id
stringlengths 2
8
| url
stringlengths 31
306
| title
stringlengths 1
102
| text
stringlengths 32
113k
|
---|---|---|---|
2198326
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Climacoptera%20botschantzevii
|
Climacoptera botschantzevii
|
Climacoptera botschantzevii là loài thực vật có hoa thuộc họ Dền. Loài này được U.P.Pratov mô tả khoa học đầu tiên năm 1985.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Climacoptera
Thực vật được mô tả năm 1844
|
643908
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Fustis%20parasensora
|
Fustis parasensora
|
Fustius parasensora là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Nó được tìm thấy ở miền nam Lào.
Sải cánh dài khoảng 10 mm.
Tham khảo
2010: Revision of the Micronoctuidae (Lepidoptera: Noctuoidea) Part 3, Taxonomy of the Tactusinae. Zootaxa, 2583: 1–119. Preview
Fustius
|
1901066
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Panicum%20altum
|
Panicum altum
|
Panicum altum là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được Hitchc. & Chase mô tả khoa học đầu tiên năm 1915.
Chú thích
Liên kết ngoài
Panicum
Thực vật được mô tả năm 1915
|
108620
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/MARF
|
MARF
|
Nền theo môđun nhận dạng âm thanh (MARF) là một nền nghiên cứu và là một tập hợp những thuật toán về tiếng nói/âm thanh/bài diễn thuyết/chữ viết và xử lý ngôn ngữ tự nhiên, được viết bằng Java và được sắp xếp vào một môđun và nền có thể mở rộng, cố gắng tạo điều kiện dễ dàng cho việc thêm vào những thuật toán mới. MARF có thể đóng vai trò như một thư viện trong những ứng dụng hay được dùng như là một nguồn để học và mở rộng. Một vài thí dụ ứng dụng được cung cấp để hướng dẫn sử dụng nền này. Sách hướng dẫn chi tiết và hệ giao tiếp lập trình ứng dụng API tham khảo cũng được cung cấp dưới dạng javadoc, như là dự định của đề án này về việc dẫn chứng bằng tài liệu một cách rõ ràng. MARF và những ứng dụng của nó được phát hành dưới giấy đăng ký dạng BSD.
Tham khảo
Công nghệ Java
API
|
1373660
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ljubno
|
Ljubno
|
Ljubno là một khu tự quản (tiếng Slovenia: občine, số ít – občina) trong vùng Savinjska của Slovenia. Ljubno có diện tích 78.9 km2, dân số là theo điều tra ngày 31 tháng 3 năm 2002 là 2701 người. Thủ phủ khu tự quản Ljubno đóng tại Ljubno ob Savinji.
Tham khảo
Khu tự quản của Slovenia
Vùng Savinjska
|
2231139
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Albuca%20fragrans
|
Albuca fragrans
|
Albuca fragrans là một loài thực vật có hoa trong họ Măng tây. Loài này được Jacq. mô tả khoa học đầu tiên năm 1797.
Chú thích
Liên kết ngoài
F
Thực vật được mô tả năm 1797
|
889634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dufourea%20paradoxa
|
Dufourea paradoxa
|
Dufourea paradoxa là một loài Hymenoptera trong họ Halictidae. Loài này được Morawitz mô tả khoa học năm 1867.
Chú thích
Tham khảo
Dufourea
Động vật được mô tả năm 1867
|
2618750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gnophos%20pupillata
|
Gnophos pupillata
|
Gnophos pupillata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gnophos
|
1797892
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Abutilon%20glaziovii
|
Abutilon glaziovii
|
Abutilon glaziovii là một loài thực vật có hoa trong họ Cẩm quỳ. Loài này được K.Schum. mô tả khoa học đầu tiên năm 1891.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Cối xay
Thực vật được mô tả năm 1891
|
1916209
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Glandularia%20lilloana
|
Glandularia lilloana
|
Glandularia lilloana là một loài thực vật có hoa trong họ Cỏ roi ngựa. Loài này được (Moldenke) Botta mô tả khoa học đầu tiên năm 1990.
Chú thích
Liên kết ngoài
Glandularia
Thực vật được mô tả năm 1990
|
2477632
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polypodium%20phanerophlebium
|
Polypodium phanerophlebium
|
Polypodium phanerophlebium là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1906.
Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
Chú thích
Liên kết ngoài
Polypodium
Thực vật được mô tả năm 1906
Unresolved names
es:Polypodium phanerophlebium
|
988571
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anthicus%20flavitarsis
|
Anthicus flavitarsis
|
Anthicus flavitarsis là một loài bọ cánh cứng trong họ Anthicidae. Loài này được Broun miêu tả khoa học năm 1914.
Chú thích
Tham khảo
Anthicus
|
1618807
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hikkimgeri%2C%20Harapanahalli
|
Hikkimgeri, Harapanahalli
|
Hikkimgeri là một làng thuộc tehsil Harapanahalli, huyện Davanagere, bang Karnataka, Ấn Độ.
Tham khảo
Davanagere (huyện)
|
1922245
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Specklinia%20fuegi
|
Specklinia fuegi
|
Specklinia fuegi là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được (Rchb.f.) Solano & Soto Arenas mô tả khoa học đầu tiên năm 2002.
Chú thích
Liên kết ngoài
Specklinia
Thực vật được mô tả năm 2002
|
552880
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euphorbia%20physoclada
|
Euphorbia physoclada
|
Euphorbia physoclada là một loài thực vật thuộc họ Euphorbiaceae. Đây là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống.
Chú thích
Tham khảo
Haevermans, T. 2004. Euphorbia physoclada. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 8 năm 2007.
Thực vật Madagascar
P
|
545439
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Viburnum%20edule
|
Viburnum edule
|
Viburnum edule, tiếng Anh gọi là squashberry, mooseberry, là loài cây bụi nhỏ thuộc họ Adoxaceae.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
edule
Thực vật Canada
|
2152837
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Deeringia
|
Deeringia
|
Deeringia là chi thực vật có hoa trong họ Amaranthaceae.
Chú thích
Tham khảo
|
1104972
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tricyphona%20phaeostigma
|
Tricyphona phaeostigma
|
Tricyphona (Tricyphona) phaeostigma là một loài ruồi trong họ Pediciidae. Chúng phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Chú thích
Tham khảo
Tricyphona
|
2465766
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ophioglossum%20thermale
|
Ophioglossum thermale
|
Ophioglossum thermale là một loài dương xỉ trong họ Ophioglossaceae. Loài này được Kom. mô tả khoa học đầu tiên năm 1914.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ophioglossum
Thực vật được mô tả năm 1914
|
2313062
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Impatiens%20platychlaena
|
Impatiens platychlaena
|
Impatiens platychlaena là một loài thực vật có hoa trong họ Bóng nước. Loài này được Hook. f. mô tả khoa học đầu tiên năm 1908.
Chú thích
Liên kết ngoài
Impatiens
Thực vật được mô tả năm 1908
|
2561252
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hylettus%20magnus
|
Hylettus magnus
|
Hylettus magnus là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hylettus
Động vật đặc hữu Brasil
|
1901795
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gastrodia%20appendiculata
|
Gastrodia appendiculata
|
Gastrodia appendiculata là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được C.S.Leou & N.J.Chung mô tả khoa học đầu tiên năm 1990.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gastrodia
Thực vật được mô tả năm 1990
|
642644
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Idia%20parvulalis
|
Idia parvulalis
|
Idia parvulalis là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó được tìm thấy ở Bắc Mỹ, bao gồm nơi đặc trưng của nó, the Santa Catalina Mountains ở tây nam Arizona.
Liên kết ngoài
Moths of Southeastern Arizona
Chú thích
Idia
Santa Catalina Mountains
|
1893206
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Encyclia%20oliveirana
|
Encyclia oliveirana
|
Encyclia oliveirana là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Campacci mô tả khoa học đầu tiên năm 2007.
Chú thích
Liên kết ngoài
Encyclia
Thực vật được mô tả năm 2007
|
1135882
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aelurillus%20ater
|
Aelurillus ater
|
Aelurillus ater là một loài nhện trong họ Salticidae.
Loài này thuộc chi Aelurillus. Aelurillus ater được Kroneberg miêu tả năm 1875.
Chú thích
Tham khảo
Aelurillus
|
500094
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BA%ADn%20Davidson%2C%20North%20Carolina
|
Quận Davidson, North Carolina
|
Quận Davidson là một quận nằm ở tiểu bang Bắc Carolina. Tại thời điểm năm 2000, quận có dân số 147.246 người. Quận lỵ đóng ở Lexington.
Địa lý
Theo Cục điều tra dân số Hoa Kỳ, quận có tổng diện tích 567 dặm Anh vuông (1.468 km²), trong đó, 552 dặm Anh vuông (1.430 km²) là diện tích đất và 15 dặm Anh vuông (38 km²) trong tổng diện tích (2.58%) là diện tích mặt nước.
Các thị trấn
Quận được chia thành 17 xã: Abbotts Creek, Alleghany, Arcadia, Boone, Conrad Hill, Cotton Grove, Emmons, Hampton, Healing Spring, Jackson Hill, Lexington, Midway, Reedy Creek, Silver Hill, Thomasville, Tyro, và Yadkin College.
Các quận giáp ranh
Quận Davie - Tây bắc
Quận Forsyth - Bắc
Quận Guilford - Đông bắc
Quận Montgomery - Nam
Quận Randolph - Đông
Quận Rowan - Tây nam
Quận Stanly - Tây nam
Thông tin nhân khẩu
Theo cuộc điều tra dân số tiến hành năm 2000, quận này có dân số 147.246 người, 58.156 hộ, và 42.512 gia đình sinh sống trong quận này. Mật độ dân số là 267 người trên mỗi dặm Anh vuông (103/km²). Đã có 62,432 đơn vị nhà ở với một mật độ bình quân là 113 per square mile (44/km²). Cơ cấu chủng tộc của dân cư sinh sống tại quận này gồm 87,05% người da trắng, 9,14% người da đen hoặc người Mỹ gốc Phi, 0,37% người thổ dân châu Mỹ, 0,82% người gốc châu Á, 0,01% người các đảo Thái Bình Dương, 1,66% từ các chủng tộc khác, và 0,94% từ hai hay nhiều chủng tộc. 3,24% dân số là người Hispanic hoặc người Latin thuộc bất cứ chủng tộc nào.
Có 58.156 hộ trong đó có 32,70% có con cái dưới tuổi 18 sống chung với họ, 58,00% là những cặp kết hôn sinh sống với nhau, 10,80% có một chủ hộ là nữ không có chồng sống cùng, và 26,90% là không gia đình. 22,90% trong tất cả các hộ gồm các cá nhân và 8,80% có người sinh sống một mình và có độ tuổi 65 tuổi hay già hơn. Quy mô trung bình của hộ là 2,50 còn quy mô trung bình của gia đình là 2,92,
Phân bố độ tuổi của cư dân sinh sống trong huyện là 24,30% dưới độ tuổi 18, 7,60% từ 18 đến 24, 31,20% từ 25 đến 44, 24,10% từ 45 đến 64, và 12,80% người có độ tuổi 65 tuổi hay già hơn. Độ tuổi trung bình là 37 tuổi. Cứ mỗi 100 nữ giới thì có 96,00 nam giới. Cứ mỗi 100 nữ giới có độ tuổi 18 và lớn hơn thì, có 93,70 nam giới.
Thu nhập bình quân của một hộ ở quận này là $38.640, và thu nhập bình quân của một gia đình ở quận này là $46.241, Nam giới có thu nhập bình quân $31.287 so với mức thu nhập $23.622 đối với nữ giới. Thu nhập bình quân đầu người của quận là $18.703, Khoảng 7,00% gia đình và 10,10% dân số sống dưới ngưỡng nghèo, bao gồm 13,30% những người có độ tuổi 18 và 12,10% là những người 65 tuổi hoặc già hơn.
Các thành phố và Thị trấn
Denton
High Point (một phần)
Lexington
Midway
Thomasville
Wallburg
Tham khảo
Liên kết ngoài
Davidson County Tourism & Recreation Calendar of Events & more
Davidson County Images Articles and Photos
The Lexington Dispatch Local News and Features
Davidson County government official website
Live EMS Audio Feed Listen to Davidson County EMS online
Quận của North Carolina
|
1946106
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kopsia%20larutensis
|
Kopsia larutensis
|
Kopsia larutensis là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được King & Gamble mô tả khoa học đầu tiên năm 1908.
Chú thích
Liên kết ngoài
Kopsia
Thực vật được mô tả năm 1908
Thực vật có hoa
|
2398269
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%C3%AAu%20%C4%91%E1%BA%BF
|
Chiêu đế
|
Chiêu Đế (chữ Hán: 昭帝) là thụy hiệu của một số vị quân chủ phương Đông.
Việt Nam
Lý Chiêu Hoàng (đầu đời nhà Trần được gọi là Chiêu Thánh hoàng hậu, sau đó bị giáng làm Chiêu Thánh công chúa và Bảo Văn Hầu phu nhân)
Trần Nguyên Tổ Trần Lý, được truy tôn thụy hiệu Chiêu Vương, sau nâng thành đế hiệu.
Nguyễn Chiêu Đế
Trung Quốc
Hán Chiêu Đế, gọi tắt theo thụy hiệu gốc là Hiếu Chiêu Đế
Tiền Tần Chiêu Đế (gọi tắt theo hai thụy hiệu là Tuyên Chiêu Đế hoặc Văn Chiêu Đế)
Hậu Tần Vũ Chiêu Đế
Thác Bạt Lộc Quan, được nhà Bắc Ngụy truy tôn thụy hiệu Chiêu Hoàng Đế.
Kim Hiến Tổ, thụy hiệu Định Chiêu Hoàng Đế
Minh Chiêu Đế
Triều Tiên
Triều Tiên Chiêu Đế (truy tôn, thụy hiệu thật là Hiếu Chương thế tử hoặc Thừa Thống thế tử, sau được nâng thành Hiếu Chương đại vương, nhà Thanh ban thụy hiệu là Khác Mẫn Vương)
Xem thêm
Chiêu thái hậu
Chiêu hoàng hậu
Hiếu Chiêu Đế
Cảnh Chiêu Đế
Chiêu hầu
Chiêu Vũ Đế
Chiêu Thánh đế
Chiêu Thành đế
Chiêu vương
Chiêu công
Văn Công
Vũ công
Thụy hiệu
|
15149594
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%C3%A2u%20%C4%91%C3%A0i%20Vianden
|
Lâu đài Vianden
|
Lâu đài Vianden (, ), nằm ở Vianden ở phía bắc của Luxembourg, là một trong những lâu đài lớn nhất ở phía tây sông Rhine. Lâu đài nằm ở độ cao 310 mét, chiều dài 90 mét.
Lịch sử
Lịch sử lâu đài bắt đầu từ khoảng năm 1090 gắn liền với tên tuổi vị bá tước đầu tiên. Với nguồn gốc từ thế kỷ thứ 10, lâu đài được xây dựng theo phong cách La Mã từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 14. Biến đổi và trang trí gothic đã được thêm vào cuối giai đoạn này. Một phần kiểu Phục hưng đã được thêm vào thế kỷ 17. Khoảng năm 1100, một nhà bếp, một nhà nguyện và các khu nhà dân được xây dựng.
Thư viện ảnh
Tham khảo
Liên kết ngoài
Vianden
Castles in Luxembourg
Castles in the Ardennes (Luxembourg)
Castles in the Eifel
|
1933014
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aplanodes%20sisymbrioides
|
Aplanodes sisymbrioides
|
Aplanodes sisymbrioides là một loài thực vật có hoa trong họ Cải. Loài này được (Schltr.) Marais mô tả khoa học đầu tiên năm 1966.
Chú thích
Liên kết ngoài
Aplanodes
Thực vật được mô tả năm 1966
|
1559491
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Moraine%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Grand%20Forks%2C%20B%E1%BA%AFc%20Dakota
|
Xã Moraine, Quận Grand Forks, Bắc Dakota
|
Xã Moraine () là một xã thuộc quận Grand Forks, tiểu bang Bắc Dakota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 66 người.
Tham khảo
Xem thêm
American FactFinder
Xã thuộc tiểu bang Bắc Dakota
Quận Grand Forks, North Dakota
|
1470689
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kuzucu%2C%20Mezitli
|
Kuzucu, Mezitli
|
Kuzucu là một xã thuộc huyện Mezitli, tỉnh Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 303 người.
Chú thích
Tham khảo
Xã thuộc tỉnh Mersin
Làng Thổ Nhĩ Kỳ theo tỉnh
|
1208127
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Podalonia%20gulussa
|
Podalonia gulussa
|
Podalonia gulussa là một loài côn trùng cánh màng trong họ Sphecidae, thuộc chi Podalonia. Loài này được Morice miêu tả khoa học đầu tiên năm 1900.
Xem thêm
Danh sách các loài trong họ Sphecidae
Chú thích
Tham khảo
Podalonia
|
2793340
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diapetimorpha%20unilineata
|
Diapetimorpha unilineata
|
Diapetimorpha unilineata là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Diapetimorpha
|
1175916
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Munna%20lukini
|
Munna lukini
|
Munna lukini là một loài chân đều trong họ Munnidae. Loài này được Kussakin & Mezhov miêu tả khoa học năm 1979.
Chú thích
Tham khảo
Munna
|
530790
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/830
|
830
|
Năm 830 là một năm trong lịch Julius.
Sự kiện
Sinh
Khúc Thừa Dụ, người giành độc lập cho Việt Nam (m. 907)
Mất
Tham khảo
Năm 830
|
1908770
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polyscias%20felicis
|
Polyscias felicis
|
Polyscias felicis là một loài thực vật có hoa trong Họ Cuồng cuồng. Loài này được Bernardi miêu tả khoa học đầu tiên năm 1971.
