id
stringlengths 2
8
| url
stringlengths 31
306
| title
stringlengths 1
102
| text
stringlengths 32
113k
|
---|---|---|---|
978087
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Malthinus%20malthodinoides
|
Malthinus malthodinoides
|
Malthinus malthodinoides là một loài bọ cánh cứng trong họ Cantharidae. Loài này được Kazantsev miêu tả khoa học năm 2001.
Chú thích
Tham khảo
Malthinus
Động vật đặc hữu Azerbaijan
|
1893460
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eucalyptus%20pseudopiperita
|
Eucalyptus pseudopiperita
|
Eucalyptus pseudopiperita là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được Maiden & Blakely mô tả khoa học đầu tiên năm 1929.
Chú thích
Liên kết ngoài
P
Thực vật được mô tả năm 1929
|
2580672
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Camptoloma%20pallida
|
Camptoloma pallida
|
Camptoloma pallida là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Camptoloma
|
2505129
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Amblyodum%20uliginosum
|
Amblyodum uliginosum
|
Amblyodum uliginosum là một loài Rêu trong họ Meesiaceae. Loài này được (Hedw.) P. Beauv. mô tả khoa học đầu tiên năm 1804.
Chú thích
Liên kết ngoài
Amblyodum
Thực vật được mô tả năm 1804
|
1578473
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Reklaw%2C%20Texas
|
Reklaw, Texas
|
Reklaw là một thành phố thuộc quận Cherokee, tiểu bang Texas, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 379 người.
Dân số
Dân số năm 2000: 327 người.
Dân số năm 2010: 379 người.
Tham khảo
Xem thêm
American Finder
Thành phố của Texas
Thành phố ở quận Cherokee, Texas
Vùng đô thị Longview, Texas
Thành phố ở quận Rusk, Texas
|
1463048
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%E1%BA%A7n%20C%C3%B4ng%20Th%E1%BB%A9c
|
Trần Công Thức
|
Trần Công Thức (sinh 1949) là một Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tư lệnh Quân khu 5, đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X, thuộc đoàn đại biểu Bình Định.
Thân thế và sự nghiệp
Ông sinh ngày 20 tháng 7 năm 1948 tại phường Hoài Hảo, thị xã Hoài Nhơn, Bình Định
Ông từng giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh Bình Định.
Năm 2002, bổ nhiệm giữ chức Phó Tư lệnh Quân khu 5
Năm 2009, ông nghỉ hưu
Thiếu tướng (2004)
Tham khảo
Người Bình Định
Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa X
Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam
Tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam thụ phong thập niên 2000
|
2093703
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pilea%20callitrichioides
|
Pilea callitrichioides
|
Pilea callitrichioides là loài thực vật có hoa trong họ Tầm ma. Loài này được (Kunth) Kunth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1846.
Chú thích
Liên kết ngoài
Pilea
Thực vật được mô tả năm 1846
en:Pilea callitrichioides
|
14064963
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dragon%20Quest%20XI
|
Dragon Quest XI
|
Dragon Quest XI: Echoes of an Elusive Age là một trò chơi điện tử nhập vai, do Square Enix phát triển và phát hành. Trò chơi này là một phần của loạt Dragon Quest dài kỳ, phát hành tháng 7 năm 2017 tại Nhật Bản cho Nintendo 3DS và PlayStation 4, phát hành ra toàn thế giới cho PlayStation 4 và Microsoft Windows tháng 9 năm 2018. Một phiên bản nâng cấp, Dragon Quest XI S: Echoes of an Elusive Age - Definitive Edition, phát hành tháng 9 năm 2019 cho Nintendo Switch và tháng 12 năm 2020 cho PlayStation 4, Microsoft Windows và Xbox One, và cho Stadia vào tháng 3 năm 2021.
Là một trong những trò chơi đầu tiên công bố cho Nintendo Switch, game ban đầu lấy ý tưởng thế giới mở, nhưng đã bị loại bỏ khi mâu thuẫn với cốt truyện. Để nâng cao nhận thức về nhượng quyền thương mại của Dragon Quest ở phương Tây, trò chơi đã bao gồm trọn gói các hỗ trợ cho Microsoft Windows, các tính năng khác như hội thoại lồng tiếng Anh và độ phân giải 4K. Các yếu tố khác được thêm vào sau đó là một cốt truyện mở và tùy chọn để nghe phiên bản dàn nhạc hòa tấu.
Trong khi nhiều nhà phê bình coi đây trò chơi là hay nhất trong loạt, cũng như là một trong những JRPG đương đại hay nhất, những người khác lại chỉ trích phong cách thiết kế quá truyền thống và không sáng tạo. Game bán ra hơn sáu triệu bản vào tháng 9 năm 2020. Nhân vật chính của trò chơi, Luminary, cũng xuất hiện đan xen trong loạt Super Smash Bros.
Lối chơi
Dragon Quest XI tiếp nối lối chơi của các phần trước trong loạt, người chơi sẽ khám phá thế giới và chiến đấu chống lại nhiều quái vật khác nhau, bao gồm cả khả năng khám phá các khu vực trên cao. Phiên bản Nintendo 3DS có phong cách hình ảnh không giống với các phiên bản khác, với đồ họa 3D ở màn hình trên và họa tiết kiểu 16 bit ở màn hình dưới. Trước khi bước vào trận chiến, người chơi có thể chuyển đổi giữa các kiểu đồ họa 3D và 2D bất cứ lúc nào.
Giống như Dragon Quest IX, hệ thống chiến đấu của trò chơi không có các cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên và tất cả kẻ địch đều hiện trên toàn bản đồ. Hệ thống chiến đấu cũng bổ sung một tùy chọn máy ảnh dạng tự do, lấy cảm hứng từ MMORPG của Dragon Quest X, cho phép người chơi di chuyển xung quanh chiến trường, mặc dù nó hoàn toàn trực quan và không mang lại lợi ích gì khác cho lối chơi.
Cốt truyện
Trò chơi lấy bối cảnh ở thế giới Erdrea, và bắt đầu khi vương quốc Dundrasil bị xâm lược và phá hủy bởi một đội quân quái vật. Nhân vật chính, một đứa trẻ sơ sinh, sống sót và được một ông già tên Chalky ở làng Cobblestone tìm thấy khi đang thả trôi trên sông. Con gái của Chalky là Amber nhận nuôi và đứa bé lớn lên trong ngôi làng yên bình. Sau buổi lễ thành niên, Amber tiết lộ sự thật, và gửi anh đến gặp Vua Carnelian xứ Heliodor
Tuy nhiên, vừa gặp nhau, các Hiệp sĩ Hoàng gia, Sir Hendrik và Sir Jasper đã ném nhân vật chính vào ngục tối và buộc tội rằng anh ta là Darkspawn, một kẻ hiểm ác được tiên tri sẽ phá hủy cả thế giới. Trong ngục tối, anh gặp một tên trộm tên là Erik. Erik nhận ra dấu ấn trên tay anh và gọi anh là Luminary, một anh hùng huyền thoại do cây thế giới Yggdrasil chọn ra, người sẽ cứu Erdrea khỏi quỹ dữ, và nói rằng đó là định mệnh khiến cho anh ta được gặp nhân vật chính. Cả hai sau đó trốn thoát bằng cách sử dụng một đường hầm do Erik đào sẵn, rồi trốn đến một vương quốc khác. Trong thị trấn Hotto, cả hai gặp hai pháp sư khác đến từ thành phố Arboria: Veronica, bị lời nguyền biến đổi cơ thể thành một đứa trẻ, và người em sinh đôi Serena. Hai người ngay lập tức nhận ra nhân vật chính là Luminary và thề trung thành với anh. Bốn người sau đó đặt ra nhiệm vụ tiếp cận Yggdrasil để Luminary có thể hiểu thêm về vận mệnh của mình. Trên đường đi, họ có ba người bạn khác: Sylvando, một nghệ sĩ đường phố, Rab, cựu hoàng xứ Dundrasil và cũng là ông của nhân vật chính, cuối cùng là Jade, công chúa lưu vong xứ Heliodor, người đã giúp nhân vật chính trốn thoát trong cuộc tấn công của Dundrasil.
Cả nhóm cuối cùng cũng đến trung tâm của Yggdrasil, nơi chứa Sword of Light, vũ khí định mệnh của Luminary. Tuy nhiên, vừa khi Luminary sắp sửa lấy nó, anh và cả nhóm bị Carnelian và các thuộc hạ là Jasper và Hendrik chặn lại, hóa ra hắn đã theo dõi cả bọn từ đầu. Sau đó tiết lộ rằng Carnelian đã bị một ác nhân tên là Mordegon điều khiển, hay còn gọi là Lord of Shadows, còn Jasper chính là tay sai của hắn. Cả hai sau đó đánh bại Hendrik và nhóm của Luminary, Mordegon lấy và làm hỏng Thanh gươm Ánh sáng, hấp thụ trái tim của Yggdrasil vào cơ thể hắn, phá hủy cái cây và khiển thế giới chìm trong bóng tối. Bị tách khỏi những người bạn của mình, Luminary quay trở lại Cobblestone, giờ đã trở thành nơi trú ẩn kiên cố cho các công dân Heliodor do Carnelian và Hendrik dẫn đầu, những người xin lỗi Luminary vì tất cả những rắc rối mà họ đã gây ra cho anh ta. Hendrik sau đó gia nhập lực lượng với Luminary, và cùng nhau, họ giành lại Heliodor từ lực lượng của Mordegon. Trên hành trình đi cứu phần còn lại của thế giới, họ đoàn tụ với nhóm, ngoại trừ Veronica, cô đã chết vì đã cứu những người khác khi Yggdrasil sụp đổ. Tại Arboria, có một con cá voi bay khổng lồ, được gọi là Cetacea. Sử dụng nó, họ đi đến một hòn đảo nổi cổ xưa được gọi là Havens Above, cũng là nơi có thể rèn Thanh gươm Ánh sáng mới. Sau khi rèn xong, cả nhóm cuối cùng tới Fortress of Fear, pháo đài bay của Mordegon. Ở đó, cả nhóm đánh bại Jasper, đã biến thành một con quỷ, và Mordegon, phục hồi Yggdrasil và thế giới.
Sau đó, cả nhóm phát hiện ra cách để đưa Veronica trở lại trong Tower of Lost Time. Ở đó họ gặp Timekeeper, người đã cho Luminary sức mạnh để quay ngược thời gian và đánh bại Mordegon trước khi anh ta có thể đánh cắp Thanh gươm Ánh sáng và trái tim của Yggdrasil, từ đó Veronica sẽ không phải hy sinh. Tuy nhiên, do sự vắng mặt của Mordegon, một linh hồn bóng tối triệu hồi một quả cầu bí ẩn được gọi là Erdwin's Lantern và hợp nhất với nó, do đó đánh thức nhân vật phản diện thực sự của trò chơi, The Dark One, Calasmos, người trước đây đã bị tiêu diệt trong dòng thời gian cai trị của Mordegon. Bằng cách đó, họ phát hiện ra một Luminary từ nhiều năm trước, gọi là Erdwin, đã bị phản bội và bị giết bởi người bạn là pháp sư Morcant, hắn đã hấp thụ sức mạnh của Calasmos và biến thành Mordegon. Serenica, người bạn đồng môn pháp sư và cũng là tri kỷ của Erdwin, niêm phong Calasmos yếu đuối và cố gắng quay trở lại quá khứ tại Tower of Lost Lime, nhưng lại biến thành Timekeeper, người duy nhất có dấu chỉ của Luminary, có thể sử dụng sức mạnh của tòa tháp. Sau khi chuẩn bị xong, cả nhóm đối đầu với Calasmos và đánh bại hắn ta một lần và mãi mãi. Làm như vậy, Luminary giao dấu chỉ của mình cho Timekeeper, trở về hình dạng ban đầu là Serenica, và sử dụng nó để trở về quá khứ đoàn tụ với Erdwin. Cùng với Veronica và Serena, anh cũng trả lại Thanh gươm Ánh sáng cho Yggdrasil, tiết lộ nó chính là Yggdragon, một con rồng cổ đã bị Calasmos đánh bại từ lâu, với cơ thể biến thành cây Yggdrasil và mang lại sự sống cho Erdrea. Người Yggdragon tôn vinh Luminary danh hiệu "Erdrick", người hùng mạnh nhất trong tất cả các người hùng, và giữ Thanh gươm chờ ngày một anh hùng mới sẽ cần nó để bảo vệ Erdrea khỏi quỷ dữ. Trong đoạn cắt cảnh, Serenica đoàn tụ với Erdwin trong quá khứ, sau cắt cảnh, một người mẹ trẻ, sau khi đọc một cuốn sách về câu chuyện của Luminary, đánh thức con trai mình khỏi giường, thiết lập nên câu chuyện Dragon Quest III.
Quá trình phát triển và phát hành
Dragon Quest XI bắt đầu quá trình phát triển vào năm 2013, và công bố vào năm 2015 khi bắt đầu có ý tưởng phát hành trên PlayStation 4, Nintendo 3DS, và Nintendo Switch. Đây là một trong những trò chơi đầu tiên công bố cho Switch, vốn biết đến với tên mã Nintendo NX vì máy chưa được tiết lộ đầy đủ vào thời điểm đó. Ban đầu, nhóm nghiên cứu xem xét việc làm cho trò chơi thành thế giới mở, nhưng đã hủy bỏ vì nó sẽ dẫn đến các vấn đề về cốt truyện. Các phiên bản PlayStation 4, Microsoft Windows và Nintendo Switch sử dụng Unreal Engine 4 và sự hỗ trợ phát triển từ ORCA Inc, trong khi phiên bản 3DS có sự hỗ trợ từ Toylogic Inc.
Vào tháng 4 năm 2017, Square Enix đã tổ chức một buồi trình chiếu đặc biệt cho trò chơi, trong đó ngày phát hành cho phiên bản PlayStation 4 và 3DS của trò chơi được tiết lộ là 29 tháng 7 năm 2017. Cùng tháng đó, Sony Interactive Entertainment và Nintendo đã giới thiệu các phiên bản máy PlayStation 4 Slim và New Nintendo 2DS XL đặc biệt cho Nhật Bản.
