filename
stringlengths
1
96
chunk_index
int64
0
400
content
stringlengths
200
1k
hoàng diệu
2
Năm 1864, xảy ra vụ nổi dậy của Nguyễn Phúc Hồng Tập, con hoàng thân Miên Áo, em chú bác của Hồng Nhậm (tức vua Tự Đức), cùng với một số người khác. Bại lộ, Hồng Tập và Nguyễn Văn Viện bị án chém. Hoàng Diệu đến nhậm chức Tri huyện Hương Trà thay Tôn Thất Thanh bị đổi đi nơi khác, bấy giờ có mặt trong lúc hành quyết đã nghe Hồng Tập nói: "Vì tức giận về hòa nghị mới bị tội, xin chớ ghép vào tội phản nghịch". Sau đó các quan Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ và Biện Vĩnh tâu lên Tự Đức, đề nghị nhà vua nên theo gương Hán Minh Đế, thẩm tra lại vụ án. Tự Đức phán là vụ án đã được đình thần thẩm xét kỹ, nay nghe Phan Huy Kiệm nói Hoàng Diệu đã kể lại lời trăng trối của Hồng Tập, bèn quyết định giáng chức Phan Huy Kiệm, Trần Gia Huệ, Biện Vĩnh và Hoàng Diệu.
hoàng diệu
3
Được phục chức sau vụ "tẩy oan" Hồng Tập, Hoàng Diệu lần đầu ra Bắc năm 1868, làm Tri phủ Đa Phúc, rồi Tri phủ Lạng Giang (Bắc Giang), Án sát Nam Định, Bố chính Bắc Ninh. Trong chín năm ấy, ông lập nhiều quân công, dẹp trộm cướp và an dân, ở đâu ông cũng được sĩ dân quý mến. Năm 1873 ông được triệu về kinh đô Huế giữ chức Tham tri Bộ Hình rồi Tham tri Bộ Lại, kiêm quản Đô Sát Viện, dự bàn những việc ở Cơ Mật Viện. Năm 1878, đổi làm Tuần phủ Quảng Nam, thăng Tổng đốc An Tịnh (Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay), nhưng vì nguyên Tổng đốc Nguyễn Chính vẫn lưu nhiệm nên ông ở lại Huế, làm Tham tri Bộ Lại (Thực lục của Cao Xuân Dục). Chẳng bao lâu sau, ông được sung chức Phó Toàn quyền Đại Thần đàm phán với Sứ thần Tây Ban Nha một hiệp ước giao thương. Đầu năm 1880, ông làm Tổng đốc Hà Ninh, lãnh chức hàm Thượng thư bộ Binh[2], kiêm quản cả việc thương chính.
hoàng diệu
4
Biết rõ dã tâm xâm lược của thực dân Pháp lúc bấy giờ, Hoàng Diệu bắt tay ngay vào việc chuẩn bị chiến đấu, kinh lý, biên phòng. Như Đại Nam chính biên liệt truyện đã nêu, tổng đốc Hà Ninh đã "cùng với tổng đốc tỉnh Sơn Tây Nguyễn Hữu Độ dâng sớ nói về việc bố phòng, lại cùng với Nguyễn Đình Nhuận mật tâu về chước phòng vị sẵn". Vua Tự Đức khen. "Nhưng sau đó - như trong di biểu nêu - vua lại trách cứ lưu binh... vì sợ giặc"... "chế ngự không đúng cách" (?)
hoàng diệu
5
Một mặt khác, Hoàng Diệu quan tâm ổn định chăm lo đời sống của dân chúng trong công bằng và trật tự. Ngày nay, ở Ô Quan Chưởng, đầu phố Hàng Chiếu, còn áp ở mặt tường cổng ra vào một phần tấm bia Lệnh cấm trừ tệ (Thân cấm khu tệ), niêm yết năm 1881, của Tổng đốc Hà Ninh Hoàng Diệu và Tuần phủ Hà Nội Hoàng Hữu Xứng, nhằm ngăn chặn các tệ nhũng nhiễu đối với nhân dân trong các dịp ma chay, cưới xin cũng như nạn vòi tiền, cướp bóc trên sông và ở các chợ, kèm theo các quy định cụ thể cần thi hành đến nơi đến chốn. Một di tích quý hiếm nói lên tấm lòng ưu ái của người công bộc mãi mãi còn giá trị của nó. Từ 1879 đến 1882, Ông làm Tổng đốc Hà Ninh quản lý vùng trọng yếu nhất của Bắc Bộ là Hà Nội và phụ cận. Ông đã chỉ đạo quân dân Hà Nội tử thủ chống lại quân đội Pháp, bất chấp triều đình Huế đã chấp nhận đầu hàng. Ngày 25 tháng 4 năm 1882 (tức ngày 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ), thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu đã tự vẫn tại Võ Miếu để không rơi vào tay đối phương.
hoàng diệu
6
Người Hà Nội vô cùng đau đớn trước cái chết của ông, ngay hôm sau, nhiều người họp lại, sắm sửa mền nệm tử tế, rước quan tài của Hoàng Diệu từ trong thành ra, tổ chức khâm liệm và mai táng tại khu vườn Dinh Đốc học (nay là địa điểm khách sạn Royal Star ở đường Trần Quý Cáp cạnh chợ Ngô Sĩ Liên, sau ga Hà Nội). Hơn một tháng sau hai người con trai ông ra Hà Nội lo liệu đưa thi hài thân sinh về an táng ở quê quán vào mùa thu năm ấy. Khu lăng mộ Hoàng Diệu, theo quyết định ngày 25 tháng 1 năm 1994 của Bộ Văn hóa Thông tin, được công nhận là một di tích lịch sử - văn hóa của Việt Nam.
hoàng diệu
7
== Quyết tử với Hà thành == Năm 1873, sau khi chiếm được Nam Bộ, Pháp chuẩn bị tiến ra Bắc Bộ. Vua Tự Đức giao phó cho Hoàng Diệu làm Tổng đốc Hà Ninh. Ngay khi tới Hà Nội Hoàng Diệu đã chú tâm tới việc xây dựng thành lũy chuẩn bị lực lượng để chống Pháp. Từ năm 1880 đến 1882, ông đã hai ba lần dâng sớ xin triều đình chi viện để củng cố phòng tuyến chống giặc tại Hà Nội, nhưng không nhận được hồi âm từ Huế. Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến, đồng thời yêu cầu viện binh từ triều đình Huế.
hoàng diệu
8
Tuy nhiên phái chủ bại của triều đình Huế đã thuyết phục vua Tự Đức chấp nhận mất miền Bắc để giữ an toàn cho ngai vàng. Vua Tự Đức đã hạ chiếu quở trách Hoàng Diệu đã đem binh dọa giặc và chế ngự sai đường. Nhưng Hoàng Diệu đã quyết tâm sống chết với thành Hà Nội. Các quan xung quanh ông Hoàng Diệu lúc bấy giờ có Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng, Đề đốc Lê Văn Trinh, Bố chính Phan Văn Tuyển, Án sát Tôn Thất Bá và Lãnh binh Lê Trực đã cùng nhau uống rượu hòa máu tỏ quyết tâm sống chết với Hà thành.
hoàng diệu
9
Rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, Henri Rivière cho tàu chiến áp sát thành Hà Nội, đưa tối hậu thơ, yêu sách ba điều: Phá các tao tác phòng thủ trong thành. Giải giới binh lính. Đúng 8 giờ các vị quan văn võ trong thành Hà Nội phải thân đến trình diện với Henri Rivière. Sau đó, quân Pháp sẽ vào thành kiểm kê. Xong sẽ giao trả thành lại. Hoàng Diệu tiếp tối hậu thư, liền sai Tôn Thất Bá đi điều đình. Nhưng không đợi trả lời, lúc 8 giờ 15, Rivière với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội[3]. Ngay trong những phút đầu tiên, hoàng thân Tôn Thất Bá chạy trốn vào làng Mọc (Nhân Mục) ở phía Đông Nam Hà Nội theo Pháp và thông báo tình hình trong thành Hà Nội cho họ. Đồng thời, Bá cũng dâng sớ lên vua Tự Đức đổ tội cho Hoàng Diệu và xin với Pháp cho Bá thay làm Tổng đốc Hà Ninh.
hoàng diệu
10
Tuy vậy, quân Pháp vẫn vấp phải sự kháng cự quyết liệt của quân dân Hà thành dưới sự chỉ huy của Hoàng Diệu[4]. Quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng. Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung[5], do Việt gian mua chuộc bởi bọn Pháp làm. Một số nhà sử học còn đoán rằng nó liên quan tới phản thần Tôn Thất Bá. dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy, còn Tuần phủ Hoàng Hữu Xứng trốn trong hành cung.
hoàng diệu
11
Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi. Tờ di biểu, ông cắn ngón tay lấy máu viết di biểu tạ tội cho vua Tự Đức: Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng...[6]. Ông mất ngày 25 tháng 4 năm 1882, thọ 54 tuổi.
hoàng diệu
13
Hoàng Diệu được đông đảo sĩ phu, nhân dân Hà Nội và Bắc Hà khâm phục thương tiếc. Ông được thờ trong đền Trung Liệt (cùng với Nguyễn Tri Phương) trên gò Đống Đa với câu đối: Thử thành quách, thử giang sơn, bách chiến phong trần dư xích địa Vi nhật tinh, vi hà nhạc, thập niên tâm sự vọng thanh thiên Dịch: Kia thành quách, kia non sông, trăm trận phong trần còn thước đất Là trời sao, là sông núi, mười năm tâm sự với trời xanh Vua Tự Đức mặc dầu không ủng hộ Hoàng Diệu trong việc chống đối với quân Pháp tại thành Hà Nội, vẫn phải hạ chiếu khen ông đã tận trung tử tiết, sai quân tỉnh Quảng Nam làm lễ quốc tang[7]. Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối: Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm Dịch: Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm
hoàng diệu
14
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm Dịch: Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau: Tay đã cầm bút lại cầm binh Muôn dặm giang sơn nặng một minh Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa Giữ thành, thành mất, mất theo thành Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh Di biểu nay còn sôi chính khí Khiến người thêm trọng bút khoa danh. Trích hai đoạn bút ký: Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường: Tôi có đi thăm mộ cụ Hoàng Diệu ở giữa cánh đồng Xuân Đài. Mộ không bề thế như tôi tưởng, còn quá nhỏ so với lăng mộ của những viên quan lớn vô tích sự trên triều đình Huế mà tôi vẫn thường thấy. Mộ là một nắm vôi khô nằm vùi giữa đồng cỏ voi, xa khu dân cư...
