Việt Nam. Được biết Giáo họ Hè đón nhận Đức tin năm 1616 thời vua Lê Kính Tông. Hạ Lễ xưa kia là một nơi các nhà truyền đạo Công giáo tới đây giảng đạo khá sớm. Tên Hạ Lễ là do Đức Cha người ngoại quốc đặt cho Giáo họ Hè nay là Giáo xứ Hạ Lễ từ năm 1670. Từ đó hai tiếng Hạ Lễ trở thành thân thuộc với bà con vùng nay. Hạ Lễ thể hiện sự khiêm nhường của người Công giáo nơi đây. Chú thích Tham khảo
241548
https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BA%A3ng
Cảng
Cảng là một nơi nằm ở bờ sông, hồ hay biển có các trang thiết bị phục vụ cho việc bốc dỡ hàng hóa hoặc nơi đón hoặc đưa hành khách đi lại bằng đường thủy. Cảng bao gồm các cầu tàu ở một khu nước có độ sâu và rộng nhất định phục vụ cho tàu neo đậu hoặc cập bờ. Cảng có thể là tự nhiên hoặc nhân hảo. Tùy theo vị trí của cảng, cảng được gọi là cảng sông hay cảng biển (hải cảng). Các cảng biển thường là cảng nước sâu phục vụ tàu vận tải lớn với tải trọng cao còn các cảng sông thường phục vụ tàu nhỏ hơn, do độ sâu luồng lạch cũng như diện tích mặt nước cảng. Theo đối tượng tàu phục vụ có thể chia thành cảng nội địa và cảng quốc tế. Theo đối tượng hàng hóa phục vụ, cảng hàng hóa có thể được chia thành nhiều loại cảng chuyên dụng như cảng hàng rời, cảng công ten nơ, cảng nhiên liệu. Các dịch vụ và thủ tục ở cảng gồm: dịch vụ bốc dỡ, dịch vụ bến bãi và kho bảo quản hàng hóa, dịch vụ vận chuyển trong cảng và bên ngoài cảng, thủ tục thông quan. Cảng tự nhiên Cảng tự nhiên là những nơi ven biển có địa hình núi đồi lấn ra bao một phần nước yên tĩnh, đảm bảo đủ sâu để neo đậu. Cảng tự nhiên hay còn gọi là cảng (mở rộng) đã được sử dụng từ rất lâu. Cảng tự nhiên thường không cần xây các đê, bờ kè chắn sóng. Cảng nhân tạo Cảng nhân tạo được xây dựng có quy hoạch những nơi ven sông, biển có vị trí thuận lợi. Cảng nhân tạo lớn thường phải xây dựng nhiều công trình (đê, bờ kè,...), lấn biển, nạo vét để thuận lợi cho việc di chuyển của tàu thuyền. Cảng nhân tạo lớn nhất là Jebel Ali ở Dubai. Các cảng gần hai cực Các cảng gần cực bắc và cực nam có khí hậu lạnh, hay có băng đá trên bề mặt nước gây khó khăn cho hoạt động. Việc không có băng đá là lợi thế quan trọng vì vậy một số cảng mùa đông thường không hoạt động hoặc hoạt động chậm. Các cảng hoạt động lớn Cảng Thượng Hải, Thượng Hải, Trung Quốc Cảng Singapore, Singapore Xem thêm Cảng sông Việt Nam Thuật ngữ hàng hải Giao thông đường thủy Công trình biển
2290832
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leptotrichella%20subangulata
Leptotrichella subangulata
Leptotrichella subangulata là một loài Rêu trong họ Dicranaceae. Loài này được (Thwaites & Mitt.) Ochyra mô tả khoa học đầu tiên năm 1997. Chú thích Liên kết ngoài Leptotrichella Thực vật được mô tả năm 1997
1176964
https://vi.wikipedia.org/wiki/Parathelges%20foliatus
Parathelges foliatus
Parathelges foliatus là một loài chân đều trong họ Bopyridae. Loài này được Markham miêu tả khoa học năm 1972. Chú thích Tham khảo Parathelges
2819577
https://vi.wikipedia.org/wiki/Perilissus%20compressus
Perilissus compressus
Perilissus compressus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Perilissus
2298294
https://vi.wikipedia.org/wiki/Keyserlingia
Keyserlingia
Keyserlingia là một chi thực vật có hoa trong họ Đậu. Chú thích Liên kết ngoài Chi thực vật es:Keyserlingia
2385704
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polygala%20gossweileri
Polygala gossweileri
Polygala gossweileri là một loài thực vật có hoa trong họ Polygalaceae. Loài này được Exell & Mendonça miêu tả khoa học đầu tiên năm 1936. Chú thích Liên kết ngoài Polygala Thực vật được mô tả năm 1936
2424832
https://vi.wikipedia.org/wiki/Linh%20v%E1%BA%ADt
Linh vật
Linh vật là một người, con vật hoặc đồ vật được cho là mang lại may mắn, hoặc bất cứ điều gì được sử dụng làm hình ảnh nhận diện cho một nhóm người, chẳng hạn như trường học, đội tuyển thể thao chuyên nghiệp, đơn vị quân đội hoặc thương hiệu. Ở góc độ văn hóa thì linh vật là những con vật huyền thoại hoặc có thật được linh hóa, được con người sáng tạo và sử dụng như những biểu tượng văn hóa để truyền đạt ý tưởng và niềm tin tâm linh, tôn giáo. Khái luận Theo thông tục (không chính thức) nó bao gồm bất cứ điều gì được sử dụng để đại diện cho một nhóm với một bản sắc cộng đồng phổ biến, chẳng hạn như một trường học, đội thể thao chuyên nghiệp, xã hội, đơn vị quân đội, hoặc tên thương hiệu và đặc biệt là các sự kiện lớn như thể thao. Linh vật cũng được sử dụng như hư cấu, phát ngôn viên đại diện cho các sản phẩm tiêu dùng. Linh vật thường được mô tả trong thần thoại, truyền thuyết và được biểu đạt trong nghệ thuật tạo hình. Người xưa tin rằng, linh vật là hiện thân của các lực lượng tự nhiên hoặc mang những đặc tính huyền bí, năng lực siêu nhiên có thể chi phối nhân sinh, vũ trụ. Trong các môn thể thao, linh vật cũng được sử dụng rất rộng rãi. Linh vật của đội thường bị nhầm lẫn với các biệt danh của đội, trong khi hai chủ đề này có thể được hoán đổi cho nhau nhưng chúng không phải luôn luôn giống nhau. Linh vật của đội có thể mang hình thức của một biểu tượng, người, động vật sống, đối tượng vô tri vô giác, hoặc một nhân vật trang phục, và thường xuất hiện ở các trận đấu đội và các sự kiện khác có liên quan, linh vật thể thao thường được sử dụng như một công cụ tiếp thị cho đội bóng đến người hâm mộ. Trong thể thao Linh vật giải vô địch bóng đá thế giới Linh vật Thế vận hội Linh vật Đại hội Thể thao Đông Nam Á Linh vật Giải vô địch bóng đá châu Âu Danh sách linh vật Đại hội Thể thao châu Á Linh vật Cúp bóng đá Nam Mỹ Chú thích Biểu tượng Biểu trưng Linh vật Đồng phục Nghề nghiệp và vai trò thể thao
93462
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0ng%20kh%C3%B4ng%20n%C4%83m%201928
Hàng không năm 1928
Đây là danh sách các sự kiện hàng không nổi bật xảy ra trong năm 1928: Các sự kiện Tháng 1 6 tháng 1-8 - Trung úy Christian Schilt thực hiện 10 chuyến bay trên một chiếc O2U Corsair để rút các lính thủy đánh bộ bị thương từ cuộc bao vây làng ở Quilali, Nicaragua. Anh ta được trao tặng Huy chương Danh dự. Tháng 2 7 tháng 2 - Bert Hinkler rời Croydon trên một chiếc Avro Avian, cố gắng thực hiện chuyến bay một mình đầu tiên từ Anh đến Australia. Anh đến Darwin vào 22 tháng 2. 12 tháng 2 - Tiểu thư Mary Hearth rời Cape Town trên một chiếc Avro Avian, trong một cố gắng thực hiện chuyến bay một mình đầu tiên do phụ nữ lái từ in Nam Phi đến Anh. Cô đến Croydon vào 17 tháng 5. Tháng 3 30 tháng 3 - Mario di Bernardi lập một kỷ lục thế giới về tốc độ mới - đạt 300 mph (483 km/h). Anh ta bay trên một chiếc Macchi M.52bis. Tháng 4 13 tháng 4 - Chuyến bay không dừng đầu tiên xuyên Đại Tây Dương từ Đông sang Tây, được thực hiện bởi Hermann Köhl, Bá tước Gunther von Hunefeld, và thiếu tá James Fitzmaurice trên một chiếc Junkers W.33 có tên gọi là Bremen. Tháng 5 15 tháng 5 - John Flynn tổ chức đơn vị có tên gọi là Cục bác sĩ Không quân Hoàng gia Australia tại Cloncurry, Queensland, sử dụng một chiếc de Havilland DH.50. Đơn vị này sẽ đưa những công tác y tế đến nhưng vùng xa xôi hẻo lánh ở Australian. 23 tháng 5 - Umberto Nobile ra lệnh cho khí cầu Italia thực hiện một chuyến bay định mệnh qua Bắc Cực. Khí cầu đã va chạm khi nó trở về, và Roald Amundsen đã chết khi cứu những người gặp nạn. Tháng 6 9 tháng 6 - Charles Kingsford Smith và các thành viên khác thực hiện chuyến bay đầu tiên bay xuyên qua Thái Binh Dương trên chiếc Fokker F.VIIb-3m Southern Cross. Họ rờiOakland, California vào 31 tháng 5 và đến Brisbane bay ngang qua Honolulu và Fiji. Chuyến bay mất 83 giờ. 11 tháng 6 - Tại Wasserkuppe, Alexander Lippisch chế tạo chiếc máy bay Ente, nó trở thành máy bay đầu tiên bay với động cơ rocket. 12 tháng 6 - Emilio Carranza va chạm ở cánh đồng thông ở New Jersey trong khi trở về từ quãng đường bay New York City đến Mexico City trong một chuyến bay có tích chất thiện ý. 17 tháng 6 - Amelia Earhart trở thành người phụ nữ đầu tiên bay qua Đại Tây Dương. Tháng 8 Báo Daily Mail trang bị một chiếc de Havilland DH.61 để sử dụng như một văn phòng báo chí di động. Nó mang một phòng tráng ảnh và một chiếc xe mô tô. Tháng 9 18 tháng 9 - Don Juan de la Cierva bay trên một chiếc Cierva C.8 (máy bay tự lên thẳng) từ Croydon, Anh, đến Le Bourget, Pháp, thự hiện chuyến bay đầu tiên xuyên qua Kênh đào Anh trên một máy bay cánh quạt. Tháng 10 11 tháng 10 - Khí cầu Zeppelin Graf Zeppelin bay qua Đại Tây Dương trong 71 giờ. Tháng 12 12 tháng 12 - Máy bay thuộc Không quân Hoàng gia, những chiếc Vickers Victoria đã di tản người Anh ra khỏi Kabul. 19 tháng 12 - Harold Pitcairn bay trên chiếc máy bay tự lên thẳng đầu tiên của anh ta. Chuyến bay đầu tiên Tháng 3 5 tháng 3 - Beardmore Inflexible Tháng 5 Sikorsky S-38 Tháng 12 7 tháng 12 - De Havilland Hawk Moth Bắt đầu hoạt động Tháng 5 Junkers G.31 trong hãng hàng không Lufthansa Tham khảo Hàng không năm 1928 Hàng không theo năm