Chú thích
Liên kết ngoài
F
Thực vật được mô tả năm 1971
|
543662
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%C3%A2n%20%E1%BB%A7y%20Trung%20%C6%B0%C6%A1ng%20Trung%20Qu%E1%BB%91c%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Quân ủy Trung ương Trung Quốc (định hướng)
|
Ủy ban Quân sự Trung ương Trung Quốc có thể là:
Ủy ban Quân sự Trung ương của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Quân ủy Trung ương của Đảng Cộng sản Trung Quốc
|
2596613
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Talara%20phaeella
|
Talara phaeella
|
Talara phaeella là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Talara
|
1401931
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Type%20053H2G%20%28l%E1%BB%9Bp%20khinh%20h%E1%BA%A1m%29
|
Type 053H2G (lớp khinh hạm)
|
Lớp khinh hạm Type 053H2G (NATO gọi là lớp Jiangwei I - Giang Vệ I) là một lớp tàu hải quân của Hải quân Trung Quốc. Lớp này được thiết kế trên cơ sở cải tiến lớp khinh hạm Type 053 và được đưa vào chế tạo từ đầu thập niên 1990. Chỉ có 4 chiếc thuộc lớp này được chế tạo, mang các số hiệu 539 (Anqing), 540 (Huainan), 541 (Huaibei), 542 (Tongling). Lớp này có kích thước lớn hơn lớp Type 053 một chút và được trang bị tên lửa hải đối không HQ-61. Ngoài ra, tàu có mang máy bay trực thăng loại Harbin Z-9C.
Type 053H2G có lượng choán nước chuẩn là 2.250 tấn, khi đầy tải là 2.393 tấn. Tàu dài 112 m, sườn ngang rộng 12,4 m, mớn nước 4,3 m. Tàu có thể đạt tốc độ 24 hải lý trên giờ và tầm hoạt động 5000 hải lý. Thủy thủ đoàn 168 người.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Sino Defense Today
Lớp khinh hạm
Khinh hạm của Hải quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
|
1904051
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syzygium%20tetrapterum
|
Syzygium tetrapterum
|
Syzygium tetrapterum là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được (Miq.) Chantaran. & J.Parn. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1993.
Chú thích
Liên kết ngoài
T
Thực vật được mô tả năm 1993
|
2032112
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Myosotis%20strigulosa
|
Myosotis strigulosa
|
Myosotis strigulosa là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được Rchb. mô tả khoa học đầu tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Lưu ly
|
2421750
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptobranchoidea
|
Cryptobranchoidea
|
Cryptobranchoidea là một phân bộ của bộ có đuôi được tìm thấy ở Hoa Kỳ, Trung Quốc, Đài Loan và Nhật Bản. Chúng được biết đến như kỳ nhông nguyên thủy, trái ngược với Salamandroidea, hay kỳ nhông cấp cao.
Phân loại
Phân bộ này hiện nay chỉ chứa hai họ. Các họ khác đã bị tuyệt chủng trong quá khứ và chỉ được biết đến như hóa thạch.
Cryptobranchidae
Hynobiidae
Tham khảo
Bộ Có đuôi
|
1980726
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Columnea%20pulcherrima
|
Columnea pulcherrima
|
Columnea pulcherrima là một loài thực vật có hoa trong họ Tai voi. Loài này được C.V.Morton mô tả khoa học đầu tiên năm 1945.
Chú thích
Liên kết ngoài
Columnea
Thực vật được mô tả năm 1945
|
972404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Laccornis%20pacificus
|
Laccornis pacificus
|
Laccornis pacificus là một loài bọ cánh cứng trong họ Bọ nước. Loài này được Leech miêu tả khoa học năm 1940.
Chú thích
Tham khảo
Bọ nước
Laccornis
|
1894211
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eugenia%20acapulcensis
|
Eugenia acapulcensis
|
Eugenia acapulcensis là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được Steud. mô tả khoa học đầu tiên năm 1840.
Chú thích
Liên kết ngoài
A
Thực vật được mô tả năm 1840
|
2405210
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kadua
|
Kadua
|
Kadua là một chi thực vật có hoa trong họ Thiến thảo (Rubiaceae).
Loài
Chi Kadua gồm các loài:
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
|
2399116
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Arctanthemum
|
Arctanthemum
|
Arctanthemum là một chi thực vật có hoa trong họ Cúc (Asteraceae).
Loài
Chi Arctanthemum gồm các loài:
Chú thích
Liên kết ngoài
|
2031209
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lappula%20ferganensis
|
Lappula ferganensis
|
Lappula ferganensis là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được (Popov) Kamelin & G.L. Chu mô tả khoa học đầu tiên năm 1995.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lappula
Thực vật được mô tả năm 1995
|
1176924
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paraphiloscia%20hammeni
|
Paraphiloscia hammeni
|
Paraphiloscia hammeni là một loài chân đều trong họ Philosciidae. Loài này được Vandel miêu tả khoa học năm 1973.
Chú thích
Tham khảo
Paraphiloscia
|
2500853
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hypnum%20eugyrium
|
Hypnum eugyrium
|
Hypnum eugyrium là một loài Rêu trong họ Hypnaceae. Loài này được (Schimp.) Sull. mô tả khoa học đầu tiên năm 1856.
Chú thích
Liên kết ngoài
Hypnum
Thực vật được mô tả năm 1856
|
2466796
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Araiostegia%20yaklaensis
|
Araiostegia yaklaensis
|
Araiostegia yaklaensis là một loài dương xỉ trong họ Davalliaceae. Loài này được Bedd. B.K. Nayar & S. Kaur mô tả khoa học đầu tiên năm 1974.
Chú thích
Liên kết ngoài
Araiostegia
Thực vật được mô tả năm 1974
es:Araiostegia yaklaensis
|
897870
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nomada%20confinis
|
Nomada confinis
|
Nomada confinis là một loài Hymenoptera trong họ Apidae. Loài này được Schmiedeknecht mô tả khoa học năm 1882.
Chú thích
Tham khảo
Nomada
Động vật được mô tả năm 1882
|
2651769
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scopula%20impersonata
|
Scopula impersonata
|
Scopula impersonata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
I
|
14998020
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C4%99py%2C%20T%E1%BB%89nh%20West%20Pomeranian
|
Kępy, Tỉnh West Pomeranian
|
Kępy () là một ngôi làng thuộc khu hành chính của Gmina Marianowo, thuộc hạt Stargard, West Pomeranian Voivodeship, ở phía tây bắc Ba Lan. Nó nằm khoảng phía tây bắc của Marianowo, về phía đông bắc của Stargard và về phía đông của thủ đô khu vực Szczecin.
Trước năm 1945, khu vực này là một phần của Đức. Sau Thế chiến II, người dân bản địa Đức bị trục xuất và thay thế bằng người Ba Lan. Đối với lịch sử của khu vực, xem Lịch sử của Pomerania.
Tham khảo
|
852836
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/15523%20Grenville
|
15523 Grenville
|
15523 Grenville (1999 XE151) là một tiểu hành tinh vành đai chính.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 15523 Grenville
015523
19991209
015523
Tiểu hành tinh được đặt tên
|
303971
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alpes%20cottiennes
|
Alpes cottiennes
|
Dãy núi Alpes cottiennes (tiếng Pháp: Alpes Cottiennes; tiếng Ý: Alpi Cozie) là một dãy núi ở phần tây nam của dãy núi Alpes. Dãy núi này làm thành biên giới giữa Pháp (các tỉnh Hautes-Alpes, Savoie) và Ý (vùng Piedmont). Đèo Maddalena chia cách dãy núi này với dãy núi Alpes maritimes; đèo Mont Cenis chia cách với dãy núi Graian Alps; đèo Col du Galibier chia cách với dãy núi Alpes du Dauphiné.
Các đường hầm Fréjus dành cho xe hơi và xe lửa giữa thị xã Modane (Pháp) và thành phố Susa (Ý) là các đường giao thông huyết mạch quan trọng giữa Lyon, Grenoble của Pháp và Torino của Ý.
Dãy núi Alpes cottiennes là đầu nguồn của các sông Durance, Arc cùng các sông nhánh của chúng bên phía Pháp; sông Dora Riparia và các sông nhánh của sông Po bên phía Ý.
Các ngọn núi
Các ngọn núi chính của dãy Alpes cottiennes là:
Các đèo
Các đèo chính của dãy núi Alpes cottiennes là:
Tham khảo
Dãy núi tại Pháp
Dãy núi tại Ý
Dãy núi Alpes
|
2471488
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aspidium%20phyllarthron
|
Aspidium phyllarthron
|
Aspidium phyllarthron là một loài dương xỉ trong họ Tectariaceae. Loài này được Kunze mô tả khoa học đầu tiên năm 1848.
Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
Chú thích
Liên kết ngoài
Aspidium
Thực vật được mô tả năm 1848
Unresolved names
es:Aspidium phyllarthron
|
2477211
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polypodium%20faurianum
|
Polypodium faurianum
|
Polypodium faurianum là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Nakai mô tả khoa học đầu tiên năm 1911.
Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
Chú thích
Liên kết ngoài
Polypodium
Thực vật được mô tả năm 1911
Unresolved names
es:Polypodium faurianum
|
548256
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rollinia%20parviflora
|
Rollinia parviflora
|
Rollinia parviflora là một loài thực vật thuộc họ Annonaceae. Đây là loài đặc hữu của Brasil.
Chú thích
Tham khảo
World Conservation Monitoring Centre 1998. Rollinia parviflora. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 8 năm 2007.
Thực vật Brasil
parviflora
|
19604940
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%99i%20%C4%91%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Do%20th%C3%A1i%20c%E1%BA%A5p%20cao%20%28Praha%29
|
Hội đường Do thái cấp cao (Praha)
|
Hội đường Do Thái cấp cao (). Công cuộc xây dựng hội đường hoàn thành vào năm 1568 (cùng năm với Tòa thị chính Do Thái), dưới sự tài trợ của Mordechai Maisel. Nhiều nguồn thông tin cho rằng, hội đường được mô phỏng theo kiến trúc của Hội đường Do Thái Cấp cao ở thành phố Kraków, Ba Lan (xây dựng vào năm 1556). Hội đường xây dựng theo phong cách kiến trúc Phục hưng dựa trên bản thiết kế của kiến trúc sư P.Roder với không gian rộng lớn, trần nhà trát vữa có mái vòm theo Kiến trúc Gothic, ở trung tâm là bục bimah và xung quanh là các dãy ghế ngồi. Ngoài ra, Mordechai Maisel cũng tặng cho hội đường sách Torah (Ngũ kinh của Kinh thánh Do thái) và các dụng cụ, đồ vật trang trí bằng bạc. Ngày nay, hội đường Do thái cấp cao trở thành nơi thuyết giảng cho các ủy viên của hội đồng tòa thị chính Do Thái.
Năm 1689, sau bị phá hủy bởi trận đại hỏa hoạn ở thành phố Praha, hội đường bước vào giai đoạn tái thiết.
Năm 1883, JM Wertmüller tiến hành tái xây dựng hội đường. Trong đó, khu vực mặt tiền đã được đơn giản hóa với vẻ ngoài hiện đại.
Vào năm 1907, chính quyền thành phố quyết định đóng của lối vào phía đông và mở lối vào mới hướng ra Phố Đỏ (Červená ulice).
Trong các giai đoạn: năm 1961, từ năm 1974 đến năm 1979 và năm 1982, công cuộc tái thiết tiếp tục diễn ra với một số hạng mục khác của công trình.
Trong thời kỳ cai trị của Phát xít Đức và chế độ cộng sản, hội đường Do Thái trở thành một phần của Bảo tàng Do Thái.
Tham khảo
Tọa độ:
Tòa nhà và công trình tôn giáo hoàn thành vào năm 1568
Giáo đường Do Thái hoàn thành năm 1883
Giáo đường Do Thái ở Praha
Giáo đường Do Thái thế kỷ 16
Josefov (Praha)
|
7559020
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cyclopentolate
|
Cyclopentolate
|
Cyclopentolate là thuốc được sử dụng phổ biến trong việc khám mắt ở trẻ em, làm giãn mắt, ngăn ngừa vị trí của mắt ở các khoảng cách khác nhau (cycloplegic), và chặn các thụ thể muscarinic (chất đối kháng muscarinic). Cyclopentolate cũng được dùng làm chất thay thế atropine để đảo ngược tác dụng của muscarinic và hệ thống thần kinh trung ương đối với việc điều trị gián tiếp bằng cholinomimetic (chống AChase).
Khi sử dụng trong thuốc nhỏ mắt cho trẻ em, cyclopentolate 0,5% và 1,0% được sử dụng để ngăn chặn việc mắt tập trung ở bất kỳ khoảng cách nào gần hơn vô cực. Điều này cho phép bác sĩ nhãn khoa hoặc bác sĩ đo thị lực có được độ chính xác cao hơn trong việc chỉnh sửa mắt kính để bệnh nhân có thể có tầm nhìn rõ ràng. Các loại của nó bao gồm Cyclogyl, Cylate, Mydrilate, và Pentolair.
Các giọt Cyclopentolate hoạt động nhanh chóng để làm giãn nở con ngươi. Chúng có thời gian tồn tại ngắn hơn atropine. Sự giãn nở của con ngươi có thể kéo dài đến 96 giờ nên bệnh nhân được khuyên không nên lái xe hoặc vận hành máy móc ít nhất trong vòng 12 giờ. Con ngươi trở nên rộng hơn khi dùng cyclopentolate, làm cho mắt nhạy cảm hơn với ánh sáng. Đóng các vật thể (và các vật thể ở xa) cũng sẽ bị mờ.
Tác dụng phụ đối với cyclopentolate rất hiếm, nhưng có thể bao gồm các triệu chứng như mất phương hướng, bài phát biểu không liên tục hoặc rối loạn thị giác trong khoảng thời gian 24 giờ mà thuốc có tác dụng. Tác dụng phụ thường gặp ở trẻ em.
Tham khảo
Amin
|
1495808
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sara%C3%A7%2C%20Zile
|
Saraç, Zile
|
Saraç là một xã thuộc huyện Zile, tỉnh Tokat, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 119 người.
Chú thích
Tham khảo
Làng thuộc tỉnh Tokat
|
3513404
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kent%20Invicta%20Football%20League%202013%E2%80%9314
|
Kent Invicta Football League 2013–14
|
Kent Invicta Football League 2013–14 là mùa giải thứ 3 trong lịch sử Kent Invicta Football League, một giải đấu bóng đá ở Anh, góp đội cho Kent Football League.
Kent Invicta Football League
Giải đấu bao gồm 13 đội thi đấu mùa trước cùng với 2 đội bóng mới:
Fleet Leisure, thăng hạng từ Kent County League.
Glebe, thăng hạng từ Kent County Youth League.
Bảng xếp hạng
Kết quả
Tham khảo
Liên kết ngoài
Kent Invicta Football League
Bóng đá Anh
|
207536
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polasara
|
Polasara
|
Polasara là một thị xã và là nơi đặt ủy ban khu vực quy hoạch (notified area committee) của quận Ganjam thuộc bang Orissa, Ấn Độ.
Địa lý
Polasara có vị trí Nó có độ cao trung bình là 66 mét (216 feet).
Nhân khẩu
Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Polasara có dân số 19.566 người. Phái nam chiếm 50% tổng số dân và phái nữ chiếm 50%. Polasara có tỷ lệ 53% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 63%, và tỷ lệ cho phái nữ là 43%. Tại Polasara, 13% dân số nhỏ hơn 6 tuổi.
Tham khảo
Thành phố thuộc bang Orissa
|
3566001
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Irish%20Stew
|
Irish Stew
|
Irish Stew là một món hầm truyền thống của ẩm thực Ireland. Nó bao gồm chủ yếu là Thịt cừu, khoai tây, hành, mùi tây. Thường thì cà rốt, củ cải vàng và nhiều loại gia vị như cỏ xạ hương và húng quế được thêm vào.
Irish Stew ngày nay ít được ăn tại Ireland, vì nó theo lịch sử là món ăn của dân nhà nghèo. Thường thì các biến thể khác như với thịt bò hoặc thịt gia cầm được ưa chuộng hơn.
Một biến thể của Irish Stew là Dublin Stew, được nấu cũng như vậy, tuy nhiên gia vị thì đậm đà hơn.
Trong một biến thể chưa phổ biến lắm, gọi là Fulde Stew, bắp cải được cho thêm vào.
Tham khảo
Thư mục
Davidson, Alan & Jaine, Tom (2006) Oxford Companion to Food. Oxford: Oxford University Press. ISBN 9780192806819
Món hầm
Ẩm thực Ireland
Ẩm thực Bắc Ireland
|
13485486
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/APEC%20Singapore%202009
|
APEC Singapore 2009
|
APEC Singapore 2009 là một loạt các cuộc họp chính trị được tổ chức ở Singapore giữa 21 nền kinh tế thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương trong năm 2009. Trọng tâm là Hội nghị các Nhà lãnh đạo Kinh tế APEC lần thứ 17 (AELM) tổ chức tại Singapore từ ngày 14 -15 tháng 11 năm 2009.
Chủ đề
Chủ đề cho APEC 2009 là 'Duy trì tăng trưởng, kết nối khu vực'. APEC Singapore 2009 sẽ xây dựng dựa trên công việc của APEC cho đến nay trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hợp tác, thương mại và đầu tư trên toàn khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Ngoài ra, với môi trường kinh tế toàn cầu đầy thử thách ngày nay, APEC Singapore 2009 cũng tập trung vào việc vượt qua khủng hoảng kinh tế và định vị nền kinh tế thành viên để phục hồi bền vững trong thế giới hậu khủng hoảng. Các lĩnh vực chính để thảo luận là: Định vị Phục hồi Kinh tế; Hỗ trợ các Hệ thống Thương mại Đa phương; và Thúc đẩy Hội nhập Kinh tế Khu vực.