Cùng với việc phát hành phiên bản tiếng Nhật, nhà thiết kế chính và biên kịch Horii Yuji đã thông báo một phiên bản quốc tế, bản địa hóa thành 5 ngôn ngữ riêng biệt, sẽ phát hành vào năm 2018. Ngày chính xác sau đó tiết lộ là 4 tháng 9 năm 2018, cùng với phiên bản dành cho Microsoft Windows thông qua Steam, phiên bản đầu tiên cho chuỗi chính. Bao gồm đối thoại lồng tiếng Anh, tùy chọn góc nhìn thứ nhất, hỗ trợ độ phân giải 4K và tính năng "Draconian Quest", tăng độ khó của game trong số các thay đổi nhỏ khác. Square Enix nói họ muốn mở rộng thương hiệu Dragon Quest ra bên ngoài Nhật Bản, và tin những tính năng này, ngoài việc có một phiên bản trên Windows, sẽ hỗ trợ điều đó.
Bản phát hành quốc tế trên PlayStation 4 cũng có phiên bản sưu tập đặc biệt mang tên Edition of Lost Time, bao gồm trò chơi, một bộ các món đồ trong trò chơi, một cuốn sách bìa cứng 128 trang gồm các khái niệm thiết kế nhân vật gốc từ Toriyama Akira, hai đĩa nhạc có các phiên bản dựng âm của Sugiyama Koichi, một bản đồ thế giới, và đựng trong một hộp thiếc.
Phiên bản 3DS không được chuyển ngữ để phát hành ra bên ngoài Nhật Bản, phiên bản Switch bị trì hoãn trong khi nhóm cập nhật phiên bản mới hơn của công cụ Unreal mà hệ thống hỗ trợ. Phiên bản Switch công bố tại Tokyo Game Show 2018. Lấy tên là Dragon Quest XI S: Echoes of an Elusive Age - Definitive Edition, trò chơi đã phát hành trên toàn thế giới vào ngày 27 tháng 9 năm 2019 và có lồng tiếng Nhật Bản, chế độ đồ họa 16 bit được chuyển thể từ phiên bản 3DS, một tùy chọn cho nhạc hòa tấu và các yếu tố cốt truyện mở rộng. Bản chơi thử phát hành vào tháng 8, cho phép các bản lưu trò chơi có thể chuyển sang phiên bản đầy đủ.
Tiếp nhận
Dragon Quest XI nhận được "đánh giá yêu thích chung" theo Metacritic, ca ngợi phần hình ảnh, lối chơi đánh theo lượt truyền thống, cốt truyện, và các nhân vật. Nhiều bài báo gọi đây là trò chơi hay nhất trong loạt Dragon Quest, cũng như một trong những JRPGs đương đại hay nhất.
Tim Roger của Kotaku, vốn hâm mộ loạt đã nhiều năm, gọi đây là một trong những trò chơi hay nhất mọi thời đại.
GamingBolt đã ca ngợi tuyệt vời "từ trong ra ngoài so với cùng thể loại" so với cách làm còn kém của các game khác.
USgamer cảm thấy phần tiếp theo này hoàn toàn gắn kết một cách tự nhiên với Dragon Quest VIII, xứng đáng là tựa trò chơi thuộc dòng chính được phát hành ra ngoài Nhật Bản, và hoàn toàn lý tưởng cho những người mới bắt đầu.
PC Gamer ca ngợi bản tiếng Anh, gọi đây là "tác phẩm xuất sắc nhất, tới mức không ngờ nhất năm".
Bất chấp những lời khen ngợi, một số nhà phê bình coi tính chất bảo thủ quá mức của trò chơi là một điều bất lợi. Polygon nói rằng hình ảnh và cách trình bày được nâng cấp đã "ghép vào một bộ khung đã lão hóa" và không có khả năng mang lại tính đột phá mới nào do tính chất dặm chân tại chỗ.
PC Gamer cũng đồng ý, lưu ý rằng mặc dù phiên bản Windows chạy mượt mà không gặp sự cố và "trông tuyệt vời", họ tin rằng bản thân trò chơi "an toàn một cách đáng thất vọng".
IGN đã chỉ trích một số yếu tố bị coi là khêu gợi trong trò chơi, bao gồm nhiệm vụ hóa trang cho một nhân vật nữ với trang phục thỏ, cũng như nội dung "puff puff" thường xuyên xuất hiện trong loạt.
Một số nhà phê bình cũng viết rằng nhạc nền tổng hợp MIDI, vốn không được dàn dựng sẵn của trò chơi, thường mâu thuẫn với hình ảnh. Đối với phiên bản Windows, người hâm mộ đã tự làm một bản mod thay thế bằng các bản hòa tấu sẵn có. Một bản nhạc nền của dàn nhạc sau đó đã được đưa vào bản Definitive Edition, mặc dù bản gốc cũng có sẵn.
Doanh số bán hàng
Trò chơi đã bán ra hơn hai triệu bản vật lý trong hai ngày bán đầu tiên tại Nhật Bản; phiên bản Nintendo 3DS bán 1,13 triệu, trong khi phiên bản PlayStation 4 bán 0,95 triệu. Ở Bắc Mỹ, trò chơi có tháng ra mắt tốt nhất trong lịch sử loạt, tăng gấp đôi doanh thu của phần hay nhất trước đó là Dragon Quest IX. Đến tháng 11 năm 2018, trò chơi đã xuất xưởng hơn bốn triệu bản trên toàn thế giới. Dragon Quest XI S đã bán 303.204 bản trong tuần đầu tiên tại Nhật Bản với phiên bản Switch. Đến tháng 9 năm 2020, game đã xuất xưởng hơn sáu triệu bản trên toàn thế giới.
Giaỉ thưởng
Di sản
Luminary xuất hiện như một nhân vật có thể chơi được, thông qua nội dung có thể tải xuống, trong Super Smash Bros. Ultimate. năm 2018. Altar của Yggdrasil cũng là màn chơi liên quan, cùng với một số bản nhạc trong bộ truyện. Ngoài ra, The Luminary cũng có một amiibo phát hành vào ngày 2 tháng 10 năm 2020.
Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài
Dragon Quest
Trò chơi điện tử năm 2017
Trò chơi Nintendo 3DS
Trò chơi PlayStation 4
Trò chơi điện tử nhập vai
Trò chơi điện tử phát triển ở Nhật Bản
Trò chơi trên Windows
Trò chơi Nintendo Switch
Trò chơi Xbox One
Trò chơi Nintendo 3DS eShop
Trò chơi Unreal Engine
|
1646799
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/D%E1%BB%8B%20gi%C3%A1o
|
Dị giáo
|
Dị giáo, hay ngoại đạo, ngoại giáo là bất kỳ niềm tin hoặc giả thuyết nào đi ngược lại với các tín ngưỡng hoặc phong tục đã được quy định, đặc biệt là các tín ngưỡng của nhà thờ hoặc tổ chức tôn giáo. Thuật ngữ này thường được sử dụng để miêu tả sự vi phạm các giáo lý quan trọng của Tôn giáo, nhưng cũng được sử dụng cho các quan điểm phản đối mạnh mẽ bất kỳ ý tưởng nào thường được chấp nhận. Một người ủng hộ tà giáo được gọi là kẻ dị giáo.
Thuật ngữ này được sử dụng nhiều khi nói đến Kitô giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo. Trong lịch sử Kitô giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo và một số những nền văn hóa khác, tán thành những lý tưởng bị coi là dị giáo (trong một số trường hợp vẫn còn) sẽ phải nhận hình phạt rất nặng như vạ tuyệt thông hay tử hình.
Dị giáo khác với bội đạo (sự từ bỏ tôn giáo, nguyên tắc hoặc mục đích rõ ràng của một người) và báng bổ (lời nói hoặc hành động ẩn ý liên quan đến xúc phạm Chúa hoặc những điều thiêng liêng). Dị giáo học là chỉ việc nghiên cứu về dị giáo.
Từ nguyên học
Bắt nguồn từ Hy Lạp cổ đại haíresis (), từ heresy trong tiếng Anh ban đầu có nghĩa là "sự lựa chọn" hoặc "điều được chọn". Tuy nhiên, nó có nghĩa là "bữa tiệc, hoặc trường học, sự lựa chọn của một người đàn ông", và cũng đề cập đến quá trình mà theo đó một người trẻ tuổi sẽ xem xét các triết lý khác nhau để xác định cách sống.
Từ dị giáo thường được sử dụng trong ngữ cảnh Kitô giáo, Do Thái hoặc Hồi giáo và hàm ý các ý nghĩa hơi khác nhau trong mỗi ngữ cảnh. Người sáng lập hoặc lãnh đạo một phong trào dị giáo được gọi là lãnh tụ dị giáo, trong khi những cá nhân tán thành dị giáo hoặc phạm tội dị giáo được gọi là dị giáo.
Kitô giáo
Theo Titus 3:10 một người gây chia rẽ nên được cảnh báo hai lần trước khi tách khỏi anh ta. Tiếng Hy Lạp cho cụm từ "người gây chia rẽ" đã trở thành một thuật ngữ kỹ thuật trong Giáo hội sơ khai để chỉ một loại "dị giáo" cổ vũ sự bất đồng. Ngược lại, sự dạy dỗ đúng đắn được gọi là đúng đắn không chỉ vì nó xây dựng đức tin mà còn là do nó bảo vệ đức tin khỏi sự ảnh hưởng đồi bại của các giáo lý giả mạo.
Tertullian () ngụ ý chính người Do Thái đã truyền cảm hứng cho dị giáo trong Kitô giáo: "Từ người Do Thái, kẻ dị giáo đã chấp nhận hướng dẫn trong cuộc thảo luận này [rằng Chúa Giê-xu không phải là Đấng Kitô].""
Việc sử dụng từ dị giáo đã được Irenaeus sử dụng rộng rãi trong bài viết thế kỷ thứ 2 của ông là Contra Haereses (Chống dị giáo) để mô tả và làm mất uy tín của các đối thủ của ông trong những thế kỷ đầu tiên của cộng đồng Kitô giáo. Ông mô tả tín ngưỡng và học thuyết của cộng đồng là chính thống (từ , orthos, "thẳng" hoặc "đúng" + , doxa, "niềm tin") và các giáo lý Ngộ đạo là dị giáo. Ông cũng chỉ ra khái niệm tông truyền để củng cố lập luận của ông.
Constantine Đại đế, người cùng với Licinius đã ra sắc lệnh khoan dung Kitô giáo trong Đế chế La Mã bằng Sắc lệnh Milan, và là vị Hoàng đế La Mã đầu tiên được rửa tội, đặt tiền lệ cho chính sách sau này. Theo luật La Mã, Hoàng đế là Pontifex Maximus, thầy tế lễ thượng phẩm của College of Pontiffs (Collegium Pontificum) của tất cả các tôn giáo được công nhận ở La Mã cổ đại. Để chấm dứt cuộc tranh luận về giáo lý do Arius khởi xướng, Constantine đã triệu tập cuộc tranh luận đầu tiên sau này được gọi là công đồng đại kết và sau đó được thực thi chính thống bởi chính quyền Hoàng gia.
Cách sử dụng đầu tiên được biết đến của thuật ngữ này trong bối cảnh pháp lý là vào năm 380 sau Công nguyên bởi Sắc lệnh Thessalonica của Theodosius I, khiến Kitô giáo trở thành nhà thờ nhà nước của Đế chế La Mã. Trước khi ban hành sắc lệnh này, Nhà thờ không có sự hỗ trợ cho bất kỳ cơ chế pháp lý cụ thể nào để chống lại những gì nó coi là "dị giáo". Theo sắc lệnh này, thẩm quyền của nhà nước và của Giáo hội trở nên chồng chéo. Một trong những kết quả của sự mờ nhạt giữa Nhà thờ và nhà nước này là sự chia sẻ quyền lực thực thi pháp luật của nhà nước với chính quyền nhà thờ. Sự củng cố quyền lực của Giáo hội này đã trao cho các nhà lãnh đạo giáo hội quyền tuyên án tử hình đối với những người mà giáo hội coi là dị giáo.
Trong vòng sáu năm kể từ khi Hoàng đế chính thức hình sự hóa dị giáo, kẻ dị giáo Kitô giáo đầu tiên bị xử tử, Priscillian, đã bị các quan chức thế tục của La Mã kết án vào năm 386 vì tội phù thủy, và bị xử tử cùng với bốn hoặc năm tín đồ. Tuy nhiên, những người tố cáo ông đã bị cả Ambrose của Milan và Giáo hoàng Siricius rút phép thông công, họ là những người phản đối dị giáo của Priscillian, nhưng "tin rằng hình phạt tử hình là không phù hợp và rõ ràng là xấu xa nhất." Sắc lệnh của Theodosius II (435) đưa ra những hình phạt nghiêm khắc đối với những người có hoặc phát tán các bài viết của Nestorius. Những người sở hữu các tác phẩm của Arius bị kết án tử hình.
Trong văn bản Concerning Heresy ở thế kỷ thứ 7, thánh Gioan thành Damascus gọi Hồi giáo là dị giáo Kitô học, gọi nó là "dị giáo của người Ishmaelites" (xem quan điểm của Cơ đốc giáo thời trung cổ về Muhammad). Vị trí vẫn phổ biến trong giới Kitô giáo cho đến tận thế kỷ 20, bởi các nhà thần học như giáo sĩ Công giáo Frank Hugh Foster và nhà sử học Công giáo La Mã Hilaire Belloc, người sau mô tả nó là "tà giáo vĩ đại và lâu dài của Mô-ha-mét."
Trong một số năm sau Cải cách, các nhà thờ Tin lành cũng được biết là hành quyết những người mà họ coi là dị giáo; ví dụ, Michael Servetus bị cả Giáo hội Cải cách và Giáo hội Công giáo tuyên bố là kẻ dị giáo vì bác bỏ học thuyết Kitô giáo về Ba Ngôi. Kẻ dị giáo cuối cùng được biết đến bị xử tử theo bản án của Giáo hội Công giáo là hiệu trưởng người Tây Ban Nha Cayetano Ripoll vào năm 1826. Số người bị hành quyết như những kẻ dị giáo dưới quyền của nhiều "cơ quan giáo hội" không được biết đến.
Mặc dù ít phổ biến hơn so với thời kỳ trước, nhưng trong thời hiện đại, các cáo buộc chính thức về dị giáo trong các nhà thờ Thiên chúa giáo vẫn xảy ra. Các vấn đề trong các nhà thờ Tin lành bao gồm sự phê bình Kinh thánh hiện đại và bản chất của Chúa. Trong Giáo hội Công giáo, Bộ Giáo lý Đức tin chỉ trích các bài viết vì "sự mơ hồ và sai sót" mà không sử dụng từ "dị giáo".