304965
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rodas
Rodas
Rodas là một đô thị và thành phố ở tỉnh Cienfuegos của Cuba. Năm thành lập là 1859 với tên Lechuzo. Năm 1879, tên được đổi thành Rodas để vinh danh tướng Caballero de Rodas. Đô thị này được chia thành các phường (barrio) Ariza, Cabecera, Cartagena, Ciego Montero, Congojas, Jabacoa, Limones, Medidas, Santiago, Soledad và Turquino. Thông tin nhân khẩu Năm 2004, đô thị Rodas có dân số 33.477 người. Diện tích là , với mật độ dân số là . Xem thêm Đô thị Cuba Danh sách thành phố Cuba Tham khảo Thành phố của Cuba Đô thị tỉnh Cienfuegos
3309325
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wojciech%20Jaruzelski
Wojciech Jaruzelski
Wojciech Witold Jaruzelski (, phiên âm tiếng Việt: Vốt-séc Gia-ru-xen-xki; 6 tháng 7 năm 1923 – 25 tháng 5 năm 2014) là một chính trị gia, một sĩ quan quân sự người Ba Lan. Ông là Tổng bí thư của Đảng Công nhân thống nhất Ba Lan từ 1981-1989, nhà lãnh đạo cuối cùng của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan. Ông từng là Thủ tướng Ba Lan từ 1981-1985, là người đứng đầu đất nước trong giai đoạn 1985 đến 1990. Ngoài ra, ông cũng là Chỉ huy trưởng của Quân đội Nhân dân Ba Lan (LWP). Năm 1989, ông từ chức sau Hiệp định Bàn Tròn Ba Lan để tiến hành một cuộc bầu cử dân chủ ở Ba Lan. Jaruzelski là người chủ yếu chịu trách nhiệm cho việc áp đặt thiết quân luật ở Ba Lan vào 13 tháng 12 năm 1981, trong một nỗ lực nhằm đè bẹp phong trào ủng hộ dân chủ, trong đó bao gồm Công đoàn Đoàn kết, công đoàn đầu tiên tại một nước thuộc Khối Warszawa mà không bị kiểm soát bởi đảng Cộng sản. Những năm sau đó, chính phủ của ông và lực lượng nội bộ đã bắt bớ và bỏ tù hàng ngàn nhà báo và nhà hoạt động đối lập. Cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội như là kết quả của việc phân phối các loại thực phẩm cơ bản gồm đường, sữa, thịt, cũng như các vật liệu như xăng và tiêu dùng sản phẩm, trong khi thu nhập trung bình của người dân đã giảm đi tới 40% Trong thời gian cai trị của Jaruzelski 1981-1989, khoảng 700.000 người đã rời bỏ quê hương Ba Lan ra nước ngoài. Tham khảo Sinh năm 1923 Chính trị gia Đảng Công nhân Ba Lan Thành viên Đảng Công nhân Ba Lan Thủ tướng Cộng hòa Nhân dân Ba Lan Đại tướng Ba Lan Tổng thống Ba Lan Huân chương Lenin Năm 2014 Tử vong do đột quỵ Thủ tướng Ba Lan
2175516
https://vi.wikipedia.org/wiki/Burmeistera%20kirkbridei
Burmeistera kirkbridei
Burmeistera kirkbridei là loài thực vật có hoa trong họ Hoa chuông. Loài này được Wilbur mô tả khoa học đầu tiên năm 1976 publ. 1977. Chú thích Liên kết ngoài Burmeistera Thực vật được mô tả năm 1977
2716269
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudopediasia%20diana
Pseudopediasia diana
Pseudopediasia diana là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Pseudopediasia Crambini Bướm đêm Nam Mỹ
1457017
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ahmetli%2C%20Sarayk%C3%B6y
Ahmetli, Sarayköy
Ahmetli là một thị trấn thuộc huyện Sarayköy, tỉnh Denizli, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 709 người. Tham khảo
2763564
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phryxe%20confusa
Phryxe confusa
Phryxe confusa là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Phryxe
2187567
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ipomoea%20praecana
Ipomoea praecana
Ipomoea praecana là một loài thực vật có hoa trong họ Bìm bìm. Loài này được House mô tả khoa học đầu tiên năm 1908. Chú thích Liên kết ngoài P Thực vật được mô tả năm 1908
3638815
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%C6%B0%20nghi%E1%BB%87p%20v%C3%A0%20bi%E1%BA%BFn%20%C4%91%E1%BB%95i%20kh%C3%AD%20h%E1%BA%ADu
Ngư nghiệp và biến đổi khí hậu
Tăng nhiệt độ đại dương và axit hóa đại dương đang  hoàn toàn làm thay đổi hệ sinh thái thủy sinh. Biến đổi khí hậu đang làm thay đổi sự phân bố cá và năng suất của các loài cá biển cá nước ngọt. Điều này có ảnh hưởng đến sự bền vững của đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản, đến đời sống của cộng đồng phụ thuộc vào ngư nghiệp, và đến khả năng các đại dương giữ lại và lưu trữ carbon (máy bơm sinh học). Tác động của mực nước biển dâng có nghĩa là các cộng đồng ngư nghiệp ven biển đang ở tiền tuyến của biến đổi khí hậu, trong khi đó việc thay đổi mô hình mưa và sử dụng nước tác động đến đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản (nước ngọt) nội địa. Vai trò của đại dương Đại dương và hệ sinh thái ven biển đóng một vai trò quan trọng trong chu trình carbon toàn cầu và đã loại bỏ khoảng 25% lượng carbon dioxide thải ra từ các hoạt động con người từ năm 2000 đến năm 2007 và khoảng một nửa CO2 có nguồn gốc từ con người được thải ra từ khi khởi đầu cuộc Cách mạng Công nghiệp. Tăng nhiệt độ đại dương và axit hóa đại dương có nghĩa là năng lực của bồn chứa carbon đại dương sẽ dần dần yếu đi, làm tăng lên những sự lo ngại toàn cầu được thể hiện trong các Tuyên bố Monaco và Manado. Hệ sinh thái đại dương khỏe mạnh là rất cần thiết cho việc làm dịu biến đổi khí hậu. Rạn san hô cung cấp môi trường sống cho hàng triệu loài cá và với biến đổi khí hậu nó có thể khiến những loài san hô này chết đi. Tác động lên ngành sản xuất cá Axit hóa đại dương ngày càng nhiều khiến cho các sinh vật biển như tôm, hàu, hoặc san hô trở nên khó khăn hơn khi tạo vỏ – một quá trình được gọi là vôi hóa. Rất nhiều động vật quan trọng như động vật phù du, loài hình thành nên nền móng cho chuỗi thức ăn đại dương có lớp vỏ calci. Vì thế toàn bộ mạng lưới thức ăn đại dương đang bị biến đổi – có những vết nứt ở trong chuỗi thức ăn. Do đó, sự phân bố, năng suất và thành phần loài của sản xuất cá toàn cầu đang thay đổi, tạo ra những tác động phức tạp và liên kết trong đại dương, cửa sông, rạn san hô, rừng ngập mặn và thảm cỏ biển, những nơi cung cấp môi trường sống và các khu vực vườn ươm cho cá. Thay đổi mô hình mưa và sự khan hiếm nước đang tác động đến ngư nghiệp trên sông và hồ và sản xuất đánh bắt thủy sản. Sau kỷ băng hà khoảng 200.000 năm trước, nhiệt độ khí quyển toàn cầu đã tăng 3 độ, dẫn đến sự gia tăng nhiệt độ biển. Tác động lên cộng đồng ngư dân Những quốc gia và dân cư đánh bắt cá và sống ven biển phụ thuộc vào ngư nghiệp đặc biệt dễ bị biến đổi khí hậu gây thiệt hại. Các quốc gia nằm dưới thấp như Maldives và Tuvalu đặc biệt dễ bị thiệt hại và toàn bộ cộng đồng có thể trở thành những người tị nạn do biến đổi khí hậu đầu tiên. Cộng đồng đánh bắt cá ở Bangladesh là đối tượng của không chỉ hiện tượng mực nước biển tăng, mà còn cả của ngập lụt và các cơn bão ngày càng xuất hiện nhiều. Cộng đồng đánh bắt cá dọc theo sông Mekong tạo ra hơn 1 triệu tấn cá ba sa hàng năm và sinh kế và ngành sản xuất cá sẽ phải chịu thiệt hại từ hiện tượng xâm nhập mặn, thứ là kết quả từ hiện tượng mực nước biển dâng và xây đập. Đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản đóng góp đáng kể vào an ninh lương thực và sinh