Logo
Logo APEC Singapore 2009 mô tả 21 nền kinh tế APEC đến với nhau để triệu tập tại một điểm duy nhất, làm việc hướng tới sự thống nhất, hợp tác và là sức mạnh tổng hợp giữa các nền kinh tế thành viên để thúc đẩy lợi ích chung. Logo Tia lửa được tạo thành từ 21 nét thể hiện 21 nền kinh tế thành viên. Nó biểu thị sự năng động trong cộng đồng APEC, và một chất xúc tác truyền cảm hứng cho những ý tưởng và sáng kiến mới để tiếp tục tầm nhìn của APEC.
Giải trí
APEC Singapore 2009 cũng được xem như một nền tảng cho khả năng địa phương của Singapore thể hiện sự sáng tạo của họ với các nhà lãnh đạo thế giới trong buổi biểu diễn "Buổi chiều Singapore tại Esplanade", vào tối ngày 14 tháng 11 năm 2009 bên ngoài Esplanade, Singapore. Theo chủ đề "Thế giới của Chúng tôi, Một Thế giới", "Buổi chiều Singapore tại Esplanade" giới thiệu một buổi hòa nhạc với các dự án đa phương tiện, được đạo diễn bởi Dick Lee, người chiến thắng Giải thưởng Huy chương Văn hóa.
Có một khái niệm ăn uống độc đáo giữa kiến trúc mang tính biểu tượng của Singapore và phong cảnh bờ sông, nhiều món ăn khác nhau được trình bày đại diện cho các nền văn hóa khác nhau của Singapore bao gồm các món ăn độc đáo từ ba dân tộc chính của Singapore: Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ. Buổi hòa nhạc có tổng cộng 376 nghệ sĩ địa phương trong một màn biểu diễn âm nhạc 30 phút cũng như trong các gian hàng và buổi biểu diễn văn hóa tương tác dọc theo bờ sông.
Điểm nổi bật vào buổi tối là buổi biểu diễn âm nhạc theo chủ đề của nghệ sĩ địa phương nổi tiếng Kit Chan, được viết bởi Dick Lee, và một bản cover các bài hát nổi tiếng như Heal the World bởi người chiến thắng Thần tượng Singapore đầu tiên đó là Taufik Batisah.
Xem thêm
Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức của APEC Singapore 2009
The business of climate: A look to technology with Tim Flannery regarding global warming.
Hội nghị năm 2009
Quan hệ quốc tế năm 2009
Hội nghị ngoại giao thế kỷ 21
2009
Hội nghị ngoại giao ở Singapore
Lịch sử Singapore
Singapore 2009
|
3341676
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C3%A0nh%20tr%C3%ACnh%20th%E1%BB%A9%20hai%20c%E1%BB%A7a%20t%C3%A0u%20HMS%20Beagle
|
Hành trình thứ hai của tàu HMS Beagle
|
Hành trình thứ hai của tàu HMS Beagle (ngày 27 tháng 12 năm 1831 - ngày 2 tháng 10 năm 1836) là chuyến thám hiểm thứ hai của con tàu HMS Beagle chỉ huy bởi thuyền trưởng Robert FitzRoy, người tiếp quản con tàu sau khi cựu thuyền trưởng của con tàu là Pringle Stokes tự sát. FitzRoy đã cân nhắc về việc chiêu mộ thêm một chuyên gia địa chất học và một nhà tự nhiên học đồng hành cùng. Sinh viên trẻ đã tốt nghiệp tên Charles Darwin 22 tuổi khao khát được tận mắt chứng kiến vùng nhiệt đới trước khi cậu trở thành một mục xư và chộp lấy cơ hội này. Darwin bị ảnh hưởng rất lớn bởi cuốn Principles of Geology của ngài Charles Lyell trong suốt chuyến hành trình. Vào cuối cuộc thám hiểm, Darwin đã thành danh với tư cách là một nhà địa chất học và nhà sưu tầm hóa thạch sau khi cuốn nhật ký The Voyage of the Beagle được xuất bản.
Beagle vượt qua Đại Tây Dương, và sau đó thực hiện các cuộc khảo sát thủy văn kĩ lưỡng xung quanh đường bờ biển phía Nam của Nam Mỹ, ghé thăm Tahiti và Úc sau khi đi vòng quanh Trái đất. Cuộc thám hiểm ban đầu được lên kế hoạch kéo dài 2 năm, nhưng cuối cùng lại thành ra 5 năm.
Darwin dành phần lớn thời gian khám phá trên cạn: 3 năm và 3 tháng trên đất liền, 18 tháng trên biển.[1] Đầu hành trình, ông quyết định sẽ viết một cuốn sách về địa chất, và bộc lộ tài năng suy đoán xuất sắc. Tại Punta Alta, ông đã phát hiện nhiều mẫu hóa thạch thú có vú khổng lồ đã tuyệt chủng, những loài này vẫn chỉ được biết đến từ rất ít mẫu vật. Ông đã thu thập nhiều loại thực vật và động vật rồi quan sát chúng thật tường tận. Kết quả của những quan sát này làm lung lay niềm tin của ông rằng muôn loài trên thế giới đã cố định, cung cấp cơ sở cho những ý tưởng sau này khi ông quay trở lại Anh, và cùng dẫn đến lý thuyết tiến hóa bằng con đường chọn lọc tự nhiên.
Mục đích của cuộc thám hiểm
Mục đích chính của đoàn thám hiểm là để tiến hành một cuộc khảo sát thủy văn của vùng bờ biển phía nam của Nam Mỹ để tiếp nối và điều chỉnh công tác điều tra trước đó, để lập ra bảng xếp hạng hải lý cung cấp thông tin định hướng và độ sâu nước biển cho hải quân và thương mại.
Một bản ghi điều khoản của ban lãnh đạo hải quân sắp đặt các chỉ thị chi tiết. Đòi hỏi đầu tiên là phải giải quyết những bất đồng trong các cuộc đo đạc trước đó về kinh độ của Rio de Janeiro, đó là điều cần thiết vì là điểm cơ sở cho các khoảng cách kinh tuyến. Các đồng hồ hàng hải chính xác cần thiết để xác định kinh độ đã chỉ có thể có được kể từ năm 1800; Beagle có cả 22 đồng hồ hàng hải cho phép điều chỉnh. Tàu phải dừng lại tại các điểm quy định bốn ngày để đánh giá các đồng hồ hàng hải và kiểm tra chúng bằng cách quan sát thiên văn: đó là điều cần thiết để có những quan sát tại Porto Praya và Fernando de Noronha để hiệu chỉnh các cuộc đo đạc trước đó của Owen và Foster. Điều quan trọng để khảo sát phạm vi quần đảo rạn san hô Abrolhos, hiển thị không đúng trong cuộc khảo sát của Roussin, sau đó tiến tới Rio de Janeiro để quyết định kinh độ chính xác của đảo Villegagnon.
Công việc thực tế của cuộc khảo sát là khởi đầu từ phía nam của Río de la Plata, với các chuyến đi tới Montevideo rồi trở về để bù đấp nhừn tiêu thụ. Có những ưu tiên phải thực hiện bao gồm khảo sát Tierra del Fuego và tới các cảng ở quần đảo Falkland. Các bờ biển phía tây sau đó phải được khảo sát từ nam lên bắc xa như thời gian và nguồn lực cho phép. Người chỉ huy sau đó sẽ quyết định con đường riêng của mình về phía tây: tùy theo mùa, anh ta có thể khảo sát quần đảo Galápagos. Sau đó, Beagle đi tới điểm Venus, Tahiti và vào cảng Jackson thuộc Úc, đó là những địa điểm để thử lại sự chính sác các đồng hồ hàng hải.
Những chỉ thị khác là không nên lãng phí thời gian vào các bản vẽ xây dựng; biểu đồ và sơ đồ cần có ghi chú và quan cảnh đơn giản từ biển tới bờ cho thấy chiều cao đo được của các ngọn đồi. Những ghi chép liên tục về thủy triều và điều kiện khí tượng cũng được yêu cầu. Một đề nghị bổ sung là một khảo sát địa chất một đảo san hô ở Thái Bình Dương bao gồm cả các dòng thủy triều, để điều tra sự hình thành của các rạn san hô đó.
Bối cảnh và chuẩn bị
Chuyến thám hiểm khảo sát trước đến Nam Mỹ bao gồm 2 chiếc tàu HMS Adventure và HMS Beagle dưới sự chỉ huy chung của hạm trưởng người Úc Phillip Parker King. Trong cuộc khảo sát, thuyền trưởng của Beagle, Pringle Stokes, đã tự tử và quyền chỉ huy con tàu này đã được trao cho nhà quý tộc trẻ Robert FitzRoy, một người cháu của George FitzRoy, Công tước thứ tư của Grafton. Khi thuyền của một con tàu bị lấy bởi thổ dân Fuegians, FitzRoy đã giữ một số người của họ làm con tin. Sau khi họ trở về xưởng đóng tàu Devonport vào ngày 14 Tháng 10 năm 1830, hạm trưởng King về hưu.
FitzRoy lúc đó 26 tuổi hy vọng sẽ được chỉ huy một đoàn thám hiểm thứ hai để tiếp tục khảo sát Nam Mỹ, nhưng khi nghe nói rằng các thành viên ủy ban Hải quân không còn hỗ trợ cho cuộc thám hiểm này, ông quan tâm đến việc làm thế nào để đưa những người Fuegians, đã được dạy tiếng Anh với ý tưởng rằng họ có thể trở thành nhà truyền giáo, trở về. Ông đã thỏa thuận với một chủ tàu thương mại nhỏ đưa ông và năm người khác trở lại Nam Mỹ, nhưng người chú tử tế khi nghe chuyện này đã liên lạc với ủy ban Hải quân. Ngay sau đó FitzRoy nghe nói, ông đã được bổ nhiệm làm chỉ huy của tàu HMS Chanticleer để đi đến Tierra del Fuego, nhưng vì cần được sửa chữa nên đã được thay thế bởi Beagle. Vào ngày 27 tháng 6 năm 1831 FitzRoy được giao nhiệm vụ chỉ huy chuyến đi.
Chuyến hành trình
Charles Darwin được thông báo rằng tàu Beagle sẽ ra khơi vào cuối tháng 9 năm 1831, nhưng khâu trang bị lại ngốn thời gian hơn dự kiến. Các chỉ thị từ Văn phòng Đô đốc và Hàng hải được gửi đi vào ngày 14 tháng 11 và vào ngày 23 tháng 11, con tàu được chuyển đến cảng neo đậu và sẵn sàng hạ thủy. Những cơn gió Tây gắt gao khiến cả đoàn phải quay tàu về sau khi khởi hành vào ngày 10 và 21 tháng 12. Thủy thủ đoàn ăn mừng và uống say nhân dịp Giáng sinh khiến họ mất thêm một ngày nữa. Cuối cùng thì vào sáng ngày 27 tháng 12, tàu Beagle chính thức rời cảng Barn Pool, dưới chân núi Edgecumbe, phía tây của Plymouth Sound và bắt đầu chuyến khảo sát khoa học.
Các đảo Đại Tây Dương
Beagle tạt qua Madeira để đề phòng lạc đường nhưng không nán lại. Vào ngày 6 tháng 1, con tàu đến được đảo Tenerife thuộc Quần đảo Canary, nhưng bị cách ly ở đó vì bấy giờ có đợt dịch tả bùng phát ở Anh. Mặc dù đã cập bến ngay cạnh thị trấn Santa Cruz, Darwin cảm thấy thất vọng cực độ vì cả đoàn không được phép đổ bộ. Sau khi điều kiện thời tiết khá lên, con tàu tiếp tục chuyến hành trình. Vào ngày 10 tháng 1, Darwin thử nghiệm một cái lưới bắt sinh vật phù du mà ông tự chế gắn đằng sau con tàu (đánh dấu lần thứ hai trong lịch sử một nhà khoa học sử dụng một cái lưới như vậy, chỉ sau John Vaughan Thompson vào năm 1816). Ngày hôm sau, ông để ý thấy số lượng rất lớn sinh vật thu thập được ở xa bờ và chép rằng "Nhiều sinh vật bậc thấp trong nấc thang của tự nhiên có dạng hình rất tinh tế và có màu sắc rất phong phú. - Nó khiến ta băn khoăn rằng tại sao vẻ đẹp to lớn nhường này lại được tạo ra chỉ vì mục đích nhỏ bé như vậy."
6 ngày sau, họ đổ bộ lần đầu tiên tại Porto Praya trên đảo núi lửa St. Jago thuộc quần đảo Cape Verde. Đây là nơi Darwin bắt đầu ghi chép cuốn nhật trình được xuất bản sau này. Ấn tượng ban đầu của ông về một hòn đảo núi lửa là một nơi hoang vắng và thiếu sức sống. Tuy vậy, sau khi đến thăm thị trấn và đi qua một thung lũng sâu thì ông lại hào hứng khi "lần đầu tiên nhìn thấy vinh quang của thảm thực vật nhiệt đới" và ông đã có "một ngày tuyệt vời" với sự mới lạ tràn ngập cả thị giác lẫn thính giác. FitzRoy dựng lều và đài quan sát trên đảo Quail để đo đạc tọa độ chính xác của quần đảo, còn Darwin thì đi thu thập các sinh vật biển và điều tra địa chất của đảo Quail; ông rất vui sướng khi tận mắt thấy những rặng san hô nhiệt đới sống động trong các hồ thủy triều. Mặc dù cuốn sách của Daubeny trong kho lưu trữ của tàu Beagle có mô tả địa chất núi lửa của Quần đảo Canary, nó vẫn nói rằng cấu trúc của Quần đảo Cape Verde "được hiểu một cách chưa hoàn chỉnh". Darwin coi Đảo Quail là chìa khóa để hiểu được cấu trúc của St. Jago và thực hiện các nghiên cứu chi tiết về địa tầng dựa trên cách thức mà ông học được từ Adam Sedgwick. Ông lấy các mẫu vật và mô tả một lớp đá trắng cứng được hình thành từ xác san hô bị nghiền nát và vỏ sò nằm giữa các lớp đá núi lửa đen, và ghi nhận một lớp trắng tương tự chạy ngang trên vách đá đen của St. Jago ở độ cao 40 feet (12 m) so với mực nước biển. Các vỏ sò, theo như ông xem xét, "giống hệt như của ngày nay". Ông suy đoán rằng trong quá khứ gần về mặt địa chất, một dòng dung nham đã bao phủ lớp cát vỏ này dưới đáy biển, và các tầng địa chất sau đó đã bị đẩy lên dần dần đến mức hiện tại. Quyển Principles of Geology của Charles Lyell đã trình bày luận điểm về sự lên xuống từ từ của vỏ Trái đất được minh họa bởi các tầng đá thay đổi từ Đền thờ Serapis. Darwin ngầm ủng hộ Lyell và nhận xét rằng "Tiến sĩ Daubeny khi đề cập đến tình trạng hiện tại của đền Serapis. nghi ngờ về khả năng bề mặt đất được nâng lên mà không làm rạn nứt các tòa nhà trên đó. - Tôi cảm thấy chắc chắn tại St Jago và ở một số nơi trong thị trấn có thể đã được nâng lên mà không gây tổn thất đến một ngôi nhà nào." Trong một lá thư gửi cho Henslow, ông viết rằng "Địa chất nơi đây rất thú vị và tôi tin rằng khá mới mẻ: có một số điểm thú vị mang tính vĩ mô thể hiện rằng các bờ biển đã được nâng lên... điều mà chắc hẳn sẽ khiến ông Lyell quan tâm". Khi còn ở trên đảo, Darwin có cảm hứng khi nghĩ đến việc viết một cuốn sách về địa chất, và sau này ông có thuật lại "nhìn thấy một thứ mà Lyell chưa từng được thấy, người ta đã nhìn thấy nó một phần qua đôi mắt"
Thông thường, các bác sĩ phẫu thuật của đoàn tàu đảm nhận vị trí như các nhà tự nhiên học, và bác sĩ phẫu thuật trên tàu Beagle, Robert McCormick, người đang tìm kiếm cho mình danh vọng và tiền tài qua tư cách là một nhà thám hiểm. Khi họ gặp nhau lần đầu lúc bắt đầu hành trình, Darwin đã nhận xét rằng "Bạn tôi [McCormick] là một tên khó ưa, nhưng chúng tôi đang có những tiến triển thân thiện". Họ cùng nhau đi đến vùng nông thôn St. Jago, và Darwin, chịu ảnh hưởng của Lyell, thấy rằng cách tiếp cận của vị bác sĩ còn rất lỗi thời. Họ tìm thấy một cây baobab khá to, được FitzRoy đo và phác thảo. Darwin đã tiếp tục "những chuyến thám hiểm" sau đó cùng với Benjamin Bynoe và Rowlett đến thăm Ribeira Grande và St Domingo. FitzRoy kéo dài thời gian lưu trú lên 23 ngày, để hoàn thành các phép đo dị thường từ. Sau đó, Darwin đã viết cho Henslow rằng bộ sưu tập của ông bao gồm "một số mẫu của Bạch tuộc, nó sở hữu một sức mạnh kỳ diệu là có thể thay đổi màu sắc, khả năng sánh ngang với bất kỳ con tắc kè nào, và hiển nhiên là có thể thay đổi màu sắc của chúng sao cho trùng với màu mặt đất mà chúng đi qua. - màu vàng lục, nâu sẫm & đỏ là những màu rất phổ biến: điều này dường như là mới, theo như tìm hiểu của tôi." Henslow trả lời rằng "Đó không phải là khám phá mới, nhưng bất kỳ quan sát nào cũng sẽ rất có ích."