hoàng diệu
15
...Hồi nhỏ nhà nghèo, mẹ chăn tằm dệt lụa nuôi con ăn học. Hoàng Diệu lớn lên bằng tuổi trẻ gian khổ ở làng quê, buổi sáng sớm đi học chỉ súc miệng và nhịn đói, trưa về ăn một chén bắp nấu đậu, đến tối cả nhà chia mỗi người một bát cơm. Ngày nghe tin chồng tuẫn tiết, bà Hoàng Diệu đang cuốc cỏ lá de, ngất xỉu ngay trên bờ ruộng...Làm quan Tổng đốc mà nhà còn nghèo đến thế, huống là nhà dân... Nhà văn Sơn Nam: Đi thăm mộ Hoàng Diệu, (nghe) lúc làm quan, có lần ông gửi về cho mẹ một vóc lụa. Bà mẹ không nhận, gửi trả lại cho con, kèm theo một nhánh dâu, tượng trưng cho ngọn roi, để cảnh cáo đứa con đừng nhận quà cáp gì của dân.
hoàng diệu
16
== Xem thêm == Hà thành chính khí ca Hoàng Diệu Điện Bàn == Ghi chú == ^ Theo phả họ Hoàng thì Hoàng Diệu gốc từ Huệ Trì, huyện Quang Minh, phủ Nam Sách, đạo Hải Dương. Cụ tổ vào lập nghiệp ở vùng Kỳ Lam truyền được mười đời, gốc họ Mạc. Ông là đời thứ 7. [8][9] ^ Đây chỉ là chức hàm, không phải chức vụ. ^ Xem "Corresponance politique du Commanant Henri Riviere au Tonkin", tác giả André Masson. ^ Hoàng Diệu trực tiếp chỉ huy quân sĩ chống cự tại cửa Bắc. ^ Các sử liệu không thống nhất nhau. Có tài liệu cho rằng Pháp thuê Việt gian đốt. Tài liệu khác lại ghi là chính Tôn Thất Bá đã làm nội tuyến cho Pháp. ^ Xem "Việt Sử Toàn Thư", tác giả Phạm Văn Sơn. tr 658. ^ Xem "Việt Sử Toàn Thư", tác giả Phạm Văn Sơn. tr 658. == Liên kết ngoài == Hoàng Diệu cuộc đời và sự nghiệp
đế quốc bồ đào nha
0
Đế quốc Bồ Đào Nha là đế quốc ra đời sớm nhất và kéo dài nhất trong lịch sử những đế quốc thực dân Châu Âu, kéo dài gần 6 thế kỉ, bắt đầu từ vụ chiếm Ceuta năm 1415 đến cuộc giao trả Ma Cao cho Trung Quốc Đại Lục năm 1999.
đế quốc bồ đào nha
1
Những nhà thám hiểm Bồ Đào Nha bắt đầu thám hiểm eo biển Châu Phi năm 1419, đặt nền tảng cho sự phát triển của ngành hàng hải, nghiên cứu bản đồ và công nghệ hàng hải (như thuyền buồm), mục đích là để họ có thể tìm được một lộ trình đường biển tới những nguồn giao thương các sản phẩm gia vị. Năm 1488, Bartolomeu Dias đi vòng quanh mũi Hảo Vọng, và tới năm 1498, Vasco da Gama đặt chân tới Ấn Độ. Năm 1500, do một cuộc cập bến tình cờ vào bờ biển Nam Mỹ, vì mục đích bí mật của quốc vương, Pedro Álvares Cabral đã phát hiện và thành lập thuộc địa Brasil. Qua vài thế kỷ sau đó, những thủy thủ Bồ Đào Nha tiếp tục thám hiểm các đảo và eo biển tại Đông Á, họ đã lập nên những công sự và trạm giao thương khi đi qua những nơi đó. Vào năm 1571, một chuỗi các tiền đồn đã kết nối Lisboa với Nagasaki: đế chế này đã thực sự có tầm ảnh hưởng toàn cầu, quá trình đó đã đem về một sự thịnh vượng cho đất nước Bồ Đào Nha.
đế quốc bồ đào nha
2
Giữa giai đoạn 1580 và 1640, Bồ Đào Nha trở thành đối tác bậc dưới với Tây Ban Nha trong liên minh Iberia của quốc vương hai nước. Mặc dù hai đế chế tiếp tục được điều hành riêng biệt, những thuộc địa của Bồ Đào Nha trở thành mục tiêu tấn công của ba đế quốc châu Âu hùng mạnh đồng thời là đối thủ sừng sỏ của Tây Ban Nha là: Hà Lan (tham gia chiến tranh Độc Lập chống Tây Ban Nha), Anh và Pháp. Vì có dân số nhỏ hơn, Bồ Đào Nha đã không thể bảo vệ hệ thống kết nối những trạm giao thương và các đại lý ở nước ngoài, vì vậy đế chế này bắt đầu dần suy tàn. Việc đánh mất Brasil năm 1822-thuộc địa lớn và thu lợi nhiều nhất của Bồ Đào Nha-vào thời điểm các phong trào Độc lập đang lan tỏa khắp châu Mỹ, là một đòn giáng mạnh vào Bồ Đào Nha và đế chế của nó mà sau đó đã không bao giờ có thể phục hồi được nữa.
đế quốc bồ đào nha
3
Cuộc tranh giành châu Phi bắt đầu cuối thế kỉ 19 đã để lại cho Bồ Đào Nha một ít thuộc địa tại lục địa này. Sau đệ nhị thế chiến, độc tài quân sự cánh tả Bồ Đào Nha là António Salazar đã cố gắng duy trì đê chế Bồ Đào Nha khi mà các quốc gia châu Âu khác đang bắt đầu rút khỏi những thuộc địa của họ. Năm 1961, một lực lượng nhỏ quân Bồ Đào Nha đóng tại Goa đã không thể chặn quân Ấn Độ tiến vào thuộc địa, nhưng Salazar quyết định tiến hành một cuộc chiến dài và đẫm máu nhằm dập tắt các lực lượng chống chủ nghĩa thực dân tại các thuộc địa Phi Châu. Cuộc chiến này kéo dài cho đến tận cuộc lật đổ chế độ cai trị Bồ Đào Nha năm 1974, được biết đến với cái tên cách mạng hoa Cẩm Chướng. Sau cuộc lật đổ, chính quyền mới lập tức thay đổi chính sách và công nhận nền độc lập cho tất cả các thuộc địa, bao gồm Đông Timor, rồi trao trả Ma Cao về Trung Quốc năm 1999, đánh dấu sự chấm hết của đế chế Bồ Đào Nha.
bắc từ liêm
0
Bắc Từ Liêm là một quận thuộc Hà Nội, nằm dọc phía bờ nam của sông Hồng. Đông giáp quận Tây Hồ,Đông Nam giáp quận Cầu Giấy, Tây giáp huyện Đan Phượng, huyện Hoài Đức, Nam giáp quận Nam Từ Liêm, Bắc giáp huyện Đông Anh. Quận được thành lập theo Nghị quyết số 132/NQ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ, trên cơ sở tách 9 xã: Thượng Cát, Liên Mạc, Tây Tựu, Thụy Phương, Minh Khai, Phú Diễn, Đông Ngạc, Xuân Đỉnh, Cổ Nhuế; 9,30 ha diện tích tự nhiên và 596 nhân khẩu của xã Xuân Phương; 75,48 ha diện tích tự nhiên và 10.126 nhân khẩu của thị trấn Cầu Diễn thuộc huyện Từ Liêm cũ.
bắc từ liêm
1
== Hành chính == Quận Bắc Từ Liêm có diện tích 4.335,34 ha (43,35 km²), dân số là 320.414 người (2013). Quận gồm 13 phường: Cổ Nhuế 1, Cổ Nhuế 2, Đông Ngạc, Đức Thắng, Liên Mạc, Minh Khai, Phú Diễn, Phúc Diễn, Tây Tựu, Thượng Cát, Thụy Phương, Xuân Đỉnh, Xuân Tảo. Các dự án đường sắt đô thị đi qua địa bàn quận là các tuyến số 2 (Nội Bài - Thượng Đình), tuyến số 3 (Trôi - Nhổn - Yên Sở), tuyến số 4 (Liên Hà - Bắc Thăng Long), tuyến số 7 (Mê Linh - Ngọc Hồi), tuyến số 8 (An Khánh - Dương Xá), trong đó tuyến số 3 đoạn Nhổn - Ga Hà Nội (một phần của tuyến Trôi - Nhổn - Yên Sở) hiện đang được thi công; tuyến số 2 đoạn Nam Thăng Long - Trần Hưng Đạo (một phần của tuyến Nội Bài - Thượng Đình) hiện đang được đầu tư xây dựng.
bắc từ liêm
2
== Giáo dục == Quận Bắc Từ Liêm tập trung khá nhiều trường đại học và các cơ sở đào tạo lớn như: Học viện Tài chính Học viện cảnh sát nhân dân Học viện chính trị công an nhân dân Đại học Mỏ - Địa chất Đại học Tài nguyên môi trường Đại học công nghiệp Hà Nội Đại học y tế công cộng Đại học Tài chính ngân hàng Trường cán bộ thanh tra .... == Một số địa điểm == Công viên Hòa Bình Bãi Chèm Đình Chèm, Đông Ngạc, Liên Ngạc Cảng Liên Mạc Vườn hoa Tây Tựu Cầu Thăng Long Khu đô thị Nam Thăng Long - Ciputra Bến xe Nam Thăng Long Khu đô thị Cổ Nhuế - Xuân Đỉnh Khu đô thị Tây Hồ Tây Khu đoàn ngoại giao Xuân Đỉnh Khu đô thị Tây Tựu Khu đô thị Resco Cổ Nhuế Thành phố Giao Lưu Khu đô thị Vibex Từ Liêm Khu đô thị Đông Ngạc Khu công nghiệp Nam Thăng Long Khu công nghiệp vừa và nhỏ Từ Liêm ........ == Đường phố == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chủ Ủy ban nhân dân quận Bắc Từ Liêm Bản đồ Hà Nội trực tuyến Cổng Thông tin điện tử thành phố Hà Nội
bắc từ liêm
3
== Đường phố == == Tham khảo == == Liên kết ngoài == Trang chủ Ủy ban nhân dân quận Bắc Từ Liêm Bản đồ Hà Nội trực tuyến Cổng Thông tin điện tử thành phố Hà Nội Bản mẫu:Danh sách huyện thị Đồng bằng sông Hồng
john roberts
0
John Glover Roberts, Jr. (sinh ngày 27 tháng 1 năm 1955) là Chánh án thứ 17 và là Chánh án đương nhiệm của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ. Ông đảm đương chức vụ này từ năm 2005, được tổng thống George W. Bush bổ nhiệm sau khi Chánh án William Rehnquist đột ngột qua đời. Ông được đánh giá là người có khuynh hướng thiên về bảo thủ trong quan điểm luật học và pháp chế.