kế. Cá cung cấp dinh dưỡng thiết yếu cho 3 tỷ người và ít nhất 50% lượng đạm động vật và chất khoáng cho 400 triệu người từ những nước nghèo nhất. Sinh kế của hơn 500 triệu người ở các quốc gia đang phát triển phụ thuộc, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, vào đánh bắt cá và nuôi trồng thủy sản - nuôi trồng thủy sản là hệ thống sản xuất thực phẩm tăng trưởng nhanh nhất trên thế giới, tăng trưởng 7% một năm và sản phẩm từ cá là một trong các loại thực phẩm được giao dịch rộng rãi nhất, với hơn 37% (theo khối lượng) sản lượng thế giới được giao dịch quốc tế. Thích ứng và giảm nhẹ Các tác động của biến đổi khí hậu có thể được giải quyết qua thích nghi và giảm nhẹ. Chi phí và lợi ích của thích ứng về cơ bản là ở địa phương hoặc quốc gia, trong khi đó chi phí của giảm thiểu về cơ bản là ở quốc gia trong khi lợi ích thì cho toàn cầu. Một số hoạt động tạo ra cả lợi ích về giảm nhẹ và thích nghi, ví dụ như việc phục hồi rừng ngập mặn có thể bảo vệ bờ biển khỏi bị xói mòn và cung cấp nơi sinh sản cho cá, đồng thời cũng cô lập carbon. Thích ứng Một số cơ quan quốc tế, bao gồm cả Ngân hàng thế Giới và Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc có những chương trình để giúp các quốc gia và cộng đồng thích ứng với hiện tượng ấm lên toàn cầu, ví dụ như bằng các chính sách phát triển nhằm nâng cao khả năng phục hồi tài nguyên thiên nhiên, thông qua các đánh giá rủi ro và tính chất dễ bị tổn thương, bằng cách tăng sự nhận thức về các tác động của biến đổi khí hậu và tăng cường những cơ quan quan trọng như dự báo thời tiết và hệ thống cảnh báo sớm. Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2010 - Phát triển và Biến đổi Khí hậu, Chương 3 cho thấy rằng giảm hiện tượng chứa quá mức trong các đội đánh cá và xây dựng lại các quần thể cá đều có thể nâng cao khả năng phục hồi từ biến đổi khí hậu và làm tăng thu nhập kinh tế từ đánh bắt thủy sản biển khoảng 50 tỷ USD mỗi năm, đồng thời cũng làm giảm lượng khí nhà kính gây ra bởi tàu đánh cá. Do đó, loại bỏ trợ cấp nhiên liệu cho việc đánh cá có thể có lợi kép khi giảm thiểu cả việc phát thải cả việc đánh bắt quá mức. Đầu tư vào nuôi trồng thủy hải sản bền vững có thể làm vật đệm cho việc sử dụng nước trong nông nghiệp trong khi sản xuất thực phẩm và đa dạng hóa các hoạt động kinh tế. Nhiên liệu sinh học bằng tảo biển cũng cho thấy tiềm năng vì tảo biển có thể sản xuất ra lượng dầu trên mỗi mẫu anh nhiều hơn từ 15 đến 300 lần so với hoa màu thông thường, ví dụ như hạt nho, đậu tương hoặc mè, và tảo biện không yêu cầu nguồn nước ngọt khan hiếm. Các chương trình như GEF-Coral Reef Targeted Research được tài trợ đã cung cấp những lời khuyên về việc xây dựng khả năng phục hồi và một hệ sinh thái rạn san hô lưu trữ, trong khi đó sáu quốc gia Thái Bình Dương gần đây đã đạt được một thỏa thuận chính thức trong việc bảo vệ các rạn san hộ tại một điểm nóng đa dạng sinh học – Tam giác San hô. Giảm nhẹ Đại dương đã lấy đi 50% lượng CO2 có nguồn gốc từ con người, vậy là các đại dương đã hấp thụ nhiều tác động của biến đổi khí hậu. Nổi tiếng Vách đá Trắng Dover minh họa cách mà đại dương bắt giữ và chôn vùi carbon. Những vách đá vôi, được hình thành từ những bộ xương của biển sinh vật phù du gọi là coccoliths. Tương tự, dầu mỏ, hình là do phần lớn để biển và thủy sinh vật phù du nữa minh họa vai trò quan trọng của đại dương trong bon. Chính xác bằng cách nào mà đại dương giữ lại và chôn vùi CO2 là chủ đề của những cuộc nghiên cứu liên tục bởi các nhà khoa học trên khắp thế giới, ví dụ như Dự án Carboocean. Mức hiện tại của khí nhà kính tức là độ axít đại dương sẽ tiếp tục tăng lên và hệ sinh thái thủy sinh sẽ tiếp tục bị thoái hóa và biến đổi. Có những cơ chế phản hồi có liên quan ở đây. Ví dụ như, vùng nước ấm hơn có khả năng hấp thụ ít CO2 hơn, vậy nên khi nhiệt độ đại dương tăng lên, một số CO2 đã bị hòa tan sẽ bị thải trở lại khí quyển. Hiện tượng nóng lên cũng đồng thời làm giảm lượng dinh dưỡng trong vùng biển khơi trung (sâu khoảng 200 tới 1000 m). Điều này ngược lại lại giới hạn độ tăng trưởng của tảo silic có lợi cho những thực vật phù du nhỏ hơn, thứ là máy bơm sinh học cacbon chất lượng thấp hơn. Điều này hạn chế khả năng cô lập cácbon của đại dương khi nó ấm. Điều đã rõ ràng là, một hệ sinh thái ven biển và đại dương khỏe mạnh là hết sức cần thiết để duy trì vai trò cấp thiết của bồn chứa cacbon đại dương, như đã được trình bày, ví dụ như, trong bản đánh giá Blue Carbon được trình bày bởi UNEP và báo cáo về bồn chứa cacbon ven biển của IUCN và những bằng chứng ngày càng nhiều về vai trò của sinh khối cá trong việc vận chuyển cacbon từ mặt nước xuống sâu dưới đại dương. Trong khi những công cụ tài chính cacbon khác bao gồm cả việc phục hồi rừng (REDD) và sản xuất năng lượng sạch (mua bán phát thải cacbon), một số lại nêu ra sự cần thiết của hoạt động tài trợ một đại dương và hệ sinh thái biển khỏe mạnh mặc dù những thứ này là cần thiết cho việc liên tục hút khí CO2 và khí nhà kính. Nền tảng khoa học cho việc làm màu mỡ đại dương – nhằm sản xuất ra nhiều thực vật phù du hơn để tăng khả năng hấp thu CO2 – đã bị thách thức, và những đề xuất chôn CO2 sâu xuống lòng đại dương đã gặp phải chỉ trích từ những nhà hoạt động vì môi trường. Những cuộc tranh luận xoay quanh vấn đề này đã nhấn mạnh sự cần thiết phải tăng cường hiểu biến khoa học về cách mà đại dương cô lập cacbon. Đánh bắt quá mức Mặc dù đã có những sự sụt giảm trong ngư nghiệp do biến đổi khí hậu, một nguyên nhân khác cho hiện tượng sụt giảm này là do đánh bắt quá mức. Các nghiên cứu cho thấy tình trạng của đại dương đang gây ra sự sụp đổ của ngư nghiệp, và tại những khu vực nơi ngư nghiệp chưa sụp đổ, việc đánh bắt quá mức đã có những ảnh hưởng to lớn tới ngành công nghiệp. Đánh bắt quá mức là do khả năng tiếp cận biển cả, mọi người có thể dễ dàng đánh bắt cá, kể cả chỉ là cho vui. Cũng đồng thời tồn tại nhu cầu hải sản cao của ngư dân, cũng như công nghệ hiện đại thứ đã làm tăng lượng cá bắt được trong mỗi chuyến đi. Nếu mỗi người chỉ được phép đánh bắt một số lượng cá nhất định thì vấn đề đánh bắt quá mức có lẽ sẽ được giải quyết. Kiểu hệ thống giới hạn này đã được vận hành tại một số quốc gia như New Zealand, Na Uy, Canada và Hoa Kỳ. Tại các quốc gia này, hệ thống giới hạn đã giúp đỡ ngành ngư nghiệp một cách thành công. Các kiểu hệ thống giới hạn này được gọi là hạn ngạch đánh bắt cá nhân. Điều này có nghĩa là tại nơi áp dụng hạn ngạch, chính phủ quản lý và trong ranh giới này họ có quyền sử dụng tài nguyên đại dương như họ muốn. Chú thích Tham khảo FAO (2009) Climate change implications for fisheries and aquaculture. Overview of current scientific knowledge Fisheries and Aquaculture Technical Paper 530, Rome. Klyashtorin LB (2001) Climate change and long-term fluctuations of commercial catches: the possibility of forecasting Technical paper 410, FAO fisheries, Rome. ISBN 978-92-5-104695-1. Đọc thêm Bahri, Tarûb and Cochrane, Kevern (2011) "Climate change impacts on the world fisheries resources" In: Review of the state of world marine fishery resources, pages 279–290, FAO Fisheries technical paper 569, FAO, Rome. ISBN 978-92-5-107023-9. Bakun A (1997) "Global synchrony in fish population variations" In: Review of the state of world marine fishery resources, pages, FAO Fisheries Circular 920, FAO, Rome. Csirke, Jorge and Vasconcellos, Marcelo (1995) "Fisheries and long-term climate variability" In: Review of the state of world marine fishery resources, FAO Fisheries technical paper 457, FAO, Rome. ISBN 92-5-105267-0. Powell AM and Xu J (2012) "The 1977 Global Regime Shift: A Discussion of Its Dynamics and Impacts in the Eastern Pacific Ecosystem" Atmosphere-Ocean, 50 (4): 421–436. Doi110.1080/07055900.2012.716023 Biến đổi khí hậu và môi trường
13830639
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%C6%B0%C6%A1ng%20V%C4%83n%20C%E1%BA%A3nh
Dương Văn Cảnh