McCormick ngày càng bực tức trước những ân huệ mà FitzRoy hỗ trợ Darwin với công việc sưu tầm. Vào ngày 16 tháng 2, FitzRoy mang một nhóm nhỏ bao gồm ông và Darwin lên những đảo nhỏ của St. Paul, tìm thấy những con chim biển được thuần hóa đến mức chúng có thể bị giết dễ dàng, trong khi McCormick bực tức đã bỏ đi khỏi hòn đảo trên một chiếc thuyền nhỏ thứ hai. Tối hôm đó, những tân binh được chào đón bởi một người giả - thần Hải Vương, và vào sáng hôm sau, họ băng qua đường xích đạo và thực hiện nghi lễ vượt đường xích đạo truyền thống.
Darwin có một vị trí đặc biệt như là khách mời và đẳng cấp bằng với thuyền trưởng, vì vậy các sĩ quan cấp dưới gọi ông là "ngài" cho đến khi thuyền trưởng gọi Darwin là Philos, nghĩa là "triết gia của con tàu", tên này rồi đã trở thành biệt danh đáng kính của ông.
Khảo sát Nam Mỹ
Ở Nam Mỹ, Beagle thực hiện công tác khảo sát và bám dọc theo bờ biển để đo đạc và thẩm định cẩn thận. Darwin thực hiện những chuyến đi dài vào đất liền với những người bạn đồng hành địa phương. Ông đã dành phần lớn thời gian trên đất liền, trở về theo đúng lịch trình đề ra trước khi Beagle trở lại các cảng nơi thư, các ghi chú, bài báo và bộ sưu tập của Darwin có thể được gửi trở lại Anh. Ông đảm bảo rằng các bộ sưu tập này chính trực là của ông và chúng được chuyển về Henslow ở Cambridge để chờ ngày ông quay trở về. Một số người khác trên tàu bao gồm FitzRoy và các sĩ quan hầu hết là những nhà tự nhiên học nghiệp dư, và họ đã giúp đỡ Darwin một cách hào phóng cũng như thu thập các bộ sưu tập cho Vương miện, mà ngài Đô đốc sẽ đặt tại Bảo tàng Anh.
Thiên đường nhiệt đới và nô lệ
Do sóng lớn, họ chỉ dừng ở Fernando de Noronha một ngày để thực hiện các quan sát cần thiết, và Fitzroy quyết định hướng đến Bahia, Brazil, để đánh giá các đồng hồ và lấy nước. Vào ngày 28 tháng 2, họ đến được lục địa, và nhìn thấy cảnh tượng tráng lệ của thị trấn nay được gọi là Salvador, với những con thuyền lớn neo đậu nằm rải rác trên vịnh. Ngày hôm sau, Darwin có một "chuyến đi đầy phân khởi" một mình thăm thú khu rừng nhiệt đới và trong "những cuộc cuốc bộ tự nhiên dài" cùng với những người khác tiếp tục "thêm niềm sung sướng vào những niềm hân hoan trước đó". Ông không vừa lòng khi chứng kiến cảnh tượng nô dịch ở đây, FitzRoy biện hộ cho việc bóc lột bằng cách đưa ông đến thăm một chủ nô với người nô lệ trả lời "không" khi được chủ nhân hỏi nếu anh ta muốn tự do hay không, Darwin cho rằng câu trả lời trong trường hợp này là không trung thực. Tức giận vì lời nói của mình bị thẩm vấn, FitzRoy mất bình tĩnh và cấm Darwin gia nhập đoàn thám hiểm của ông. Các sĩ quan khác đã đặt biệt danh cho những vụ cãi vã như vậy là "cà phê nóng", và sau vài giờ FitzRoy đã xin lỗi và yêu cầu Darwin ở lại. Sau này, FitzRoy phải giữ im lặng khi Thuyền trưởng Paget đến thăm họ và kể lại sự thật rằng "chế độ nô lệ thật độc ác" mâu thuẫn với quan điểm của Fitzroy. Các khảo sát của bãi cát xung quanh bến cảng đã xong xuôi vào ngày 18 tháng 3 và con tàu đã đi xuống vùng vịnh để đo đạc độ rộng và độ sâu của các rạn san hô Abrolhos, hoàn thiện và chỉnh sửa các lỗi khảo sát của Roussin.
Vào ngày 4 tháng 4, họ vào cảng Rio de Janeiro, để thực hiện các quan sát kinh độ từ đảo Villegagnon. Darwin muốn hiểu rõ hơn thành phố sau đó thực hiện một chuyến thăm thú vào bên trong, trở về tàu vào ngày 24 tháng 4. Đến lúc đó Robert McCormick đã rời tàu, với sự cho phép của chỉ huy đô đốc, và trở về Anh. Trợ lý của bác sĩ phẫu thuật Benjamin Bynoe thay thế vị trí của Robert. McCormick cảm thấy "rất thất vọng về những kỳ vọng của tôi khi theo đuổi sự nghiệp lịch sử tự nhiên, mọi trở ngại đã được rải ra trên đường khi tôi lên bờ và thu thập các bộ sưu tập" trong khi quý ông Darwin nhận được tất cả các lời mời chức sắc trên bờ và được trao cho các cơ sở đóng gói bộ sưu tập dành riêng cho ông.
Vào ngày 26 tháng 4, Darwin chuyển đến một ngôi nhà mà ông đã thuê tại Botafogo và ở đó với ba người khác trong lúc Beagle rời đi vào ngày 10 tháng 5 để kiểm tra lại các quan sát tại Bahia. FitzRoy đã tìm thấy một sai số 4 dặm (6,4 km) ở vị trí đẳng kinh tuyến giữa các phép đo của mình và Albin Roussin, nên quyết định quay trở lại. Một thủy thủ, một cậu bé cabin và một chuẩn uý hải quân trẻ tuổi đã bị sốt sau khi đến sông Macacu và chết. Khi con tàu trở về Rio vào ngày 3 tháng 6, FitzRoy đã xác nhận rằng các phép đo của ông về Bahia và các rạn san hô Abrolhos là chính xác, và đã gửi những sửa chữa này cho Roussin. Họ đi thuyền từ Rio vào ngày 5 tháng 7.
Phát hiện hóa thạch
Sau những cơn bão, Beagle đến Montevideo vào ngày 26 tháng 7 năm 1832 và xem xét lại các đồng hồ hàng hải. Các nỗ lực lấy thông tin tại Buenos Aires bị các quan chức ở đây khước từ, FitzRoy chấp thuận yêu cầu điều động các thuyền viên của tàu (gồm cả Darwin) chiếm đóng một pháo đài ở Montevideo một khoảng thời gian ngắn nhằm trấn áp một cuộc cách mạng tại đây. Vào ngày 22 tháng 8, sau khi chưng cầu ý kiến ở vịnh Samborombón, Beagle bắt đầu công tác khảo sát dọc bờ biển từ Cape San Antonio, tỉnh Buenos Aires, Argentina.
Tại Bahía Blanca, ở phía nam của tỉnh Buenos Aires hiện tại, Darwin đi ngựa vào Patagonia với các cao bồi gaucho: ông đã chứng kiến họ sử dụng bola (một loại vũ khí gồm hai hòn đá buộc vào các đầu dây để liệng và bắt thú) để hạ gục "đà điểu" (Đà điểu Nam Mỹ) và ăn armadillo nướng. Với FitzRoy, ông đã được tận hưởng "một chuyến du ngoạn bằng tàu rất dễ chịu quanh vùng vịnh" vào ngày 22 tháng Chín, và cách khoảng mười dặm (16 km) nơi họ đậu tàu ở Punta Alta. Trong các vách đá thấp gần điểm Darwin đã tìm thấy những mảng cuội kết chứa nhiều vỏ sò, răng và xương hóa thạch của các loài thú có vú khổng lồ tuyệt chủng nằm ở tầng địa chất gần một lớp đất với vỏ sò và hóa thạch armadillo, gợi ý cho ông rằng sự trầm tích ở đây xảy ra từ từ chứ không phải do các thảm họa vĩ mô (như núi lửa phun trào hay thiên thạch va chạm). Với sự giúp đỡ (có thể là từ cậu thủy thủ trẻ kiêm người hầu của Darwin tên Syms Covington), Darwin đã thu thập vô số mảnh hóa thạch chỉ trong vài ngày, khiến mọi người trên tàu trêu ông rằng "những thứ rác rưởi mà ông ấy hay mang lên tàu".
Phần lớn ngày thứ hai xoay quanh việc khai quật một hộp sọ lớn mà Darwin tìm thấy đang bị mắc trong tầng đá mềm, và dường như chúng có nét giống với xương tê giác. Vào ngày 8 tháng 10, ông quay trở lại di chỉ này rồi tìm thấy một xương hàm và răng mà ông có thể xác định được bằng cách sử dụng cuốn Dictionnaire classique của Bory de Saint-Vincent. Ông đã mô tả các phần trên và hộp sọ lớn là hóa thạch của chi Megatherium, hoặc có lẽ là thuộc về chi Megalonyx, và ghi chú một cách hào hứng rằng mẫu vật duy nhất ở châu Âu đã bị giữ trong bộ sưu tập của nhà vua tại Madrid. Trong cùng một tầng đá, ông tìm thấy một xương giáp lớn với các tấm vảy đa giác. Suy nghĩ đầu tiên của ông là chúng thuộc về một loài vật mang giáp to lớn giống như các con armodillo lân cận, nhưng dựa trên các mô tả sai lệch của Cuvier về mẫu vật tại Madrid và một báo cáo bấy giờ về một bộ hóa thạch được tìm thấy bởi Giáo xứ Woodbine, Darwin cho rằng áo giáp xương này thuộc về Megatherium. So với FitzRoy, Darwin đã di chuyển được khoảng 30 dặm (48 km) băng qua vịnh tới Monte Hermoso vào ngày 19 Tháng 10, và tìm thấy nhiều hóa thạch của các loài gặm nhấm nhỏ trái ngược với thú có vú khổng lồ xenarthra ở Punta Alta. Vào tháng 11 tại Buenos Aires, ông đã "mua nhiều mảnh xương khổng lồ" mà ông "đảm bảo rằng chúng thuộc về những người khổng lồ tiền sử!!",[85] và sau đó chộp lấy bất kì cơ hội nào để mua một mảnh hóa thạch "bằng vàng hoặc phi nước đại". and subsequently took any chance to get fossils "by gold or galloping".
Tại Montevideo vào tháng 11, thư từ quê nhà bao gồm một bản sao của cuốn Nguyên tắc Địa chất tập 2 của Charles Lyell, là lời bác bỏ học thuyết của Lamarck trong đó có nói rằng không có tổ tiên chung của các loài khác nhau hoặc tiến bộ tổng thể để phù hợp với sự thay đổi địa chất dần dần, nhưng một chu kỳ tiếp tục trong đó các loài xuất hiện một cách bí ẩn, thích nghi chặt chẽ với "trung tâm sáng tạo" của chúng, sau đó bị tuyệt chủng khi môi trường thay đổi thành bất lợi.
Tierra del Fuego
Họ cập bến Tierra del Fuego vào ngày 18 tháng 12 năm 1832 và Darwin bị bất ngờ trước những gì ông cho là sự man rợ thô thiển của tộc người bản địa Yaghan, trái ngược hoàn toàn với hành vi "văn minh" của ba người Fuegia mà đang trở lại với tư cách là những người truyền giáo (ba người đã được trao cho tên mới là York Minster, Fuegia Basket và Jemmy Button). Ông mô tả cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với người Fuegia bản địa là "không có ngoại lệ đây là cảnh tượng kỳ lạ và thú vị nhất mà tôi từng thấy: Tôi đã không thể mường tượng được sự khác biệt cực kì lớn giữa người man rợ và văn minh: nó lớn hơn cả sự khác nhau giữa một con vật hoang dã và thuần hóa, bởi vì trong loài người ta cần một sức mạnh thuần hóa lớn hơn." Trái lại, anh nói với Jemmy rằng "Cũng thật đỗi tuyệt vời đối với tôi, khi tôi nghĩ về tất cả những phẩm chất tốt đẹp của anh ta, rằng anh ta hẳn phải thuộc cùng một chủng tộc, và cùng chia sẻ chung một tính cách, cùng với sự man rợ, xuống cấp khốn khổ của những người mà chúng ta lần đầu gặp ở đây." (Bốn thập kỷ sau, ông nhớ lại những ấn tượng này trong cuốn Hậu duệ của con người để ủng hộ lập luận rằng con người là hậu duệ của "một dạng sống thấp hơn", xã hội văn minh đã phát sinh từ một xã hội nguyên thủy thô sơ. Ông nhớ lại sự tương đồng giữa mình và người Fuegia trên tàu Beagle "giống trong tính tình và một phần năng lực tâm lí với chúng tôi.")
Tại đảo "Buttons Land" vào ngày 23 tháng 1 năm 1833, họ đã thiết lập một đồn truyền giáo, với những túp lều, khu vườn, đồ nội thất và đồ sành sứ, nhưng khi họ trở lại chín ngày sau đó, tài sản ở đây đã bị người bản địa cướp phá và chia đều. Matthews bỏ cuộc, về tàu và để ba người Fuegia văn minh ở lại tiếp tục công việc truyền giáo. Beagle tiếp tục dong buồm đến Quần đảo Falkland ngay sau khi Quân đội Anh bình định khu vực này và củng cố sự kiểm soát của Đế quốc Anh đối với quần đảo. Darwin đã nghiên cứu mối quan hệ của các loài với môi trường sống và tìm thấy hóa thạch cổ đại giống như những gì ông đã tìm thấy ở xứ Wales. FitzRoy đã mua một chiếc thuyền buồm dọc (schooner) để hỗ trợ công tác khảo sát, và họ quay trở lại Patagonia nơi nó được trang bị thêm một đáy đồng mới và được đổi tên thành Adventure. Darwin được Syms Covington hỗ trợ trong việc bảo quản các mẫu vật và việc thu thập của ông thành công đến nỗi, ông đã thỏa thuận với FitzRoy và nhận Covington làm người hầu toàn thời gian với mức lương £30 mỗi năm (trị giá năm 1833).
Gaucho, đà điểu Nam Mỹ, hóa thạch và địa chất
Hai chiếc tàu đã đi đến Río Negro ở Argentina và vào ngày 8 tháng 8 năm 1833 Darwin rời đi trong một chuyến thám hiểm khác vào đất liền cùng với các cao bồi. Vào ngày 12 tháng 8, ông gặp Tướng Juan Manuel de Rosas, người đang dẫn đầu một cuộc viễn chinh trừng phạt trong một chiến dịch quân sự chống lại "người da đỏ" bản địa, và Darwin đã nhận được hộ chiếu từ ông ta. Khi họ băng qua các pampas, những cao bồi gaucho và người bản địa kể cho Darwin về một loài đà điểu Nam Mỹ nhỏ hiếm hơn. Sau ba ngày tại Bahía Blanca, ông cảm thấy khá mệt mỏi vì phải chờ đợi tàu Beagle và vào ngày 21 tháng 8, ông quay lại Punta Alta, nơi ông đã xem xét địa chất của địa điểm này dựa trên các kiến thức mới của mình, tự hỏi rằng liệu xương có già hơn vỏ sò không. Ông đã rất thành công với việc tìm kiếm xương và vào ngày 1 tháng 9 đã tìm thấy một bộ xương gần hoàn chỉnh với những mảnh xương vẫn còn ở nguyên trạng thái.