Có lẽ do nhiều ý nghĩa tiêu cực hiện đại liên quan đến thuật ngữ dị giáo, chẳng hạn như tòa án dị giáo Tây Ban Nha, ngày nay thuật ngữ này ít được sử dụng hơn. Chủ đề dị giáo Kitô giáo mở ra những câu hỏi rộng hơn về việc ai có độc quyền về chân lý tâm linh, như Jorge Luis Borges đã khám phá trong truyện ngắn "The Theologians" trong tuyển tập Labyrinths.
Ngày 11 tháng 7 năm 2007, Giáo hoàng Benedict XVI tuyên bố một số nhóm Tin lành là "cộng đồng giáo hội" chứ không phải là Giáo hội. Đại diện của một số giáo phái Kitô giáo này đã cáo buộc Vatican gọi họ là những kẻ dị giáo. Tuy nhiên, Giáo hoàng BenedictXVI đã làm rõ rằng cụm từ "cộng đồng giáo hội" không nhất thiết phải rõ ràng là dị giáo, mà chỉ là các cộng đồng thiếu một số "yếu tố thiết yếu" của một giáo hội tông truyền, như ông đã viết trong tài liệu Dominus Iesus.
Công giáo
Trong Giáo hội Công giáo, dị giáo rõ ràng cố chấp và cố ý được coi là cắt đứt một người khỏi Giáo hội về mặt tinh thần, ngay cả trước khi vạ tuyệt thông xảy ra. Codex Justinianus (1:5:12) định nghĩa "tất cả những người không hết lòng với Giáo hội Công giáo và Đức tin thánh Chính thống của chúng ta" là một kẻ dị giáo. Giáo hội luôn đối xử gay gắt với các nhóm Cơ đốc giáo mà Giáo hội coi là dị giáo, nhưng trước thế kỷ 11, những nhóm này có xu hướng tập trung vào các nhà thuyết giáo cá nhân hoặc các giáo phái địa phương nhỏ, như Arianism, Pelagianism, Donatism, Marcionism và Montanism. Sự truyền bá Mani giáo của Paulician về phía tây đã sinh ra những dị giáo nổi tiếng vào thế kỷ 11 và 12 ở Tây Âu. Cái đầu tiên là của Bogomils ở Bulgaria ngày nay, một kiểu thánh địa giữa Cơ đốc giáo phương Đông và phương Tây. Đến thế kỷ 11, các nhóm có tổ chức hơn như Patarini, Dulcinian, Waldensians và Cathars bắt đầu xuất hiện ở các thị trấn và thành phố của miền bắc nước Ý, miền nam nước Pháp và Flanders.
Ở Pháp, Cathars đã trở thành đại diện cho một phong trào quần chúng phổ biến và niềm tin đang lan rộng ra các khu vực khác. Cuộc thập tự chinh Cathar do Giáo hội Công giáo khởi xướng nhằm loại bỏ dị giáo Cathar ở Languedoc. Dị giáo là lý do chính để biện minh cho Tòa thẩm giáo (Inquisitio Haereticae Pravitatis, Cuộc điều tra về dị giáo đồi bại) và thánh chiến Châu Âu gắn liền với Cải cách Tin lành.
Galileo Galilei bị đưa ra trước Toà án dị giáo vì tội dị giáo, phải nguyện bỏ quan điểm của ông và bị kết án quản thúc tại gia và sống cả phần còn lại tại đó. Galileo bị cho là "cực kỳ nghi ngờ về dị giáo", cụ thể là đã có quan điểm cho rằng Mặt trời nằm bất động ở trung tâm của vũ trụ, và Trái đất không nằm ở trung tâm của nó và chuyển động, và người ta có thể giữ và bảo vệ một ý kiến là có thể xảy ra sau khi nó được tuyên bố là trái ngược với Kinh thánh. Ông được yêu cầu phải "nguyện bỏ, nguyền rủa và ghê tởm" những ý kiến đó.
Giáo hoàng Gregory I kỳ thị Do Thái giáo và người Do Thái trong nhiều bài viết của ông. Ông mô tả người Do Thái là kẻ thù của Chúa Kitô: "Chúa Thánh Thần càng tràn ngập thế giới, thì lòng căm thù của người Do Thái càng thống trị." Ông dán nhãn tất cả dị giáo là "Do Thái", tuyên bố rằng đạo Do Thái sẽ "làm ô uế [người Công giáo và] lừa dối họ bằng sự dụ dỗ báng bổ." Việc xác định người Do Thái và dị giáo nói riêng xảy ra nhiều lần trong Luật La Mã-Kitô giáo.
Hồi giáo
Bắt đầu từ thời Trung cổ, người Hồi giáo gọi những người dị giáo và những người chống đối Hồi giáo là zindiqs và những zindiqs sẽ chắc chắn nhận án tử.
Quốc vương Selim the Grim của Ottoman coi Shia Qizilbash là những kẻ dị giáo. Nói chung, người Shiite thường bị Hồi giáo Sunni coi là dị giáo, đặc biệt là ở Indonesia, Ả Rập Xê Út và Thổ Nhĩ Kỳ.
Đối với Mughal Hoàng đế Aurangzeb, Sikh là những kẻ dị giáo.
Ở một số quốc gia và khu vực hiện đại, dị giáo vẫn là một hành vi tội phạm và bị trừng phạt bằng cái chết. Một ví dụ là fatwa do chính phủ Iran ban hành năm 1989, đưa ra một khoản tiền thưởng đáng kể cho bất kỳ ai thành công trong vụ ám sát tác giả Salman Rushdie, người có các bài viết bị tuyên bố là dị giáo. Hơn nữa, Bahá'í giáo được coi là dị giáo Hồi giáo ở Iran, với sự đàn áp người Baháʼí có hệ thống
Tôn giáo khác
Hành động sử dụng các kỹ thuật của Nhà thờ Khoa luận giáo ở dạng khác với mô tả ban đầu của L. Ron Hubbard trong Khoa luận giáo được gọi là "squirreling" và bị các thành viên Khoa luận giáo cho là tội phản nghịch. Trung tâm Khoa luận giáo đã truy tố các nhóm ly khai thực hành Khoa luận giáo bên ngoài Giáo hội chính thức mà không được cấp phép.
Mặc dù Hỏa giáo đã có lịch sử khoan dung đối với các tôn giáo khác, nhưng nó cũng coi các giáo phái như Zurvan giáo và Mazdak giáo là dị giáo đối với giáo điều chính của nó và đã bức hại họ một cách thô bạo, chẳng hạn như chôn người Mazdak với tư thế đứng thẳng gọi là "vườn con người." Trong các thời kỳ sau, những người theo đạo Hỏa giáo đã hợp tác với người Hồi giáo để giết những người theo đạo Hỏa giáo khác bị coi là dị giáo.
Phật giáo và Đạo giáo của các nhà sư ở Trung Quốc thời trung cổ thường gọi nhau là "dị giáo" và cạnh tranh để được triều đình khen ngợi. Mặc dù ngày nay hầu hết người Trung Quốc tin vào sự kết hợp của "Tam giáo" (Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo), sự cạnh tranh giữa hai tôn giáo vẫn có thể được nhìn thấy trong một số giáo lý và bình luận của cả hai tôn giáo ngày nay. Một tình huống tương tự cũng xảy ra với chủ nghĩa Thần đạo ở Nhật Bản. Lý học giáo cũng được mô tả như vậy.
Xem thêm
Satan giáo
Tà giáo
Quy ước
Thuần phong mỹ tục
Chuẩn mực xã hội
Lời tiên tri
Tội lỗi
Chú thích
Tham khảo
Tham khảo thư loại
Liên kết ngoài
Một số trích dẫn và thông tin trong bài viết này đến từ Catholic Encyclopedia.
Cathars of the middle age, Philosophy and History .
What Is Heresy? của Wilbert R. Gawrisch (Lutheran)
Tín ngưỡng
Thuật ngữ tôn giáo
Luật tôn giáo
|
874966
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Drusus%20discolor
|
Drusus discolor
|
Drusus discolor là một loài Trichoptera trong họ Limnephilidae. Chúng phân bố ở miền Cổ bắc.
Tham khảo
Drusus
|
2603963
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Craspedosis%20andromeda
|
Craspedosis andromeda
|
Craspedosis andromeda là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Tham khảo
Craspedosis
|
1896824
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heteropholis%20nigrescens
|
Heteropholis nigrescens
|
Heteropholis nigrescens là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (Thwaites) C.E.Hubb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1956.
Chú thích
Liên kết ngoài
Heteropholis
Thực vật được mô tả năm 1956
|
1251941
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quang%20H%C6%B0ng%2C%20Ph%C3%B9%20C%E1%BB%AB
|
Quang Hưng, Phù Cừ
|
Quang Hưng là một xã thuộc huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên, Việt Nam.
Địa lý
Xã Quang Hưng nằm ở phía đông nam huyện Phù Cừ, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp xã Cao Thắng, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Phía tây giáp thị trấn Trần Cao.
Phía nam giáp các xã Tống Phan và xã Nhật Quang.
Phía tây nam giáp các xã Chi Lăng Bắc và Chi Lăng Nam thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Phía bắc giáp xã Minh Tân (huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên). Và các xã Đoàn Kết, xã Lê Hồng thuộc huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương.
Điều kiện tự nhiên
Đất đai canh tác có độ phì nhiêu tương đối cao, nhờ được phù sa sông Hồng bồi đắp và quá trình chăm bón sản xuất hàng năm cho cây trồng.
Địa hình
Địa hình xã tương đối phẳng. Cốt đất cao +2m so với mực nước biển.
Khí hậu
Khí hậu xã Quang Hưng nằm trong vùng nhiệt đới ẩm.
Một năm có 4 mùa rõ rệt: xuân - hạ - thu - đông.
Nhiệt độ trung bình hàng năm là 23°C.
Lượng mưa trung bình hàng năm là 1600ml - 1700ml.
Sông ngòi
Có hệ thống sông Cửu An chạy dọc từ xã Minh Tân đến ngã ba giáp Nhật Quang dài 7km là đường phân giới tự nhiên với các xã của huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Thuận tiện cho vận tải đường thủy, tàu chở 200 tấn hàng ngày đi lại dễ dàng. Sông Hòa Bình chạy dài nối với sông Cửu An từ thôn Quang Xá đến thị trấn Trần Cao và đi vào các xã phía trong, hệ thống sông này chạy dọc theo đường quốc lộ 38B cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp của các thôn Quang Xá, Thọ Lão và các thôn trong xã Tống Phan.
Xã Quang Hưng có diện tích 6,93 km², dân số năm 2019 là 6.352 người, mật độ dân số đạt 917 người/km².
Hành chính
Xã Quang Hưng được chia thành 4 thôn: Quang Xá, Viên Quang, Thọ Lão, Ngũ Lão.
Lịch sử
Trước Cách mạng Tháng Tám 1945, xã Quang Hưng nằm trong tổng Viên Quang là một trong 6 tổng của huyện Phù Cừ có 8 làng gồm: Viên Quang, Quang Xá (có nhị thôn Phú Mỹ và thôn Nguyễn), Thọ Lão, Ngũ Lão, Phan Xá, Tống Xá, Vũ Xá và Trần Xá (có nhị thôn Thượng và Hạ).
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến tháng 3 năm 1946, các xã mới được thành lập. Xã Quang Hưng được thành lập có 4 thôn là Viên Quang, Quang Xá (hợp nhất 2 thôn Phú Mỹ và thôn Nguyễn), Thọ Lão, Ngũ Lão. Vũ Xá, Tống Xá và Phan Xá sáp nhập vào xã Tống Phan. Trần Xá sáp nhập vào xã Trần Cao.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, tỉnh Hưng Yên hợp nhất với tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng và xã Quang Hưng thuộc huyện Phù Cừ, tỉnh Hải Hưng.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 58-CP về việc hợp nhất hai huyện Phù Cừ và Tiên Lữ thành huyện Phù Tiên và xã Quang Hưng thuộc huyện Phù Tiên, tỉnh Hải Hưng.
Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội ban hành Nghị quyết về việc chia tỉnh Hải Hưng thành 2 tỉnh Hải Dương và Hưng Yên và xã Quang Hưng thuộc huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên.
Ngày 24 tháng 2 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định 17-CP về việc chuyển xã Quang Hưng thuộc huyện Phù Tiên về huyện Phù Cừ mới tái lập quản lý.
Giao thông
Quang Hưng có đường quốc lộ 39B nối từ thành phố Hưng Yên với thành phố Hải Dương. Đoạn chạy qua xã dài 2 km từ thị trấn Trần Cao đến cầu Tràng.
(Năm 2008 đổi thành quốc lộ 38B nối từ phường Đồng Văn, thị xã Duy Tiên tỉnh Hà Nam đi qua Hưng Yên đến thành phố Hải Dương được nâng cấp thành đường tiêu chuẩn cấp 3 đồng bằng).
Đường 201 là tuyến đường do huyện quản lý (Được đặt tên năm 2000) nối từ đê thôn Võng Phan, xã Tống Trân chạy qua xã Minh Tiến, Đình Cao, Nhật Quang nối với đường 39B, điểm nối tại thôn Quang Xá, xã Quang Hưng dài 14 km, được nâng cấp thành đường cấp 4 đồng bằng.
Đường vành đai của huyện thuộc tuyến đê sông Tây Kẻ Sặt được nối từ đường 39B, điểm nối từ thôn Quang Xá đến thôn Phương Bồ, xã Phan Sào Nam, đoạn chạy qua địa bàn xã dài 3500m, được nâng cấp đạt tiêu chí đường cấp 4 đồng bằng, là các tuyến đường giao thông quan trọng của Nhà nước, đi qua địa phương, tạo thế mạnh cho địa phương đẩy mạnh giao lưu phát triển kinh tế.
Chú thích
Tham khảo
|
1901830
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gastrodia%20fontinalis
|
Gastrodia fontinalis
|
Gastrodia fontinalis là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được T.P.Lin mô tả khoa học đầu tiên năm 1987.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gastrodia
Thực vật được mô tả năm 1987
|
660331
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20Th%E1%BA%A1ch%20k%E1%BB%B3%20duy%C3%AAn
|
Kim Thạch kỳ duyên
|
Kim Thạch kỳ duyên (Mối duyên kỳ lạ giữa họ Kim và họ Thạch) là vở tuồng của nhà thơ Việt Nam Bùi Hữu Nghĩa. Theo Từ điển bách khoa Việt Nam (Tập 1) thì vở tuồng này cùng với các vở của Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh, đã đánh dấu sự chuyển biến của tuồng Việt Nam ở cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
Giới thiệu
Kim Thạch kỳ duyên được sáng tác vào lúc Bùi Hữu Nghĩa đã từ chức, về ở Bình Thủy (Cần Thơ), và được in lần đầu vào năm 1895.