Dương Văn Cảnh là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên. Tiểu sử Dương Văn Cảnh là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tháng 7 năm 2012, Dương Văn Cảnh là Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên. Năm 2015, Dương Văn Cảnh trúng cử ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Hưng Yên nhiệm kì 2015-2020. Ngày 3 tháng 4 năm 2016, Dương Văn Cảnh, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên, được trao quyết định bổ nhiệm chức danh kiểm sát viên cao cấp. Ngày 27 tháng 4 năm 2016, Dương Văn Cảnh ứng cử đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Hưng Yên nhiệm kỳ 2016 – 2021 tại đơn vị bầu cử số 11 (huyện Yên Mỹ gồm 9 xã Yên Phú, Yên Hòa, Hoàn Long, Đồng Than, Giai Phạm, Việt Cường, Thanh Long, Minh Châu và Ngọc Long). Tham khảo Người họ Dương tại Việt Nam Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Việt Nam đương nhiệm Kiểm sát viên cao cấp Việt Nam Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam
2937234
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenoloba%20marina
Stenoloba marina
Stenoloba marina là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Stenoloba
2375456
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rau%20s%E1%BB%99p
Rau sộp
Rau sộp hay còn gọi da đậu (danh pháp khoa học: Ficus pisocarpa) là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Blume mô tả khoa học đầu tiên năm 1825. Chú thích Liên kết ngoài P Thực vật được mô tả năm 1825
907350
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lacon%20cuneatus
Lacon cuneatus
Lacon cuneatus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Candèze miêu tả khoa học năm 1865. Chú thích Tham khảo Lacon
1901005
https://vi.wikipedia.org/wiki/Otachyrium%20versicolor
Otachyrium versicolor
Otachyrium versicolor là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (Döll) Henrard mô tả khoa học đầu tiên năm 1941. Chú thích Liên kết ngoài Otachyrium Thực vật được mô tả năm 1941
2843519
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onthophagus%20dudleyi
Onthophagus dudleyi
Onthophagus dudleyi là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ hung (Scarabaeidae). Chú thích Liên kết ngoài D
629862
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bagisara%20brouana
Bagisara brouana
Bagisara brouana là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Loài này có ở Louisiana và Mississippi. Địa bàn phân bố hạn chế với chế độ ăn đối với một chi thực vật hay loài thực vật có địa bàn phân bố hạn chế. Liên kết ngoài Review Of The New World Bagisarinae With Description Of Two New From the Southern United States (Noctuidae) Image Chú thích B Động vật được mô tả năm 1997 Bagisarinae
629052
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neola%20semiaurata
Neola semiaurata
Neola semiaurata là một loài bướm đêm thuộc họ Notodontidae. Nó được tìm thấy ở Úc. Sải cánh dài khoảng 60 mm. Ấu trùng ăn các loài Acacia, bao gồm Acacia prominens. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Neola
207810
https://vi.wikipedia.org/wiki/Repalle
Repalle
Repalle là một thành phố và khu đô thị của huyện Guntur thuộc bang Andhra Pradesh, Ấn Độ. Địa lý Repalle có vị trí Nó có độ cao trung bình là 7 mét (22 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Repalle có dân số 41.319 người. Phái nam chiếm 50% tổng số dân và phái nữ chiếm 50%. Repalle có tỷ lệ 69% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 72%, và tỷ lệ cho phái nữ là 67%. Tại Repalle, 10% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thị trấn thuộc huyện Guntur
2384878
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diplusodon%20epilobioides
Diplusodon epilobioides
Diplusodon epilobioides là một loài thực vật có hoa trong họ Lythraceae. Loài này được DC. mô tả khoa học đầu tiên năm 1828. Chú thích Liên kết ngoài Diplusodon Thực vật được mô tả năm 1828
724877
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oliva%20kerstitchi
Oliva kerstitchi
Oliva kerstitchi là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Olividae, họ ốc gạo hoa. Miêu tả Phân bố Chú thích Tham khảo Oliva
694634
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hederorkis
Hederorkis
Hederorkis là một chi thực vật có hoa trong họ, Orchidaceae. Các loài Hederorkis scandens Thouars (1822) Hederorkis seychellensis Bosser (1976) Xem thêm Danh sách các chi Phong lan Tham khảo Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. & Rasmussen, F. eds. (1999). Genera Orchidacearum 1. Oxford Univ. Press. Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. & Rasmussen, F. eds. (2001). Genera Orchidacearum 2. Oxford Univ. Press. Pridgeon, A.M., Cribb, P.J., Chase, M.A. & Rasmussen, F. eds. (2003). Genera Orchidacearum 3. Oxford Univ. Press Berg Pana, H. 2005. Handbuch der Orchideen-Namen. Dictionary of Orchid Names. Dizionario dei nomi delle orchidee. Ulmer, Stuttgart Govaerts, R. (2003). World Checklist of Monocotyledons Database in ACCESS: 1-71827. The Board of Trustees of the Royal Botanic Gardens, Kew. Published on the Internet; http://www.kew.org/wcsp/ accessed Nov.12.2010. World Checklist of Selected Plant Families. (DATE). The Board of Trustees of the Royal Botanic Gardens, Kew. Danh sách các chi phong lan Thực vật Seychelles Vandeae Lan Châu Phi Polystachyinae
1853701
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bouteloua%20curtipendula
Bouteloua curtipendula
Bouteloua curtipendula là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (Michx.) Torr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1853. Hình ảnh Chú thích Liên kết ngoài Bouteloua Thực vật được mô tả năm 1853 Thực vật Argentina Thực vật Bắc Dakota Thực vật Nam Mỹ Thực vật Texas Vườn cây Bắc Mỹ Thực vật vườn Nam Mỹ Biểu tượng Texas Thực vật Trung Mỹ
1143591
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudopoda%20dama
Pseudopoda dama
Pseudopoda dama là một loài nhện trong họ Sparassidae. Loài này thuộc chi Pseudopoda. Pseudopoda dama được Peter Jäger miêu tả năm 2001. Chú thích Tham khảo Pseudopoda
1510502
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C4%B1rkharman%2C%20Ta%C5%9Fova
Kırkharman, Taşova
Kırkharman là một xã thuộc huyện Taşova, tỉnh Amasya, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 234 người. Chú thích Tham khảo
399700
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A1n%20Nguy%C3%AAn%20%C4%90%E1%BA%BF
Hán Nguyên Đế
Hán Nguyên Đế (chữ Hán: 漢元帝; 76 TCN - 8 tháng 7, 33 TCN), húy Lưu Thích (劉奭), là vị Hoàng đế thứ 11 của nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ năm 49 TCN đến năm 33 TCN, tổng cộng 16 năm. Trong lịch sử, Hán Nguyên Đế được biết đến là vị Hoàng đế đã đặt nền tảng chắc chắn cho Nho giáo, trở thành quốc sách cai trị hàng đầu cho chính quyền trung ương, thăng địa vị những người theo Nho giáo trở thành những quan lại quan trọng. Tuy nhiên, ông thất bại trong việc ngăn chặn các đảng phái đấu đá nhau, giày xéo chính sự trong suốt Triều đại của mình. Nhiều sử gia Trung Quốc đánh giá ông là vị Hoàng đế hồ đồ và thiếu quyết đoán. Nguyên Đế còn nổi tiếng đến việc gả Vương Chiêu Quân cho Thiền vu Hung Nô, thiết lập bang giao giữa nhà Hán và Hung Nô. Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc bằng những giai thoại dân gian và được liệt vào một trong Tứ đại mỹ nhân Trung Hoa danh tiếng. Thân thế Hán Nguyên Đế Lưu Thích sinh năm 76 TCN, là con trai trưởng của Hán Tuyên Đế Lưu Tuân và Cung Ai hoàng hậu Hứa Bình Quân. Khi sinh ra, cha mẹ ông khi đó vẫn là những người hoàng thất không danh phận, do ông nội của Tuyên Đế là Lệ thái tử Lưu Cứ, con trưởng của Hán Vũ Đế Lưu Triệt, bị trọng tội và gia cảnh trở nên bần hàn. Năm 74 TCN, Hán Chiêu Đế Lưu Phất Lăng băng hà mà không có con nối. Đại thần Hoắc Quang lập Xương Ấp vương Lưu Hạ kế vị, nhưng không lâu sau lại phế truất. Hoắc Quang tìm kiếm người hoàng tộc còn lưu lại trong dân gian, và khi đó Hoắc Quang đã biết đến sự tồn tại của Tuyên Đế. Sau khi lên ngôi, Tuyên Đế phong Hứa Bình Quân làm Hoàng hậu. Điều này khiến Hoắc phu nhân vợ của Hoắc Quang không vừa ý, vì bà ta muốn con gái mình Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu. Năm 71 TCN, trong một đợt Hứa hoàng hậu mang thai lần thứ 2, Hoắc phu nhân đã sai nữ y bỏ thuốc vào khiến 2 mẹ con Hứa hoàng hậu đều cùng chết. Tiếc thương cho Hứa hoàng hậu, Tuyên Đế truy thụy bà làm Cung Ai hoàng hậu (恭哀皇后). Lưu Thích khi đó mới 6 tuổi. Năm 70 TCN, Tuyên Đế phong Hoắc Thành Quân làm Hoàng hậu, đồng thời phong Lưu Thích làm Hoàng thái tử, phong cha Hứa hoàng hậu là Hứa Quảng Hán (許廣漢) làm Bình Ân hầu (平恩侯). Điều này khiến nhà họ Hoắc không vừa lòng, và mẹ con Hoắc hoàng hậu âm mưu quyết định giết hại Thái tử. Năm 66 TCN, Tuyên Đế điều tra về cái chết của Hứa hoàng hậu, bắt tội cả nhà họ Hoắc, còn Hoắc hoàng hậu thì bị phế truất. Năm 64 TCN, Vương tiệp dư được sắc phong làm Hoàng hậu, và Thái tử Lưu Thích được Vương hoàng hậu yêu thương, chăm sóc tử tế từ đó. Khi đến tuổi đọc sách, ông được học bởi các thầy giáo theo Nho giáo, và từ đó có ảnh hưởng rất lớn đến ông. Hán Tuyên Đế lại xem Nho giáo là những học thuyết không thực tế, và trở nên gay gắt việc đam mê Nho giáo của Thái tử. Tuyên Đế nhiều lần muốn phế Lưu Thích, do Tuyên Đế nhận thấy Thái tử càng lớn càng tỏ ra yếu đuối, nhu nhược chỉ có tác phong của một Nho sinh chứ không có khí chất của bậc Thiên tử. Ngược lại, Tuyên Đế lại đánh giá cao vị hoàng tử thứ ba của mình là Lưu Hiêu, bởi vì vị hoàng tử này ngay từ nhỏ đã rất thông minh, đĩnh đạc, theo tư tưởng Pháp gia, Tuyên đế rất sủng ái ông ta và đã rất nhiều lần muốn lập ông ta làm Thái tử thay cho Lưu Thích. Nhưng do nhiều đại thần đứng ra khuyên can rằng Thái tử chưa bao giờ gây ra lỗi lầm gì, lại thêm trong quá trình xử lý chính sự quốc gia cũng có nhiều hành động rất thoả đáng, quan trọng nhất là ông vốn là con đích trưởng do tiên hậu quá cố Hứa Bình Quân sinh ra, theo trình tự thì không nên bỏ con đích trưởng mà lập con thứ xuất nên đã khiến Tuyên Đế thay đổi quyết định phế lập Thái tử do Đế lúc đó còn quá nặng tình với Hứa hoàng hậu quá cố. Vì thế mà ngôi Thái tử của Lưu Thích mới được bảo toàn vững chắc. Năm 49 TCN, Hiếu Tuyên hoàng đế băng hà, Thái tử Lưu Thích lên ngôi, năm đó ông 27 tuổi. Trước khi qua đời, Tuyên Đế phó thác ông cho Sử Cao (史高), Chu Kham (周堪) và Tiêu Vọng Chi (蕭望之). Hoàng đế nhà Hán Xảy ra Đảng tranh Thời gian đầu kế vị, Nguyên Đế là người chăm lo chính sự. Ông lập tức thi hành các chính sách tiết kiệm, giảm tô thuế, ban trợ lương thực cho dân chúng gặp nạn đói. Trái với chính sách của Tuyên Đế, Nguyên Đế tích cực trọng dụng Nho thần vào bộ máy triều đình. Theo di chiếu của Tuyên Đế, chức Đại tư mã được trao cho Sử Cao, chức Thái phó giao cho Tiêu Vọng Chi, chức Thiếu phó cho Chu Kham. Trong 3 người này, Tiêu Vọng Chi và Chu Kham từng là thầy học của Nguyên Đế. Trong triều khi đó chia ra làm 2 đảng phái chính; một bên đứng đầu là Tiêu-Chu cùng với một người trong hoàng tộc, cũng là Nho giáo đảng, tức Lưu Canh Sanh (劉更生). Một bên đối trọng đứng đầu bởi Sử Cao, Hoằng Cung (弘恭) và Thạch Hiển (石顯). Đảng Nho giáo có được vị thế cao là do sự ảnh hưởng của Tiêu-Chu đối với Nguyên Đế, khi cả hai đều là thầy dạy của Nguyên Đế từ khi còn là Thái tử. Còn đảng phái do Sử Cao đứng đầu là dựa vào sự thân thích; khi Sử Cao là anh em họ bên ngoại của Hán Tuyên Đế, và Hoằng Cung cùng Thạch Hiển là 2 hoạn quan thân tính của Nguyên Đế. Về việc triều chính, hai đảng phái này đối đầu với nhau căn bản là do đảng Nho giáo ủng hộ quay về những chính sách thời nhà Chu, còn đảng Sử Cao lại ủng hộ giữ gìn những chính sách cũ của nhà Hán khi trước. Năm 47 TCN, Sử Cao đã bày mưu khiến Chu Kham và Lưu Canh Sanh bị phế truất làm thường dân; còn Tiêu Vọng Chi bị bãi chức. Về sau, bằng âm mưu của mình, Sử Cao đã lừa khiến Tiêu Vọng Chi phải tự sát trong ngục. Về sau, Nguyên Đế biết sự thực và khiển trách Sử Cao nặng nề, tuy nhiên vẫn không nỡ phạt nặng ông ta. Nguyên Đế cho người mai táng Tiêu Vọng Chi một cách long trọng nhất. Năm 46 TCN, Nguyên Đế vời Chu Kham về triều, trao cho chức quan phụ chính, cùng theo đó trọng dụng học trò của Chu là Trương Mãnh (張猛), cháu nội của đại thần Trương Khiên nổi tiếng thời Hán Vũ Đế. Tuy giữ chức vị không cao, nhưng 2 thầy trò Chu Trương vẫn được Nguyên Đế xem trọng và thường xuyên hỏi chuyện chính sự. Năm 44 TCN, Nguyên Đế trọng dụng Cống Vũ (貢禹) vào vị trí Tể tướng. Là một người không dính vào bất kì phe phái nào, Cống Vũ đã giúp Nguyên Đế thực thi các chính sách tiết kiệm trong hệ thống quan lại chính quyền và nâng cao sự phát triển của Nho giáo. Năm 43 TCN, Thạch Hiển lại liên kết với họ Hứa của Cung Ai hoàng hậu và Sử Cao, đã lợi dụng những biến đổi về thiên tượng, tố cáo 2 thầy trò Chu trương là nguyên nhân của sự thay đổi này. Ngay lập tức, Chu Trương bị biếm đến giữ những chức vụ thấp tại địa phương. Sang năm đó, Nguyên Đế trọng dung Nho thần Khuông Hành (匡衡) làm đại thần đắc lực của mình. Khuông Hành nhận thấy phe đảng tranh đấu, để tự bảo vệ mình, đã theo phe cùng với đảng của Sử và Thạch. Năm 40 TCN, Nguyên Đế nghi ngờ Sử Cao và Thạch Hiến dối lừa mình, đã cho vời 2 thầy trò Chu Trương trở về Trường An. Bái Chu Kham làm Quang lộc đại phu, trật 2000 thạch. Sử Cao và Thạch Hiển lo sợ. Chu Kham bệnh chết, Thạch Hiển tố cáo tội trạng Trương Mãnh giết thầy mình, khiến Mãnh phải tự sát. Về sau, đại thần Kinh Phòng (京房) không chịu nổi sự chuyên quyền của Sử Cao và Thạch Hiển, đã chống đối họ bằng cách chiếm được sự tin yêu của Nguyên Đế thông qua việc bói toán. Vào một dịp, Kinh Phòng tố cáo Sử Cao cùng Ngũ Lộc Sung Tông (五鹿充宗) giả trò tà đạo mê hoặc Nguyên Đế. Tuy nhiên, Nguyên Đế không làm gì bọn Sử cả, và về sau Kinh Phòng bị Sử Cao hãm hại vì bị tố cáo mưu phản cùng Hoài Dương vương Lưu Khâm (劉欽), em thứ của Nguyên Đế. Đối ngoại Phía đông bắc Thời kỳ ông cai trị, phía đông bắc nhà Hán, quận Huyền Thố thuộc Hán tứ quận luôn xảy ra các cuộc chiến tranh với vua Kim Oa (Geumwa) nước Đông Phù Dư (Dongbuyeo) và các quốc gia nhỏ bé ở Tốt Bản (Jolbon). Năm 37 TCN Cao Chu Mông (Go Jumong) đào thoát từ Đông Phù Dư sang Tốt Bản rồi thống nhất 5 nước ở Tốt Bản và tuyên bố thành lập quốc gia Cao Câu Ly, chống đối lại nhà Hán. Quan quân nhà Hán ở quận Huyền Thố thuộc Hán tứ quận và thành trì ở Liêu Đông hợp sức giao tranh với quân đội của Cao Câu Ly nhiều lần nhưng đều bại trận trong suốt thời gian Hán Nguyên Đế tại vị. Phía bắc và tây bắc Phía bắc nhà Hán của ông luôn có trọng binh canh giữ để ngăn người Hung Nô xâm phạm biên cương, vì người Hung Nô hiện đang chia làm hai phe đối đầu nhau là Hô Hàn Tà và Chế Chi. Hô Hàn Tà thì triều cống nhà Hán từ trước nhưng Chế Chi thì luôn quấy phá biên cương phía bắc nhà Hán. Năm 36 TCN, một viên tướng trẻ của nhà Hán là Trần Thang (陈汤), với sự hỗ trợ của Cam Duyên Thọ (甘延壽), quan tổng nhiếp chính của nhà Hán ở Tây Vực, đã chỉ huy một lực lượng viễn chinh Tây Vực tiến đánh Thiền Vu Chế Chi. Trần Thang vạch kế hoạch lấy cánh quân ở đồn điền liên minh cùng với quân Ô Tôn đánh thẳng Chế Chi, nhưng Cam Diên Thọ vẫn phân vân chưa quyết, lấy cớ dâng sớ về triều hỏi ý kiến Hán Nguyên Đế. Trần Thang không thể chờ đợi lâu bèn quyết định giả truyền thánh chỉ, triệu tập binh lính đồn điền và binh lính nước Xa Sư. Cam Diên Thọ lúc này đang ốm nặng nghe vậy vội vàng ngăn cản nhưng không được đành phải nghe theo. Trần Thang và Cam Diên Thọ tập hợp đại quân được bốn vạn người chia thành sáu hiệu: ba hiệu tiến về hướng nam đến Thông Lĩnh, Đại Uyển; ba hiệu còn lại đi về hướng bắc vào Xích Cốc, qua Ô Tôn và biên giới Khang Cư. Trần Thang lấy ân uy ra phủ dụ Khang Cư, được nước này tình nguyện mở đường chỉ lối vào nơi ở của Chế Chi. Sau đó đại quân nhà Hán tiến thẳng tới thành đô Taraz (Lại Thủy), bày binh bố trận cách thành ba dặm. Cam Diên Thọ và Trần Thang quan sát hồi lâu rồi mới lệnh cho binh sĩ vây thành, bắn bị thương những tên lính gác. Hai bên bắt đầu cuộc chiến bằng cung tên thật dữ dội. Được tin quân Hán tiến công, Thiền Vu Chế Chi đã tính đường tháo chạy. Tới khi quân Hán đánh rát quá, Thiền Vu Chế Chi mình mặc giáp trụ cùng thê thiếp và tùy tùng bước lên mặt thành cố thủ nhưng đều bị quân Hán bắn bị thương. Chế Chi quá sức kinh hãi liền xuống thành, lên ngựa phóng thẳng về cung thất. Ngày hôm sau, Trần Thang lệnh cho các tướng sĩ đốt lửa đánh thành ở cả bốn mặt, chiêng trống nổi lên hỗ trợ. Quân Hán xông qua khói lửa phá thành. Lúc này, bên cạnh Chế Chi chỉ còn đám tùy tùng và một số quan lại chức sắc, bọn họ hoảng sợ bỏ chạy tán loạn bỏ mặc Chế Chi lại một mình. Quân Hán cứ thế xông vào, đâm chết Chế Chi. Quân hầu Đỗ Huân chạy đến chặt thủ cấp của Chế Chi, binh lính Hán kéo nhau tới phá ngục cứu được hai sứ giả nhà Hán và tìm thấy những văn thư mà sứ giả Cốc Cát của nhà Hán từng mang theo. Tướng sĩ vào thành lùng bắt kẻ thù, giết chết đám thê thiếp, thái tử và những vương công Hung Nô được Chế Chi phong; bắt sống quan lại và gọi hàng binh lính địch, rồi giao lại cho các nước tham chiến. Cuộc chiến lần này thắng lợi, không những đã trừ tiệt được hậu họa lớn ở Tây Vực mà còn giúp nâng cao uy tín của triều Hán trong vùng. Lúc này, Cam Diên Thọ và Trần Thang mới dâng sớ về triều đình ở Trường An cùng với thủ cấp của Chế Chi làm chiến lợi phẩm. Hai người bọn họ cùng các tướng sĩ đang trên đường trở về thì quan Tự Đại hiệu úy trong triều cũng xuất phát từ Trường An. Hai bên gặp nhau trên đường và Trần Thang phải dừng lại và bị lục soát. Do Hán Nguyên Đế nhân được mật báo Trần Thang sau khi phá xong Chế Chi đã cất giấu không ít châu báu hòng làm của riêng, vì vậy Tự Đại hiệu úy mới cản đường lục soát, chuẩn bị bắt bớ. Trần Thang lập tức dâng sớ kêu oan, Hán Nguyên Đế liền hạ lệnh cho quan Tự Đại lui về và các quận huyện, thành ven đường phải bày tiệc tiếp đón đoàn quân thắng lợi trở về. Sau này, khi luận công ban thưởng ở trong triều, Trung thủ lệnh Thạch Hiển và Khuông Hành cứ một mực phủ nhận công lao của Trần Thang, khiến Hán Nguyên Đế dùng dằng chưa ban thưởng vội. Tông chính Lưu Hướng khuyên mãi Hán Nguyên Đế mới hạ chiếu miễn tội giả truyền thánh chỉ của Cam Diên Thọ và Trần Thang rồi để các đại thần bàn chuyện khen thưởng. Bọn Thạch Hiển, Khuông Hành đều chủ trương như cũ. Cuối cùng, Hán Nguyên Đế phong Cam Diên Thọ là Nghĩa Thành hầu, Trần Thang là Quan Nội hầu. Mỗi người còn được ba trăm hộ làm thực ấp, vàng một trăm cân, còn bổ nhiệm Trần Thang là Xạ Thanh hiệu úy, Cam Diên Thọ là Tràng Thủy hiệu úy. Sau đó Hán Nguyên Đế đem cống Vương Chiêu Quân năm 33 TCN cho Hô Hàn Tà thì người Hung Nô mới dừng việc xâm phạm nhà Hán trong vòng gần 100 năm nữa. Cống Chiêu Quân cho người Hồ Lúc đó Hung Nô phía bắc đã thống nhất được Nam bắc sau thời kỳ chia cắt. Đầu năm 33 TCN, Thiền Vu Hô Hàn Tà đến thăm Trường An. Hán Nguyên Đế quyết định chọn một cung nữ, lấy lễ tiết công chúa gả cho Hô Hàn Tà. Vì vậy ông ra lệnh trong các cung nữ: Ai tình nguyện lấy vua Hung Nô sẽ được coi như công chúa. Các cung nữ đều ngần ngại sang Hung Nô. Có cung nữ Vương Tường - tức Vương Chiêu Quân (王昭君) - tình nguyện lấy Hô Hàn Tà. Đến ngày hôn lễ giữa Hô Hàn Tà và Vương Chiêu Quân, Nguyên Đế thấy nàng xinh đẹp nên rất hối tiếc. Ông bèn hạ lệnh mang bức tranh nàng ra xem, thì thấy bức tranh do họa sĩ Mao Diên Thọ vẽ không giống chân dung thật. Nguyên do vì Mao Diên Thộ bắt các cung nữ phải đút lót mới vẽ hình đẹp để được vào gặp vua, nếu không chịu hối lộ sẽ bị vẽ hình xấu. Nguyên Đế thấy tranh Mao Diên Thọ vẽ sai với người thật, bèn sai bắt chém Thọ. Vì Vương Chiêu Quân được sủng ái và khuyên Hô Hàn Tà giữ hòa khí với nhà Hán nên vùng biên giới Hán-Hung Nô trong hơn 60 năm không có chiến tranh. Tranh chấp Trữ vị Hán Nguyên Đế không có quá nhiều phi tần, ngoài chính cung là Hoàng hậu Vương Chính Quân, Nguyên Đế còn 2 phi tử sủng ái khác là Chiêu nghi Phó thị và Chiêu nghi Phùng Viện; và 3 người đều sinh ra 3 người con trai của mình; như Vương hoàng hậu sinh ra Thái tử Lưu Ngao, Phó chiêu nghi sinh Định Đào vương Lưu Khang (劉康) và Phùng chiêu nghi sinh Trung Sơn vương Lưu Hưng. Vương hoàng hậu trong hậu cung hết sức hiền hòa, luôn cố giữ mối quan hệ tốt với Phùng chiêu nghi, nhưng lại sinh tranh chấp với Phó chiêu nghi vì việc định ngôi Thái tử. Khi Thái tử Lưu Ngao càng trưởng thành, Nguyên Đế càng không hài lòng với tác phong của Thái tử và ấn tượng với hoàng tử Lưu Khang hơn. Bắt đầu từ sự việc năm 35 TCN, khi em trai út của Nguyên Đế là Trung Sơn vương Lưu Cánh mất, thế nhưng Thái tử Lưu Ngao không thể hiện sự đau buồn nào. Trong khi đó, Lưu Cánh cùng Thái tử cùng tuổi và đã chơi cùng nhau từ thuở còn nhỏ, điều này khiến Nguyên Đế thất vọng với Thái tử. Cận thần Sử Đan (史丹) khuyên Nguyên Đế và cho rằng Thái tử đang cố giúp Nguyên Đế bớt đau buồn, nên mới không biểu hiện đau khổ. Tuy vậy, sự bực bội của Nguyên Đế với Thái tử phát sinh từ đó. Cũng vào năm 35 TCN, Nguyên Đế ngã bệnh, Phó chiêu nghi cùng Lưu Khang hết lòng bên cạnh hầu thuốc thang, trong khi Hoàng hậu và Thái tử không thường xuyên ghé thăm ông. Nhân cơ hội đó, Phó chiêu nghi cố thuyết phục Nguyên Đế thay ngôi Thái tử, trao về cho Lưu Khang. Thế nhưng một lần nữa, đại thần Sử Đan lại cản trở, xông thẳng vào phòng ngủ của Nguyên Đế, ra sức can ngăn. Nguyên Đế mới thôi không còn ý định ấy nữa. Qua đời Năm 33 TCN, tháng 5, ngày Nhâm Thìn (tức ngày 8 tháng 7 dương lịch), Hán Nguyên Đế Lưu Thích băng hà ở Vị Ương cung, hưởng dương 43 tuổi, tại vị 16 năm. Ông được truy tôn miếu hiệu là Cao Tông (高宗), thụy hiệu là Hiếu Nguyên hoàng đế (孝元皇帝), an táng tại Vị lăng (渭陵). Thái tử Lưu Ngao lên nối ngôi, tức là Hán Thành Đế. Trong thời gian cai trị của Nguyên Đế, chính sự nhà Hán bắt đầu đi xuống. Vì sự hoang phí của Nguyên Đế, năm 33 TCN, đê sông Hoàng Hà vỡ nhưng triều đình không có tiền để đắp đê, do đó thiệt hại rất lớn. Chính Nguyên Đế cũng tự mình than vãn rằng: "Quốc gia đã cực loạn rồi". Niên hiệu Trong thời gian ở ngôi, Hán Nguyên Đế dùng các niên hiệu: Sơ Nguyên (初元; 48-44 TCN) Vĩnh Quang (永光; 43-39 TCN) Kiến Chiêu (建昭; 38-34 TCN) Cánh Ninh (竟寧; 33 TCN) Gia quyến Cha: Hán Tuyên Đế Lưu Tuân. Mẹ: Cung Ai hoàng hậu Hứa Bình Quân (恭哀皇后许平君, ? - 71 TCN). Vợ: Lương đệ Tư Mã thị (良娣司馬氏), mất sớm. Hiếu Nguyên hoàng hậu Vương Chính Quân (孝元皇后王政君, 71 TCN - 13). Phó chiêu nghi (傅昭儀, ? - 2 TCN). Phùng chiêu nghi (馮昭儀, ? - 4 TCN). Vệ tiệp dư (婕妤衛氏). Vương Chiêu Quân (王昭君), nhập cung nhưng chưa từng diện thánh, giữ thân phận Gia nhân tử (phi tần không chính thức) đến khi gả sang Hung Nô. Con trai: Hán Thành Đế Lưu Ngao (劉驁), mẹ là Vương hoàng hậu. Định Đào Cung vương Lưu Khang (定陶恭王劉康, ? - 23 TCN), mẹ là Phó Chiêu nghi. Trung Sơn Hiếu vương Lưu Hưng (中山孝王劉興, ? - 7 TCN), mẹ là Phùng Chiêu nghi. Con gái: Bình Đô Công chúa (平都公主), mẹ là Phó Chiêu nghi. Bình Dương Công chúa (平阳公主), mẹ là Vệ tiệp dư. Dương A Công chúa (阳阿公主), mẹ là Vệ tiệp dư. Dĩnh Ấp Công chúa (潁邑公主), mẹ không rõ. Xem thêm Hán Thành Đế Vương Chiêu Quân Vương Chính Quân Tham khảo Đặng Huy Phúc (2001), Các hoàng đế Trung Hoa, Nhà xuất bản Hà Nội Nguyễn Khắc Thuần (2003), Các đời đế vương Trung Hoa, Nhà xuất bản Giáo dục Chú thích Nguyên đế Sinh năm 76 TCN Mất năm 33 TCN Sinh năm 75 TCN Mất thập niên 30 TCN Năm 33 TCN Năm 75 TCN
1592901
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bettahalli%2C%20Shrirangapattana
Bettahalli, Shrirangapattana
Bettahalli là một làng thuộc tehsil Shrirangapattana, huyện Mandya, bang Karnataka, Ấn Độ. Tham khảo Mandya (huyện)
19558939
https://vi.wikipedia.org/wiki/Charroux
Charroux
Charroux có thể là: Địa điểm Charroux, Allier, một xã thuộc tỉnh Allier, Pháp Charroux, Vienne, một xã thuộc tỉnh Allier, Pháp Charroux Abbey, thuộc Charroux, Vienne, Pháp Người mang họ Charroux Gaby Charroux (sinh 1942), chính trị gia người Pháp Robert Charroux, nhà văn người Pháp