Ông lại lên đường và vào ngày 1 tháng 10, tìm kiếm trên vách đá của sông Carcarañá, thấy "một chiếc răng gặm nhấm khổng lồ" sau đó trong một vách đá của sông Paraná ông lại thấy "hai nhóm xương lớn" quá mềm để thu thập nhưng một mảnh răng được xác định là của loài mastodon.[93][94] Bệnh tật đã cầm chân ông ở Santa Fe, và sau khi nhìn thấy vỏ hóa thạch của một con armadillo khổng lồ mắc kẹt trong đá, ông đã bối rối khi phát hiện thấy một chiếc răng ngựa trong cùng một tầng đá, bởi rằng những con ngựa lần đầu tiên được du nhập vào Mỹ Châu bằng tàu bè của người châu Âu.[95][96] Họ đã đi thuyền trên sông Paraná để đến Buenos Aires nhưng lại bất đắc dĩ vướng vào một cuộc cách mạng do phiến quân nơi đây liên minh với Rosas phong tỏa thành phố. Tấm hộ chiếu đã giúp ông và Covington trốn thoát khỏi thành phố trên một đoàn thuyền tị nạn. Họ đã tái ngộ với con tàu Beagle tại Montevideo.[97]
Trong lúc cuộc khảo sát đang được tiến hành, Darwin bắt đầu chuyến hành trình "phi nước đại" dài 400 dặm (640 km) ở Banda Oriental để xem sông Uruguay và thăm Estancia Keen gần Mercedes bên con sông Río Negro. Vào ngày 25 tháng 11, ông "nghe nói về một số khúc xương khổng lồ, như thường lệ là của Megatherium" nhưng chỉ có thể lấy được một vài mảnh nhỏ, vào ngày hôm sau ông đã đến thăm một ngôi nhà gần đó và đổi hai đồng si linh lấy "một cái đầu của một con Megatherium chắc hẳn phải khá hoàn hảo khi nó mới được tìm thấy", mặc dù răng đã bị gãy và hàm dưới đã bị mất. Ông Keen đã sắp xếp để chuyển hộp sọ xuống sông đến Buenos Aires.[98][99][100] Tại Las Piedras, một giáo sĩ cho ông xem hóa thạch mà họ tìm thấy bao gồm một cái đuôi giống như cái trùy mà ông đã phác họa lại và gọi đó là một "vũ khí phi thường".[100][101] Các ghi chú của ông có chứa một trang mà ông nhận ra rằng các vách đá của các con sông lộ ra hai tầng được hình thành ở một cửa sông bị gián đoạn bởi một tầng dưới đáy biển, cho thấy vùng đất đã trồi lên và lún xuống. [102]
Tại Montevideo, Darwin được giới thiệu với Conrad Martens, vị họa sĩ thay thế cho tàu Beagle sau khi ông Augustus Earle phải rời đi vì vấn đề sức khỏe. Họ đi thuyền về phía nam, cập cảng Desire vào ngày 23 tháng 12 và ngày hôm sau Darwin săn được một con lạc đà guanaco cung cấp cho họ một bữa ăn Giáng sinh. Đầu năm mới, Martens đã bắn một con rhea mà họ rất thích trước khi Darwin nhận ra rằng đây là loài đà điểu rhea nhỏ quý hiếm và bảo quản hài cốt của nó.[90] Vào ngày 9 tháng 1 năm 1834, 110 dặm (180 km) về phía nam, họ đến được cảng St Julian và tìm hiểu địa chất địa phương tại vách đá gần bến cảng mà Darwin tìm thấy những mảnh xương sống và một chân sau của "một số động vật lớn, chắc hẳn là của một con Mastodon".[103][99] Vào ngày 26 tháng 1, họ tiến vào Eo biển Magellan và tại Vịnh St. Gregory, họ đã gặp những "người khổng lồ" nửa văn minh Patagonia cao hơn 6 ft (1,8 m), được Darwin mô tả là "những nhà tự nhiên học thực tiễn xuất sắc". Một người nói với ông rằng những loài đà điểu rhea nhỏ ở xa về phía nam, trong khi những loài rhea lớn hơn chỉ ở phía bắc, hai quần thể này tiếp xúc nhau quanh Rio Negro. [104]
Sau khi khảo sát thêm ở Tierra del Fuego, họ trở lại vào ngày 5 tháng 3 năm 1834 để thăm những người truyền giáo, nhưng thấy những túp lều đã bị bỏ hoang. Sau đó một đoàn ca nô đến và họ biết rằng một trong những người bản địa là Jemmy Button, đã mất hết tài sản và giờ đang sống theo cách bản địa và lấy vợ. Darwin chưa bao giờ thấy "một sự thay đổi quá lớn và đáng tiếc" như vậy. Jemmy lên tàu và cùng ăn tối với đoàn sử dụng dao dĩa rất lịch thiệp, nói tiếng Anh tốt hơn bao giờ hết, sau đó đảm bảo với họ rằng ông "không có một chút ý định nào quay trở về Anh" và rất "vui vẻ và hài lòng", rồi biếu họ quà gồm da rái cá và đầu mũi tên trước khi trở về xuồng ca nô cùng với vợ.[106] Trong chuyến thăm đầu tiên Darwin đã viết rằng "Với những người như vậy, người ta khó có thể khiến bản thân tin rằng họ là những sinh vật được đặt trong cùng một thế giới. .... Đây là một chủ đề phỏng đoán khá phổ biến; Loại vui thú trên đời nào mà những con vật không có năng khiếu có thể tận hưởng? Sẽ có lý hơn không nếu áp đặt câu hỏi này lên những người kia",[107] thế nhưng Jemmy, người đã thích nghi được với văn minh lại sau đó chọn trở về với lối sống nguyên thủy của mình. Điều này đặt ra một câu hỏi khó xử; nó mâu thuẫn với những quan điểm được đưa ra bởi Charles Lyell, thể hiện trong tập 2 của cuốn Nguyên tắc Địa chất, rằng các chủng tộc người "chỉ biểu hiện một chút sai lệch so với một tiêu chuẩn chung", và việc chấp nhận sự chuyển đổi loài có nghĩa là từ bỏ "niềm tin vào cây gia phả của loài người".[108]
Vào thời gian này Darwin đã viết Phản ánh về việc đọc các ghi chú Địa chất của tôi, phần đầu tiên của một loạt các bài tiểu luận có trong các ghi chú của ông.[100] Ông suy đoán về những nguyên nhân có thể của sự nâng lên lục địa, và về lịch sử cuộc sống ở Patagonia dưới một chuỗi các loài được đặt tên. [109]
Họ quay trở lại Quần đảo Falkland vào ngày 16 tháng 3 ngay sau một cuộc tàn sát các thành viên cấp cao của khu định cư Vernet bởi người bản địa và các gaucho, và họ giúp dập tắt cuộc nổi dậy. Darwin ghi nhận số lượng sinh vật khổng lồ phụ thuộc vào rừng tảo bẹ.[110] Ông nhận được tin từ Henslow rằng công văn mẫu đầu tiên của ông đã đến Cambridge, với các hóa thạch Nam Mỹ được chuyên gia William Clift đánh giá cao khi chúng cho thấy các loài mới và đặc điểm chưa biết đến của Megatherium, và được William Buckland và Clift phổ biến chúng trong cộng đồng khoa học Anh, làm nên danh tiếng của Darwin.[99][111]
Beagle tiếp tục đi xuống miền nam Patagonia, và vào ngày 19 tháng 4, một đoàn thám hiểm bao gồm FitzRoy và Darwin đi xuồng vào sông Santa Cruz xa nhất có thể, với tất cả những người tham gia thay nhau kéo thuyền lên thượng nguồn. Dòng sông cắt qua một loạt các dòng nước chảy sau đó cao nguyên tạo thành những đồng bằng rộng lớn được bao phủ bởi vỏ sò và đá cuội, và Darwin đã thảo luận với FitzRoy rằng những cao nguyên này đã dần dần được nâng lên đúng như học thuyết của Lyell. Một vài con đà điểu rhea nhỏ hơn được nhìn thấy từ xa, nhưng quá nhanh để bắt.[90] Đoàn thám hiểm gần tới dãy Andes nhưng phải quay lại.
Darwin đã tóm tắt các suy đoán của mình trong bài tiểu luận Độ cao của Patagonia. Mặc dù dựa trên thực nghiệm, nó đã thách thức ý tưởng của Lyell. Darwin lẫy số liệu từ các phép đo của các sĩ quan trên tàu cũng như các phép đo của chính ông để đề xuất rằng các đồng bằng này đã được nâng lên trong các giai đoạn liên tiếp bằng các lực tác động trên một khu vực rộng, thay vì các tấc động quy mô nhỏ trong một chu kỳ liên tục. Tuy nhiên, ông ủng hộ Lyell trong việc tìm kiếm bằng chứng chống lại một sự tăng biến ngột khi các quá trình bình thường đột nhiên tăng tốc. Vỏ sò mà ông tìm thấy ở sâu trong đất liền vẫn cho thấy màu sắc của chúng gợi ý rằng quá trình này vẫn tương đối gần đây và có thể ảnh hưởng đến lịch sử loài người.[112]
Bờ Tây Nam Mỹ
Beagle và Adventure khảo sát Eo biển Magellan trước khi đi vòng quanh bờ biển phía tây, đến đảo Chiloé thuộc Quần đảo Chiloé ẩm ướt và rậm rạp cây cối vào ngày 28 tháng 6 năm 1834. Sau đó, họ đã dành sáu tháng tiếp theo để khảo sát bờ biển và các đảo phía nam.[b] Tại Chiloé, Darwin đã tìm thấy những mảnh gỗ than nâu và gỗ hóa đá, ít nhất hai trong số đó được viện Khảo sát Địa chất Anh phát hiện năm 2011 đã bị phong ấn trong bộ sưu tập của họ có nhãn "hóa thạch thực vật chưa mang tên". Trao đổi với Joseph Dalton Hooker khoảng mười năm sau, một slide được ký tên "Chiloe, C. Darwin Esq".[116]
Họ đến Valparaiso vào ngày 23 tháng 7. Sau vài lần đi bộ trong khu vực, Darwin lấy được ngựa và vào ngày 14 tháng 8 đã lên đường lên núi lửa Andes cùng với một người bạn. Ba ngày sau họ có một ngày thú vị trên đỉnh núi Bell. Darwin đã đến thăm một mỏ đồng và trải qua năm ngày leo dốc trên núi trước khi đi đến Santiago, Chile. Trên đường về, ông đổ bệnh vào ngày 20 tháng 9 và phải nằm liệt một tháng trên giường. Có thể ông đã mắc phải bệnh Chagas ở đây, dẫn đến các vấn đề về sức khỏe của ông sau khi quay lại Anh, nhưng chẩn đoán này vẫn đang bị tranh cãi. Ông nghe tin rằng Bộ Hải quân đã khiển trách FitzRoy vì đã mua con tàu Adventure. FitzRoy coi chuyện này khá nghiêm trọng, ông bán con tàu và thông báo rằng họ sẽ quay lại thẩm định lại các khảo sát, rồi sau đó ông sẽ từ chức do nghi ngờ về sự tỉnh tảo của mình, nhưng các sĩ quan trên tàu đã thuyết phục ông rút đơn từ chức và ở lại. Họa sĩ Conrad Martens rời tàu và tới Úc. [117]
Sau khi chờ đợi Darwin, Beagle dong buồm vào ngày 11 tháng 11 để khảo sát Quần đảo Chonos. Từ đây, họ nhìn thấy sự phun trào của núi lửa Osorno ở Andes. Họ đi thuyền về phía bắc, và Darwin băn khoăn về những hóa thạch mà ông đã tìm thấy. Loài Mastodons và Megatherium khổng lồ đã tuyệt chủng, tuy vậy lại không tìm thấy dấu hiệu địa chất nào cho "sự thảm họa theo đó", theo quan điểm của Lyell, dẫn đến các loài không còn thích nghi với vị trí mà chúng được tạo ra để phù hợp. Ông đồng ý với ý tưởng của Lyell về "sự sinh ra và chết dần dần của các loài", nhưng, không giống như Lyell, Darwin sẵn sàng tin vào ý tưởng của Giovanni Battista Brocchi rằng các loài đã tuyệt chủng bằng cách nào đó trở nên lỗi thời và dần mất giống. [118] [119]
Họ đến cảng Valdivia vào ngày 8 tháng 2 năm 1835, mười hai ngày sau đó nhóm của Darwin trải qua một trận động đất nghiêm trọng và khiến thị trấn cảng bị hư hại nặng. Họ di chuyển hai trăm dặm (320 km) về phía bắc tới Concepciónngày 4 tháng 3 và thấy rằng trận động đất tương tự đã tàn phá thành phố bằng những đợt sang chấn lặp đi lặp lại và một cơn sóng thần. Darwin đã ghi nhận sự khủng khiếp từ cái chết và sự hủy diệt, FitzRoy đã cẩn thận quan sát rằng các nền vỏ trai giờ cao hơn cả lúc thủy triều cao, đưa ra bằng chứng rõ ràng về mặt đất đã nâng lên khoảng 9 ft (2,7 m) mà ông xác nhận một tháng sau đó. Họ đã thực sự trải qua quá trình nâng lên của lục địa từ đại dương như Lyell đã chỉ ra. [120] [121]
Quay trở lại Valparaiso, Darwin bắt đầu một chuyến du ngoạn khác lên Andes và vào ngày 21 tháng 3 đã đến chỗ phân chia lục địa ở độ cao 13.000 ft (4.000 m): ngay cả ở đây, ông đã tìm thấy những vỏ sò hóa thạch trong đá. Ông miêu tả quang cảnh huy hoàng ở đây "giống như đang ngắm một cơn giông bão, hay được nghe hợp xướng bởi dàn nhạc của Đấng cứu thế." [122] Sau khi đi đến Mendoza, họ trở về bằng một con đường khác và tìm thấy một khu rừng hóa thạch, kết tinh trong một vách đá sa thạch. Ông thấy rằng nó đã từng nằm trên một bãi biển Thái Bình Dương khi đất bị chìm, chôn chúng trong cát sau đó bị nén thành đá, rồi dần dần được nâng lên với lục địa tới độ cao 7.000 ft (2.100 m) trên núi. Khi trở về Valparaiso với một nửa mẫu vật, ông đã viết cho cha ông rằng những phát hiện của ông, nếu được chấp nhận, sẽ rất quan trọng đối với lý thuyết về sự hình thành của thế giới. Sau một cuộc thám hiểm mệt mỏi khác ở Andes trong khi Beagle được trang bị lại, ông quay trở lại và đi thuyền đến Lima, nơi một cuộc nổi dậy vũ trang đang diễn ra và phải ở lại trên con tàu. Tại đây, ông đã viết lên những ghi chú của mình khi nhận ra ý tưởng của Lyell rằng các đảo san hô nằm trên vành của những ngọn núi lửa đã ngủ ít có lý hơn so với tình huống những ngọn núi lửa dần chìm xuống để các rạn san hô quanh đảo tiếp tục xây dựng gần mực nước biển và trở thành một đảo san hô khi núi lửa biến mất bên dưới. Đây là một lý thuyết mà ông sẽ kiểm chứng khi họ đến những hòn đảo như vậy.[123]
Đảo Galápagos
Một tuần sau khi rời Lima, Beagle cập bến Quần đảo Galápagos vào ngày 15 tháng 9 năm 1835. Ngày hôm sau, Thuyền trưởng FitzRoy thả neo gần thị trấn Puerto Baquerizo Moreno hiện nay trên đảo Chatham. Tại địa điểm hiện được gọi là Đồi Frigatebird/Cerro Tijeretas, Darwin đã dành giờ đầu tiên của mình trên bờ ở quần đảo Galapagos.[124]
Darwin háo hức mong chờ được nhìn thấy những hòn đảo núi lửa mới hình thành, và tận dụng mọi cơ hội để lên bờ trong khi Beagle vẽ bản đồ bờ biển. Ông tìm thấy nhiều mảnh đá núi lửa đen vỡ vụn dưới ánh nắng mặt trời gay gắt và ghi chú chi tiết về các đặc điểm địa chất bao gồm nón núi lửa hình dạng như ống khói khiến ông nhớ đến các xưởng luyện sắt công nghiệp của vùng Staffordshire.[125] Ông thất vọng vì không được nhìn thấy những ngọn núi lửa đang hoạt động và không tìm thấy các tầng đá cho thấy sự nâng cao như ông hi vọng, mặc dù một trong những sĩ quan đã tìm thấy vỏ sò bị vỡ ở trên hòn đảo cao hơn rất nhiều mực nước biển.[126] Rùa Galápagos khổng lồ xuất hiện trên đảo nhiều vô kể, và những con cự đà biển lớn màu đen có vẻ "kinh tởm nhất, vụng về nhất" thích nghi hoàn hảo với môi trường sống của chúng - ông có ghi rằng một trong số họ gọi chúng là "những con tiểu yêu của bóng tối".[125] Darwin đã học được từ Henslow cách nghiên cứu sự phân bố địa lý của các loài, và đặc biệt là các loài liên kết trên các đảo đại dương và trên các lục địa lân cận, vì vậy ông đã nỗ lực để thu thập thực vật có hoa. Ông tìm thấy những bụi cây mỏng "trông thật tồi tệ" chỉ có mười loài và rất ít côn trùng. Những con chim rất dạn người, và trong ghi chú đầu tiên của mình, ông đã ghi lại rằng một con chim nhại trông giống hệt những con mà ông nhìn thấy trên lục địa.[22][127]
Beagle tiến đến đảo Charles. Tình cờ, họ được chào đón bởi Nicholas Lawson, Thống đốc thay quyền người Anh của Galápagos cho Cộng hòa Xích đạo, người đồng hành cùng họ đến thuộc địa hình sự. Người ta nói rằng mai rùa mỗi đảo mỗi khác, và Darwin ghi chú rằng Lawson có nói là khi nhìn thấy một con rùa, ông có thể "nói một cách chắc chắn từ hòn đảo nào con rùa bị bắt".[128] Mặc dù Darwin nhớ lại về nó sau này, lúc đó ông không chú ý lắm. Tuy nhiên, ông đã tìm thấy một con chim nhại và "may mắn thay đã quan sát" rằng nó khác với mẫu vật của đảo Chatham, vì vậy từ đó đã lưu ý cẩn thận nơi bắt những chim nhại.[22][127] Ông tỉ mỉ thu thập nhiều loài động vật, thực vật, côn trùng và bò sát [129] Ở giai đoạn này, suy nghĩ của ông phản ánh Lyell và từ chối sự biến đổi của các loài.[130]
Họ tới đảo Albemarle, nơi Darwin quan sát được một luồng khói nhỏ phát ra từ một ngọn núi lửa đang hoạt động gần đây. Vào ngày 1 tháng 10, ông thám thính gần Tagus Cove và khám phá miệng núi lửa Beagle.[131] Ở đó, ông nhìn thấy những con cự đà đất Galapagos đầu tiên. Các hố nước không uống được, nhưng đã thu hút được một đàn chim nhỏ và Darwin đã lưu ý đến loài chim sẻ mà ông không bận tâm đặt tên theo đảo.[132] Ông cũng bắt được một loài chim nhại thứ ba.[127]