john roberts
1
Roberts sinh trưởng ở vùng phía bắc bang Indiana, theo học tại trường tư trước khi tới học tại Harvard College rồi sau đó là Khoa luật thuộc Đại học Havard, nơi mà ông phụ trách tờ Harvard Law Review. Sau khi thi đỗ kỳ thi luật sư, ông trở thành công tố viên cho Thẩm phán Henry Friendly và William Rehnquist trước khi trở thành thành viên văn phòng Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, nhiệm kỳ của Tổng thống Ronald Reagan. Sau đó, ông được bổ nhiệm vào Bộ Tư pháp trong nhiệm kỳ của Tổng thống George H. W. Bush, rồi làm thành viên của Hội đồng cố vấn Nhà Trắng, trước khi dành 14 năm hành nghề luật tư nhân. Trong quãng thời gian này, ông tham gia tới 39 vụ án tại Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
john roberts
2
Năm 2003, ông trở thành Thẩm phán tối cao tại Washington D.C. bởi Tổng thống George W. Bush, cùng với đó là trở thành Thẩm phán tại Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ thay thế cho Thẩm phán Sandra Day O'Connor về hưu. Khi Chánh án Rehnquist qua đời và trước khi Roberts được chính thức bổ nhiệm, Roberts cũng được Tổng thống Bush chỉ định làm Chánh án tạm thời của Tối cao Pháp viện Hoa Kỳ.
john roberts
4
== Liên kết ngoài == Bản mẫu:Wikisource-author Bản mẫu:Judgepedia Issue positions and quotes at OnTheIssues Judge Roberts's Published Opinions in a searchable database Chief Justice John Roberts at About.com List of Circuit Judge Roberts's opinions for the DC Circuit Federalist Society A summary of media-related cases handled by Supreme Court nominee John G. Roberts Jr. from The Reporters Committee for Freedom of the Press, ngày 21 tháng 7 năm 2005 SCOTUSblog List of Chief Justices, including John Roberts, Jr. On first day, Roberts sets no-nonsense tone – The Boston Globe Đề bạt và bổ nhiệm Transcript of Senate Judiciary Committee hearing on the nomination of John Roberts to the D.C. circuit (Roberts Q&A on pages 17–79) plain text available here Supreme Court Nomination Blog Senate Vote on the Roberts nomination Experts Analyze Supreme Court Nominee John Roberts's Legal Record Profile of the Nominee – The Washington Post A Senate Hearing Primer – The New York Times
john roberts
5
Senate Vote on the Roberts nomination Experts Analyze Supreme Court Nominee John Roberts's Legal Record Profile of the Nominee – The Washington Post A Senate Hearing Primer – The New York Times Video and Transcripts From the Roberts Confirmation Hearings – The New York Times Search and browse the transcripts from Judge Roberts's confirmation hearing
marckolsheim
0
Marckolsheim là một xã thuộc tỉnh Bas-Rhin trong vùng Alsace đông bắc Pháp. On the eastern edge of the town a Maginot Line fortification left over from the Chiến tranh thế giới thứ hai has been converted into a small museum. Approximately 3 kilometres to the east the Rhine has been dammed and a hydro-electric power station installed. == Xem thêm == Xã của tỉnh Bas-Rhin == Tham khảo == INSEE commune file
deb
0
DEB hay .deb là phần mở rộng của định dạng đóng gói phần mềm Debian và cũng là tên thường gọi cho các gói nhị phân tương tự. Giống như phần "Deb" của thuật ngữ Debian, nó bắt nguồn từ tên gọi của Debra, là bạn gái và bây giờ vợ cũ của người sáng lập của Debian là Ian Murdock. Các gói tin Debian cũng được sử dụng trong các bản phân phối dựa trên Debian, chẳng hạn như Ubuntu và những bản phân phối khác. == Thiết kế ==
deb
1
Các gói tin Debian tuân theo chuẩn nén ar của Unix bao gồm 2 file nén tar. Một lưu giữ các thông tin điều khiển và một chứa dữ liệu cài đặt. dpkg cung cấp các tính năng cơ bản cho cài đặt và thao tác với các file.deb. Thông thường, người dùng cuối không trực tiếp quản lý các gói tin với dpkg thay vào đó là trình quản lý gói tin APT hoặc các APT front-ends như synaptic hay KPackage. Các gói Debian có thể được chuyển đổi thành các gói khác và ngược lại bằng cách dùng alien, và tạo ra từ mã nguồn bằng cách sử dụng CheckInstall hoặc Debian Package Maker.
deb
2
Các gói Debian có thể được chuyển đổi thành các gói khác và ngược lại bằng cách dùng alien, và tạo ra từ mã nguồn bằng cách sử dụng CheckInstall hoặc Debian Package Maker. Một số lõi gói Debian có sẵn như là udeb ("micro debs"), à thường được sử dụng để khởi tạo một cài đặt Debian. Mặc dù những file này sử dụng phần mở rộng tên file là udeb, chúng tuân thủ các đặc điểm kỹ thuật cấu trúc tương tự như các tập tin deb thông thường. Tuy nhiên, không giống như các đối tác deb, các gói udeb chỉ chứa các file chức năng cần thiết. Trong đó, các tập tin tài liệu thường được loại bỏ. Các gói udeb không được cài đặt vào hệ thống Debian tiêu chuẩn.
deb
3
== Thực hiện == Từ Debian 0.93, một tập tin deb được thực hiện như một file nén ar. Nội dung kinh điển của kho lưu trữ này gồm ba tập tin:: debian-binary: số phiên bản của đin dạng deb. Nó là"2.0" cho phiên bản hiệ tại của Debian. control.tar.gz: tất cả các gói siêu thông tin. Nó thông báo với dpkg cấu hình khi các gói phần mềm đang được cài đặt. data.tar, data.tar.gz, data.tar.bz2, data.tar.lzma or data.tar.xz: các file cài đặt thực tế. Các file nhị phân debian phải là mục đầu tiên trong kho lưu trữ, nếu không nó sẽ không được công nhận là một gói phần mềm Debian. == Xem thêm == Danh sách định dạng nén AppStream Debian Getdeb dpkg PackageKit RPM Package Manager CheckInstall SuperDeb jigdo
deb
4
== Xem thêm == Danh sách định dạng nén AppStream Debian Getdeb dpkg PackageKit RPM Package Manager CheckInstall SuperDeb jigdo == Liên kết ngoài == Debian Policy Manual Debian FAQ: Basics of the Debian package management system Article on what to do with deb files JDeb Cross platform Ant task và Maven plugin to build Debian packages. ant-deb-task An Ant task that allows you to create Debian.deb packages on any platform where Java is available. How to create / manipulate a.deb file of a compiled application How to make deb packages Debian Binary Package Building HOWTO Building Debian packages Debian binary package and unofficial repository howto = Chú thích =
kraft heinz
0
The Kraft Heinz Company là một công ty thực phẩm Hoa Kỳ trên toàn thế giới, được hành thành do sự sáp nhập của Kraft Foods Group và Heinz vào 2015. Sự sáp nhập được hỗ trợ bởi 3G Capital và Berkshire Hathaway, đầu tư 10 tỉ USD vào thương vụ này, làm cho giá trị của Kraft Heinz lên tới 46 tỉ USD. Vào năm 2015, Kraft Heinz Company có 13 thương hiệu khác nhau với doanh thu hàng năm từ 500 triệu USD trở lên.
kraft heinz
1
== Sáp nhập == Thương vụ sáp nhập đã được các ban giám đốc của cả hai công ty đồng ý với sự chấp thuận của các cổ đông và các cơ quan quản lý. Công ty mới trở thành công ty thực phẩm và nước giải khát lớn thứ năm trên thế giới và lớn thứ ba ở Hoa Kỳ. Công ty có trụ sở ở cả Pittsburgh và Chicago. Việc sáp nhập được hoàn thành vào ngày 2 tháng 7 năm 2015. Trong vụ sáp nhập này, cổ đông của Kraft đã nhận được 49% cổ phần trong công ty mới, cộng với khoản cổ tức một lần trị giá 16.50 USD mỗi cổ phần. Fortune báo cáo rằng sự tăng trưởng chậm chạp của Kraft tại thị trường Mỹ là do người tiêu dùng chuyển sang các thành phần tự nhiên và hữu cơ. Alex Behring, đối tác quản lý của 3G Capital, là chủ tịch của công ty mới; Bernardo Hees, cũng là đối tác của 3G Capital và giám đốc điều hành (CEO) của Heinz, là CEO của công ty mới; và John Cahill, CEO của Kraft, là phó chủ tịch của công ty mới. Vụ sáp nhập không ảnh hưởng tới quyền đặt tên cho Heinz Field, sân nhà của Pittsburgh Steelers.
kraft heinz
2
Vụ sáp nhập không ảnh hưởng tới quyền đặt tên cho Heinz Field, sân nhà của Pittsburgh Steelers. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2017, Kraft Heinz đã đưa ra lời đề nghị tiếp cận trị giá 143 tỉ USD để mua lại công ty đa quốc gia Anh-Hà Lan Unilever, một đối thủ cạnh tranh lớn đáng kể với hơn 126,000 nhân viên và doanh thu lớn hơn 24 tỉ bảng so với Kraft Heinz. Unilever đã từ chối đề xuất ban đầu. Việc tiếp quản bị hủy bỏ ngay vào ngày 19 tháng 2 khi Thủ tướng Anh Theresa May ra lệnh kiểm soát thương vụ.
kraft heinz
3
== Xem thêm == Danh sách các công ty thực phẩm Danh sách các nhãn hiệu thực phẩm Danh sách các công ty sản phẩm sữa Hoa Kỳ == Tham khảo == == Đọc thêm == Kim, Susanna (ngày 25 tháng 3 năm 2015). “How the New Kraft Heinz Co. Is About to Take Over Your Kitchen”. ABC News. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015. == Liên kết ngoài == Website chính thức Bản mẫu:Kraft Heinz Company Bản mẫu:Berkshire Hathaway
liên đoàn ả rập
0
Liên đoàn Ả Rập (tiếng Ả Rập: الجامعة العربية‎ al-Jāmiʻa al-ʻArabiyya), tên gọi chính thức là Liên minh các Quốc gia Ả Rập (tiếng Ả Rập: جامعة الدول العربية‎ Jāmiʻat ad-Duwal al-ʻArabiyya), là một tổ chức của các quốc gia Ả Rập tại Tây Nam Á, Bắc và Đông Bắc Phi. Tổ chức này được thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1945 tại Cairo với sáu thành viên: Ai Cập, Iraq, Transjordan (sau được đổi tên thành Jordan sau năm 1946), Liban, Ả Rập Xê Út và Syria. Yemen gia nhập tổ chức ngày 5 tháng 5 năm 1945, liên minh Ả Rập hiện có 22 thành viên. Mục đích của liên minh là "thắt chặt mối quan hệ và gia tăng hợp tác giữa các quốc gia, nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền, xem xét các vấn đề chung và các mối quan tâm của các quốc gia Ả Rập".