588127
https://vi.wikipedia.org/wiki/Macroglossum%20schnitzleri
Macroglossum schnitzleri
Macroglossum schnitzleri là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae, chi Macroglossum. Tham khảo Pinhey, E (1962): Hawk Moths of Central và Southern Africa. Longmans Southern Africa, Cape Town. Macroglossum
1838948
https://vi.wikipedia.org/wiki/Galium%20pringlei
Galium pringlei
Galium pringlei là một loài thực vật có hoa trong họ Thiến thảo. Loài này được Greenm. mô tả khoa học đầu tiên năm 1898. Chú thích Liên kết ngoài Galium Thực vật được mô tả năm 1898
2936891
https://vi.wikipedia.org/wiki/Naranga%20diffusa
Naranga diffusa
Naranga diffusa là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Naranga
1429791
https://vi.wikipedia.org/wiki/Degollado
Degollado
Degollado là một đô thị thuộc bang Jalisco, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 19173 người. Tham khảo Đô thị bang Jalisco
2375110
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ficus%20davidsoniae
Ficus davidsoniae
Ficus davidsoniae là một loài thực vật có hoa trong họ Moraceae. Loài này được Standl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1940. Chú thích Liên kết ngoài D Thực vật được mô tả năm 1940
921047
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hispodonta%20grandis
Hispodonta grandis
Hispodonta grandis là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Gressitt miêu tả khoa học năm 1963. Chú thích Tham khảo Hispodonta
1450359
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ba%C5%9Fkavak%2C%20Hekimhan
Başkavak, Hekimhan
Başkavak là một xã thuộc huyện Hekimhan, tỉnh Malatya, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 105 người. Chú thích Tham khảo Xã thuộc tỉnh Malatya
1909932
https://vi.wikipedia.org/wiki/Schefflera%20tanyrhachis
Schefflera tanyrhachis
Schefflera tanyrhachis là một loài thực vật có hoa trong Họ Cuồng cuồng. Loài này được Harms miêu tả khoa học đầu tiên năm 1921. Chú thích Liên kết ngoài T Thực vật được mô tả năm 1921
919348
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diabrotica%20periscopica
Diabrotica periscopica
Diabrotica periscopica là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Bechyne miêu tả khoa học năm 1958. Chú thích Tham khảo P
15110079
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dwadiyeh
Dwadiyeh
Dwadiyeh () là một ngôi làng Syria nằm ở Sinjar Nahiyah ở huyện Maarrat al-Nu'man, Idlib. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Dwadiyeh có dân số 396 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Tham khảo
1646759
https://vi.wikipedia.org/wiki/Wishbone%20-%20Ch%C3%BA%20ch%C3%B3%20nh%E1%BB%8F%20v%C3%A0%20m%C3%A0n%20k%E1%BB%8Bch%20l%E1%BB%9Bn
Wishbone - Chú chó nhỏ và màn kịch lớn
Wishbone là một bộ phim truyền hình dành cho trẻ em được phát sóng từ năm 1995 đến năm 1998 tại Hoa Kỳ. Nhân vật chính là một chú chó biết nói tên Wishbone, chú sống với chủ của mình là Joe Talbot ở một thị trấn tưởng tượng có tên Oakdale, Texas. Wishbone lúc nào cũng liên tưởng những sự việc diễn ra hàng ngày với chú và mơ mộng rằng mình chính là nhân vật chính của các câu chuyện cực kỳ thú vị trong văn học cổ điển, chú vẽ ra trước mắt chúng ta một thế giới tưởng tượng của câu chuyện mà chú đóng vai chính cùng song hành với thế giới thực của Joe và bạn của cậu ta, chú chó nhỏ này được biết đến như là "chú chó nhỏ và màn kịch lớn". Câu chuyện theo bước những mộng mơ của chú, chú lúc nào cũng sắm vai trong các câu chuyện nổi tiếng trong văn học. chỉ có người xem và các nhân vật trong thế giới tưởng tượng mới nghe được những gì Wishbone nói. Và hơn thế, các nhân vật trong thế giới tưởng tượng của Wishbone nhìn chú ta với ánh mắt không phải là một chú chó. Phim từng được trình chiếu tại Việt Nam trên HTV9 với tựa đề tiếng Việt là 'Wishbone - Chú Chó Nhỏ và Màn Kịch Lớn' Nhân vật Wishbone: là một chú chó ngoan, lúc nào cũng tưởng tượng ra một thế giới song song của văn học cổ điển cùng tồn tại với thế giới thực của chú và người bạn là con người của mình. Wishbone là một chú chó đực đốm 3 màu giống Jack Russell Terrier (toàn thân trắng với các đốm nâu và đen). Chú sống với gia đình Talbots ở nhà của họ trên đại lộ Forest ở Oakdale. Trong cuộc sống bình thường, không ai có thể nghe thấy Wishbone nói, ngoại trừ kháng giả thì có thể. Chú luôn cố gắn gây ấn tượng và tự nhủ rằng con người sẽ có thể nghe được chú nói nếu họ thực sự chú ý và để tâm đến, nhưng chú cũng hiểu là thực sự họ sẽ chằng bao giờ làm được như vậy. Trong những câu chuyện cổ điển mà cậu tưởng tượng mình là một nhân vật trong đó, con người có thể nghe thấy cậu nói và mọi người đều đối xử với cậu như một con người. Joe Talbot: Chủ của Wishbone, là con một của Steve và Ellen Talbot. Joe có mái tóc nâu và có niềm đam mê lớn với thể thao, đặc biệt là bóng rổ. Joe chơi trong đội bóng rổ của trường trung học Sequoyah. Bạn thân của Joe là Samantha Kepler và David Barnes. Cha của Joe là Steve, một huấn luyện viên bòng rổ, mất do bệnh thiếu máu khi Joe được sáu tuổi. David Barnes: là bạn thân nhất của Joe và Sam và là hàng xóm của Joe. Cậu sống với gia đình mình tại đại lộ Forest, các anh cậu là Nathan và Ruth Barnes và cô em gái Emily. David muốn sau này trở thành một nhà khoa học. Samantha "Sam" Kepler Ellen Talbot Wanda Gilmore Diễn viên Soccer, cùng với các chú chó Slugger, Shiner, Phoebe và Bear trong vai Wishbone Larry Brantley - lồng tiếng cho Wishbone Jordan Wall - Joe Talbot Adam Springfield - David Barnes Christie Abbott - Samantha Kepler Mary Chris Wall - Ellen Talbot Angee Hughes - Wanda Gilmore Justin Reese - Nathaniel Bobelesky Adan Sanchez - Lee Natonabah/Dan Bloodgood Rick Perkins - Mr. Bob Pruitt Taylor Pope - Curtis Tham khảo http://en.wikipedia.org/wiki/Wishbone_(TV_series) http://en.wikipedia.org/wiki/List_of_Wishbone_episodes Liên kết ngoài World Wide Wishbone Chương trình truyền hình tiếng Anh Phim truyền hình Mỹ Phim thiếu nhi Mỹ Phim giả tưởng Mỹ Phim truyền hình Mỹ thập niên 2000
13808600
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%C3%B2%20Greyman
Bò Greyman
Greyman là một giống bò Úc được phát triển ở Queensland vào những năm 1970, đặc biệt phù hợp với môi trường Queensland, bằng cách kết hợp các đặc điểm di truyền nổi bật của cả hai giống Murray Grey và Brahman. Những gia súc này mang từ 25% đến 75% gene Murray Grey, phần còn lại được tạo thành từ gene bò Brahman. Điều này cho phép các nhà tạo giống có thể lựa chọn hiệu suất tối ưu cụ thể cho vùng và điều kiện môi trường. Vì vậy, bò Greyman có thể được nuôi với tỷ lệ lớn hơn về nội dung Brahman ở đất nước nhiệt đới, hoặc với tỷ lệ gene Murray xám cao hơn cho phù hợp với các bang miền Nam. Những bộ lông kiểu dáng đẹp của giống bò này thay đổi từ màu xám đậm đến bạc, Greyman là những con bò không sừng tự nhiên và có sắc tố da sẫm màu mà có khả nang chống chọi bệnh về da hoặc mắt ở những vùng khí hậu khắc nghiệt. Bò Greyman cung cấp cho các nhà lai tạo khả năng kháng bệnh tự nhiên, khả năng làm mẹ tốt, hạn hán và khả năng chịu nhiệt và chuyển đổi thức ăn hiệu quả. Chdúng là một trong những giống đã được GeneSTAR thử nghiệm dương tính với việc mang các bản sao của các gen thịt ngon và mềm. Greymans ban đầu được ghi lại trong xã hội riêng của họ, nhưng Hiệp hội Greyman và Herdbook của nó đã được hấp thụ vào Hiệp hội Gia súc Thịt bò Murray xám vào giữa những năm 1990, như một phần của Sổ đăng ký Tổng hợp Murray Grey. Gần đây, một sổ cá thể bò Greyman riêng biệt đã được thêm vào để cung cấp một hệ thống đăng ký hiệu quả hơn. Giống Greyman đã thu hút sự quan tâm từ các nhà sản xuất gia súc ở nước ngoài vì chúng là một trong số ít giống của Úc thích nghi với hiệu suất và năng suất tối đa trong mọi điều kiện. Ghi chú Giống bò
1966021
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ferula%20daninii
Ferula daninii