Sau khi đi qua các hòn đảo phía bắc Abingdon, Tower và Bindloe, Darwin lên bờ tại đảo James trong chín ngày cùng với bác sĩ phẫu thuật Benjamin Bynoe và những người hầu cận của họ, và bận rộn thu thập tất cả các loại mẫu vật trong khi Beagle quay trở lại đảo Chatham để lấy nước ngọt [133]
Sau khi khảo sát kỹ hơn, Beagle lên đường đến Tahiti vào ngày 20 tháng 10 năm 1835. Darwin có ghi lại, và ngạc nhiên trước tất cả những con chim nhại bắt được trên đảo Charles, Albemarle, James và Chatham khác nhau từ đảo này sang đảo khác.[22] Ông đã viết "Loài chim này liên hệ rất chặt chẽ với loài Thenca của Chili (Callandra của B. Ayres) là số ít từ các giống hoặc các loài khác nhau ở các Isds khác nhau. Tôi có bốn mẫu vật từ nhiều Isds. Ở đây có từ 2-3 giống. Mỗi loại giống không đổi ở mỗi Đảo riêng.... ". [134]
Tahiti đến Úc
Họ tiếp tục đi thuyền, ăn tối với món rùa Galapagos và vượt qua đảo san hô Peteen vào ngày 9 tháng 11. Họ đi qua quần đảo Low, Darwin nhận xét rằng chúng có "diện mạo rất buồn tẻ, một bãi biển dài màu trắng rực rỡ được che phủ bởi một thảm thực vật xanh tươi sáng thấp." Cập bến Tahiti vào ngày 15 tháng 10, ông lại cảm thấy vui thú bởi cây cối um tùm và những người bản địa thông minh hiếu khách cho thấy những lợi ích của Kitô giáo, bác bỏ các cáo buộc ông đã đọc về những người truyền giáo chuyên chế đồng hóa nền văn hóa bản địa.[135]
Vào ngày 19 tháng 12, họ đến New Zealand nơi Darwin nghĩ rằng người Māori xăm trổ nơi đây là những kẻ man rợ với tính cách có trật tự thấp hơn nhiều so với người Tahiti, và lưu ý rằng họ và nhà của họ "bẩn thỉu và khó chịu". Ông đã thấy các nhà truyền giáo mang lại sự cải thiện về tính cách cũng như đổi mới phương pháp trồng trọt cho người dân bản địa bằng các mô hình nông trại kiểu Anh. Richard Matthews ở lại đây cùng với anh trai Joseph Matthews, một người truyền giáo tại Kaitaia. Darwin và FitzRoy cùng nhất trí rằng các nhà truyền giáo đã bị xuyên tạc một cách không đúng đắn trong quá khứ, ví dụ như trong một bức tranh được viết bởi nghệ sĩ Augustus Earle mà ông còn để lại trên tàu. Darwin cũng lưu ý có nhiều cư dân người Anh sở hữu tiền sử xấu, bao gồm những người bị kết án bỏ trốn từ New South Wales. Đến ngày 30 tháng 12, ông vui mừng vì cuối cùng cũng được rời khỏi New Zealand.[136]
Cảnh tượng đầu tiên của Úc vào ngày 12 tháng 1 năm 1836 khiến ông nhớ đến Patagonia, nhưng trong nội địa đất nước đã được cải thiện và ông sớm tràn ngập sự ngưỡng mộ thành phố nhộn nhịp Sydney. Trong một hành trình tiến vào nội địa, ông bắt gặp một nhóm thổ dân trông rất "hài hước, thân thiện và họ khác xa những sinh vật đồi bại như thường được miêu tả". Họ biểu diễn màn ném lao cho ông đổi lấy một shilling. Darwin cảm thấy buồn khi nghe rằng dân số bản địa đang tụt giảm nhanh chóng.[137] Tại một trang trại cừu lớn, ông đã tham gia một đội săn bắn và bắt được con thú có túi đầu tiên của mình, một con "potoroo" (chuột túi). Phản ánh về các loài động vật kỳ lạ của đất nước này, ông có suy nghĩ rằng một người không có đức tin "có thể kêu lên 'Chắc hẳn đã phải có hai Đấng Sáng thế khác nhau làm việc, tất nhiên đối tượng của họ vẫn giống nhau và chắc chắn kết cục trong mỗi trường hợp đều đã hoàn tất'," vậy mà một con kiến sư tử trông rất giống với một con ở châu Âu. Tối hôm đó, ông bắt gặp loài thú mỏ vịt thậm chí xa lạ hơn nhiều và nhận thấy rằng mỏ của chúng rất mềm, không giống như các mẫu vật được bảo quản mà ông đã thấy. Những câu chuyện của thổ dân cho hay những con thú đó đẻ trứng được một số ít người châu Âu tin tưởng.[138][139]
Beagle đã ghé thăm Hobart, Tasmania, nơi Darwin bị ấn tượng bởi xã hội văn minh dễ chịu của những người định cư, nhưng lưu ý rằng "Người da đen thổ dân đều bị loại bỏ và giữ (trong thực tế là tù nhân) tại Mũi đất, nơi được bảo vệ cẩn mật. Tôi tin rằng không thể tránh được bước đi tàn khốc này, mặc dù không nghi ngờ gì về hành vi sai trái của người da trắng trước tiên đã dẫn đến Sự cần thiết."[140] Sau đó, họ đi thuyền đến King George Sound ở phía tây nam Úc, một khu định cư ảm đạm sau đó được thay thế bởi Thuộc địa sông Thiên nga. Darwin đã rất ấn tượng bởi "sự bố trí tốt người da đen bản xứ... Mặc dù đúng là những kẻ Man di, ta không thể không thích những người tốt kiêm lời như họ." Ông làm cơm sôi tặng cho một đoàn khiêu vũ "Corrobery" của thổ dân được thực hiện bởi những người đàn ông từ hai bộ lạc với niềm hân hoan lớn từ phụ nữ và trẻ em, một "cảnh man rợ thô lỗ nhất" trong đó mọi người xuất hiện với tinh thần cao độ, "tất cả đều di chuyển trong sự hài hòa gớm ghiếc" và "hoàn toàn thoải mái".[141] Beagle bị mắc cạn sau một cơn bão, được hạ thủy lại rồi tiếp tục cuộc hành trình.
Đảo Keeling và tiến về nhà
Chỉ thị từ Bộ Hải quân yêu cầu một cuộc khảo sát địa chất kỹ lưỡng quanh một rạn san hô vòng để xem chúng hình thành như thế nào, trồi lên từ đáy biển hay từ đỉnh của núi lửa đã tắt, và tác động của thủy triều được đo bằng các đồng hồ chuyên dụng. FitzRoy chọn quần đảo Keeling ở Ấn Độ Dương, và tới đó vào ngày 1 tháng 4, toàn bộ đoàn bắt tay vào công việc.[142] Ở đây chỉ có một số vài loài thực vật bản địa hạn chế và không có chim trên cạn, nhưng rất nhiều cua ẩn sĩ. Các đầm phá có nhiều loài cá và động vật không xương sống phong phú, và ông đã xem xét cấu trúc của đảo san hô theo lý thuyết mà ông đã phát triển ở Lima về việc các rạn san hô trở thành đảo san hô khi hòn đảo bị chìm.[143] Ý tưởng này được ủng hộ từ bằng chứng đo đạc độ sâu của FitzRoy, cho thấy một con dốc lớn bên ngoài rạn san hô không có san hô sống dưới 20–30 sải (40–60 m). [144]
Beagle đến Mauritius vào ngày 29 tháng 4 năm 1836, Darwin bị ấn tượng bởi sự thịnh vượng của thuộc địa Anh này từng nằm dưới sự cai trị của Pháp. Ông tham quan hòn đảo, xem xét các ngọn núi lửa và các rạn san hô bao quanh nó. Chỉ huy đội khảo sát Lloyd cho ông lên con voi duy nhất trên đảo để đi xem một đồng bằng san hô trên cao.[139][145] Lúc đó, FitzRoy đang viết bài tường thuật chính thức về các chuyến đi của Beagle, và sau khi đọc nhật ký của Darwin, ông đề xuất đưa nó vào ghi chép, một gợi ý mà Darwin đã thảo luận với gia đình.[146]
Beagle đến Mũi Hảo vọng vào ngày 31 tháng 5. Tại Cape Town, Darwin nhận được một lá thư từ ngày 29 tháng 12 từ người chị gái Caroline nói rằng danh tiếng của ông đang lan rộng. Vào ngày 18 tháng 11 năm 1835, Sedgwick đọc các trích dẫn từ các ghi chú địa chất của Darwin cho Hiệp hội Địa chất Luân Đôn, và báo cáo trên tờ The Athenæum vào ngày 21 tháng 11. Vào ngày 25 tháng 12, cha của họ nhận được một lá thư từ Henslow nói rằng Darwin sẽ trở thành một trong những nhà tự nhiên học hàng đầu thời bấy giờ, và gửi kèm một số bản sao của cuốn sách trích các bức thư của Darwin về địa chất Nam Mỹ đã được in để phát hành riêng. Cha của họ "đã không rời khỏi chỗ ngồi của mình cho đến khi ông ấy đọc xong từng chữ trong cuốn sách của cậu và ông ấy đã rất hài lòng - ông ấy rất thích cách khiêm tốn rành mạch mà cậu cung cấp thông tin của mình".[147][148] Darwin rất ngạc nhiên vì những lời nói bất cẩn của mình đã được in ra, nhưng thôi thì đành kệ.[149] Ông đã khám phá địa chất của khu vực, đưa ra kết luận về sự hình thành đá phiến và việc phun các vỉa đá granit thành chất lỏng khác với ý tưởng của Lyell và Sedgwick. Nhà động vật học Andrew Smith cho ông xem các thành hệ, và thảo luận về các loài động vật lớn sống trên thảm thực vật thưa thớt, chứng tỏ việc thiếu cây cối um tùm không giải thích được sự tuyệt chủng của các sinh vật khổng lồ ở Nam Mỹ.[150]
Khoảng ngày 15 tháng 6, Darwin và FitzRoy đã đến thăm nhà thiên văn học nổi tiếng Ngài John Herschel. Trong nhật ký, Darwin gọi đây là "sự kiện đáng nhớ nhất mà trong một thời gian dài, tôi đã có may mắn được tận hưởng." Niềm đam mê khoa học của ông được khuấy động tại Cambridge khi đọc cuốn sách của Herschel về triết học khoa học, cuốn sách đã định hướng cho lý thuyết của ông trong chuyến đi.[150] Cuộc thảo luận của họ không được ghi lại, nhưng vài tháng trước đó, vào ngày 20 tháng 2 năm 1836, Herschel đã viết thư cho Lyell ca ngợi cuốn Nguyên tắc địa chất của ông như một công trình sẽ mang lại "một cuộc cách mạng trong chủ đề [của nó], bằng cách thay đổi hoàn toàn quan điểm từ nay về sau phải được suy ngẫm" và mở ra một hướng suy đoán táo bạo về "bí ẩn của những bí ẩn, sự thay thế các loài đã tuyệt chủng bởi những loài khác." Bản thân Herschel cho rằng thảm họa tuyệt chủng và đổi mới (thuyết thảm họa) là "một quan niệm không đầy đủ về Đấng Tạo Hóa", và bằng cách tương tự với các định luật khác "sự khởi nguồn của các loài mới, có khi nào nó xuất hiện dưới sự nhận thức của chúng ta, sẽ được coi là tự nhiên trái ngược với điều kỳ diệu quy trình".[151]
Vào ngày 8 tháng 7, họ dừng chân ở St. Helena trong sáu ngày. Darwin thuê phòng trọ gần lăng mộ của Napoléon, và khi viết thư cho Henslow yêu cầu được đề xuất cho Hiệp hội Địa chất, ông đã đề cập đến những nghi ngờ của mình "khác với hầu hết các đảo núi lửa. Cấu trúc của nó khá phức tạp. Có vẻ kỳ lạ, trung tâm nhỏ bé này của một sự sáng tạo khác biệt này, theo như người ta tưởng, lại có dấu vết của sự nâng lên gần đây,"[150][153] Với người dẫn đường, ông lang thang trên đảo, nhận thấy các địa tầng dốc phức tạp cho thấy các đường đứt gãy, xen kẽ với các đê núi lửa. Ông xem xét những thềm cao trên ngọn đồi cho thấy St. Helena đã trồi lên từ đại dương trong thời gian gần đây. Ông lưu ý rằng đất rừng đã bị phá hủy bởi dê và lợn, những loài đã chạy hoang dã kể từ khi du nhập vào năm 1502, [154] và thảm thực vật bản địa chỉ chiếm ưu thế trên các rặng núi dốc cao, đã bị thay thế bởi các loài nhập nội. [155]
Vào giai đoạn này, Darwin rất quan tâm đến địa lý sinh học của hòn đảo, và mô tả của ông về St Helena như "một trung tâm nhỏ của sự sáng tạo" trong nhật ký địa chất của ông phản ánh suy đoán của Charles Lyell trong Tập 2 của Nguyên tắc Địa chất rằng hòn đảo sẽ hoạt động như một "tập trung của lực lượng sáng tạo”.[150] Sau đó, ông có nhớ lại rằng mình vẫn tin sự vĩnh cửu của các loài, nhưng "theo như tôi có thể nhớ, những nghi ngờ mơ hồ thỉnh thoảng hiện lên trong đầu tôi".[156] Khi còn đang hoàn thiện Ornithological Notes của ông giữa tháng 6 và tháng 8,[157] Darwin đã mở rộng các ghi chú ban đầu về loài chim nhại Galapagos Mimus thenca.[22]
Beagle đến Đảo Ascension vào ngày 19 tháng 7 năm 1836, và Darwin rất vui khi nhận được thư từ các chị gái của mình với tin tức rằng Sedgwick đã viết "Anh ấy đang làm việc rất đáng ngưỡng mộ ở Nam Mỹ, và đã gửi về nhà một Bộ sưu tập rất đáng khen ngợi.— Điều tuyệt vời nhất trên đời đối với anh ấy là đã đi đây đi đó trong Chuyến du hành khám phá— Có một số rủi ro sẽ khiến anh ấy trở thành một người đàn ông nhàn rỗi: nhưng tính cách của anh ấy bây giờ sẽ được sửa đổi và nếu Chúa cầu phúc cho anh ấy, anh ấy sẽ thành người nổi tiếng theo chủ nghĩa Tự nhiên của Châu Âu."[161] Darwin sau này nhớ lại cách ông "leo qua những ngọn núi ... với một bước chân nhảy vọt và khiến những tảng đá núi lửa vang lên dưới cây búa địa chất của tôi!"[162] Ông đồng ý với câu tục ngữ của dân đảo St. Helena rằng "Chúng tôi biết mình đang sống trên một tảng đá, nhưng những người đáng thương ở Ascension sống trên một cục than xỉ", và ông có để ý những khó khăn trong việc bảo quản "những ngôi nhà, khu vườn và cánh đồng đặt gần đỉnh núi trung tâm".[163] (Vào những năm 1840, Darwin đã từng làm việc với Hooker, người đề xuất vào năm 1847 rằng Hải quân Hoàng gia Anh nên nhập khẩu các loài cây, một dự án bắt đầu từ năm 1850 dẫn đến việc tạo ra một khu rừng mây nhân tạo trên đỉnh Núi Xanh.[164])
Vào ngày 23 tháng 7, họ lại lên đường với mong muốn về đến nhà, nhưng FitzRoy muốn đảm bảo độ chính xác của các phép đo kinh độ của mình nên lái con tàu vượt Đại Tây Dương trở lại Bahia ở Brazil để kiểm tra các kết quả đo. Darwin rất vui khi được nhìn thấy vẻ đẹp của khu rừng lần cuối, nhưng giờ đây ông so sánh nó với "những cây Xoài đẹp đẽ với những cây Hạt dẻ ngựa của nước Anh."[165] Chuyến trở về bị trì hoãn thêm 11 ngày khi thời tiết buộc Beagle phải trú ẩn ở Pernambuco, nơi Darwin đã kiểm tra địa chất để tìm dấu hiệu của sự nâng đất, ghi nhận "Rừng ngập mặn giống như cỏ có hạng" và nghiên cứu động vật không xương sống biển ở nhiều độ sâu khác nhau trên bãi cát. Beagle khởi hành về nhà vào ngày 17 tháng 8.[150] Sau khi vượt qua giông bão bao gồm cả điểm dừng tiếp tế tại Azores, tàu Beagle cập bến Anh vào ngày 2 tháng 10 năm 1836, và thả neo tại Falmouth, Cornwall.[166] Một tấm bảng kỷ niệm điểm trở về được đặt ở Falmouth.
Ghi chú
Chú thích
Tham khảo
Charles Darwin
Khoa học thập niên 1830
Argentina năm 1833
Lịch sử sinh học tiến hóa
|
2267868
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachythecium%20kamounense
|
Brachythecium kamounense
|
Brachythecium kamounense là một loài Rêu trong họ Brachytheciaceae. Loài này được (Harv.) A. Jaeger mô tả khoa học đầu tiên năm 1878.
Chú thích
Liên kết ngoài
Brachythecium
Thực vật được mô tả năm 1878
|
1904280
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thryptomene%20australis
|
Thryptomene australis
|
Thryptomene australis là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được Endl. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1838.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thryptomene
Thực vật được mô tả năm 1838
|
2594883
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anonychia%20rostrifera
|
Anonychia rostrifera
|
Anonychia rostrifera là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Anonychia
|
19200780
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0%C6%A1ng%20qu%E1%BB%91c%20Daju
|
Vương quốc Daju
|
Vương quốc Daju là một nền quân chủ thời Trung Cổ tồn tại ở Darfur, Sudan từ thế kỷ 12 đến thế kỷ 15. Tên gọi vương quốc bắt nguồn từ tên của nhóm sắc tộc cầm quyền cùng tên. Dân tộc Daju cuối cùng đã bị người Tunjur đánh bại, khiến vị vua cuối cùng của họ phải trốn chạy sang Chad ngày nay. Các nguồn thông tin về vương quốc Daju gần như hoàn toàn được truyền miệng và được thu thập trong thế kỷ 19 và 20. Chúng cũng được đề cập bởi các nhà sử học Ả Rập thời Trung Cổ.