liên đoàn ả rập
1
Thông qua một số cơ quan như Tổ chức Văn hóa Khoa học và Giáo dục Liên minh Ả Rập (ALESCO) hay Hội đồng Thống nhất Kinh tế Ả Rập (CAEU), Liên minh Ả Rập phát triển các chương trình về chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, khoa học nhằm nâng cao mối quan tâm của thế giới Ả Rập. Nó còn đóng vai trò là một diễn đàn cho các quốc gia thành viên để nâng cao vị thế chính sách và cân nhắc các vấn đề chung cần quan tâm, nhằm giải quyết những mâu thuẫn, hạn chế những xung đột chẳng hạn như Cuộc khủng hoảng Liban 1958. Liên minh cũng giữ vai trò đi đầu trong việc soạn thảo những văn bản quan trọng nhằm nâng cao sự hội nhập kinh tế.
liên đoàn ả rập
2
Mỗi quốc gia thành viên có một phiếu tại Hội đồng Liên minh, trong đó những quyết định được rằng buộc bởi những quốc gia đã bầu ra. Những mục tiêu chính của liên minh năm 1945 là củng cố và phát triển những chương trình về xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa của các thành viên nhằm điều chỉnh những mâu thuẫn giữa các thành viên và các bên liên quan. Thêm nữa, việc ký kết hiệp đình Đồng hợp tác Kinh tế và Quốc phòng ngày 13 tháng 4 năm 1950, đã gắn kết các thành viên vào một sự hợp tác đồng phát triển các phương pháp an ninh quốc phòng.
liên đoàn ả rập
3
Liên minh Ả Rập đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành những chương trình giảng dạy tại các trường học, nâng cao vai trò của phụ nữ trong xã hội, đẩy mạnh phúc lợi xã hội dành cho trẻ em, khuyến khích các chương trình về thể thao, bảo tồn các di sản Ả Rập, thúc đẩy trao đổi văn hóa giữa các thành viên. Những chiến dịch xóa mù chữ được phát động, nhiều thuật ngữ và các tác phẩm khoa học kĩ thuật hiện đại đã được dịch giữa các quốc gia thành viên. Liên minh khuyến khích những biện pháp chống lại tội phạm và nghiện hút, giải quyết những vấn đề về lao động - đặc biệt là với lao động nhập cư Ả Rập.
liên đoàn ả rập
5
Theo sau phê chuẩn nghị định thư Alexandria Protocol năm 1944, liên đoàn Ả Rập được thành lập ngày 22 tháng 3 năm 1945. Liên đoàn nhằm mục đính trở thành một tổ chức khu vực của các quốc gia Ả Rập tập trung vào phát triển kinh tế, giải quyết tranh chấp, và phối hợp các mục tiêu chính trị. Các quốc gia khác gia nhập vào liên đoàn vào các thời điểm sau đó. Mỗi quốc gia cử một thành viên bỏ phiếu vào hội đồng. Hành động can thiệp đầu tiên, bị cáo buộc theo đại diện của phần lớn dân cư Ả Rập là đã bật gốc nhà nước Israel nổi lên vào năm 1948 (và để đáp ứng lại sự phản đổi của đa số trong thế giới Ả Rập), mặc dù thực tế rằng một người than gia trong sự can thiệp này là Transjordan đã đồng ý với Israel để phân chia nhà nước Ả Rập Palestine theo Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, trong khi Ai Cập can thiệp chủ yếu để ngăn chặn đối thủ của nó ở Amman để hoàn thành mục tiêu của nó. Tiếp theo đó là việc tạo ra một hiệp ước phòng thủ chung hai năm sau đó. Một thị trường chung được thành lập vào năm
liên đoàn ả rập
6
thiệp chủ yếu để ngăn chặn đối thủ của nó ở Amman để hoàn thành mục tiêu của nó. Tiếp theo đó là việc tạo ra một hiệp ước phòng thủ chung hai năm sau đó. Một thị trường chung được thành lập vào năm 1965.
chongryon
0
Bản mẫu:Infobox Chinese/Japanese Tổng hội Liên hiệp người Triều Tiên tại Nhật Bản (Chae Ilbon Chosŏnin Ch'ongryŏnhaphoe trong tiếng Triều Tiên hay Zai-Nihon Chōsenjin Sōrengōkai trong tiếng Nhật), viết tắt là Chongryon (Korean: 총련, Hanja: 總聯, tổng liên) hay Chōsen Sōren (tiếng Nhật: 朝鮮総連, Triều Tiên tổng liên), là một trong hai tổ chức chính của Zainichi (hay Jaeil) Triều Tiên (những người Triều Tiên định cư lâu dài tại Nhật Bản), và có mối quan hệ gần gũi với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Do không có quan hệ ngoại giao giữa hai nước, tổ chức này [có chức năng như một đại sứ quán "trên thực tế" của Bắc Triều Tiên tại Nhật Bản.
chongryon
1
Thành viên Chongryon chủ yếu là những người đã giữ lại quốc tịch Triều Tiên (Choson/Joseon) (tiếng Nhật: Chōsen), để chống đối những người đã lựa chọn quốc tịch Nhật Bản hay Hàn Quốc. Quốc tịch Joseon là một định nghĩa hợp pháp được chính phủ Nhật Bản đưa ra sau thất bại trong Thế chiến thứ 2, khi chính quyền trên bán đảo Triều Tiên chưa được xác định bằng một nhà nước duy nhất. Trước khi kết thúc Thế chiến 2, Triều Tiên được quản lý như là một phần của Nhật Bản, do vậy quốc tịch hợp pháp của người Triều Tiên khi đó cả ở Nhật Bản và Triều Tiên, là người Nhật Bản.
chongryon
2
Tổ chức lớn còn lại là Mindan, Liên hiệp cư dân Hàn Quốc tại Nhật Bản, gồm những Zainichi Triều Tiên nhận quốc tịch Hàn Quốc. Hiện nay, trong số 610.000 cư dân Triều Tiên tại Nhật Bản không nhận quốc tịch Nhật Bản, 25% là thành viên Chongryon, và 65% là thành viên Mindan. Mối liên hệ mạnh mẽ của Chongryon với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, lòng trung thành của họ với ý thức hệ Bắc Triều Tiên và sự phản đối của tổ chức này đối với việc người Triều Tiên hòa nhập vào xã hội Nhật Bản đã khiến cho hai tổ chức này có nhiều tranh cãi. Trụ sở của Chongryon nằm tại Chiyoda, Tokyo, có trụ sở và chi nhánh tỉnh và vùng trên khắp Nhật Bản. Có nhiều tổ chức liên hệ với Chongryon, bao gồm 18 cơ quan truyền thông đại chúng và 23 doanh nghiệp. Một trong số các lĩnh vực kinh doanh quan trọng nhất là pachinko. Tổ chức cũng điều hành 60 trường học và một trường đại học Triều Tiên, cũng như các ngân hàng và cơ sở khác tại Nhật Bản.
chủ nghĩa duy vật
0
Trong triết học, chủ nghĩa duy vật là một hình thức của chủ nghĩa duy vật lý (physicalism) với quan niệm rằng thứ duy nhất có thể được thực sự coi là tồn tại là vật chất; rằng, về căn bản, mọi sự vật đều có cấu tạo từ vật chất và mọi hiện tượng đều là kết quả của các tương tác vật chất. Khoa học sử dụng một giả thuyết, đôi khi được gọi là thuyết tự nhiên phương pháp luận, rằng mọi sự kiện quan sát được trong thiên nhiên được giải thích chỉ bằng các nguyên nhân tự nhiên mà không cần giả thiết về sự tồn tại hoặc không-tồn tại của cái siêu nhiên. Với vai trò một học thuyết, chủ nghĩa duy vật thuộc về lớp bản thể học nhất nguyên. Như vậy, nó khác với các học thuyết bản thể học dựa trên thuyết nhị nguyên hay thuyết đa nguyên. Xét các giải thích đặc biệt cho thực tại hiện tượng, chủ nghĩa duy vật đứng ở vị trí đối lập hoàn toàn với chủ nghĩa duy tâm.
chủ nghĩa duy vật
1
== Tổng quan == Miêu tả chi tiết đầu tiên về triết học xuất hiện trong bài thơ khoa học De Rerum Natura Mặc dù có nhiều trường triết học và nhiều sắc thái khác nhau, mọi triết lý được cho rằng thuộc về 2 phạm trù chính, mà đối ngược với nhau: Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa duy tâm. Mệnh đề cơ bản của hai phạm trù này liên quan tới bản chất của thực tế, và sự khác biệt căn bản là câu trả lời của hai câu hỏi cơ bản: "Hiện thực bao gồm những gì?" và "Nó hình thành như thế nào?" Đối với chủ nghĩa duy tâm thì linh hồn hoặc trí óc hoặc các ý tưởng là cơ bản, vật chất là thứ hai. Đới với chủ nghĩa duy vật thì vật chất là cơ bản còn trí óc hay linh hồn là thứ nhì, là sản phẩm của vật chất với vật chất. == Nội dung tóm tắt == Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. == Nguồn gốc == Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học.
chủ nghĩa duy vật
2
== Nội dung tóm tắt == Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất quyết định ý thức. == Nguồn gốc == Chủ nghĩa duy vật có nguồn gốc từ thực tiễn và sự phát triển của khoa học. == Ý nghĩa == Khắc phục được những hạn chế của quan niệm duy tâm trong xã hội. Khẳng định tính thứ nhất của vật chất, tính thứ hai của ý thức, từ đó khẳng định con người có thể nhận thức được thế giới khách quan. Khẳng định tính đa dạng của thế giới và định hướng cho con người cải tạo thế giới. Chính qua thực tiễn và khái quát hóa tri thức của nhân loại trong nhiều lĩnh vực, chủ nghĩa duy vật đã thể hiện là hệ thống tri thức lý luận chung nhất gắn với lợi ích của các lực lượng xã hội tiến bộ, định hướng cho các lực lượng này trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
chủ nghĩa duy vật
3
== Các nhánh của chủ nghĩa duy vật == Chủ nghĩa duy vật Kitô giáo Chủ nghĩa duy vật văn hóa Chủ nghĩa duy vật biện chứng (Xem thêm Triết học tự nhiên Marx) Chủ nghĩa duy vật lịch sử Chủ nghĩa duy vật tiêu trừ (Eliminative materialism) Chủ nghĩa duy vật cách mạng Chủ nghĩa duy vật Pháp Chủ nghĩa duy vật hoàn nguyên / Thuyết hoàn nguyên (Reductive materialism) Chủ nghĩa duy vật Descartes Charvaka == Tham khảo ==
chủ nghĩa duy vật
4
== Tham khảo == Churchland, Paul (1981). Eliminative materialism and the Propositional Attitudes. The philosophy of science. Boyd, Richard; P. Gasper; J. D. Trout. Cambridge, Massachusetts, MIT Press. Flanagan, Owen (1991). The Science of the Mind. 2nd edition Cambridge Massachusetts, MIT Press. Fodor, J.A. (1974) Special Sciences, Synthese, Vol.28. Kim, J. (1994) Multiple Realization and the Metaphysics of Reduction, Philosophy and Phenomenological Research, Vol. 52. Lange, Friedrich A.,(1925) The History of Materialism. New York, Harcourt, Brace, & Co. Moser, P. K.; J. D. Trout, Ed. (1995) Contemporary Materialism: A Reader. New York, Routledge. Schopenhauer, Arthur, (1969) The World as Will and Representation. New York, Dover Publications, Inc. Vitzthum, Richard C. (1995) Materialism: An Affirmative History and Definition. Amhert, New York, Prometheus Books. Buchner, L. (1920). Force and Matter. New York, Peter Eckler Publishing CO. La Mettrie, Man The machine.