Ferula daninii là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa tán. Loài này được Zohary mô tả khoa học đầu tiên năm 1972. Chú thích Liên kết ngoài Ferula Thực vật được mô tả năm 1972
1500810
https://vi.wikipedia.org/wiki/Boyuncuk%2C%20G%C3%BC%C3%A7l%C3%BCkonak
Boyuncuk, Güçlükonak
Boyuncuk là một xã thuộc huyện Güçlükonak, tỉnh Şırnak, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 934 người. Chú thích Tham khảo Làng thuộc tỉnh Şırnak
1179879
https://vi.wikipedia.org/wiki/Uramba%20charina
Uramba charina
Uramba charina là một loài chân đều trong họ Porcellionidae. Loài này được Schmoelzer miêu tả khoa học năm 1974. Chú thích Tham khảo Uramba
2447569
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amblyeleotris%20yanoi
Amblyeleotris yanoi
Amblyeleotris yanoi là một loài cá bống biển nguồn gốc từ rạn san hô của phía tây Thái Bình Dương. Loài cá kích thức nhỏ này có thể đạt chiều dài tối đa 13 cm cho con đực và 5,8 cm cho con cái. Chú thích Tham khảo Y Động vật được mô tả năm 1996
683193
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paragathia
Paragathia
Paragathia là một chi bướm đêm thuộc họ Geometridae. Chú thích Tham khảo Natural History Museum Lepidoptera genus database Geometridae
1522389
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ho%C3%A0ng%20Thanh
Hoàng Thanh
Hoàng Thanh là một xã thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Việt Nam. Xã có diện tích 5,1 km², dân số năm 2016 là 5.441 người, mật độ dân số đạt 1.050 người/km². Chú thích Tham khảo
1625240
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kyadigere%2C%20Tirthahalli
Kyadigere, Tirthahalli
Kyadigere là một làng thuộc tehsil Tirthahalli, huyện Shimoga, bang Karnataka, Ấn Độ. Tham khảo Shimoga (huyện)
431411
https://vi.wikipedia.org/wiki/Passau%20%28huy%E1%BB%87n%29
Passau (huyện)
Passau là một huyện (Kreis) nằm ở đông nam bang Bayern, Đức. Huyện này bao quanh thành phố Passau từ hai phía. Các huyện giáp ranh (từ phía đông theo chiều kim đồng hồ) là: Rottal-Inn, Deggendorf, Freyung-Grafenau. Phía nam giáp Áo. Xã và đô thị Tham khảo Liên kết ngoài Trang mạng chính thức (tiếng Đức) Huyện của bang Bayern Hạ Bayern
1897108
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hordeum%20blomii
Hordeum blomii
Hordeum blomii là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được Thell. mô tả khoa học đầu tiên năm 1927. Chú thích Liên kết ngoài Hordeum Thực vật được mô tả năm 1927
3264049
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%A1t%20s%C3%A1ng%20k%C3%ADch%20th%C3%ADch%20quang%20h%E1%BB%8Dc
Phát sáng kích thích quang học
Phát sáng kích thích quang học, viết tắt là OSL (tiếng Anh: Optically Stimulated Luminescence) là một phương pháp đo liều (dose) do bức xạ ion hóa gây ra . Nguyên lý Phương pháp này sử dụng các điện tử bị bắt giữ có năng lượng nằm giữa vùng hóa trị (valence band) và vùng dẫn (conduction band) trong cấu trúc tinh thể của một số chất nhất định, như thạch anh, fenspat, oxit nhôm,... Các điểm bắt giữ là điểm không hoàn hảo của mạng tinh thể, do tạp chất hay khiếm khuyết. Bức xạ ion hóa tạo ra cặp điện tử-lỗ trống: Các điện tử trong vùng dẫn và lỗ trống trong vùng hóa trị. Các điện tử được kích thích vào vùng dẫn có thể bị bắt giữ trong bẫy điện tử hoặc lỗ trống. Lượng điện tử bị bắt giữ tỷ lệ với cường độ liều chiếu và thời gian chiếu, và phản ánh liều chiếu tích lũy của khối vật chất. Khi có sự kích thích của nhiệt (tức đo với phát sáng nhiệt) hoặc ánh sáng (tức đo với phát sáng kích thích quang học) thì các điện tử bị bắt giữ nói trên chuyển trạng thái, có thể thoát khỏi bẫy và chuyển lên mức năng lượng ở vùng dẫn. Từ vùng dẫn điện tử có thể tái hợp với các lỗ trống bị mắc kẹt trong bẫy. Nếu trung tâm với các lỗ trống là một trung tâm phát sáng (trung tâm tái tổ hợp bức xạ) thì sẽ xảy ra phát xạ ánh sáng. Các photon này được phát hiện bằng cách sử dụng một đèn nhân quang điện (PMT). Các tín hiệu từ đèn PMT được sử dụng để tính toán liều mà vật liệu đã hấp thụ. Ứng dụng Các máy đo OSL có độ nhạy cao, phát hiện được liều chiếu thấp cỡ 1 mrem cho tia X và tia gamma với photon có năng lượng từ 5 keV đến trên 40 MeV. Mức đo liều tương đương của OSL đo liều cho tia X và tia gamma tối đa là 1000 rem. Đối với hạt beta có năng lượng từ 150 keV đến trên 10 MeV, dải đo liều là từ 10 mrem đến 1000 rem. Bức xạ neutron với năng lượng 40 keV đến trên 35 MeV có dải đo liều là từ 20 mrem đến 25 rem. Trong chẩn đoán y tế dự phòng thì độ nhạy cảm cao của máy đo OSL làm cho nó là lý tưởng cho việc giám sát liều chiếu cho nhân viên làm việc trong môi trường bức xạ, đặc biệt là người lao động mang thai. OSL có ít nhất là hai ứng dụng quan trọng: Định tuổi OSL cho vật liệu cổ: Chủ yếu là các trầm tích địa chất, và các vật liệu đã nung đốt như gốm, gạch, v.v... trong khảo cổ học. Nó thay thế hoặc bổ trợ cho định tuổi di chỉ, đặc biệt là khi tàn dư hữu cơ không đủ cho phép định tuổi bằng cacbon-14. Đo liều chiếu bức xạ tích lũy trong các mô của những người làm việc ở môi trường có chiếu xạ hay X-quang, như trong y tế chiếu xạ, trong nghiên cứu, xây dựng hay vận hành tại các cơ sở hạt nhân hoặc khu vực của thảm họa hạt nhân. Phương pháp định tuổi OSL Định tuổi OSL cho mẫu vật dựa trên đo liều chiếu tích lũy trong mẫu vật dưới tác động của bức xạ của môi trường, thường gọi là phông phóng xạ. Phông phóng xạ gồm có bức xạ vũ trụ và bức xạ từ các đồng vị phóng xạ tự nhiên urani, thori, rubidi và kali . Đồng vị phóng xạ có mặt trong đất đá với hàm lượng rất khác nhau theo loại đất đá và vùng, và nói chung trong vùng trầm tích thì thường thấp. Nó tạo ra cường độ liều chiếu cỡ 0.5 - 5 Gray/1000 năm tùy theo đất đá ở vùng đó. Phông phóng xạ của môi trường là một trong các chỉ tiêu về môi trường sống, và thường được các nước trong đó có Việt Nam, đo và lập ra thành bản đồ phóng xạ. Với các vật liệu kết tinh thì mạng tinh thể được chốt ở thời điểm hạ nhiệt độ tới điểm Curie. Các công cụ đồ đá hay đồ gốm thì sự chiếu sáng làm mất các điện tử bắt giữ ở lớp mặt, hoặc lần bị đốt nóng và hạ xuống dưới 400 °C cuối cùng, nên mốc tính tuổi được coi là lúc vật được chôn vùi trong di chỉ, cách ly với ánh sáng hay đốt nóng. Sau đó tác động của bức xạ của môi trường được đặc trưng bởi đại lượng gọi là liều chiếu tích lũy bức xạ. Việc đo giá trị này cho phép xác định tuổi tuyệt đối của mẫu vật, và được gọi là phương pháp định tuổi OSL. Đo được liều chiếu tích lũy của mẫu vật và cường độ liều chiếu tại vùng có mẫu vật, thì tuổi được xác định theo công thức: (Tuổi tuyệt đối) = (Liều chiếu tích lũy) / (cường độ liều chiếu) trong đó cần xác định yếu tố đảm bảo rằng phông phóng xạ không thay đổi lớn ở vùng từ xưa đến nay, và điều này thường chỉ phải xem xét ở nơi có hoạt động núi lửa. Đơn vị của cường độ liều chiếu là Gray/1000 năm thì tuổi tính ra ngàn năm. Có sự khác nhau nhất định trong cách thức đo khi dùng "phát sáng kích thích quang học" hay dùng "phát sáng nhiệt". Theo "School of Archaeology" thì định tuổi OSL có dải tin cậy 100 đến 300.000 năm, và sai số cỡ 5 - 10%. Định tuổi OSL đã thực hiện với dạng đo phát sáng nhiệt cho Mungo Man (di cốt LM3) ở Úc. Những kết quả định tuổi OSL đã thực hiện với công cụ bằng đá ở Ả Rập đã đẩy thời điểm rời châu Phi của tổ tiên loài người theo thuyết "rời khỏi châu Phi" (Out of Africa) thêm 50.000 năm về trước, và thêm một con đường di cư có thể từ châu Phi tới bán đảo Arabia thay vì qua châu Âu. Tham khảo Liên kết ngoài Vật lý học Thiết bị khoa học Kỹ thuật khoa học Phương pháp xác định tuổi
323745
https://vi.wikipedia.org/wiki/Le%20Saulcy
Le Saulcy
Le Saulcy là một xã ở tỉnh Vosges, vùng Grand Est, Pháp. Xã này có diện tích 9,83 km² dân số năm 1999 là 346 người. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 450 m trên mực nước biển. Biến động dân số Tham khảo Liên kết ngoài Le Saulcy trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Xã của Vosges