Lịch sử
Dựa trên truyền thống truyền miệng, người Daju di cư đến Darfur từ phía đông hoặc phía nam, rất có thể là vùng Shendi ở Nubia. Các ngôn ngữ Daju có sự tương đồng lớn với tiếng Nobiin, chia sẻ chung từ 10 đến 25% vốn từ vựng. Nhà nghiên cứu Arkell tuyên bố rằng đồ gốm Daju hầu như không có sự khác biệt với các sản phẩm được chế tác ở Vương quốc Kush cổ. Khi đến Darfur, người Daju có lẽ đã thay thế văn hóa Tora địa phương.
Sau khi kiến lập vương quốc ở phía nam Jebel Marra, người Daju thiết lập ảnh hưởng lên các khu vực lân cận ở phía nam và đông nam. Từ thế kỷ thứ 12, họ bắt đầu được một số nhà sử học Ả Rập đương thời nhắc đến. Đầu tiên là al-Idrisi đến từ Sicilia, đã ghi chép vào năm 1154 rằng Vương quốc Daju, nằm giữa các vương quốc Kanem và Nubia, đã phát triển mạnh mẽ. Bị cho là kāfir ("người ngoại đạo"), người Daju trở thành đối tượng tấn công của các quốc gia Hồi giáo láng giềng. Ông cũng tuyên bố rằng trên thực tế họ là những người du mục nuôi lạc đà, chỉ sống trong hai thị trấn tên là Tajuwa và Samna. Thị trấn thứ hai mà theo ông tuyên bố về sau bị phá hủy bởi một thống đốc người Nubia.
Hơn một thế kỷ sau, Ibn Sa'id ghi lại rằng người Daju đã bị Hồi giáo hóa một phần, đồng thời nói thêm rằng họ đã trở thành chư hầu của Kanem. Arkell giả định rằng Kanem không chỉ hợp nhất Darfur vào thời điểm này, mà còn mở rộng lãnh thổ đến tận phía đông, tại Thung lũng sông Nin. Đế chế rộng lớn này bắt đầu sụp đổ sau cái chết của Dunama Dabbalemi. Dù vậy, lý thuyết này vẫn còn gây tranh cãi. Al-Maqrizi, sống vào cuối thế kỷ 14 và đầu thế kỷ 15, đồng ý với quan điểm của Ibn Sa'id. Ông cũng bổ sung rằng người Daju chế tác đồ vật bằng đá và tiến hành chiến tranh chống lại một bộ tộc vô danh khác tên là Watkhu.
Vào thế kỷ 15, người Tunjur đặt chân đến Darfur, định cư ở vùng phía bắc Jebel Marra và cai trị đồng thời với người Daju một thời gian. Cuối cùng, họ đã nắm hoàn toàn quyền lực dù không rõ trong hoàn cảnh nào, khiến vị vua Daju cuối cùng, tên được ghi nhận chủ yếu theo truyền thống địa phương là Ahmad al-Daj, phải chạy trốn đến Chad ngày nay, nơi những người kế vị ông xưng là sultan của Dar Sila. Những người Daju ở Dar Sila ngày nay cho rằng tổ tiên họ đã di cư từ Darfur đến Chad vào thế kỷ 18, nhưng điều này thiếu chính xác vì quá muộn nếu xét về mặt lịch sử. Thay vào đó, Balfour Paul cho rằng cuối thế kỷ 15 là thời điểm thích hợp hơn.
Cai trị
Rene Gros tin rằng vương quốc Daju khá nguyên thủy trong việc tổ chức, chủ yếu dựa vào sự kiểm soát của quân đội. Chỉ đến khi người Tunjur cai trị, tổ chức nhà nước phức tạp mới bắt đầu xuất hiện. Triều đại Daju không được đánh giá tích cực trong lịch sử Darfur vì nó bị coi là một nhà nước chuyên chế. Theo dân chúng địa phương, vua Daju là những kāfir ("người ngoại đạo"), thiếu hiểu biết và là những kẻ đột kích của vùng đồng bằng bên ngoài Jebel Marra. Có thể các vị vua Daju có vị trí linh thiêng. Nhà vua sẽ không thể hiện mình trước công chúng và ông ta sẽ được cho là có khả năng ma thuật. Danh hiệu của nhà vua có lẽ là Bugur, một biến thể của thuật ngữ Daju hiện đại Buge ("sultan/tù trưởng"). Mỗi vị vua có cung điện nguy nga được xây cho riêng mình. Sau khi băng hà, các vị vua Daju có thể đã được chôn cất gần vùng hồ Dereiba trên đỉnh Gebel Marra, từng là địa điểm hành hương và hoạt động nghi lễ tiên tri cho đến thế kỷ 20.
Quan hệ thương mại và văn hóa với Nubia cổ
Vào thế kỷ thứ 12, thương nhân Do Thái Benjamin xứ Tudela đã ghi chép về việc vương quốc Alodia của người Nubia duy trì một mạng lưới giao dịch thương mại có điểm cuối ở Zwila, Libya, cho thấy rằng con đường thương mại đã đi qua Darfur. Hai mảnh gốm mang hình ảnh Thiên chúa (Ichthys) ở Nubia, được chế tác vào khoảng từ giữa thế kỷ thứ 6 đến năm 1100, được cho là phát hiện ở Ain Farah. Có ý kiến cho rằng các khía cạnh của văn hóa Nubia thời Trung Cổ, ví dụ như việc sử dụng ví tiền trong tài sản của vua chúa, đã được truyền đến bồn địa Chad qua khu vực Darfur.
Tham khảo
Thư mục
Darfur
Lịch sử Sudan
Quốc gia châu Phi trung cổ
Cựu quốc gia quân chủ Châu Phi
Quốc gia và vùng lãnh thổ khởi đầu thế kỷ 12
Khởi đầu thế kỷ 12 ở châu Phi
Chấm dứt thế kỷ 15 ở châu Phi
Vương quốc Sahel
|
851761
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/12372%20Kagesuke
|
12372 Kagesuke
|
12372 Kagesuke (1994 JF) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 6 tháng 5 năm 1994 bởi T. Kobayashi ở Oizumi.
Tham khảo
Liên kết ngoài
JPL Small-Body Database Browser ngày 12372 Kagesuke
Tiểu hành tinh vành đai chính
Thiên thể phát hiện năm 1994
|
19642303
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bawku
|
Bawku
|
Bawku là một thị trấn thuộc vùng Thượng Đông, Ghana, nằm gần biên giới với Burkina Faso. Theo thống kê năm 2012, dân số thị trấn là 69.527 người.
Kinh tế
Bawku bao gồm các chi nhánh của Ngân hàng Thương mại Ghana (GCB) và Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Ghana (ADB).
Tham khảo
Liên kết ngoài
Khu dân cư ở vùng Thượng Đông
|
3276252
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BB%8F%20New%20Zealand%20%C4%91%E1%BB%8F
|
Thỏ New Zealand đỏ
|
Thỏ New Zealand đỏ là một giống thỏ có nguồn gốc từ Mỹ, mặc dù tên gọi của chúng chỉ về New Zealand. Thỏ New Zealand đỏ là một con thỏ lấy thịt tuyệt vời với một nguồn cấp dữ liệu cao tỷ lệ thịt với xương tốt. Kích thước xuất chuồng là 8-12 tuần. Trọng lượng của nó là 4–5 kg (10-12 pounds). Chúng có thể đẻ con lên đến mười lăm con tại một thời điểm. Số lượng bình thường là 7-8 con tên một lứa đẻ. Thỏ Czech đỏ là một giống thỏ có nguồn gốc từ thỏ đỏ New Zealand. Thỏ New Zealand trắng cũng là một giống có nguồn gốc từ thỏ đỏ New Zealand.
Đặc điểm
Đây là một giống thỏ có nhiều ưu điểm hơn so với các giống thỏ thông thường khác như khả năng sinh trưởng và phát triển nhanh, sinh sản nhiều, thịt thơm ngon, hấp dẫn. Chúng sinh trưởng nhanh, thành thục sớm, nhiều thịt, phù hợp với phương thức chăn nuôi công nghiệp và gia đình. Thích nghi với nhiều vùng sinh thái khác nhau. Chỉ cần diện tích đất 130m2 có thể xây dựng được hệ thống chuồng trại quy mô khoảng 600 con. Phối giống, thỏ này được phối giống với thỏ mắt ngọc ở địa phương. Kết quả là đàn thỏ lai lớn nhanh lại ít bệnh so với giống thỏ mắt ngọc thịt thỏ lai ngon.
Khối lượng qua các tháng tuổi
Chăn nuôi
Thỏ này ăn thức ăn được chia làm hai loại là thức ăn thô và thức ăn tinh. Thức ăn thô là cỏ, rau, củ, quả. Vì là động vật gặm nhấm nên thức ăn thô của thỏ chiếm 70-80% khẩu phần thức ăn hàng ngày, lượng cho ăn vào ban đêm nhiều gấp 2-3 lần ban ngày. Thức ăn tinh bao gồm các loại hạt chính phẩm hay phế phụ phẩm nông nghiệp như ngô, khoai, sắn, cám ngô, cám gạo. Thỏ con khi nuôi từ vài tuần đến 4 tháng chỉ cần cho ăn cám viên là đủ. Ăn thêm rau cỏ thỏ dễ bị tiêu chảy và chết.
Khi thỏ trưởng thành sức đề kháng tốt hơn thể cho ăn thêm rau, cỏ đã rửa sạch sẽ và để ráo nước. Hàng ngày nên cho thỏ ăn 2 bữa rau, 1 bữa cám để tăng lượng tinh bột. đối với thỏ sinh sản và thỏ con nên hạn chế cho ăn cám vì không tốt cho sức khỏe, nên tăng cường nhiều rau xanh. Thức ăn viên phải đảm bảo thành phần dinh dưỡng cho thỏ tăng trưởng theo thời gian nuôi:
Thỏ con nuôi đến trưởng thành: 8 - 10% protein, 2 - 4% lipid, 10 - 20% glucid và trên 4 tháng tuổi một ít chất xơ.
Thỏ có thai và cho con bú: 10 - 15% protein, 5 - 7% lipid, 10 - 20% glucid và thức ăn xanh.
Thỏ lứa: 30 - 50g cám viên, mỗi ngày chia làm 2 lần và thức ăn xanh.
Thỏ đực giống, cái nuôi con và mang thai: 80 - 100g cám viên và thức ăn xanh.
Một số bệnh thỏ thường mắc phải như: bệnh bại huyết; bệnh tụ huyết trùng; bệnh cầu trùng, bệnh tiêu chảy; bệnh nấm ngoài da với các bệnh như trên cần thực hiện theo đúng các quy trình phòng bệnh và sử dụng các loại thuốc đặc trị như thuốc Biseptol trị tiêu chảy, thuốc Griseofulvin trị nấm, thuốc Ampicoli trị tụ huyết trùng… nhìn chung, khả năng kháng bệnh của thỏ khá cao, nên rủi ro thấp trong chăn nuôi.
Tham khảo
Storey's guide to Raising Rabbits/ Bennett, Bob c.2009, Storey Publishing, p. 214
Standard van de in Nederland erkende Konijnenrassen, Cavia´s en kleine Knaagdieren. Nederlandse Konijnenfokkersbond, Venlo 1990.
Friedrich Karl Dorn und Günther März: Rassekaninchenzucht. 5. Auflage. Neumann-Verlag, Leipzig-Radebeul 1981.
Friedrich Joppich: Das Kaninchen. VEB Deutscher Landwirtschaftsverlag, Berlin 1967.
John C. Sandford: The domestic rabbit. 5. Auflage. Blackwell Science, Oxford 1996, ISBN 0-632-03894-2.
Wolfgang Schlohlaut: Das große Buch vom Kaninchen. 2. Auflage. DLG-Verlag, Frankfurt 1998, ISBN 3-7690-0554-6.
Chú thích
Liên kết ngoài
описание породы на www.kleintiernews.de
обсуждение породы «Новозеландский Красный» на www.fermer.ru
обсуждение породы «Новозеландский Красный» на Украинском Сайте Кролиководов
подробное описание породы на немецком языке
Giống thỏ
|
1899516
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Merostachys%20fimbriata
|
Merostachys fimbriata
|
Merostachys fimbriata là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được Send. mô tả khoa học đầu tiên năm 1997.
Chú thích
Liên kết ngoài
Merostachys
Thực vật được mô tả năm 1997
|
330049
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Beaumont-du-Ventoux
|
Beaumont-du-Ventoux
|
Beaumont-du-Ventoux là một xã của tỉnh Vaucluse, thuộc vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur, miền đông nam nước Pháp.
Tham khảo
Xã của Vaucluse
|
2546673
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acronia%20alboplagiata
|
Acronia alboplagiata
|
Acronia alboplagiata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Acronia
|
13479062
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eus%C3%A9bio%20Oscar%20Scheid
|
Eusébio Oscar Scheid
|
Eusébio Oscar Scheid, S.C.I. (1932-2021) là một Hồng y người Brazil của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ Ss. Bonifacio ed Alessio. Ông từng đảm nhận vai trò Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận São Sebastião do Rio de Janeiro từ năm 2001 đến năm 2009 và Thường vụ Đại diện các Giáo hội Công giáo Phương Đông tại Brazil từ năm 2001 đến năm 2009.
Vốn là một giáo sĩ trong vai trò lãnh đạo giáo hội địa phương, ông từng đảm trách nhiều vai trò tại Brazil trước khi tiến đến trở thành Tổng giám mục São Sebastião do Rio de Janeiro như: Giám mục chính tòa Giáo phận São José dos Campos (1981–1991), Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Florianópolis (1991–2001). Ông được vinh thăng Hồng y ngày 21 thăng 10 năm 2003, bởi Giáo hoàng Gioan Phaolô II.
Tiểu sử
Hồng y Eusébio Oscar Scheid sinh ngày 8 tháng 12 năm 1932 tại Luzerna, Brazil. Sau quá trình tu học dài hạn tại các cơ sở chủng viện theo quy định của Giáo luật, ngày 3 tháng 7 năm 1960, Phó tế Scheid, 28 tuổi, tiến đến việc được truyền chức linh mục. Cử hành nghi thức truyền chức cho tân linh mục là giám mục Inácio João Dal Monte, O.F.M. Cap., Giám mục chính tòa Giáo phận Guaxupé, Minas Gerais. Tân linh mục là thành viên linh mục đoàn Dòng Linh mục Thánh Tâm Chúa Giêsu (Congregation of the Priests of the Sacred Heart, viết tắt là S.C.I).
Sau hơn 20 năm thi hành các công việc mục vụ với thẩm quyền và cương vị của một linh mục, ngày 11 tháng 2 năm 1981, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã quyết định tuyển chọn linh mục Eusébio Oscar Scheid, 49 tuổi, gia nhập Giám mục đoàn Công giáo Hoàn vũ, với vị trí được bổ nhiệm là Giám mục chính tòa Giáo phận São José dos Campos, Sao Paulo. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân cử nhanh chóng được tổ chức sau đó vào ngày 1 tháng 5 cùng năm, với phần nghi thức chính yếu được cử hành cách trọng thể bởi 3 giáo sĩ cấp cao, gồm chủ phong là Tổng giám mục Carmine Rocco, Sứ thần Tòa Thánh tại Brazil; hai vị giáo sĩ còn lại, với vai trò phụ phong, gồm có Tổng giám mục Geraldo María de Morais Penido, Tổng giám mục phó Tổng giáo phận Aparecida, Sao Paulo và giám mục Honorato Piazera, S.C.I, giám mục chính tòa Giáo phận Lages, Santa Catarina. Tân giám mục chọn cho mình khẩu hiệu: DEUS É BOM.
Sau khoảng thời gian 10 năm sau khi được tấn phong và cai quản São José dos Campos, Giám mục Eusébio Oscar Scheid được Tòa Thánh thăng Tổng giám mục, qua việc bổ nhiệm giám mục này làm Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Florianópolis, Santa Catarina. Thông báo về việc bổ nhiệm này được công bố cách rộng rãi vào ngày 23 tháng 1 năm 1991.
Lại sau khoảng thời gian 10 năm đảm nhiệm vai trò mới tại Florianópolis, Tòa Thánh quyết định thuyên chuyển Tổng giám mục Scheid qua việc bổ nhiệm giám mục này làm Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận São Sebastião do Rio de Janeiro. Thông báo về việc bổ nhiệm này được công bố cách rộng rãi vào ngày 25 tháng 7 năm 2001. Từ ngày 3 tháng 10 năm 2001, ông kiêm nhiệm thêm vai trò Thường vụ các Giáo hội Công giáo Đông phương tại Brazil.
Bằng việc tổ chức công nghị Hồng y năm 2003 được cử hành chính thức vào ngày 21 tháng 10, Giáo hoàng Gioan Phaolô IIđưa ra quyết định vinh thăng Tổng giám mục Eusébio Oscar Scheid tước vị danh dự, Hồng y. Tân Hồng y thuộc Đẳng Hồng y Linh mục và Nhà thờ Hiệu tòa được chỉ định là Nhà thờ Ss. Bonifacio ed Alessio. Ông đã đến cử hành các nghi thức nhận nhà thờ hiệu tòa của mình vào ngày 14 tháng 6 năm 2004.
Ngày 27 tháng 2 năm 2009, Tòa Thánh chấp thuận đơn xin hồi hưu của ông, vì lý do tuổi tác, theo Giáo luật. Riêng chức danh Thường vụ các Giáo hội Công giáo Đông phương tại Brazil, ông đảm nhận đến ngày 28 tháng 7 năm 2010. Ông qua đời do nhiễm Covid-19 vào ngày 13 tháng 1 năm 2021.