tiếng goth
0
Tiếng Goth là một ngôn ngữ German từng được nói bởi người Goth. Những điều ta biết về nó chủ yếu là thông qua Codex Argenteus, một bản in thế kỷ 6 của một bản dịch Kinh Thánh thế kỷ 4, và là ngôn ngữ German Đông duy nhất với số văn liệu đáng kể. Những ngôn ngữ German Đông khác, gồm tiếng Burgundy và tiếng Vandal, chỉ được được biết đề từ những tên riêng còn sót lại trong văn bản lịch sử, và từ từ mượn trong những ngôn ngữ khác như tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Tây Ban Nha, và tiếng Pháp. == Ghi chú == == Tham khảo == Bennett, William Holmes (1980). An Introduction to the Gothic Language. New York: Modern Language Association of America. W. Braune and E. Ebbinghaus, Gotische Grammatik, 17th edition 1966, Tübingen 20th edition, 2004. ISBN 3-484-10852-5 (hbk), ISBN 3-484-10850-9 (pbk)
tiếng goth
1
Fausto Cercignani, The Development of the Gothic Short/Lax Subsystem, in «Zeitschrift für vergleichende Sprachforschung», 93/2, 1979, pp. 272–278. Fausto Cercignani, The Reduplicating Syllable and Internal Open Juncture in Gothic, in «Zeitschrift für vergleichende Sprachforschung», 93/1, 1979, pp. 126–132. Fausto Cercignani, The Enfants Terribles of Gothic «Breaking»: hiri, aiþþau, etc., in «The Journal of Indo-European Studies», 12/3–4, 1984, pp. 315–344. Fausto Cercignani, The Development of the Gothic Vocalic System, in Germanic Dialects: Linguistic and Philological Investigations, edited by Bela Brogyanyi and Thomas Krömmelbein, Amsterdam and Philadelphia, Benjamins, 1986, pp. 121–151. N. Everett, "Literacy from Late Antiquity to the early Middle Ages, c. 300–800 AD", The Cambridge Handbook of Literacy, ed. D. Olson and N. Torrance (Cambridge, 2009), pp. 362–385. W. Krause, Handbuch des Gotischen, 3rd edition, 1968, Munich.
tiếng goth
2
W. Krause, Handbuch des Gotischen, 3rd edition, 1968, Munich. Thomas O. Lambdin, "An Introduction to the Gothic Language", Wipf and Stock Publishers, 2006, Eugene, Oregon. F. Mossé, Manuel de la langue gotique, Aubier Éditions Montaigne, 1942 Skeat, Walter William (1868). A Moeso-Gothic glossary. London: Asher & Co. E Prokosch, A Comparative Germanic Grammar, 1939, The Linguistic Society of America for Yale University. C. Rowe, "The problematic Holtzmann’s Law in Germanic", Indogermanische Forschungen Bd. 108, 2003. 258–266. Wilhelm Streitberg, Die gotische Bibel , 4th edition, 1965, Heidelberg Joseph Wright, Grammar of the Gothic language, 2nd edition, Clarendon Press, Oxford, 1966 2nd edition, 1981 reprint by Oxford University Press, ISBN 0-19-811185-1
tiếng goth
3
== Liên kết ngoài == Online Gothic language resources. Gots'ka Mova "The Gothic Language", by V.V. Evchenko; Gothic texts with Ukrainian apparatus Gotisch im WWW Portal for information on Gothic (in German) Website of the german association of the gothic language (german) English-Gothic Dictionary (Also contains neologisms and reconstructed words) "Gothic dictionary with etymologies" by Andras Rajki Gothic lessons by David Salo (copy at the Internet Archive) Germanic Lexicon Project – early (Public Domain) editions of several of the references. Texts: The Gothic Bible in Latin alphabet The Gothic Bible in Ulfilan script (Unicode text) from Wikisource The Gothic Bible in Runic alphabet (Unicode text) from Wikisource Titus has Streitberg's Gotische Bibel and Crimean Gothic material after Busbecq. Wulfila Project Skeireins Projet Bagme Bloma, a Gothic poem by J. R. R. Tolkien
tiếng goth
4
Gothic for Travellers: Good conversation starters are death, torture, eating and drinking. Gothic Online from the University of Texas at Austin Gothic Readings Video clips in Gothic language Gothic basic lexicon at the Global Lexicostatistical Database
orson welles
0
George Orson Welles (6 tháng 5 năm 1915 - 10 tháng 10 năm 1985) là một đạo diễn, nhà biên kịch, diễn viên, nhà sản xuất phim từng đoạt giải Oscar người Mỹ. Welles giành được sự chú ý đầu tiên khi làm phát thanh đọc cuốn tiểu thuyết The War of the Worlds của H. G. Wells trên đài CBS. Nhờ giọng đọc nhập tâm, bài phát thanh đã thu hút được một lượng lớn thính giả khắp Bắc Mỹ. Vào giữa thập niên 1930, các vở kịch tái hiện lại vở Macbeth và Julius Caesar của Welles cho Nhà hát New York đã trở thành huyền thoại. Welles còn được biết đến như là một nhà ảo thuật từng đi biểu diễn nhiều nơi trong thời gian chiến tranh.
orson welles
1
Trong suốt thời gian chiến tranh, Welles trở thành một nhà hoạt động chính trị và bình luận viên qua báo chí, radio và các buổi xuất hiện trước công chúng cùng với Franklin D. Roosevelt. Năm 1941, ông đồng sáng tác, chỉ đạo, sản xuất và đóng vai chính trong bộ phim Citizen Kane, một bộ phim thường được các nhà phê bình đánh giá là một trong những bộ phim xuất sắc nhất mọi thời đại. Phần còn lại trong sự nghiệp, Welles gặp phải nhiều khó khăn do thiếu vốn và nhiều vấn đề khác trong suốt thời gian tới châu Âu rồi trở lại Hollywood. Bất chấp khó khăn, bộ phim Othello vẫn giành được giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes năm 1952 và bộ phim Touch of Evil cũng giành được giải thưởng cao nhất tại Brussels World Fair, dù vậy thì Welles lại coi The Trial và Chimes at Midnight mới là hai bộ phim xuất sắc nhất của ông.
orson welles
2
Những năm sau này, Welles gặp phải các khó khăn với những hệ thống phức tạp của Hollywood từ chối tài trợ cho các dự án làm phim độc lập của ông, điều này khiên Welles chủ yếu phải kiếm sống qua việc đóng phim, làm quảng cáo và lồng tiếng. Welles nhận được giải thưởng thành tựu trọn đời của Viện phim Mỹ năm 1975 và trở thành người thứ ba vinh dự nhận được giải thưởng sau John Ford và James Cagney. Thành tựu của Welles ngày càng được đánh giá cao bởi giới phê bình sau khi ông qua đời. Orson Welles hiện được xem như là một trong những nghệ sĩ điện ảnh quan trọng nhất của thế kỷ 20, trong cuộc bầu chọn top 10 đạo diễn BFI của Viện phim Anh, ông được bình bầu là đạo diễn vĩ đại nhất mọi thời đại.
orson welles
4
== Liên kết ngoài == Orson Welles tại Internet Movie Database Orson Welles trên trang Internet Broadway Database Wellesnet The Orson Welles Web Resource Orson Welles bibliography (via UC Berkeley Media Resources Center) Orsonwelles.co.uk a British site devoted to the work of Orson Welles War of the Worlds history of the War of the Worlds radio broadcast and additional historical material on War of the Worlds Mercury Theatre on the Air website provides MP3 and Real Audio files of Welles's radio dramas Nazi Eyes On Canada, starring Orson Welles, 1942 CBC war loan series The Magnificent Ambersons a site that details the strange saga of Welles's second film The Unseen Welles a guide to Welles's unfinished and unreleased projects The Orson Welles collection at the Lilly Library, Đại học Indiana Senses of Cinema: Great Directors Critical Database (tiếng Pháp) Orson Welles biography 1985 interview from The Times Obituary, New York Times
orson welles
5
Senses of Cinema: Great Directors Critical Database (tiếng Pháp) Orson Welles biography 1985 interview from The Times Obituary, New York Times UBU Web's 365 Days Project Outtake from Welles's Frozen Peas commercial. Orson Welles - The One Man Band (German documentary, 1995) Full.avi download Orson Welles The Wisconsin Historical Society The Museum of Orson Welles comprehensive collection of radio shows A Film Maker with a Sound Backgound An essay on Welles' extensive radio work and its innovative influence on filmmaking via Citizen Kane.
đền solomon
0
Đền thờ Solomon, còn được gọi là Đền thờ Thứ nhất, là một ngôi đền ở thành Jerusalem thời cổ đại, nằm trên một ngọn đồi có tên là Núi Zion hay Núi Đền, được cho là xây dựng từ thời vua Solomon (thế kỉ 10 trước Công nguyên) để thờ Thượng đế của người Do Thái và bị phá hủy bởi vua Nebuchadnezzar II sau trận vây hãm thành Jerusalem năm 537 trước Công nguyên. Ngoài các bằng chứng văn học, không có bất cứ bằng chứng khảo cổ đáng tin cậy nào về sự tồn tại của ngôi đền này bởi mọi hoạt động khai quật ở Núi Đền bị hạn chế do tính nhạy cảm về tôn giáo và chính trị của di chỉ này. == Tham khảo ==
đền solomon
1
De Vaux, Roland (1961). John McHugh, biên tập. Ancient Israel: Its Life and Institutions. NY: McGraw-Hill. Draper, Robert (tháng 12 năm 2010). “Kings of Controversy”. National Geographic: 66–91. ISSN 0027-9358. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2010. Finkelstein, Israel; Neil Asher Silberman (2006). David and Solomon: In Search of the Bible's Sacred Kings and the Roots of the Western Tradition. Free Press. ISBN 0-7432-4362-5. Finkelstein, Israel; Neil Asher Silberman. The Bible Unearthed: Archaeology's New Vision. Glueck, Nelson (tháng 2 năm 1944). “On the Trail of King Solomon's Mines”. National Geographic 85 (2): 233–256. ISSN 0027-9358. Goldman, Bernard (1966). The Sacred Portal: a primary symbol in ancient Judaic art. Detroit: Wayne State University Press. It has a detailed account and treatment of Solomon's Temple and its significance. Hamblin, William; David Seely (2007). Solomon's Temple: Myth and History. Thames and Hudson. ISBN 0-500-25133-9.