Vở tuồng gồm ba hồi, với vài chục nhân vật chính phụ, kể lại cuộc tình không hẹn mà nên giữa Trạng nguyên Kim Ngọc, văn võ song toàn và là con trai Tri phủ Bồ Châu, với nàng Thạch Vô Hà nết na xinh đẹp, con gái của một thầy lang nghèo.
Theo GS. Dương Quảng Hàm, thì tấn tuồng này mượn từ một cuốn truyện của Trung Quốc (việc xảy ra thuộc đời nhà Bắc Tống, 960-1126) để khuyên người ta nên giữ lòng tiết nghĩa và dạ thủy chung.
Lược truyện
Theo Dương Quảng Hàm thì tuồng Kim Thạch kỳ duyên chia làm ba hồi, và có nội dung đại lược như sau:
Hồi thứ nhất:
Kim Ngọc, con trai của Kim Ngạn Yên (người Hà Nam) đã đính hôn với Ái Châu, con gái Lâm Vượng, một nhà giàu ở gần Tô Châu (thuộc tỉnh Giang Tô).
Lợi Đồ, tri huyện Tô Châu, có một người vợ cả và một người vợ lẽ vốn hiềm khích nhau. Một hôm vợ cả đau, mời thầy thuốc Thạch Đạo Toàn đến chữa. Vợ lẽ thừa dịp bỏ chất độc vào thuốc cho vợ cả uống. Vợ cả chết, thầy Đạo Toàn bị bắt, con gái ông là Vô Hà phải bán mình làm thị tỳ cho Ái Châu để lấy tiền chuộc cha.
Ở vùng núi Đại Lư (thuộc Thiểm Tây và Hồ Nam) có viên tướng giặc là Tiêu Hóa Long. Khi Thiết Đình Quý vâng chỉ đến nhậm chức tri phủ Tây An (thuộc Thiểm Tây) đi qua đó, bị Hóa Long đón bắt. Đình Quý nhảy xuống sông chết, và dặn vợ là Giải thị đang có mang gượng sống để trả thù.
Sau khi thi đỡ Giải nguyên, Ngạn Yêm được bổ làm tri phủ Bồ Châu (thuộc Sơn Tây). Khi cùng con là Kim Ngọc qua vùng Đại Lư để đi nhậm chức, cũng bị Hóa Long đón bắt. Nhưng nhờ có Giải thị cầu xin, nên Ngạn Yêm không bị giết. Còn Kim Ngọc thì ngã xuống sông, trôi dạt vào bờ, rồi đến ở một ngôi chùa gần đấy, và chẳng may mắc bệnh hủi. Sau ba năm ở chùa, Kim Ngọc trở về nhờ người đến hỏi cưới Ái Châu. Nhưng Ái Châu thấy chàng có bệnh nên bội ước. Mẹ nàng bèn đem Vô Hà thay làm Ái Châu để gả cho Kim Ngọc. Còn Ái Châu sau đó lấy con quan huyện Lợi Đồ là Ái Lang.
Hồi thứ nhì:
Nhờ cha Vô Hà cứu chữa, nên Kim Ngọc khỏi bệnh. Chàng lên kinh đô thi đỗ Trạng nguyên. Lư Khải Phong lúc giờ đang làm tể tướng trong triều, muốn gả con gái cho Kim Ngọc để thêm vi cánh hòng mưu sự thoán đoạt nhưng bị chàng từ chối.
Khi ấy Hóa Long đánh lấy được thành Tây An, giết chết quan tổng đốc Từ Tuấn Kiệt. Tể tướng Khải Phong định hại Kim Ngọc, bèn sai chàng đi đánh giặc ấy, một mặt lại đưa mật thư hứa giúp Hóa Long. Kim Ngọc cùng em vợ là Hữu Quang (em Vô Hà) đi đánh giặc. Hữu Quang bị giặc bắt. Nhưng khi Kim Ngọc ra trận thì Hóa Long bị thua, phải chạy về thành Tây An. Giải thị, Thuần Lương và Ngạn yêm bèn mưu với Hữu Quang cho Hóa Long uống rượu thật say, rồi giết chết y. Kim Ngọc dẫn quân vào thành Tây An, gặp lại cha mẹ. Sau đó, Giải thị đem đầu Hóa Long làm lễ tế chồng rồi lao mình xuống sông chết. Kim Ngọc kéo quân về kinh đô, vua nhà Tống thưởng công cho tất cả mọi người. Khải Phong vì can án phản quốc phải tội chết. Vì tội hà lạm, Lợi Đồ cùng với con là Ái Lang đều phải bị giam và bị tịch biên gia sản. Ái Châu (vợ Ái Lang) cũng bị bắt đem bán lấy tiền cho đủ số sung công.
Hồi thứ ba:
Kim Ngọc được cử đi giữ thành Tây An. Vợ là Vô Hà nhân sinh con cần người hầu hạ. Bà đỡ đưa Ái Châu đến. Biết là người đính hôn với chồng mình năm xưa, Vô Hà định nhường ngôi vợ cả cho Ái Châu, nhưng Kim Ngọc không thuận. Ái Châu bèn tìm cách quyến rũ Kim Ngọc. Tức giận, chàng dò biết tội bội ước của Ái Châu, định làm án trảm. Nhờ Vô Hà xin, Ái Châu mới được tha. Sau Ái Châu vào ở thanh lâu.
Trong khi ấy, đàn em của tể tướng Lư Khải Phong, vì muốn báo thù cho anh, nên kéo quân đánh phá Đài Loan. Bấy giờ, Thành Trai (bạn cha Kim Ngọc) và Lý Thiệu Cơ (ân nhân của Thạch Hữu Quang) đang làm quan ở đấy. Hai ông này thấy thế nguy, bèn cấp báo cho nhà vua. Vua sai Kim Ngọc với Hữu Quang mang quân đi đánh. Đánh dẹp xong, cả hai đem quân về kinh đô. Khi đi qua một ngôi chùa, thấy có người thắt cổ tự tử, thì ra đó là Ái Châu. Về tới kinh đô, tất cả đều được vua Tống ban thưởng.
Nhận xét
Phạm Thế Ngũ:
Kim Thạch kỳ duyên là vở tuồng viết theo nhiều lối văn cho sân khấu: hát khách, hát tẩu mã, bạch, nói, hát dặm…. Lời văn thường pha trộn Hán Nôm, có những câu thuần là chữ Hán...Đại để đây là một câu chuyện lý tưởng đề cao trung hiếu, tiết nghĩa, rất được hoan nghênh ở thời ấy…
Phạm Tú Châu:
...Tác giả chỉ mượn đề tài hoặc địa điểm nước ngoài để gửi gắm tâm sự, nỗi bất bình của ông đối với quân cướp nước (chỉ quân Pháp) và bọn quan trên đã vu cáo hãm hại ông suýt chết...
...Bằng nghệ thuật dẫn truyện và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, tác giả từng bước đã làm cho hình tượng nhân vật sinh động hẳn lên. Tác giả biết vận dụng nhiều thể loại văn thơ, từ phú, thơ Đường, vè và thơ lục bát. Đặc biệt tác giả sử dụng thủ pháp đối rất tài tình, nhất là lối đối giả tá, khiến cho lời lẽ nhân vật tùy lúc tùy nơi mà nghiêm trang hoặc hài hước...Tuy nhiên, không phải lúc nào tác giả cũng thành công. Nhược điểm rõ nhất là nhân vật quá rườm, tình tiết thiếu cô động, đôi khi quá vụn vặt. Vở tuồng vì thế thích hợp để đọc hơn là để diễn, và người đọc cũng phải có trình độ chữ Hán nhất định thì mới thưởng thức nổi. Đó cũng là những thiếu sót tất yếu trên bước tiến ban đầu của thể loại kịch bản sân khấu ở Việt Nam .
Thông tin thêm
Khi làm lính đồn Vĩnh Thông (Châu Đốc), Thủ Khoa Nghĩa phải lòng cô Lưu Thị Chỉ, con gái thứ của xã trưởng Lưu Văn Dự. Ông định tục huyền, vì lúc này vợ ông là bà Nguyễn Thị Tồn đã mất tại Biên Hòa. Đôi bên đã làm lễ đính ước, chỉ còn chờ ngày cử hành hôn lễ. Bất ngờ, ông được lệnh phải đi xa, nên nhờ người chị là bà Hai Thừa ở nhà việc rước dâu. Không ngờ bên nhà gái đánh tráo cô dâu, đưa cô con gái lớn là Lưu Thị Ý (kém nhan sắc hơn) cho ông, để đem Lưu Thị Chỉ gả cho Đề Đinh. Thủ Khoa Nghĩa về biết được, định đem trả vợ song sự đã lỡ nên thôi. Sau đó, ông đổi tên cho vợ là Hoán (nghĩa là đổi). Về sau, Thủ Khoa Nghĩa viết tuồng Kim Thạch kỳ duyên, một phần là có ý trách móc người đã bội ước .
Danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt, tác giả bài thơ Điếu Nguyễn Trung Trực nổi tiếng, là bạn tâm giao của Bùi Hữu Nghĩa. Theo PGS. TS. Lê Trí Dũng thì chính ông Đạt đã góp phần giúp bạn hoàn thành vở tuồng Kim Thạch kỳ duyên .
Chú thích
Sách tham khảo
Dương Quảng Hàm, Việt Nam thi văn hợp tuyển (mục "Kim thạch kỳ duyên"). Trung tâm học liệu xuất bản. Bản in lần thứ 9, Sài Gòn, 1968.
Phạm Tú Châu, mục từ "Kim Thạch kỳ duyên" trong Từ điển văn học (bộ mới). Nhà xuất bản Thế giới, 2004.
Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Quyển Trung), Quốc học tùng thư, Sài Gòn, không ghi năm xuất bản.
Tác phẩm văn học Việt Nam
Tuồng
|
2231014
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agave%20neglecta
|
Agave neglecta
|
Agave neglecta là một loài thực vật có hoa trong họ Măng tây. Loài này được Small mô tả khoa học đầu tiên năm 1903.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Thùa
Thực vật được mô tả năm 1903
|
1889151
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dendrobium%20sandsii
|
Dendrobium sandsii
|
Dendrobium sandsii là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được J.J.Wood & C.L.Chan mô tả khoa học đầu tiên năm 1994.
Chú thích
Liên kết ngoài
S
Thực vật được mô tả năm 1994
|
1451869
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C3%BCrek%C3%A7i%2C%20G%C3%B6rdes
|
Kürekçi, Gördes
|
Kürekçi là một xã thuộc huyện Gördes, tỉnh Manisa, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 153 người.
Chú thích
Tham khảo
Xã thuộc tỉnh Manisa
|
2327606
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mortonia%20hidalgensis
|
Mortonia hidalgensis
|
Mortonia hidalgensis là một loài thực vật có hoa trong họ Dây gối. Loài này được Standl. mô tả khoa học đầu tiên năm 1923.
Chú thích
Liên kết ngoài
Mortonia
Thực vật được mô tả năm 1923
|
3372683
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lui%20Morais
|
Lui Morais
|
Lui Morais là một giáo sư người Brasil và nhà triết học, tác giả của cuốn sách về triết học, giả kim thuật, văn học, xamanism, âm nhạc nổi tiếng của Brazil (samba), phim ảnh, quản lý, giáo dục, điếc và các vấn đề khác.
Tác phẩm
Larápio. Rio de Janeiro: Kroart, 2004.
Pindorama. Rio de Janeiro: Kroart, 2004.
Crisólogo – O Estudante de Poesia Caetano Veloso. Rio de Janeiro: HP Comunicação, 2004.
Proteu ou: A Arte das Transmutações – Leituras, Audições e Visões da Obra de Jorge Mautner. Rio de Janeiro: HP Comunicação, 2004.
Meutaneurônios Atomizados (with Marcus Vinicius de Medeiros). Rio de Janeiro: t.mais.oito, 2008.
O Olho do Ciclope e os Novos Antropófagos – Antropofagia Cinematótica na Literatura Brasileira. Rio de Janeiro: Quártica, 2009.
Y e os Hippies (with Eliane Blener). Rio de Janeiro: Quártica, 2009.
O Estudante do Coração. Rio de Janeiro: Quártica, 2010.
O Caminho de Pernambuco (with Eliane Blener). Rio de Janeiro: Quártica, 2010.
Crisopeia (with Eliane Blener). Rio de Janeiro: Quártica, 2010.
Clone versus Gólem (with Eliane Blener). Rio de Janeiro: Quártica, 2010.
O Portal do Terceiro Milênio (with Eliane Colchete). Rio de Janeiro: Quártica, 2011.
Gigante. Rio de Janeiro: Quártica, 2012.
O Meteorito dos Homens Ab e Surdos. Rio de Janeiro: Quártica, 2011.
O Sol Nasceu pra Todos – A História Secreta do Samba. With an introduction by Ricardo Cravo Albin. Rio de Janeiro: Litteris, 2011.
Proteu ou: A Arte das Transmutações – Leituras, Audições e Visões da Obra de Jorge Mautner. Second Edition: revised and expanded. With 10 interviews with Jorge Mautner. Rio de Janeiro: Litteris, 2011.
Carlos Castaneda e a Fresta entre os Mundos – Vislumbres da Filosofia Ānahuacah no Século XXI. Rio de Janeiro: Litteris, 2012.
Natureza Viva. Rio de Janeiro: Quártica, 2012.
Abobrinhas Requintadas – Exquisite Zucchinis (with Eliane Marques Colchete). Rio de Janeiro: Quártica, 2012.
Eu Sou o Quinto Beatle. Rio de Janeiro: Quártica, 2012.
O Homem Secreto. Rio de Janeiro: Quártica, 2013.
Os que ouvem mais que nós (with Carlos Hilton). Rio de Janeiro: Litteris, 2013.
Rocambole de Carne a Copacabana (with Cláudio Carvalho and Cid Valle). Rio de Janeiro: Litteris, 2013.
As Vivências Pós-modernas (et alii). Rio de Janeiro: Quártica, 2013.