Tham khảo
Sinh năm 1932
Hồng y Brasil
Mất năm 2021
Giám mục Công giáo thế kỉ 20
Giám mục Công giáo thế kỉ 21
Hồng y do Giáo hoàng Gioan Phaolô II bổ nhiệm
|
1752440
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%E1%BA%A1c%20tr%C6%B0%E1%BB%9Fng
|
Nhạc trưởng
|
Nhạc trưởng (còn gọi là chỉ huy âm nhạc) là người lãnh đạo, hướng dẫn một dàn nhạc hoặc một nhóm các ca sĩ để thể hiện một tác phẩm âm nhạc tốt nhất. Nhạc trưởng làm việc ở nhà hát hoặc sân khấu kịch, hãng phim hoặc truyền hình. Họ phụ trách dàn nhạc hoặc dàn hợp xướng chính, nghiệp dư hay chuyên nghiệp. Trong các ca đoàn nhà thờ, nhạc trưởng thường được gọi là ca trưởng.
Chú thích
Âm nhạc
Nhạc cổ điển
|
1277030
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lidzbarski
|
Lidzbarski
|
Lidzbarski là một huyện thuộc tỉnh Warmińsko-Mazurskie của Ba Lan. Huyện có diện tích 925 km². Đến ngày 1 tháng 1 năm 2011, dân số của huyện là 42359 người và mật độ 46 người/km².
Tham khảo
Huyện của Warmińsko-Mazurskie
|
2294819
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Corryocactus%20quivillanus
|
Corryocactus quivillanus
|
Corryocactus quivillanus là một loài thực vật có hoa trong họ Cactaceae. Loài này được F.Ritter mô tả khoa học đầu tiên năm 1981.
Chú thích
Liên kết ngoài
Corryocactus
Thực vật được mô tả năm 1981
|
2248423
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Carludovica%20palmata
|
Carludovica palmata
|
Carludovica palmata là một loài thực vật có hoa trong họ Cyclanthaceae. Loài này được Ruiz & Pav. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1798.
Chú thích
Liên kết ngoài
Carludovica
Thực vật được mô tả năm 1798
Thực vật Trung Mỹ
Thực vật Nam Mỹ
|
2028664
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cordia%20troyana
|
Cordia troyana
|
Cordia troyana là loài thực vật có hoa trong họ Mồ hôi. Loài này được Urb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1908.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cordia
Thực vật được mô tả năm 1908
|
700574
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Assiminea%20avilai
|
Assiminea avilai
|
Assiminea avilai là một loài ốc có mài nhỏ, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển trong họ Assimineidae.
Chú thích
Tham khảo
Assiminea
|
658493
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euploea%20swainson
|
Euploea swainson
|
Euploea swainson là một loài Bướm giáp thuộc phân họ Danainae. Nó được tìm thấy ở Indonesia và Philippines.
Nguồn
Lepidoptera Specialist Group 1996. Euploea swainson. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2007.
Chú thích
Tham khảo
Euploea
|
1593329
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bilenahalli%2C%20Arsikere
|
Bilenahalli, Arsikere
|
Bilenahalli là một làng thuộc tehsil Arsikere, huyện Hassan, bang Karnataka, Ấn Độ.
Tham khảo
Hassan (huyện)
|
2762471
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Peremptor%20modicus
|
Peremptor modicus
|
Peremptor modicus là một loài ruồi trong họ Tachinidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Peremptor
|
2659031
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenalcidia%20udeisata
|
Stenalcidia udeisata
|
Stenalcidia udeisata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Stenalcidia
|
2304450
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Veronicastrum%20longispicatum
|
Veronicastrum longispicatum
|
Veronicastrum longispicatum là một loài thực vật có hoa trong họ Mã đề. Loài này được (Merr.) T. Yamaz. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1957.
Chú thích
Liên kết ngoài
Veronicastrum
Thực vật được mô tả năm 1957
|
242312
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Azerbaijan%20Airlines
|
Azerbaijan Airlines
|
Azerbaijan Airlines (viết tắt AZAL, tiếng Azerbaijan: Azerbaycan Hava Yollan) là hãng hàng không quốc gia của Azerbaijan, trụ sở tại Baku. Hãng có trụ sở chính ở Sân bay quốc tế Heydar Aliyev (Baku).
Lịch sử
Azerbaijan Airlines được thành lập năm 1992 và bắt đầu hoạt động từ ngày 7.4.1992. Hiện nay hãng có các tuyến bay chở khách cũng như hàng hóa trong quốc nội và quốc tế từ Baku tới Cộng đồng các Quốc gia Độc lập, châu Âu, Trung quốc và vùng Trung Đông. Azerbaijan Airlines cũng làm chủ hãng Azal Avia Cargo
Các nơi đến
Các nơi đến của Azerbaijan Airlines (tháng 10/2007)
châu Á
Afghanistan
Kabul
Azerbaijan
Baku
Ganja
Nakhchivan
Lankaran
Zaqatala
Các Tiểu vương quốc Ả rập Thống nhất
Dubai
Gruzia
Tbilisi
Iran
Tehran
Israel
Tel Aviv
Kazakhstan
Aqtau
Thổ Nhĩ Kỳ
Ankara
Antalya
Istanbul
Trung quốc
Urumqi
châu Âu
Belarus
Minsk
Nga
Mineralnye Vody
Moskva
Nizhny Novgorod
Sankt-Peterburg
Pháp
Paris
Ukraina
Kiev
Vương quốc Anh
London
Ý
Milano
Đội máy bay
1 Airbus A319CJ
3 Airbus A319-100
1 Airbus A320-200
1 Antonov An-26B
1 ATR 42-500 (+ 1 order)
1 ATR 72-500 (+ 4 orders)
1 Boeing 727-200
4 Boeing 757-200
2 Eurocopter AS 332L1 Super Puma
4 Eurocopter EC 155 B1
2 Tupolev Tu-134A
6 Tupolev Tu-134B
2 Tupolev Tu-154B
3 Tupolev Tu-154B-2
2 Tupolev Tu-154M
5 Yakovlev Yak-40
Antonov An-140-100 (1 order)
Boeing 737-900 (2 orders)
Boeing 787 (3 orders)
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức
Hãng hàng không Azerbaijan
Khởi đầu năm 1992 ở Azerbaijan
Công ty nhà nước Azerbaijan
Công ty đặt trụ sở chính tại Baku
|
1063865
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phonapate%20nitidipennis
|
Phonapate nitidipennis
|
Phonapate nitidipennis là một loài bọ cánh cứng trong họ Bostrichidae. Loài này được Waterhouse miêu tả khoa học năm 1881.
Chú thích
Tham khảo
Phonapate
|
1899317
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eria%20erythrosticta
|
Eria erythrosticta
|
Eria erythrosticta là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Ridl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1917.
Chú thích
Liên kết ngoài
E
Thực vật được mô tả năm 1917
|
1447458
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Su%E1%BB%91i%20C%E1%BA%A7u%20Tri%E1%BB%81n
|
Suối Cầu Triền
|
Suối Cầu Triền (tên khác: Ngòi Cái) là một con suối đổ ra Sông Công. Suối có chiều dài 14 km và diện tích lưu vực là 36 km². Suối Cầu Triền chảy qua các tỉnh Hà Nội, Thái Nguyên.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Hệ thống sông Thái Bình
Cầu Triền
Cầu Triền
|
790993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anatoma%20boucheti
|
Anatoma boucheti
|
Anatoma boucheti là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Scissurellidae.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Anatoma
|
3227172
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%B0%C6%A1u%20sao%20S%C6%A1n%20T%C3%A2y
|
Hươu sao Sơn Tây
|
Hươu sao Sơn Tây (Danh pháp khoa học: Cervus nippon grassianus) là một phân loài của loài hươu sao phân bố ở tỉnh Sơn Tây thuộc Trung Quốc, chúng được coi là có thể bị tuyệt chủng giống như một số phân loài khác của loài hươu sao.
Đặc điểm
Hươu sao Sơn Tây là một trong những phân loài lớn nhất của loài hươu sao, chúng cao từ 105–110 cm tính đến vai và nặng 100 kg. Màu sắc chủ đạo của chúng là nâu hoặc xám đen, và có màu nâu trên mặt sau của chân. Các điểm là gần như mờ. Hươu sao Sơn Tây được tìm thấy trước đó trong hai quần thể trong khu rừng núi cao của dãy núi ở phía tây Luliang thuộc Sơn Tây, trong khi phạm vi của nó có thể lớn hơn gấp nhiều lần trong lịch sử, gồm toàn bộ cao nguyên hoàng thổ.
Hiện chưa có dấu hiệu của sự phân loài trong nhiều thập kỷ và hiện nay được cho là đã tuyệt chủng, mặc dù chưa có cuộc điều tra thực tế đã được thực hiện. Mặc dù nhiều cá thể vẫn còn được nuôi trong trang trại một các thuần chủng như một giống vật nuôi, không có đủ môi trường sống trong tự nhiên.
Đặc điểm chung
Mô tả chung
Nhìn chung, chúng có thể chất nhẹ nhàng, cân đối, chân dài và mảnh. Đầu nhỏ, cổ dài, tai thường dài hơn đuôi. Bộ lông nhìn chung có màu vàng đậm, con cái nhạt hơn và con đực thẫm hơn. Trên nền vàng đỏ rải rác những đốm trắng, sạch gọi là “sao”. Độ lớn của những sao này nhỏ về phía lưng và lớn hơn về phía bụng. Những sao ở hai bên sống lưng tạo thành hai hàng vạch dọc, còn các sao ở mình không có hàng rõ rệt. Từ gáy đến cổ và dọc trên sống lưng có một đường chỉ thẫm, mút đuôi có lông màu trắng, mặt dưới đuôi trần. ở phía dưới gốc đuôi và mặt sau của đùi có những sợi lông trắng dài 4 – 6 cm kết hợp tạo thành cái gọi là “gương”. “Gương” này có hình tam giác, chỉ những khi xúc cảm, những lông của “gương” này mới dựng lên.
Tuyến nước mắt phát triển mạnh. Co cái không có sừng. Hươu đực mới có sừng Con đực có sừng 2 - bốn nhánh. Thân phủ lông ngắn, mịn, màu vàng hung, có 6 - 8 hàng chấm trắng (như sao) dọc theo hai bên thân. Có vệt lông màu xám kéo dài từ gáy dọc theo sống lưng. Bụng màu vàng nhạt. Bốn chân thon nhỏ màu vàng xám. Đuôi ngắn, phía trên vàng xám, phía đuôi trắng, mút đuôi có túm lông trắng. Đầu to vừa phải có dạng hình chữ V, khoảng cách giữa hai gốc sừng rộng, mắt tinh, mõm dài vừa, đôi tai luôn nghe nhóng nhanh nhạy, đầu cổ kết hợp tốt, cổ dài vừa phải và thon nhỏ, sống lưng thẳng, lưng thon mình ngựa, lưng, sườn, bụng kết hợp, mông cân đối nở nang, đùi đầy đặn có cơ thịt nỗi rõ chắc, mông và đùi linh hoạt, kết hợp chắc chắn.
Bốn chân thon nhỏ dài vừa chắc chắn, vận động tự nhiên, nhanh nhẹn, hai chân trước không qua thấp so với hai chân sau, hai chân sau chùng xuông so với hai chân trước, phía sau hơi thấp hơn so với phía trước, con cái thì đuôi luôn phe phẩy, mắt sáng nhanh nhẹn, hươu cái có cơ thể phát triển cân đối, khoẻ mạnh, béo vừa phải. Bình thường lông có màu vàng sẩm, trên thân có những đốm trắng giống sao nỗi rõ, dưới cằm, cổ, đùi có màu trắng nhạt, tính tình nhanh nhẹn ít hung dữ, mắt tinh, mõm dài vừa, đôi tai luôn nghe nhóng nhanh nhạy.
Tập tính ăn
Trong tự nhiên, chúng thường sống theo đàn từ 5-7 con, có khi tới hàng chục con. Hươu sao thích sống nơi trảng cỏ, rừng thưa và những nơi gần đầm hồ, sông, suối nơi có nhiều lá và cỏ non. Chúng là động vật yếu, luôn là con mồi ngon của nhiều loài thú ăn thịt như hổ, báo… nên chúng có tập tính kiếm ăn vào ban đêm. Chúng chủ yếu hoạt động vào ban đêm, ban đêm hươu ăn tới 60% tổng số thức ăn của khẩu phần. Thức ăn là cỏ, lá cây, ưa thích nhất là các loại lá cây có nhựa mủ như: sung, ngái, mít, chúng thích ăn cỏ tươi, không ăn cỏ đã khô và các loại lá cây, chúng sống ở rừng thưa trên núi đất, ưa thích nơi khô ráo. Sống thành từng đàn, hiền lành và nhút nhát, chúng đặc biệt rất nhút nhát, thính giác và thị giác rất tốt, thích sinh hoạt bầy đàn thể hiện tính hoang dã.
Sinh sản
Hươu hai tuổi thì trưởng thành sinh dục (động dục và giao phối). Chúng động dục vào mùa thu và đẻ vào mùa xuân, thời gian chửa khoảng 6 tháng rưỡi đến 7 tháng, lúc con đực đòi nhảy mà con cái trốn chạy, nó có thể phát khùng và húc chết con cái. Khi con cái động dục có biểu hiện là việc kêu rống, đi lại nhiều, hươu đực ít ăn hơn bình thường từ 30 - 40%, tiếng kêu rít lên to và kết thúc bằng giọng khàn khàn. Thời kỳ này hươu đực bị kích thích mạnh, tính tình hung dữ hơn, đi lại lung tung, hay cúi gầm đầu xuống sát đất, hướng cặp sừng ra phía trước như sẵn sàng lao vào cuộc ẩu đả, hai chân trước cào bới đất. Dịch hoàn phát triển mạnh, dương vật luôn rỉ nước màu đen như nước điếu, mùi rất hoi.
Hươu cái trong mùa động dục thường cũng ít ăn hơn. Hiện tượng động dục tương đối rõ xung huyết thành âm đạo, cổ tử cung tiết niêm dịch, đầu kỳ động hớn niêm dịch dính kéo dài như thủy tinh, giữa kỳ động hớn niêm dịch trong suốt chứa đầy âm đạo và chảy ra quanh cơ quan sinh dục ngoài, còn cuối kỳ động hớn niêm dịch đục và giảm số lượng. Hươu cái động hớn thường biểu hiện không yên tĩnh, thích gần con đực.
Vài ngày trước khi đẻ, hươu cái ít hoạt động hơn và thường nằm tách biệt với đàn. Những biểu hiện bên ngoài dễ thấy như bụng to, bầu vú căng và sạ xuống, âm hộ sưng mọng, thái độ hoảng hốt lúc đứng, lúc nằm, đuôi ve vẩy luôn. Hươu thường đẻ con vào ban đêm nhất là khoảng chiều tối. Động tác đẻ giống như
trâu bò, trước lúc đẻ có hiện tượng vỡ màng ối, làm chảy ra một chất nước nhầy màu vàng đục. Sau đó 2 chân trước con non ra trước, rồi đến mõm, đầu, ngực, lưng và 2 chân sau.
Hươu con ra theo chiều lưng - bụng như trên là đẻ thuận. Thời gian từ khi vỡ màng ối cho đến lúc 2 chân trước con non lò ra, thường kéo dài 5 - 10 phút và đến khi đẻ hươu con ra khoảng 25 - 40 phút. Hươu mẹ thường dùng răng cắn đứt dây rốn, rồi liếm khắp mình con cho khô sạch. Hươu con đẻ ra khoảng nửa giờ sau khi đẻ đã đứng dậy được và bú mẹ. Trong những ngày đầu, hươu con thường nằm nhiều và nằm tách mẹ đến bữa mới về bú.
Chú thích
Tham khảo
D.E. Wilson e D.M. Reeder, Cervus nippon grassianus in Mammal Species of the World. A Taxonomic and Geographic Reference, 3ª ed., Johns Hopkins University Press, 2005, ISBN 0-8018-8221-4.
Harris, R.B. 2008, Cervus nippon grassianus su IUCN Red List of Threatened Species, Versione 2014.3, IUCN, 2014.
"Factsheet: Sika Deer". Truy cập 2011-01-19.
Cervus
Động vật có vú châu Á
|
1486098
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%BCnyaz%C4%B1%2C%20%C5%9Eemdinli
|
Günyazı, Şemdinli
|
Günyazı là một xã thuộc huyện Şemdinli, tỉnh Hakkâri, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 4.47 người.
Chú thích
Tham khảo
|
547520
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sideroxylon%20acunae
|
Sideroxylon acunae
|
Sideroxylon acunae là một loài thực vật thuộc họ Sapotaceae. Đây là loài đặc hữu của Cuba.
Chú thích
Tham khảo
World Conservation Monitoring Centre 1998. Sideroxylon acunae. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng 8 năm 2007.
Thực vật Cuba
Sideroxylon
Thực vật dễ tổn thương
|
1880892
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anoectochilus%20elatus
|
Anoectochilus elatus
|
Anoectochilus elatus là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Lindl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1857.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Lan kim tuyến
Thực vật được mô tả năm 1857
|
1333587
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Banka%20%28huy%E1%BB%87n%29
|
Banka (huyện)
|
Huyện Banka là một huyện thuộc bang Bihar, Ấn Độ. Thủ phủ huyện Banka đóng ở Banka. Huyện Banka có diện tích 3018 ki lô mét vuông. Đến thời điểm năm 2001, huyện Banka có dân số 1608778 người.
Tham khảo
Bihar
Huyện của Ấn Độ
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.