đền solomon
2
Hamblin, William; David Seely (2007). Solomon's Temple: Myth and History. Thames and Hudson. ISBN 0-500-25133-9. Mazar, Benjamin (1975). The Mountain of the Lord. NY: Doubleday. ISBN 0-385-04843-2. Young, Mike. “Temple Measurements and Photo recreations”.
đền solomon
3
== Đọc thêm == Tài liệu hiện đại Margaret Barker, "Temple Theology", London: SPCK 2004 (ISBN 028105634X) Andrew G. Vaughn, Ann E. Killebrew (eds), "in Bible and Archaeology: The First Temple Period" (Society of Biblical Literature, 2003) Marty E. Stevens, "Temples, Tithes and Taxes: The Temple and the Economic Life of Ancient Israel (Hendrickson, 2006) William G. Dever, "What Did The Biblical Writers Know and When Did They Know It?" (Eerdman's, 2001) Floyd Nolen Jones, "The Chronology Of The Old Testament" (New Leaf Publishing Group, 1993–2004) tài liệu sau 1945 Elizabeth Bloch-Smith, Who is the King of Glory?: Solomon's Temple and its Symbolism in Michael D. Coogan, J. Cheryl Exum, Lawrence E. Stager (eds), "Scripture and Other Artifacts: Essays in Honor of Philip J. King" (Westminster John Knox, 1994) Gershon Galil, "The Chronology of the Kings of Israel and Judah" (Brill, 1996)
đền solomon
4
Gershon Galil, "The Chronology of the Kings of Israel and Judah" (Brill, 1996) Joseph Blenkinsopp, "Sage, Priest, Prophet: Religious and Intellectual Leadership in Ancient Israel" (Westminster John Knox Press, 1995) Jeremy Hughes, "Secrets of the times: myth and history in biblical chronology" (Sheffield Academic Press, 1990) Edwin R. Thiele, "The Mysterious Numbers of the Hebrew Kings" (Zondervan, 1983) Watson E. Mills, Roger Aubrey Bullard (eds), "Mercer dictionary of the Bible" (Mercer University Press, 1990) Tài liệu trước 1945 Paine, T. O. (1870). S olomon's temple: Including the tabernacle; first temple; house of the king, or house of the forest of Lebanon; idolatrous high places; the city on the mountain... the oblation of the holy portion; and the last temple. Boston: H.H. & T.W. Carter
tiến hóa
0
Trong sinh học, tiến hóa là sự thay đổi đặc tính di truyền của một quần thể sinh học qua những thế hệ nối tiếp nhau. Các quá trình tiến hóa làm nảy sinh sự đa dạng ở mọi mức độ tổ chức sinh học bao gồm loài, các cá thể sinh vật và cả các phân tử như ADN và protein. Sự sống trên Trái Đất khởi nguồn và sau đó tiến hóa từ một tổ tiên chung từ khoảng 3,8 tỷ năm trước. Sự tiến hóa thành loài mới và sự phân nhánh sự sống lặp lại có thể suy luận ra từ tập hợp những đặc tính sinh hóa và hình thái học chung, hay những chuỗi ADN chung. Những nét tương đồng này giống nhau hơn giữa những loài có tổ tiên chung gần gũi nhau hơn, và có thể dùng để tái dựng lịch sử tiến hóa từ những loài hiện tồn và những dấu vết hóa thạch. Hình ảnh về sự đa dạng sinh học trên hành tinh ngày nay hình thành từ cả sự hình thành loài và sự tuyệt chủng.
tiến hóa
1
Charles Darwin và Alfred Wallace là những người đầu tiên hệ thống hóa những luận cứ khoa học cho lý thuyết tiến hóa theo con đường chọn lọc tự nhiên. Tiến hóa do chọn lọc tự nhiên là một quá trình có thể suy ra từ ba thực kiện về các quần thể sinh học: 1. nhiều cá thể con được sinh ra hơn số lượng có thể sống sót, 2. các tính trạng khác nhau giữa các cá thể, dẫn tới tỉ lệ sinh tồn và sinh sản khác nhau, và 3. những sự khác biệt về đặc điểm trên là có tính di truyền. Do đó, khi những cá thể của một quần thể chết đi, chúng được thay thế bằng những hậu duệ của thế hệ cha mẹ nhưng có thể thích nghi tốt hơn để tồn tại và sinh sôi trong môi trường mà sự chọn lọc tự nhiên diễn ra. Quá trình này tạo ra và bảo tồn những đặc điểm được cho là phù hợp hơn cho chức năng mà chúng đảm nhiệm. Cho đến nay, sự chọn lọc tự nhiên là nguyên nhân duy nhất cho sự thích nghi, tuy nhiên không phải là nguyên nhân duy nhất cho sự tiến hóa. Những nguyên nhân khác của tiến hóa bao gồm sự đột biến và dịch chuyển
tiến hóa
2
sự chọn lọc tự nhiên là nguyên nhân duy nhất cho sự thích nghi, tuy nhiên không phải là nguyên nhân duy nhất cho sự tiến hóa. Những nguyên nhân khác của tiến hóa bao gồm sự đột biến và dịch chuyển di truyền.
tiến hóa
3
Vào đầu thế kỷ 20, di truyền học kết hợp với lý thuyết tiến hóa nhờ chọn lọc tự nhiên của Darwin thông qua di truyền học quần thể. Tầm quan trọng của chọn lọc tự nhiên như một nguyên nhân tiến hóa đã được chấp nhận trong những nhánh khác của sinh học. Tuy nhiên, các quan niệm từng có trước đây về tiến hóa, như tiến hóa từng bước và xu hướng tiến hóa chung đã trở nên lỗi thời. Các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu những khía cạnh khác nhau của tiến hóa bằng việc lập nên rồi kiểm tra những giả thuyết, xây dựng các lý thuyết khoa học, sử dụng những dữ liệu quan sát, và tiến hành những thí nghiệm cả trên thực địa lẫn trong phòng thí nghiệm. Các nhà sinh học nhất trí rằng sự truyền đời kèm theo những biến đổi là một trong những thực kiện đáng tin cậy nhất từng được thiết lập trong lịch sử khoa học. Các khám phá trong sinh học tiến hóa đã gây ảnh hưởng lớn lao không chỉ tới những nhánh truyền thống của sinh học, mà cả trong những ngành hàn lâm khác (như nhân chủng học và tâm lý học) và cả
tiến hóa
4
học. Các khám phá trong sinh học tiến hóa đã gây ảnh hưởng lớn lao không chỉ tới những nhánh truyền thống của sinh học, mà cả trong những ngành hàn lâm khác (như nhân chủng học và tâm lý học) và cả trong xã hội nói chung.
tiến hóa
6
Nguồn gốc của đề xuất rằng một loại động vật có tổ tiên từ một loại động vật khác có thể lần ngược lên một vài triết gia Hy Lạp tiền-Socrates đầu tiên, như Anaximander và Empedocles. Đối lập với những quan điểm duy vật này, Aristotle hiểu toàn bộ sự vật tự nhiên, không chỉ những sinh vật, như là những sự hiện thực hóa bất toàn của những năng lực tự nhiên cố định khác nhau, được biết tới dưới tên "hình thức", "ý niệm", hay "loài". Đây là một phần trong triết lý mục đích luận của ông về tự nhiên trong đó mọi vật có một vai trò định trước để thực hiện những mệnh lệnh vũ trụ thần thánh. Nhà thơ và triết gia La Mã Lucretius đã đề xuất khả năng tồn tại những thay đổi tiến hóa của sinh vật. Những biến thể của tư tưởng này của Aristotle đã trở thành hiểu biết cơ bản của thời Trung Cổ, và được lồng ghép vào nền giáo dục Thiên Chúa giáo, nhưng Aristotle không đòi hỏi những loại động vật thực tế phải tương ứng một-một với các dạng siêu hình chính xác nào, và đưa ra các ví dụ cụ thể về cách các
tiến hóa
7
ghép vào nền giáo dục Thiên Chúa giáo, nhưng Aristotle không đòi hỏi những loại động vật thực tế phải tương ứng một-một với các dạng siêu hình chính xác nào, và đưa ra các ví dụ cụ thể về cách các loại sinh vật mới có thể xuất hiện.
tiến hóa
8
Vào thế kỷ 17 phương pháp mới của khoa học hiện đại đã từ bỏ cách tiếp cận của Aristotle, và tìm cách giải thích cho các hiện tượng tự nhiên bằng các định luật tự nhiên giống nhau cho mọi vật hữu hình mà không cần phải giả thiết bất kì những mục loại cố định nào, hay bất kỳ trật tự vũ trụ thần thánh nào. Nhưng cách tiếp cận mới này bắt rễ chậm chạp trong ngành sinh vật học-một lĩnh vực trở thành pháo đài cuối cùng của quan niệm về những loại tự nhiên cố định. John Ray sử dụng một trong những thuật ngữ từng phổ biến trước đây cho các loại tự nhiên, "loài" (species), để áp dụng cho các loại động vật và thực vật, nhưng không giống Aristotle ông xác định chặt chẽ mỗi loại sinh vật là một loài, và đề xuất rằng mỗi loài có thể được xác định bằng những đặc điểm ghi dấu chúng qua các thế hệ. Những loài này được Chúa nặn lên, nhưng thể hiện những khác biệt do những điều kiện địa lý. Hệ thống phân loại sinh học được Carolus Linnaeus đề ra năm 1735 cũng xem các loài là cố hữu theo một kế hoạch
tiến hóa
9
loài này được Chúa nặn lên, nhưng thể hiện những khác biệt do những điều kiện địa lý. Hệ thống phân loại sinh học được Carolus Linnaeus đề ra năm 1735 cũng xem các loài là cố hữu theo một kế hoạch của thần thánh.