O Estudante do Coração – Ensaios Sobre a Arte Pós-Moderna. Second Edition: revised and expanded. Rio de Janeiro: Litteris, 2013.
Alquimia o Arquimagistério Solar. Alchimia seu Archimagisterium Solis in V libris. Rio de Janeiro: Quártica Premium, 2013.
Linhas Cruzadas (with Caio Reis Morais et alii). Rio de Janeiro: Quártica, 2014.
A Formação da Filosofia Contemporânea (with Eliane Marques Colchete). Rio de Janeiro: Litteris, 2014.
A Autoeducação e o Século 21. Rio de Janeiro: Litteris, 2014.
Outras Palavras (with Claudio Carvalho). Rio de Janeiro: Litteris, 2014.
Poesia de Reciclagem. Rio de Janeiro: Litteris, 2014.
Tham khảo
Tham khảo
Nhà văn Brasil
Sinh năm 1961
Nhân vật còn sống
|
51216
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%B1c%20l%C6%B0%E1%BB%A3ng%20V%C5%A9%20trang%20Liban
|
Lực lượng Vũ trang Liban
|
Quân đội Liban (tiếng Ả Rập:الجيش اللبناني; tiếng Pháp: Forces armées libanaises) là quân lực chính quy của Liban, bao gồm ba nhánh: lục quân, không quân và hải quân.
Tổng quan
Nhiệm vụ chính của quân đội Liban là gìn giữ an ninh và ổn định quốc gia, canh giữ biên phòng, cứu tế, cứu hỏa và phòng chống buôn lậu ma túy. Cả ba nhánh quân sự đều nằm dưới sự chỉ huy của bộ tư lệnh Liban, đóng tại Yarzeh, nằm phía đông của thủ đô Beirut. Toàn quốc có sáu trường dự bị quân sự, một số học viên được du học quân sự. Quân đội Liban có 85% thiết bị quân sự sản xuất tại Hoa Kỳ, còn lại có từ Anh, Pháp và Liên Xô/Nga.
Lục quân Liban
Lục quân Liban gồm có:
5 Bộ tư lệnh vùng;
11 Sư đoàn cơ giới;
1 Sư đoàn phòng vệ;
1 Trung đoàn lính đặc công;
5 Trung đoàn biệt động;
1 Trung đoàn không quân;
1 Trung đoàn đặc công hải quân;
2 Trung đoàn pháo binh;
Sư đoàn phòng vệ công cộng có nhiệm vụ bảo vệ tổng thống trong các chuyến công du.
Trang thiết bị của quân đội Liban:
Khoảng 700 xe bọc thép các loại do Hoa Kỳ chế tạo như Ford Motor M-113;
100 xe tăng hạng trung của Hoa Kỳ chế tạo như M-48 A1/A5;
200 xe tăng hạng trung của Liên Xô như T-54/T-55;
40 xe tăng hạng nhẹ AMX-13 của Pháp;
Ngoài ra còn có các loại vũ khí cá nhân khác.
Không quân còn có thêm:
30 máy bay trực thăng Bell UH-1H;
4 máy bay trực thăng Robinson R44 Raven II.
Các máy bay này trú tại căn cứ không quân Rayak ở miền Đông nước này.
Hải quân Liban
Hải quân Liban đáp ứng cho nhiệm vụ bảo vệ bờ biển, bảo vệ các cảng biển và chiến đấu chống lái sự buôn lậu hàng hóa bất hợp pháp.
Trang bị hải quân gồm:
5 tàu tuần tra lớp ATTACKER - lượng giãn nước 38 tấn;
2 tàu tuần tra lớp TRACKER - lượng giãn nước 31 tấn;
2 tàu lớp EDIC do Pháp sản xuất - lượng giãn nước 670 tấn;
25 tàu tuần tra ven bờ lượng giãn nước 6 tấn .
Nghĩa vụ quân dịch
Đàn ông Liban thực hiện chế độ quân dịch với thời gian một năm. Ngày 4 tháng 5 năm 2005, một chế độ quân dịch mới đã được áp dụng, thời gian thực hiện nghĩa vụ là 6 tháng và phải cam kết kết thúc nghĩa vụ quân dịch trong 2 năm.
Chú thích
Liên kết ngoài
Lực lượng Vũ trang Liban (LAF)
Global Defense News, Military Pictures and Discussions @ Defence Talk.com
Lebanon Military Guide from GlobalSecurity.org
Liban
bn:লেবাননের সামরিক বাহিনী
|
2424351
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nai%20%C4%91%E1%BA%A7u%20%C4%91inh
|
Nai đầu đinh
|
Nai đầu đinh hay còn biết đến với tên gọi Quang khem là một loài nai được phát hiện tại vườn quốc gia Pù Mát ở Việt Nam bởi ông Nguyễn Ngọc Chính, ông này công bố trên tạp chí Lâm nghiệp.
Phát hiện
Trong đợt điều tra khu rừng Pù Mát (Nghệ An) tháng vào tháng 12 năm 1992. Đoàn khảo sát hỗn hợp giữa Viện điều tra quy hoạch rừng và Chi cục kiểm lâm Nghệ An có thu thập được một mẫu vật gồm cặp gạc và mảng sọ của một loài thú móng guốc lạ mà các thợ săn ở địa phương này gọi là Quang khem. Mẫu vật đã được gửi đến một số chuyên gia đầu ngành về thú của Việt Nam và nước ngoài để giám định. Các chuyên gia đều khẳng định đây là mẫu vật của một loài có những điểm sai khác với tất cả các loài của chi Nai (Cervus) và Hoẵng (Muntiacus) thuộc họ Hươu nai hiện đã biết ở Việt Nam và trên thế giới. Đây là một loài mới thuộc họ Hươu nai.
Nhiều bằng chứng cũng xác định ở Lâm Đồng cũng còn loài thú này, đây là loài nai lạ bắt gặp ở Di Linh, Bảo Lộc, Cát Tiên (Lâm Đồng) và được các thợ săn gọi là Nai đầu đinh do cặp gạc của nó không phân nhánh, tựa như hai cái đinh to cắm vào đầu. Trọng lượng cơ thể của Nai đầu đinh khoảng 90–100 kg đối với con đực trưởng thành. Do màu lông của Nai đầu đinh giống với Nai Cervus unicolor nên rất khó phân biệt giữa Nai đầu đinh với Nai khi chúng ăn cỏ ở ven rừng mà đầu chưa có gạc.
Tham khảo
Shuker, K. From Flying Toads to Snakes with Wings (Llewellyn 1997), pp14–15
Linden. E. "Ancient Creatures in a Lost World" Time, ngày 20 tháng 6 năm 1994 (retrieved ngày 7 tháng 12 năm 2010)
Phát hiện loài mang lớn và loài quang khem có ở Lâm Đồng
Họ Hươu nai
Nai
|
1124368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cyrtarachne%20nagasakiensis
|
Cyrtarachne nagasakiensis
|
Cyrtarachne nagasakiensis là một loài nhện trong họ Araneidae.
Loài này thuộc chi Cyrtarachne. Cyrtarachne nagasakiensis được Embrik Strand miêu tả năm 1918.
Chú thích
Tham khảo
Cyrtarachne
|
1549432
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ngh%C4%A9a%20L%E1%BA%A1c%20%28%C4%91%E1%BB%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%29
|
Nghĩa Lạc (định hướng)
|
Nghĩa Lạc có thể là một trong số các địa danh Việt Nam sau đây:
Xã Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Hưng, Nam Định.
Xã Nghĩa Lạc, huyện Nghĩa Đàn, Nghệ An.
|
288873
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Doraemon%3A%20Nobita%20v%C3%A0%20ng%C6%B0%E1%BB%9Di%20kh%E1%BB%95ng%20l%E1%BB%93%20xanh
|
Doraemon: Nobita và người khổng lồ xanh
|
là phim khoa học viễn tưởng 2008 của đạo diễn Watanabe Ayumu và là bộ phim điện ảnh thứ 28 trong loạt phim Doraemon. Nội dung phim là chuyến phiêu lưu thú vị của Nobita và những người bạn đến hành tinh thực vật đến việc chống lại âm mưu thôn tính địa cầu của một vài lãnh đạo cấp cao hành tinh có suy nghĩ lệch lạc về người Trái Đất. Trước khi công chiếu chính thức vào ngày 8 tháng 3 năm 2008 toàn bộ nội dung tác phẩm được truyền tải thành truyện tranh đăng trên tạp chí CoroCoro Comic trong tháng 2 và tháng 3 năm 2008. Với doanh thu ước đạt 3.87 tỉ Yên, phim đứng vị trí thứ 8 trong bảng xếp hạng doanh thu Nhật Bản trong năm 2008. Ca khúc mở đầu phim là do Mao trình bày và ca khúc kết thúc là do Ayaka trình bày. Phim từng được ứng cử cho Giải thưởng Viện hàn lâm Nhật Bản . Sau Nhật Bản, phim được phát hành tại một số quốc gia trên thế giới: Trung Quốc (chiếu rạp 4 tháng 8 năm 2009), Hồng Kông (chiếu rạp 6 tháng 8 năm 2009), Đài Loan (chiếu rạp 7 tháng 8 năm 2009), Indonesia(chiếu rạp 7 tháng 8 năm 2009), Malaysia (chiếu rạp 11 tháng 9 năm 2009), Thái Lan (chiếu rạp 29 tháng 10 năm 2009), Tây Ban Nha (phát hành dưới dạng DVD 11 tháng 11 năm 2009), Bồ Đào Nha (phát sóng truyền hình 1 tháng 3 năm 2015) và Ba Lan (phát sóng truyền hình 18 tháng 10 năm 2015).
Tại Việt Nam phiên bản truyện tranh được Nhà xuất bản Kim Đồng ấn hành còn phim được Công ty Cổ phần Truyền thông Trí Việt mua bản quyền phát sóng trên kênh HTV3 vào ngày 27 tháng 9 năm 2013. Bài hát lồng tiếng Việt: mở đầu là "Doraemon" do Huyền Chi trình bày và kết thúc là "Đời cuốn xô ta" do Nam Hương trình bày.
Một trò chơi điện tử với thể loại hành động, phiêu lưu cũng được ra mắt vào ngày 06 tháng 3 năm 2008 như phần thứ tư trong dự án "Sega=Doraemon" mang tên Doraemon: Nobita và người khổng lồ xanh DS.
Nội dung
Nobita gặp rắc rối về việc phải làm gì với điểm kiểm tra 0 của mình một lần nữa. Một cơn gió thổi tung giấy kiểm tra của cậu, và cậu rơi vào một bãi rác cố gắng tập hợp chúng lại với nhau. Ở đó,cậu tìm thấy một cây khô héo bắt được từ một trong những tờ giấy của mình và cậu quyết định mang nó về nhà. Nobita cố gắng trồng nó trong vườn nhưng bị mẹ bắt, người không cho phép cậu trồng nó.
Vẫn muốn giữ nó nhưng không được phép làm, Doraemon nảy ra ý tưởng biến nó trở nên sống động với một vật dụng mà cậu sử dụng. Nobita đặt tên cho cái cây nhỏ là "Kibou" bởi vì tất cả những gì nó có thể nói là "ki". Ngày tháng trôi qua, cha mẹ của Nobita cũng chấp nhận Kibou vì anh là một cậu bé rất thông minh, người đã giúp đỡ mẹ của Nobita mỗi khi cậu đi vắng. Tuy nhiên, người ngoài hành tinh từ Hành tinh xanh quyết định thông qua phán quyết tuyên bố rằng con người đang phá hủy tất cả màu xanh lá cây trên Trái Đất. Nobita và những người bạn của mình đã trốn thoát bằng sự trùng hợp và đến hành tinh của họ. Họ được chào đón nồng nhiệt đến thành phố Green Pier của họ nhưng cũng tìm hiểu về những gì họ đang làm với hành tinh của họ.
Thật không may, với tất cả các tiện ích của mình được Dorami mượn, có rất ít Doraemon có thể làm được. Họ trốn thoát và tình cờ gặp Công chúa Rire, người đã lừa họ nghĩ rằng cô đang dẫn họ về nhà nhưng trên đường đi, biết rằng những gì cố vấn của cô sắp làm là sai. Cuối cùng, với sự giúp đỡ của Elder của hành tinh ngoài hành tinh, họ đã quay trở lại Trái Đất đã bị xâm chiếm. May mắn thay, chiếc đồng hồ Doraemon đã đánh rơi cuộc sống đóng băng trên Trái Đất cho họ cơ hội cứu tất cả mọi người. Người ngoài hành tinh cố gắng triệu tập người khổng lồ của họ bằng cách sử dụng Kibou để quét sạch tất cả con người bất chấp cảnh báo của Elder và kế hoạch gây tác dụng với họ.
Nhưng với sự kiên trì của Nobita,cậu đã đánh thức Kibou và mọi thứ được phục hồi khi Elder hy sinh bản thân mình. Công chúa Rire tuyên bố với mọi người rằng họ sẽ theo dõi Trái Đất trong thời gian này trong khi Kibou quyết định du hành vòng quanh vũ trụ để tìm hiểu thêm và trở nên giống như Elder. Nobita và bạn bè nói lời tạm biệt với Kibou và về nhà. Quay trở lại nhà của Nobita, mẹ của Nobita gọi cậu và Doraemon xuống ăn tối, và mọi người có thể thấy chiếc giày của Kibou bên cạnh chiếc giày của Nobita.
Sản xuất
Câu chuyện được lấy cảm hứng từ mẩu chuyện Khu rừng hạnh phúc (tập 26) và Vĩnh biệt Bé Cây (tập 33). Đây không phải là bộ phim làm lại, tuy nhiên Kibouu đã từng xuất hiện trong một bộ phim hoạt hình dài khác, mang tên Vương quốc trên mây. Tên Kibou bắt nguồn từ nghĩa là cây và nghĩa là một que gỗ. Từ Kibou cũng có thể bắt nguồn từ từ có nghĩa là hi vọng. Một tên khác của phim "僕らの希望が未来を動かす" (tiếng Anh: our hope moves the future), mà cái tên Kibô cũng nói đến. Giọng nói của những người vô danh trong phim được thể hiện qua giọng nói của Roku-chan và Moya-kun.
Bộ phim đã được thể hiện dưới dạng truyện tranh vào tháng hai và tháng ba trong những ấn bản của CoroCoro Comic. Nó được ra mắt như 25 tập phim dài (1980-2004) trước kia và có thể mua vé tại các rạp chiếu phim.