tiến hóa
10
Các nhà tự nhiên học ở thời đó suy đoán về sự thay đổi tiến hóa của các loài theo thời gian theo những định luật tự nhiên. Maupertuis vào năm 1751 đã viết về những thay đổi tự nhiên xảy ra trong sự sinh sản và tích lũy qua nhiều thế hệ để sinh ra loài mới. Georges Buffon đề xuất rằng các loài có thể suy thoái thành những sinh vật khác nhau, và Erasmus Darwin gợi ý rằng tất cả các động vật máu nóng có thể bắt nguồn từ chỉ một loài vi sinh vật (hay các "vi sợi"). Sơ đồ tiến hóa chính thức đầu tiên là lý thuyết "tiến hóa biến đổi" (transmutation) của Lamarck vào năm 1809 nêu ra rằng các thế hệ đồng thời liên tục tạo ra những dạng sống đơn giản đã phát triển mức độ phức tạp lớn hơn qua những nhánh song song với một cường độ tiến triển không đổi, và rằng ở mức độ địa phương những nhánh này thích nghi với môi trường bằng cách thừa hưởng những thay đổi gây ra bởi việc sử dụng hay không dùng đến những tập tính ở cha mẹ(quá trình này về sau được gọi là học thuyết Lamarck). Những ý tưởng này bị
tiến hóa
11
nghi với môi trường bằng cách thừa hưởng những thay đổi gây ra bởi việc sử dụng hay không dùng đến những tập tính ở cha mẹ(quá trình này về sau được gọi là học thuyết Lamarck). Những ý tưởng này bị các nhà tự nhiên học có uy tín đương thời phê phán, xem là một phỏng đoán thiếu những chứng cớ thực tế. Đặc biệt, Georges Cuvier còn nhấn mạnh rằng các loài là cố hữu và không có liên hệ, những sự tương đồng giữa chúng chỉ phản ánh sự sáng tạo của thần thánh vì những lý do mang tính chức năng. Cùng thời gian đó, các ý tưởng của Ray về sự sáng tạo ban phát được William Paley phát triển thành một thứ thần học tự nhiên đề xuất những sự thích nghi phức tạp như bằng chứng về sự sáng tạo thần thánh, được Charles Darwin ngưỡng mộ.
tiến hóa
12
Sự đột phá có tính phê phán khỏi quan niệm về những loài cố hữu khởi đầu với lý thuyết tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên, do Charles Darwin hệ thống hóa lần đầu tiên. Một phần chịu ảnh hưởng từ cuốn Khảo luận về nguyên lý dân số của Thomas Robert Malthus, Darwin nhận xét rằng sự phát triển quần thể có thể dẫn tới một "cuộc đấu tranh sinh tồn" trong đó những biến dị phù hợp sẽ thắng thế trong khi các cá thể khác bị diệt vong. Trong mỗi thế hệ, nhiều con non không thể sống sót tới tuổi sinh sản bởi nguồn tài nguyên hạn chế. Điều này có thể giải thích sự đa dạng động thực vật từ một tổ tiên chung thông qua sự vận hành của các quy luật tự nhiên theo cùng cách cho mọi loại sự vật. Darwin đã phát triển lý thuyết của ông về "chọn lọc tự nhiên" từ 1838 cho tới khi Alfred Russel Wallace gửi cho ông một lý thuyết tương tự năm 1858. Cả hai người đã trình bày những bài viết độc lập của mình cho Hội Linnean London. Vào cuối năm 1859, Darwin công bố cuốn Nguồn gốc các loài giải thích chi tiết về chọn
tiến hóa
13
lý thuyết tương tự năm 1858. Cả hai người đã trình bày những bài viết độc lập của mình cho Hội Linnean London. Vào cuối năm 1859, Darwin công bố cuốn Nguồn gốc các loài giải thích chi tiết về chọn lọc tự nhiên theo cách đã khiến cho thuyết tiến hóa được chấp nhận ngày càng rộng rãi. Thomas Henry Huxley đã áp dụng những ý tưởng của Darwin vào con người, sử dụng cổ sinh vật học và giải phẫu học so sánh để cung cấp những bằng chứng mạnh mẽ rằng con người và vượn có một tổ tiên chung. Một số người cảm thấy khó chịu với điều này bởi vì điều này hàm ý rằng con người không có một vị trí đặc biệt trong vũ trụ.
tiến hóa
14
Các cơ chế chính xác của khả năng di truyền qua sinh sản và nguồn gốc của những tính trạng mới khi đó vẫn còn là một bí ẩn. Đáp ứng giới hạn đó, Darwin đã phát triển một lý thuyết có tính tạm thời là thuyết pangen (pangenesis, hay thuyết mầm). Năm 1865 Gregor Mendel đã chỉ ra những tính trạng được di truyền theo một cách có thể tiên đoán được thông qua sự phân loại và phân ly độc lập các yếu tố (về sau được gọi là gen). Các định luật di truyền Mendel về sau đã thế chỗ hầu hết thuyết pangen của Darwin. August Weismann đã tiến một bước quan trọng khi phân biệt các tế bào sinh sản (trứng, tinh trùng) với tế bào sinh dưỡng, và vạch ra rằng di truyền chỉ xảy ra trong các tế bào sinh sản mà thôi. Hugo de Vries liên hệ thuyết pangen của Darwin với sự phân biệt sinh sản/sinh dưỡng của Weismann và đề xuất rằng các mầm sống (pangen) của Darwin tập trung trong nhân tế bào và khi biểu hiện chúng có thể di chuyển vào tế bào chất để thay đổi cấu trúc tế bào. De Vries cũng là một trong những nhà
tiến hóa
15
và đề xuất rằng các mầm sống (pangen) của Darwin tập trung trong nhân tế bào và khi biểu hiện chúng có thể di chuyển vào tế bào chất để thay đổi cấu trúc tế bào. De Vries cũng là một trong những nhà nghiên cứu truyền bá rộng rãi công trình của Mendel, tin rằng các tính trạng của Mendel tương ứng với sự chuyển dịch các biến dị di truyền thông qua tế bào sinh sản. Để giải thích cách các biến thể mới phát sinh, De Vries phát triển một lý thuyết đột biến dẫn đến sự chia rẽ đương thời giữa những người chấp nhận tiến hóa Darwin và những nhà sinh trắc học đồng tình với De Vries. Ở thời điểm chuyển giao sang thế kỷ 20, những nhà tiên phong trong lĩnh vực di truyền học dân số, như J.B.S. Haldane, Sewall Wright, và Ronald Fisher đã xây dựng nền tảng về tiến hóa đi theo triết lý của thống kê mạnh. Những mâu thuẫn sai lầm giữa thuyết Darwin, đột biến di truyền và di truyền Mendel nhờ đó được hòa giải.
tiến hóa
16
Trong những năm 1920 và 1930 một sự tổng hợp tiến hóa hiện đại đã liên kết chọn lọc tự nhiên, lý thuyết đột biến, và di truyền Mendel vào một lý thuyết thống nhất áp dụng phổ quát cho bất kỳ phân ngành nào của sinh vật học. Phép tổng hợp hiện đại này có thể giải thích những mô hình quan sát các loài trong các quần thể, thông qua các hóa thạch trung gian trong cổ sinh vật học, và cả các cơ chế phức tạp của tế bào trong sinh học phát triển. Việc James D. Watson và Francis Crick công bố cấu trúc ADN năm 1953 đã chứng minh cơ sở vật lý cho di truyền. Sinh học phân tử đã tăng cường hiểu biết của con người về mối liên hệ giữa kiểu gen và kiểu hình. Các tiến bộ cũng đã đạt được trong phân loại học phát sinh loài hay việc sơ đồ hóa chuyển dịch tính trạng thành một khuôn khổ so sánh và có thể kiểm tra thông qua sự ấn hành và sử dụng các cây tiến hóa. Năm 1973, nhà sinh vật học tiến hóa Theodosius Dobzhansky viết rằng "không gì trong sinh học có ý nghĩa nếu không được xem xét dưới ánh sáng của
tiến hóa
17
tra thông qua sự ấn hành và sử dụng các cây tiến hóa. Năm 1973, nhà sinh vật học tiến hóa Theodosius Dobzhansky viết rằng "không gì trong sinh học có ý nghĩa nếu không được xem xét dưới ánh sáng của tiến hóa", bởi vì nó đã rọi sáng những mối quan hệ của thứ tưởng chừng là những sự kiện rời rạc trong lịch sử tự nhiên vào một tập hợp tri thức diễn giải mạch lạc có thể mô tả và tiên đoán nhiều sự kiện có thể quan sát được về sự sống trên hành tinh này.
tiến hóa
18
Kể từ đó, phép tổng hợp hiện đại đã mở rộng hơn nữa để giải thích các hiện tượng sinh học trải trên mọi nấc của thứ bậc sinh học, từ gen tới loài. Trong tiếng Anh, sự mở rộng này được gọi tên là "eco-evo-devo" (viết tắt của "ecology" (sinh thái), "evolution" (tiến hóa) và "development"(phát triển), theo định nghĩa của Van Alen (1973) rằng tiến hóa là "sự kiểm soát phát triển bằng sinh thái")
tiến hóa
20
Tiến hóa trong các cơ thể sống xảy ra thông qua những thay đổi trong các tính trạng - những đặc điểm riêng của một sinh vật. Chẳng hạn, ở con người, màu mắt là một đặc tính di truyền và một cá nhân có thể thừa hưởng "tính trạng mắt nâu" từ bố hoặc mẹ. Các tính trạng được các gen kiểm soát và tập hợp đầy đủ những gen trong một cơ thể sống được gọi là kiểu gen của nó.
tiến hóa
21
Mặt khác, tập hợp đầy đủ các đặc điểm quan sát được làm nên cấu trúc và hành vi của một cơ thể sống được gọi là kiểu hình của nó. Những đặc điểm này đến từ sự tương tác giữa kiểu gen với môi trường. Kết quả là, nhiều khía cạnh của kiểu hình một sinh vật không được truyền lại. Chẳng hạn, làn da rám nắng đến từ tương tác giữa kiểu gen của một người và ánh sáng mặt trời; do đó, sự rám nắng này không được truyền cho con cái của họ. Tuy nhiên, vài người có thể rám dễ dàng hơn những người khác, đó là do sự khác biệt trong kiểu gen của họ; một ví dụ nổi bật là những người thừa hưởng tính trạng bạch tạng, người không hề rám chút nào và rất nhạy cảm với nắng gắt.
tiến hóa
22
Các đặc tính di truyền truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua ADN, một phân tử mã hóa thông tin di truyền. ADN là một phân tử polymer dài, cấu tạo từ bốn đơn vị cơ bản (gọi là nucleotide). Chuỗi các nucleotide dọc theo một phân tử ADN riêng rẽ đặc trưng cho thông tin di truyền, theo cách tương tự như chuỗi những ký tự ghi lại một câu. Trước khi một tế bào phân chia, ADN được sao chép, do đó mỗi một (trong hai) tế bào sinh ra sẽ thừa hưởng chuỗi ADN đó. Các phần của một phân tử ADN đặc trưng cho một đơn vị chức năng riêng lẻ được gọi là gen, các gen khác nhau có những chuỗi nucleotide khác nhau. Bên trong các tế bào, các đoạn ADN dài tạo nên những cấu trúc đặc gọi là nhiễm sắc thể. Vị trí riêng của một chuỗi ADN trong một nhiễm sắc thể được gọi là quỹ đạo (locus). Nếu một chuỗi ADN ở một locus khác nhau giữa các cá nhân, các dạng khác nhau của chuỗi này được gọi là alen. Các chuỗi ADN có thể thay đổi thông qua các đột biến, sinh ra những alen mới. Nếu một sự đột biến xảy ra
tiến hóa
23
ADN ở một locus khác nhau giữa các cá nhân, các dạng khác nhau của chuỗi này được gọi là alen. Các chuỗi ADN có thể thay đổi thông qua các đột biến, sinh ra những alen mới. Nếu một sự đột biến xảy ra trong một gen, alen mới sẽ ảnh hưởng tới đặc điểm mà gen đó đảm nhiệm, thay đổi kiểu hình của sinh vật. Tuy nhiên, trong khi sự tương ứng đơn giản này giữa alen và một tính trạng thể hiện trong một số trường hợp, hầu hết các tính trạng phức tạp hơn và được điều khiển bởi nhiều gen tương tác với nhau.
tiến hóa
24
Những phát hiện gần đây đã xác nhận những ví dụ quan trọng của những biến đổi có thể di truyền không thể giải thích bằng sự thay đổi đối với chuỗi các nucleotid trong ADN. Những hiện tượng này được xếp vào những hệ thống di truyền ngoài gen (epigenetic). Metyl hóa ADN tạo chất nhiễm sắc (chromatin), các vòng trao đổi chất tự duy trì, tắt gen bằng can thiệp RNA và tương thích ba chiều các protein (như prion) là những lĩnh vực mà các hệ thống di truyền ngoài gen đã được khám phá ở mức độ sinh vật. Các nhà sinh vật học phát triển đề xuất rằng những tương tác phức tạp trong mạng lưới di truyền và liên kết giữa các tế bào có thể dẫn đến những biến dị có thể ẩn chứa vài cơ chế trong sự tạo liên kết thần kinh trong quá trình phát triển và sự hội tụ tiến hóa bất chấp những biến đổi trung gian. Khả năng di truyền cũng xuất hiện ở những quy mô lớn hơn nữa. Chẳng hạn, sự kế tục về sinh thái qua các quá trình biến cải môi trường của sinh vật được xác định thông qua những hoạt động thường xuyên và
tiến hóa
25
năng di truyền cũng xuất hiện ở những quy mô lớn hơn nữa. Chẳng hạn, sự kế tục về sinh thái qua các quá trình biến cải môi trường của sinh vật được xác định thông qua những hoạt động thường xuyên và lặp lại của các sinh vật trong môi trường của chúng. Điều này tạo nên một di sản các tác động làm thay đổi và phản hồi trong quy luật chọn lọc của các thế hệ kế tiếp. Các thế hệ con cháu thừa hưởng gen cộng với các đặc trưng môi trường tạo ra bởi các hoạt động sinh thái của tổ tiên chúng. Những ví dụ khác của khả năng di truyền trong tiến hóa không phải dưới sự kiểm soát trực tiếp của gen bao gồm sự kế thừa những đặc điểm văn hóa và di truyền tổng hợp (symbiogenesis).
tiến hóa
27
Kiểu hình của một cá thể sinh vật là kết quả của cả kiểu gen và ảnh hưởng của môi trường mà nó sống. Một phần chủ yếu của biến dị trong các kiểu hình ở một quần thể là do sự khác biệt giữa các kiểu gen của chúng. Lý thuyết tiến hóa tổng hơp hiện đại định nghĩa tiến hóa như sự thay đổi theo thời gian sự biến dị di truyền này. Tần số của một alen cụ thể sẽ trở nên hiện diện nhiều hơn hay kém đi so với các dạng khác của gen đó trong quá trình này. Biến dị biến mất khi một alen mới đạt tới điểm tới hạn - là khi hoặc biến mất khỏi quần thể hoặc thay thế hoàn toàn alen gốc.
tiến hóa
28
Chọn lọc tự nhiên chỉ gây ra tiến hóa khi có đủ biến dị di truyền trong một quần thể. Trước khám phá của Mendel về di truyền, một giả thiết từng phổ biến là sự di truyền pha trộn. Nhưng với di truyền pha trộn, biến dị di truyền sẽ bị mất đi nhanh chóng, khiến cho tiến hóa bằng chọn lọc tự nhiên trở thành phi lý. Nguyên lý Hardy-Weinberg cung cấp giải pháp cho cách biến dị duy trì trong quần thể với di truyền Mendel. Theo đó, tần số của các alen (biến dị trong một gen) sẽ không đổi nếu vắng mặt sự chọn lọc, đột biến, di trú và dịch chuyển di truyền.
tiến hóa
29
Những biến dị đến từ đột biến trong vật chất di truyền, sự trộn lại các gen thông qua sinh sản hữu tính và sự di trú giữa các quần thể (dòng gen). Mặc dù những biến dị mới xuất hiện liên tục thông qua đột biến và dòng gen, hầu hết bộ gen của một loài là giống hệt ở mọi cá thể của loài đó. Tuy nhiên, ngay cả những sự khác biệt tương đối nhỏ trong kiểu gen có thể dẫn đến những khác biệt quan trọng trong kiểu hình: chẳng hạn, tinh tinh và người khác nhau chỉ khoảng 5% bộ gen.
tiến hóa
31
Đột biến là những thay đổi trong chuỗi ADN của một tế bào. Khi đột biến xảy ra, nó có thể không ảnh hưởng gì, làm thay đổi RNA hay protein do gen quy định, hoặc ngăn cản gen đó hoạt động. Dựa trên các nghiên cứu về loài ruồi Drosophila melanogaster, người ta đã đề xuất rằng nếu một sự đột biến thay đổi một protein sinh ra bởi một gen, điều này gần như chắc chắn là có hại, với khoảng 70% các đột biến này là có các tác động tiêu cực, số còn lại trung tính hoặc có lợi không nhiều.
tiến hóa
32
Sự đột biến có thể liên quan tới những đoạn dài của nhiễm sắc thể trở nên bị lặp lại (thông thường do sự tái tổ hợp di truyền), có thể tạo nên những đoạn sao chép thừa một gen vào một bộ gen. Những bản sao thừa của các gen là nguồn vật liệu thô chính cần thiết cho những gen mới tiến hóa. Điều này là quan trọng bởi vì thực tế hầu hết các gen mới tiến hóa trong một họ gen từ những gen tồn tại từ trước có gốc chung. Chẳng hạn, mắt người sử dụng bốn gen để tạo nên những cấu trúc cảm nhận ánh sáng: ba cho quan sát màu sắc và một cho quan sát ban đêm; cả bốn gen này đều bắt nguồn từ một gen gốc duy nhất.
tiến hóa
33
Các gen mới có thể sinh ra từ một gen gốc khi bản sao lặp bị đột biến và tìm lấy một chức năng mới. Quá trình này dễ dàng hơn khi một gen đã được sao lặp bởi vì nó sẽ tăng tính dư thừa của hệ thống; một gen trong cặp có thể tìm lấy một chức năng mới trong khi bản sao còn lại tiếp tục thực hiện chức năng gốc. Những loại đột biến khác thậm chí có thể tạo ra những gen hoàn toàn mới từ những ADN chưa được mã hóa từ trước.
tiến hóa
34
Việc tạo ra các gen mới cũng có thể liên quan tới những phần nhỏ trong một vài gen bị sao lặp, những đoạn này sau đó tái kết hợp để tạo nên những tổ hợp mới với những chức năng mới. Khi các gen mới được lắp ghép từ việc trộn những phần có sẵn, các miền protein đóng vai trò như những đơn nguyên với những chức năng đơn giản, độc lập, có thể kết hợp với nhau để tạo nên những tổ hợp mới với những chức năng mới phức tạp. Chẳng hạn, polyketide synthase là những enzyme kích thước lớn tạo nên các chất kháng sinh; chúng cấu thành từ tới một trăm miền độc lập mà mỗi miền xúc tác một bước trong quá trình tồng thể, như thể một khâu trong một dây chuyền lắp ráp.
tiến hóa
35
=== Giao phối và tái tổ hợp === Trong một sinh vật vô tính, các gen được truyền lại cho nhau, hay "liên kết" với nhau, và chúng không thể trộn với gen của những sinh vật khác trong quá trình sinh sản. Trái lại, sự giao phối giữa các sinh vật hữu tính tạo ra sự trộn lẫn các nhiễm sắc thể của bố mẹ qua một sự phân li độc lập. Trong một quá trình liên quan gọi là tái tổ hợp tương đồng, các sinh vật hữu tính trao đổi ADN giữa hai nhiễm sắc thể tương ứng. Tái tổ hợp và phân li không thay đổi tần số alen, nhưng thay vào đó thay đổi những alen nào liên kết với alen khác, sinh ra con cháu với những tổ hợp alen mới. Giao phối thường tăng cường biến dị di truyền và có thể tăng tốc độ tiến hóa. === Dòng gen ===
tiến hóa
36
Dòng gen là sự hoán đổi các gen giữa các quần thể và giữa các loài. Do đó nó có thể là một nguồn biến dị mới mẻ đối với một quần thể hay một loài. Dòng gen có thể do sự di chuyển của các cá thể giữa những quần thể riêng biệt nhau của một loài gây ra, như thể sự di chuyển của chuột giữa các quần thể trong đất liền và bờ biển, hay dịch chuyển của phấn hoa giữa quần thể cỏ nhạy cảm với kim loại nặng và quần thể cỏ chống chịu được.
tiến hóa
37
Sự lan truyền gen giữa các loài bao gồm sự hình thành các loài lai và sự truyền gen ngang. Truyền gen ngang là sự truyền vật chất di truyền từ một sinh vật này sang một sinh vật khác mà không phải con của nó; điều này phổ biến nhất ở giới vi khuẩn. Trong y học, điều này đóng góp vào sự lan truyền khả năng kháng chất kháng sinh, bởi khi một vi khuẩn có được các gen kháng thuốc nó có thể nhanh chóng truyền khả năng này cho các loài khác. Người ta đã quan sát thấy sự truyền gen ngang từ vi khuẩn sang các sinh vật nhân chuẩn như nấm men Saccharomyces cerevisiae và bọ trên cây đậu adzuki Callosobruchus chinensis. Một ví dụ về sự lan truyền quy mô lớn hơn là luân trùng nhân chuẩn Belloidea, chúng nhận rất nhiều gen từ vi khuẩn, nấm và thực vật. Các virus cũng có thể mang ADN giữa các sinh vật, cho phép lan truyền gen ngay cả giữa các vực sinh vật.