Bộ phim là sản phẩm của:
Công ty Asatsu
Fujiko Productions
Hãng phim hoạt hình Shin Ei
Nhà xuất bản Shogakukan
TV Asahi
Phân vai
Nhạc nền
Chú thích
Liên kết ngoài
Các trang chính thức
Thế giới Doraemon (tiếng Nhật)
Lịch sử phim
N
Doraemon
Phim Nhật Bản
Phim năm 2008
Phim Doraemon
Phim hoạt hình Toho
|
2908972
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cortyta%20ruficolora
|
Cortyta ruficolora
|
Cortyta ruficolora là một loài bướm đêm trong họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cortyta
|
13676188
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Francesco%20Russo
|
Francesco Russo
|
Francesco Russo (sinh ngày 23 tháng 12 năm 1981) là một cầu thủ bóng đá người Ý hiện tại thi đấu cho FC Chiasso theo dạng cho mượn từ FC Lugano ở vị trí thủ môn.
Tiểu sử
Russo rời để đến Lecco từ Torino năm 2001, cùng với Marco Andreotti. Năm 2002, anh rời để đến Alzano và năm 2003 là Solbiatese. Vào tháng 1 năm 2004 anh được ký bởi Sampdoria và lập tức rời để đến Palazzolo.
Năm 2004, anh được chuyển đến đội bóng tại Swiss Challenge League Chiasso. Năm 2007 Russo trở lại Ý với Lanciano.
Liên kết ngoài
Profile at aic.football.it
Profile at tuttocalciatori.net
Francesco Russo at Soccerway
Nhân vật còn sống
Sinh năm 1981
Cầu thủ bóng đá Ý
Cầu thủ bóng đá S.S. Virtus Lanciano 1924
Cầu thủ bóng đá A.S. Melfi
Cầu thủ bóng đá A.S.D. SolbiaSommese Calcio
Cầu thủ bóng đá Virtus Bergamo Alzano Seriate 1909
Thủ môn bóng đá
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Thụy Sĩ
|
2589771
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neonerita%20curta
|
Neonerita curta
|
Neonerita curta là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Neonerita
|
2657135
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Semiothisa%20pryeri
|
Semiothisa pryeri
|
Semiothisa pryeri là một loài bướm đêm trong họ Geometridae.
Chú thích
Liên kết ngoài
P
|
1250067
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Lang%20Qu%C3%A1n
|
Lang Quán
|
Lang Quán là một xã thuộc huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam.
Địa lý
Xã Lang Quán nằm ở trung tâm huyện Yên Sơn, có vị trí địa lý:
Phía đông giáp thị trấn Yên Sơn
Phía tây giáp huyện Hàm Yên và tỉnh Yên Bái
Phía nam giáp xã Chân Sơn và tỉnh Yên Bái
Phía bắc giáp xã Tứ Quận.
Xã có diện tích 27,24 km², dân số năm 2020 là 6.463 người, mật độ dân số đạt 237 người/km².
Lịch sử
Ngày 27 tháng 4 năm 2021, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1262/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2021). Theo đó, điều chỉnh 0,58 km² diện tích tự nhiên và 923 người của xã Lang Quán (gồm toàn bộ thôn 1 và thôn 6) về xã Thắng Quân quản lý.
Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Lang Quán còn lại 27,24 km² diện tích tự nhiên và 6.463 người.
Chú thích
Xem thêm
|
235416
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C6%B0u
|
Vưu
|
Vưu là một họ của người Trung Quốc (chữ Hán: 尤, Bính âm: You), nó đứng thứ 19 trong danh sách Bách gia tính. Việt Nam cũng có họ này, phân bố trong cộng đồng người Việt gốc Hoa.
Những người Việt Nam họ Vưu nổi tiếng
Vưu Tụng, một trong những địa chủ giàu nhất nhì ở Nam Kỳ thời phong kiến.
Vưu Khải Thành, người sáng lập công ty Biti's
Những người Trung Quốc họ Vưu nổi tiếng
Vưu Đình Báo, họa sĩ nổi tiếng thời nhà Tống
Vưu An Thạnh, thi sĩ thời nhà Tống
Vưu Xương, họa sĩ thời nhà Minh
Vưu Chương, đề đốc Giang Nam thời nhà Thanh
Vưu Thiên Thần, thiếu tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Vưu Hải Đào, trung tướng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Vưu Trường Tĩnh, ca sĩ, cựu thành viên nhóm nhạc Nine Percent người Malaysia
Tham khảo
Họ người Trung Quốc
|
343540
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Saint-Mard-de-Vaux
|
Saint-Mard-de-Vaux
|
Saint-Mard-de-Vaux là một xã ở tỉnh Saône-et-Loire trong vùng Bourgogne-Franche-Comté nước Pháp.
Thông tin nhân khẩu
Theo điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số 243.
Xem thêm
Xã của tỉnh Saône-et-Loire
Tham khảo
INSEE
IGN
Xã của Saône-et-Loire
|
1827772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Astragalus%20speciosus
|
Astragalus speciosus
|
Astragalus speciosus là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được Boiss. & Hohen. miêu tả khoa học đầu tiên.
Chú thích
Liên kết ngoài
S
|
1651030
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Melanopareia%20maranonica
|
Melanopareia maranonica
|
Melanopareia maranonica là một loài chim trong họ Melanopareiidae.
Chú thích
Tham khảo
Melanopareia
Động vật được mô tả năm 1924
|
1740266
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Avro%20529
|
Avro 529
|
Avro 529 là một loại máy bay ném bom tầm xa hai tầng cánh hai động cơ của Anh trong Chiến tranh thế giới I.
Tính năng kỹ chiến thuật (529A)
Tham khảo
529
Máy bay quân sự Anh thập niên 1910
Máy bay quân sự trong Thế chiến thứ nhất
Máy bay chiến đấu
Máy bay ném bom
Máy bay hai động cơ cánh quạt
Máy bay hai tầng cánh
Dự án máy bay hủy bỏ của Anh
|
1942028
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cynanchum%20nematostemma
|
Cynanchum nematostemma
|
Cynanchum nematostemma là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Liede mô tả khoa học đầu tiên năm 1996.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Bạch tiền
Thực vật được mô tả năm 1996
|
15106440
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qatana
|
Qatana
|
Qatana () là một thành phố ở miền nam Syria, thuộc khu vực hành chính của quận Qatana thuộc tỉnh Rif Dimashq. Qatana có độ cao 879 mét. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria, thành phố có dân số 33.996 trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Đây là trung tâm hành chính của Phân khu Qatana, bao gồm 20 địa phương với dân số tập thể là 147.451 trong năm 2004. Trước cuộc nội chiến Syria, trong thời gian xảy ra các cuộc đối đầu vũ trang ở Qatana, thành phố có dân số Hồi giáo Sunni (65%), Kitô hữu (20%) và Alawites (15%). Alawites là những người đến gần đây, những người di cư đến thành phố trong những năm 1970. Vào tháng 12 năm 2012, đã có báo cáo rằng 28 trạm kiểm soát của chính phủ kiểm soát thành trì chế độ đa sắc tộc này. Vào ngày 15 tháng 10 năm 2013, đã có pháo kích phát ra từ trạm kiểm soát Turba và khu vực trường học Baath.
Khí hậu
Qatana có khí hậu bán khô lạnh (phân loại khí hậu Köppen: BSk). Lượng mưa vào mùa đông cao hơn vào mùa hè. Nhiệt độ trung bình hàng năm ở Qatana là . Khoảng lượng mưa giảm hàng năm.
Tham khảo
Thành phố của Syria
|
2552265
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Compsibidion%20derivativum
|
Compsibidion derivativum
|
Compsibidion derivativum là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae.
Chú thích
Tham khảo
Compsibidion
|
2425639
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ong%20b%E1%BA%AFp%20c%C3%A0y%20ph%C6%B0%C6%A1ng%20%C4%90%C3%B4ng
|
Ong bắp cày phương Đông
|
Ong bắp cày phương Đông, tên khoa học Vespa orientalis, là một loài côn trùng xã hội trong họ Vespidae trông rất giống ong bắp cày Châu Âu. Đừng nhầm lẫn loài này với loài ong bắp cày khổng lồ châu Á (Vespa mandarinia).
Loài này được tìm thấy trong khu vực Tây Nam Á, Đông Bắc Phi, đảo Madagascar (nhưng không có báo cáo nào được đưa ra về sự hiện diện của nó trên đảo trong nhiều năm), Trung Đông, Trung Á và một phần của Nam Âu. Ong bắp cày phương Đông cũng đã được tìm thấy ở một số địa điểm biệt lập như Mexico và Chile do con người du nhập Ong bắp cày phương Đông sống trong các quần thể theo mùa bao gồm chế độ đẳng cấp do ong chúa thống trị. Chúng xây tổ dưới đất và giao tiếp với nhau bằng âm thanh rung cánh.
có một sọc màu vàng trên lớp biểu bì của nó (bộ xương ngoài lớp cuticule), có thể hấp thụ ánh sáng mặt trời để tạo ra một hiệu điện thế nhỏ và điều này có thể giúp cung cấp năng lượng cho quá trình đào. Ong bắp cày trưởng thành ăn mật hoa và trái cây, đồng thời tìm kiếm côn trùng và protein động vật để làm thức ăn cho con non của chúng. Bởi vì chúng là loài ăn xác thối, ong bắp cày cũng có thể đóng vai trò là vật truyền bệnh sau khi tiêu thụ thực vật bị nhiễm bệnh. Ong bắp cày là loài gây hại chính cho ong mật, tấn công các đàn ong để lấy mật và protein động vật. Vết đốt của ong bắp cày phương Đông có thể khá đau đối với con người và một số người bị dị ứng với vết đốt.
Phân loại và phát sinh loài
Ong bắp cày phương Đông (V. orientalis) thuộc họ Vespa trong họ Vespidae. V. orientalis có khả năng thích nghi độc đáo với khí hậu khô cằn, điều này che giấu mối quan hệ sinh vật thực vật của nó với các loài khác thuộc chi Vespa, gây khó khăn cho việc lập bản đồ chỉ dựa trên dữ liệu hình thái học. Do đó, việc sử dụng dữ liệu phân tử là rất quan trọng để lập bản đồ chính xác các mối quan hệ phát sinh loài của nó. Dựa trên phát sinh loài phân tử, V. orientalis có quan hệ họ hàng gần nhất với Vespa affinis và Vespa mocsaryana. Trong khi lịch sử tồn tại về việc công nhận các loài phụ trong nhiều loài ong bắp cày, bao gồm cả V. orientalis, bản sửa đổi phân loại gần đây nhất của chi coi tất cả các tên phụ cụ thể trong chi Vespa là từ đồng nghĩa, chỉ cho chúng thành tên không chính thức cho các dạng màu khu vực.
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
O
Động vật được mô tả năm 1771
|
2807669
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ichneumon%20recentissimus
|
Ichneumon recentissimus
|
Ichneumon recentissimus là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ichneumon
|
2317921
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sedum%20engleri
|
Sedum engleri
|
Sedum engleri là một loài thực vật có hoa trong họ Crassulaceae. Loài này được Raym.-Hamet miêu tả khoa học đầu tiên năm 1910.
Chú thích
Liên kết ngoài
Sedum
Thực vật được mô tả năm 1910
|
920011
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euliroetis%20nigripes
|
Euliroetis nigripes
|
Euliroetis nigripes là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Baly miêu tả khoa học năm 1874.
Chú thích
Tham khảo
Euliroetis
|
2030112
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ehretia%20tinifolia
|
Ehretia tinifolia
|
Ehretia tinifolia là loài thực vật có hoa trong họ Ehretiaceae. Loài này được Carl Linnaeus mô tả khoa học đầu tiên năm 1759.
Chú thích
Liên kết ngoài
T
Thực vật được mô tả năm 1759
|
2932255
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Quadratala%20atribruna
|
Quadratala atribruna
|
Quadratala atribruna là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Quadratala
|
64346
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/S.E.S.
|
S.E.S.
|
S.E.S. (Hangul: 에스이에스; từ viết tắt của Sea, Eugene, Shoo) là một nhóm nhạc nữ Hàn Quốc được thành lập vào năm 1997 bởi SM Entertainment. Nhóm bao gồm 3 thành viên: Bada, Eugene và Shoo. Album đầu tay của họ, I'm Your Girl, đã bán được 650,00 bản, trở thành album bán chạy thứ hai của một nhóm nữ ở Hàn Quốc. Các album tiếp theo của họ, Sea & Eugene & Shoo năm 1998, Love năm 1999 và A Letter from Greenland năm 2000 cũng đã trở thành những album bán chạy nhất.
Khi mới vào nghề, họ đã được mệnh danh là phiên bản nữ của H.O.T., nhóm nhạc nam cùng công ty. S.E.S. đã cạnh tranh với các nhóm nhạc đối thủ như Fin.K.L, Jewelry và Baby V.O.X, họ đã ra mắt vào cùng một thời điểm và cũng đạt được nhiều thành công.
Cũng giống như các nhóm nhạc tiền bối khác, S.E.S. cũng không thể vượt qua được "lời nguyền 5 năm". Nhóm chính thức tan rã vào tháng 12 năm 2002, sau khi đàm phán gia hạn hợp đồng không thành công với Bada và Eugene trong khi Shoo duy trì sự nghiệp của mình với SM cho đến năm 2006. Họ đã phát hành album tổng hợp Beautiful Songs vào giữa năm 2003 với tư cách là bản phát hành cuối cùng của họ.
Vào tháng 10 năm 2016, các thành viên của nhóm đã được xác nhận sẽ tái hợp để kỷ niệm 20 năm ra mắt. SM sau đó đã xác nhận rằng nhóm sẽ trở lại với một album và một buổi hòa nhạc. Vào tháng 11 năm 2016, nhóm đã phát hành đĩa đơn quảng bá "Love [story]" thuộc dự án âm nhạc SM Station của SM như một phần của dự án kỷ niệm 20 năm của họ, sau này sẽ bao gồm một buổi hòa nhạc, một album và một chương trình thực tế. Album đặc biệt kỷ niệm 20 năm của họ, Remember, được phát hành vào ngày 2 tháng 1 năm 2017, với 2 bài hát chủ đề "Remember" và "Paradise". Nhóm chính thức chia tay người hâm mộ vào năm 2017.
Thành viên
Chú thích: In đậm là trưởng nhóm
Lịch sử
1996–1997: Thành lập
Video tiểu sử chính thức của họ nói rằng Bada là người đầu tiên được phát hiện, khi Lee Soo-man xem cô hát tại trường nghệ thuật biểu diễn của cô vào năm 1996. Bị thu hút bởi giọng hát của cô, ông nhanh chóng đề nghị cô một bản hợp đồng thu âm. Eugene, mặt khác, không được chọn trực tiếp. Thay vào đó, cô đã gửi một video từ Guam, nơi cô đang sống vào thời điểm đó, thể hiện tính cách sôi nổi của cô. Nó đã đến tai các giám đốc điều hành của SM, những người đồng ý rằng cô có thể trở thành một ngôi sao. Thành viên cuối cùng được chọn là Shoo, người duy nhất trải qua quá trình thử giọng "thực sự". Họ nhanh chóng bắt đầu khóa đào tạo, trải qua các bài học về giọng nói, vũ đạo và phỏng vấn.
1997–1998: Ra mắt và Sea & Eugene & Shoo
Họ đã phát hành album đầu tiên của họ, I'm Your Girl và ra mắt công chúng vào ngày 28 tháng 11 năm 1997. Hình ảnh của họ lúc đó rất hồn nhiên, với âm hưởng chủ yếu là những bản tình ca dễ thương. Trong phần lớn hoạt động quảng bá của họ, bao gồm cả sự xuất hiện trên chương trình "Propose" của Lee Sora, họ đã thể hiện nhiều khả năng của mình: Eugene thể hiện khả năng chơi piano của mình, trong khi Bada thể hiện giọng hát mạnh mẽ của cô, với Shoo hỗ trợ cô với phần hòa âm giọng hát. Cuối cùng, đĩa đơn "I'm Your Girl" (hợp tác với thành viên Eric Mun của Shinhwa và Andy Lee đọc rap trong phần giới thiệu) và "Oh, My Love!" đã trở thành các bản hit đình đám của S.E.S. và họ nhanh chóng trở thành một trong những nhóm bán chạy nhất trong K-pop. Bada nhanh chóng được biết đến với giọng hát của cô, trong khi Eugene được công nhận bởi vẻ đẹp của cô và Shoo vì sự thông thạo tiếng Nhật của cô.
Album thứ hai của họ, Sea & Eugene & Shoo, được phát hành vào năm 1998. Mặc dù âm thanh của họ không thay đổi nhiều so với thời điểm ra mắt, nhưng video âm nhạc cho đĩa đơn "Dreams Come True", một bản cover ("Like a Fool") của nhóm nhạc Phần Lan Nylon Beat từ năm 1996, đã thu hút sự chú ý từ vẻ ngoài theo chủ đề không gian của họ, với mái tóc nổi bật và trang phục sáng bóng. Bài hát này cũng trở thành một bản hit, cùng với "너를 사랑해 (I Love You)", đã chứng kiến họ trở lại với vẻ ngoài dễ thương của mình. Cuối cùng, album đã bán được hơn 650,000 bản.
Họ cũng đã phát hành một album tiếng Nhật vào năm đó, Meguriau Sekai, nhưng nó không thành công. Giữa các album tiếng Hàn của họ, S.E.S. tiếp tục phát hành các đĩa đơn và album tiếng Nhật, nhưng chúng chưa bao giờ được đón nhận rộng rãi như các tác phẩm tiếng Hàn của họ.
1999–2000: Love và sự gia tăng mức độ phổ biến
Cuối năm 1999, album thứ ba Love được phát hành. Cuối cùng, nó đã trở thành album bán chạy nhất của họ, với hơn 762,000 bản được bán ra. Album này cũng chứng kiến sự thay đổi rõ rệt về hình ảnh của họ, từ những cô gái dễ thương thành những ca sĩ sắc sảo. Tất cả họ đều nhuộm tóc và mặc trang phục da khác thường cho các hoạt động quảng bá của họ. Trên thực tế, Bada đã tẩy tóc vàng mà quản lý của cô không hề hay biết, vì nghĩ rằng nó sẽ phù hợp với khái niệm của album. Những thay đổi đã được người hâm mộ đón nhận nồng nhiệt và bài hát chủ đề trong album, "Love", một bài hát nhạc pop có nhịp độ trung bình, cũng trở thành một thành công cho bộ ba. Điều này được giúp đỡ bởi video âm nhạc phức tạp đi kèm với bài hát, được quay ở thành phố New York và tiêu tốn hơn 1 triệu USD, một số tiền được coi là lớn đối với một video âm nhạc vào thời điểm đó. Đĩa đơn thứ hai của họ, "Twilight Zone", cũng chứng kiến sự tiếp nối của chủ đề sắc sảo, trưởng thành, mặc dù tất cả họ đều thay đổi màu tóc của họ thành các sắc thái tối hơn. Tuy nhiên, khái niệm này sau đó đã bị loại bỏ vào cuối lịch trình quảng bá của họ và cả 3 thành viên đều trở lại với một hình ảnh đơn giản hơn; điệu nhảy cho "Twilight Zone" sau đó cũng được thay đổi. Các hoạt động quảng bá tiếp tục vào cuối tháng 1 năm 2000.
2000: A Letter From Greenland
Tháng 12 năm 2000 chứng kiến việc phát hành album thứ tư của S.E.S., A Letter From Greenland. Điều này một lần nữa đi kèm với một sự thay đổi về hình ảnh. Album này chứng kiến họ rời bỏ hoàn toàn hình tượng dễ thương, thay vào đó là khái niệm "trưởng thành". Tất cả các thành viên đều mặc vest cho buổi biểu diễn của họ và trông sành điệu hơn đáng kể. Phong cách các bài hát của họ cũng rời xa nhạc pop nhẹ nhàng, thay vì có các bài hát nhạc pop dễ thương (như hai album đầu tiên của họ), hoặc các bài hát R&B-pop (như album thứ ba của họ), album này rất đa dạng. "감싸 안으며 (Show Me Your Love)" là đĩa đơn đầu tiên trong album. Bản cover bài hát "Tsutsumi Komu Youni..." của ngôi sao J-pop Misia, bài hát là một bản ballad chậm rãi, vui nhộn thể hiện khả năng thanh nhạc của cả bộ ba. Đĩa đơn và album này tiếp tục chuỗi chiến thắng của S.E.S., giúp củng cố vị thế của họ là nhóm nhạc hàng đầu K-pop vào thời điểm đó. Đĩa đơn thứ hai, "Be Natural", cũng hoạt động khá tốt, mặc dù được quảng bá kém hơn so với đĩa đơn đầu tiên.
2001: Surprise
Vào mùa hè năm 2001, một album đặc biệt được phát hành. Được gọi là Surprise, album thứ 4,5 của họ là một tập hợp các bài hát tiếng Nhật của họ được thu âm lại bằng tiếng Hàn (với nhạc cụ mới). Đĩa đơn đầu tiên, "꿈 을 모아서 (Just In Love)", đã đưa S.E.S. trở lại chủ đề vui vẻ, mặc dù họ đã tránh những hình ảnh đáng yêu từ khi ra mắt. Video được quay ở Thái Lan, và nó phù hợp với chủ đề mùa hè của bài hát. Bài hát đã thành công, và được quảng bá rộng rãi. Tuy nhiên, hoạt động quảng bá đã bị cắt ngắn sau khi thành viên Bada ngã quỵ vì kiệt sức trong buổi biểu diễn trên một trong những chương trình âm nhạc lớn của Hàn Quốc. Do đó, các đĩa đơn khác của họ trong album đã được phát hành mà không có video âm nhạc mới, thay vào đó chúng là video tổng hợp hoặc dựng phim. Album hoạt động kém hơn so với các tác phẩm trước của nhóm, mặc dù vẫn bán được hơn 350,000 bản.
2002: Choose My Life-U và Friend
Album trở lại của họ, Choose My Life-U (thứ 5 của họ) được phát hành vào đầu mùa xuân năm 2002. Đây là phần tiếp theo của chủ đề phức tạp của họ, với tập sách album đầy những hình ảnh gợi cảm của các cô gái. Đĩa đơn đầu tiên của họ "U" khá khác biệt, rất thiên về vũ đạo; video cho thấy các cô gái ở các vai trò và vị trí thống trị, với Eugene thậm chí còn trở thành người thống trị cho một cảnh quay. Bài hát này cũng đã làm tốt và đưa S.E.S. trở lại vị trí đầu bảng xếp hạng. "Just A Feeling", đĩa đơn thứ hai của họ trong album, là một bài hát nhạc dance tràn đầy năng lượng với một video cũng tràn đầy năng lượng. Tuy nhiên, lịch trình quảng bá cho bài hát của họ bị hạn chế và nó không được biểu diễn thường xuyên như các đĩa đơn khác của họ. "Feeling" trở thành một trong số ít đĩa đơn của họ không đạt vị trí đầu bảng xếp hạng chương trình âm nhạc.
Album trở lại của họ Friend (thứ 5,5 của họ), được phát hành vào cuối cùng năm. Bài hát chủ đề mang tên "Soul II Soul (S.II.S.)", là một cách chơi chữ (vì số 2 có thể được phát âm là "E" trong tiếng Hàn). Trong video âm nhạc có chủ đề tối, Bada được nhìn thấy đang viết thư trong khi khóc, Eugene đang cắt những con thỏ nhồi bông trong một căn phòng (cho thấy sự bất ổn về tinh thần) và Shoo được nhìn thấy đang vuốt ve một quả cầu ánh sáng lớn trên giường của cô. Bài hát chưa bao giờ được biểu diễn trên truyền hình.
2003–2015: Các hoạt động sau tan rã và đoàn tụ
Sau khi phát hành album tổng hợp Beautiful Songs, các thành viên đã theo đuổi sự nghiệp cá nhân trong âm nhạc và diễn xuất.
Vào năm 2007, nhóm kỷ niệm 10 năm thành lập và vào năm 2008, họ đã xuất hiện với tư cách là một nhóm trong chương trình Happy Sunday của Hàn Quốc. Vào tháng 10 năm 2009, họ xuất hiện cùng nhau trong chương trình Come To Play.
Vào năm 2014, bài hát "Be Natural" được nhóm nhạc nữ Red Velvet cùng công ty làm lại, nhóm bao gồm 4 thành viên vào thời điểm đó. Bài hát được coi là đĩa đơn chính thức thứ hai của họ. Cũng trong năm đó, thành viên Bada và Shoo xuất hiện với tư cách khách mời trong chương trình Infinite Challenge, như một phần của chương trình đặc biệt theo chủ đề những năm 1990 của họ, Saturday, Saturday, I Am A Singer. Tại sự kiện này, Eugene vắng mặt vì mang thai và được đại diện bởi thành viên Seohyun của Girls' Generation.
2016–2017: Dự án kỷ niệm 20 năm
Vào ngày 28 tháng 5 năm 2016, S.E.S. tham dự sự kiện từ thiện Green Heart Bazaar. Vài tháng sau, vào tháng 10, có thông báo rằng S.E.S. sẽ chính thức trở lại sân khấu âm nhạc vào năm 2016, gần 20 năm kể từ khi phát hành album đầu tay. Vào ngày 23 tháng 11, lịch trình của nhóm đã được hãng thu âm của họ tiết lộ, với thông báo chính thức về một album kỷ niệm đặc biệt. Vào ngày 23 tháng 11, dự án trở lại #Remember của nhóm đã được tiết lộ, chi tiết các bản phát hành sắp tới của S.E.S. Vào ngày 28 tháng 11, S.E.S. phát hành bài hát "Love [story]", bản làm lại từ bài hát "I'm Your Girl" năm 1997 và bài hát "Love" năm 1999, thông qua dự án SM Station. Video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 29 tháng 12.
Bắt đầu từ ngày 5 tháng 12, nhóm tham gia chương trình thực tế Remember, I'm Your S.E.S., bao gồm 10 tập, phát sóng thông qua ứng dụng di động Oksusu. Họ cũng đã tổ chức một buổi hòa nhạc kéo dài 2 ngày, "Remember The Day", vào ngày 30 và 31 tháng 12 tại Daeyang Hall của Đại học Sejong ở Seoul. Vào ngày 17 tháng 12 năm 2016, S.E.S. đã biểu diễn trên You Hee-yeol's Sketchbook.
Vào ngày 27 tháng 12, đã có thông báo rằng album mới của S.E.S. sẽ có tên Remember và bao gồm 2 bài hát chủ đề. Hai ngày sau, bản xem trước cho các video âm nhạc của bài hát chủ đề "Remember" và "Paradise" đã được phát hành cùng với video âm nhạc đầy đủ của "Love [story]". Đĩa đơn đầu tiên "Remember" được phát hành chính thức trước album vào ngày 1 tháng 1, với video âm nhạc của nó; đĩa đơn thứ hai "Paradise" được phát hành vào ngày 2 tháng 1, cũng với video âm nhạc của nó, cùng với album đầy đủ.
Vào ngày 1 tháng 3, họ đã tổ chức một buổi gặp gỡ người hâm mộ mang tên "I Will Be There, Waiting For You".
Danh sách đĩa nhạc
Album tiếng Hàn
I'm Your Girl (1997)
Sea & Eugene & Shoo (1998)
Love (1999)
A Letter from Greenland (2000)
Choose My Life-U (2002)
Remember (2017)
Album tiếng Nhật
Reach Out (1999)
Be Ever Wonderful (2000)
Buổi hòa nhạc
A Sweet Kiss from The World of Dream (2000)
Remember, the Day (2016)
Giải thưởng và đề cử
Tham khảo
Liên kết ngoài
Trang web chính thức
Khởi đầu năm 1997 ở Hàn Quốc
Khởi đầu năm 2016 ở Hàn Quốc
Nhóm nhạc pop Nhật Bản
Nhóm nhạc K-pop
Ban nhạc thành lập năm 1997
Nghệ sĩ SM Entertainment
SM Town
Nhóm nhạc dance Hàn Quốc
Nhóm nhạc nữ Hàn Quốc
|
1883460
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cleisostoma%20rostellatum
|
Cleisostoma rostellatum
|
Cleisostoma rostellatum là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được (Ridl.) Garay mô tả khoa học đầu tiên năm 1972.
Chú thích
Liên kết ngoài
Cleisostoma
Thực vật được mô tả năm 1972
|
1430436
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Playas%20de%20Rosarito
|
Playas de Rosarito
|
Playas de Rosarito là một đô thị thuộc bang Baja California, México. Năm 2005, dân số của đô thị này là 73305 người.
Đây là một thành phố nghỉ mát ven biển ở bang Baja California của Mexico nằm khoảng 10 dặm về phía nam của biên giới Hoa Kỳ ở khu tự quản Rosarito Beach. Bãi biển và các câu lạc bộ khiêu vũ là các điểm đến phổ biến cho những người trẻ tuổi đến từ Hoa Kỳ trong những ngày cuối tuần Memorial Day và Labor Day. Bãi biển Rosarito là thủ phủ của khu tự quản Rosarito. Thành phố này là lớn thứ hai trong khu vực đô thị Tijuana bãi phía nam của khu vực đô thị quốc tế San Diego-Tijuana. Ngoài ra, nó là thủ phủ khu tự quản cực tây Mexico, hơi xa hơn về phía tây Tijuana, nằm trong đất liền phía bắc-đông bắc.
Tham khảo
Đô thị bang Baja California
|
751734
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Raphitoma%20alternans
|
Raphitoma alternans
|
Raphitoma alternans là một loài ốc biển, là động vật thân mềm chân bụng sống ở biển thuộc họ Conidae.
Miêu tả
Phân bố
Chú thích
Tham khảo
Raphitoma
Động vật được mô tả năm 1884
|
1847368
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stachys%20tschatkalensis
|
Stachys tschatkalensis
|
Stachys tschatkalensis là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Knorring miêu tả khoa học đầu tiên năm 1953.
Chú thích
Liên kết ngoài
Stachys
Thực vật được mô tả năm 1953
|
2375877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alangium%20rotundifolium
|
Alangium rotundifolium
|
Alangium rotundifolium là một loài thực vật có hoa trong họ Cornaceae. Loài này được (Hassk.) Bloemb. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1935.
Chú thích
Liên kết ngoài
Alangium
Thực vật được mô tả năm 1935
|
1621772
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kallahalli%2C%20Hospet
|
Kallahalli, Hospet
|
Kallahalli là một làng thuộc tehsil Hospet, huyện Bellary, bang Karnataka, Ấn Độ.
Tham khảo
Làng ở huyện Bellary
|
1865365
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Notopleura%20marginata
|
Notopleura marginata
|
Notopleura marginata là một loài thực vật có hoa trong họ Thiến thảo. Loài này được (Benth.) Bullock mô tả khoa học đầu tiên năm 1958.
Chú thích
Liên kết ngoài
Notopleura
Thực vật được mô tả năm 1958
|
2583603
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Delphyre%20bimaculata
|
Delphyre bimaculata
|
Delphyre bimaculata là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Delphyre
|
2807549
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chi%E1%BA%BFn%20tranh%20gi%E1%BA%A3i%20ph%C3%B3ng%20Bangladesh
|
Chiến tranh giải phóng Bangladesh
|
{{Infobox military conflict
| date = 26 tháng 3 – 16 tháng 12 năm 1971 ()
| place = Đông Pakistan và vịnh Bengal
| casus = Pakistan chống lại người Bengal tại Đông Pakistan (Bangladesh), người Bengal tại Bangladesh đòi độc lập
| image = BangladeshLiberationWarMontage.jpg
| image_size = 375px
| caption =
| territory = Đông Pakistan ly khai và trở thành Bangladesh độc lập
| result = Cộng hòa Nhân dân Bangladesh độc lập
Bộ tham mưu miền Đông Pakistan sụp đổ
Liên quân Bangladesh-Ấn Độ chiến thắng
| combatant1 = Bangladesh
(từ 3 tháng 12 năm 1971)
| commander1 = M. A. G. Osmani K. M. Shafiullah Ziaur Rahman Khaled Mosharraf J.S. Aurora Sam Manekshaw Sagat Singh J. F. R. Jacob
| combatant2 =
Quân đội Pakistan
Lực lượng bán quân sự:
Jamaat-e-Islami
Ủy ban Shanti
Razakar
Al-Badr
Al-Sham
| commander2 = A.A.K. Niazi Tikka Khan Abdul Hamid Khan Mohammad Shariff Patrick D. Callaghan Enamul Huq Khadim Hossein Raja Rao Farman Ali A. O. Mitha Mohd Jamshed Jahanzeb Arbab Ghulam Azam (Ủy ban Shanti committee) Motiur Rahman Nizami (Al-Badr)
| strength1 = Lực lượng Bangladesh: 175.000 Ấn Độ: 250.000
| strength2 = Quân đội Pakistan: ~ 365.000 (90.000 tại Đông Pakistan)
Lực lượng bán quân sự: ~250.000<ref>p. 442 Indian Army after Independence by KC Pravel: Lancer 1987 [ISBN 81-7062-014-7]</ref>
| casualties1 = Lực lượng Bangladesh: 30.000 Ấn Độ: 1.426 thiệt mạng 3.611 bị thương (chính thức) 1.525 thiệt mạng 4.061 bị thương
| casualties2 = Pakistan
~8.000 thiệt mạng
~10.000 bị thương
93.000 tù binh (56.694 binh sĩ 12.192 bán quân sự)Số liệu từ Pakistani Prisoners of War in India của Col S.P. Salunke p.10 được trích dẫn trong Indian Army after Independence của KC Pravel: Lancer 1987 (ISBN 81-7062-014-7)
| notes = Tổng số thường dân thiệt mạng: Ước tính từ 300.000 đến 3.000.000
|partof=Chiến tranh Lạnh}}
Chiến tranh giải phóng Bangladesh ( Muktijuddho'') diễn ra tại Nam Á vào năm 1971, dẫn đến việc thành lập nước Cộng hòa Bangladesh. Chiến tranh là cuộc đọ sức của Đông Pakistan (sau đó Ấn Độ tham dự) chống lại Tây Pakistan, và kéo dài trong chín tháng. Trong chiến tranh, diễn ra các hành động tàn bạo quy mô lớn, khiến 10 triệu người phải đi tị nạn và 30 triệu người phải chuyển chỗ.
Chiến tranh bùng nổ vào ngày 26 tháng 3 năm 1971, khi Quân đội Pakistan phát động một chiến dịch quân sự nhằm chống lại những người Bengal yêu cầu chính phủ quân sự Pakistan chấp thuận kết quả của cuộc tổng tuyển cử dân chủ đầu tiên tại Pakistan, mà theo đó một đảng miền đông giành được chiến thắng. Phản ứng lại với chiến dịch, các chính trị gia và sĩ quan quân sự người Bengal tuyên bố nền độc lập của Bangladesh. Các lực lượng quân sự, bán quân sự, dân sự người Bengal hợp thành Mukti Bahini, tiến hành chiến tranh du kích chống lại lực lượng Pakistan. Chính phủ Bangladesh lưu vong được thành lập tại thành phố Calcutta của Ấn Độ.
Sau khi Pakistan tiến hành oanh tạc miền Bắc Ấn Độ, vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, Ấn Độ tham dự vào chiến tranh. Do phải đương đầu với cả hai mặt trận chiến tranh, các công sự của Pakistan nhanh chóng sụp đổ. Ngày 16 tháng 12, Liên quân Bangladesh và Ấn Độ đánh bại quân Pakistan tại phía đông. Sự kiện Pakistan đầu hàng dẫn đến kết quả là một lượng tù binh chiến tranh lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai.
Bối cảnh
Vào tháng 8 năm 1947, hai quốc gia Pakistan và Ấn Độ chính thức thành lập. Quốc gia tự trị Pakistan gồm hai khu vực riêng biệt về địa lý và văn hóa ở phía đông và phía tây, cách biệt qua Ấn Độ. Khu vực phía tây được gọi phổ biến là Tây Pakistan còn khu vực phía đông (nay là Bangladesh) ban đầu được gọi là Đông Bengal và sau được gọi là Đông Pakistan. Mặc dù dân số của hai khu vực gần như ngang bằng, song quyền lực chính trị tập trung tại Tây Pakistan và có nhận thức rộng rãi rằng Đông Pakistan bị lợi dụng về mặt kinh tế, gây nên nhiều bất bình. Việc quản lý hai lãnh thổ không liền kề cũng được xem là một thách thức. Một chính đảng Đông Pakistan (Liên minh Awami) giành thắng lợi trong tổng tuyển cử năm 1970, song giới cầm quyền tại Tây Pakistan từ chối trao lại quyền lực, làm gia tăng bất mãn chính trị và chủ nghĩa dân tộc văn hóa tại Đông Pakistan, lực lượng của giới cầm quyền dùng vũ lực đàn áp.
Hành động trấn áp mang tính bạo lực của Quân đội Pakistan khiến thủ lĩnh của Liên minh Awami là Sheikh Mujibur Rahman tuyên bố Đông Pakistan độc lập với tên gọi Bangladesh vào ngày 26 tháng 3 năm 1971. Tổng thống Pakistan Agha Mohammed Yahya ra lệnh cho Quân đội Pakistan khôi phục quyền lực của chính phủ trung ương, nội chiến bắt đầu. Chiến tranh dẫn đến dòng người đi tị nạn (ước tính khoảng 10 triệu) tràn vào miền Đông Ấn Độ.
Tranh luận ngôn ngữ
Năm 1948, Toàn quyền Pakistan đầu tiên là Mohammad Ali Jinnah tuyên bố tại Dacca rằng "Urdu, và chỉ có Urdu" sẽ là ngôn ngữ chung của toàn Pakistan. Điều này gây tranh luận cao độ, do tiếng Urdu chỉ là ngôn ngữ của người Muhajir (ở phía tây) và người Bihar (ở phía đông), mặc dù tiếng Urdu được các lãnh đạo chính trị và tôn giáo xúc tiến để trở thành ngôn ngữ chung của người Hồi giáo tại Ấn Độ. Ngôn ngữ được cho là một yếu tố quan trọng đối với văn hóa Hồi giáo của người Hồi giáo Ấn Độ; tiếng Hindi và chữ Devanagari thì được nhìn nhận là nền tảng của văn hóa Ấn Độ giáo. Đa số người phía tây của Quốc gia tự trị Pakistan nói tiếng Punjab, trong khi tiếng Bengal là ngôn ngữ của đại đa số người Đông Bengal (từ năm 1956 là Đông Pakistan). Tranh luận về ngôn ngữ cuối cùng lên đến đỉnh điểm khi Đông Bengal nổi dậy trong khi những nơi khác tại Pakistan vẫn yên ổn mặc dù tiếng Punjab là ngôn ngữ của đa số cư dân phía tây. Một số sinh viên và thường dân thiệt mạng trong một cuộc trấn áp của cảnh sát vào ngày 21 tháng 2 năm 1952. Tại Bangladesh và Tây Bengal, ngày này được kỷ niệm với tên gọi Ngày Liệt sĩ ngôn ngữ. Đến năm 1999, nhằm kỷ niệm sự kiện năm 1952, UNESCO tuyên bố ngày 21 tháng 2 là ngày Ngôn ngữ mẹ đẻ quốc tế.
Chênh lệch
Mặc dù Đông Pakistan có dân số đông hơn, song Tây Pakistan chiếm ưu thế trong chính trị quốc gia và nhận được ngân sách lớn hơn.
Người Bengal không có đại diện đầy đủ trong Quân đội Pakistan, các sĩ quan có nguồn gốc Bengal trong quân đội chỉ chiếm 5% vào năm 1965; trong số đó chỉ có một số là nắm giữ các chức vụ chỉ huy, và đa số nắm giữ các chức vụ kỹ thuật hoặc quản trị. Người Tây Pakistan cho rằng người Bengal không dũng cảm như người Pashtun và người Punjab; quan điểm "các Chủng tộc thượng võ" bị người Bengal cho là lố bịch và sỉ nhục. Hơn nữa, mặc dù chi tiêu quốc phòng ở mức lớn, song Đông Pakistan không nhận được lợi ích, như các hợp đồng, mua sắm và các công việc hỗ trợ quân sự. Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1965 về vấn đề Kashmir cũng khiến người Bengal bừng tỉnh về cảm giác bất an quân sự, do họ chỉ có một sư đoàn bộ binh không đủ mạnh và 15 chiến đấu cơ, không có xe tăng để có thể ngăn chặn bất kỳ vụ trả đũa nào của Ấn Độ trong xung đột.
Khác biệt chính trị
Mặc dù Đông Pakistan chiếm đa số ở mức thấp trong dân số quốc gia, song quyền lực chính trị vẫn nằm trong tay người Tây Pakistan. Do một hệ thống đại diện chỉ dựa theo dân số sẽ khiến tập trung quyền lực chính trị tại Đông Pakistan, người Tây Pakistan đưa ra kế hoạch "Một đơn vị" mà theo đó toàn bộ Tây Pakistan được xem là một tỉnh. Sau vụ ám sát thủ tướng đầu tiên của Pakistan là Liaquat Ali Khan vào năm 1951, quyền lực chính trị bắt đầu được trao cho Tổng thống Pakistan, và cuối cùng là giới quân sự.
Người Đông Pakistan nhận thấy rằng thế lực Tây Pakistan sẽ nhanh chóng hạ bệ bất kỳ Thủ tướng Pakistan đắc cử nào là người Đông Pakistan, như Khawaja Nazimuddin, Muhammad Ali Bogra, hay Huseyn Shaheed Suhrawardy. Sự ngờ vực của họ càng bị ảnh hưởng do chế độ độc tài quân sự của Ayub Khan (1958– 1969) và Yahya Khan (1969–1971), cả hai đều là người Tây Pakistan. Tình hình lên đến đỉnh điểm vào năm 1970, khi chính đảng Đông Pakistan lớn nhất là Liên minh Awami giành chiến thắng trong tổng tuyển cử quốc gia. Chính đảng này giành được 167 trong số 169 ghế phân cho Đông Pakistan, và do đó chiếm đa số trong số 313 ghế trong Quốc hội. Theo hiến pháp, điều này cho phép Liên minh Awami quyền thành lập một chính phủ. Tuy nhiên, lãnh đạo của Đảng Nhân dân Pakistan là Zulfikar Ali Bhutto (một người Sindh) từ chối cho lãnh đạo của Liên minh Awami là Sheikh Mujibur Rahman trở thành Thủ tướng Pakistan. Thay vào đó, người này đề xuất ý tưởng về việc có hai thủ tướng, mỗi người quản lý một phần. Đề xuất này gây phẫn nộ tại phía đông, vốn đã tức giận trước "một đơn vị". Zulfikar Ali Bhutto cũng từ chối chấp thuận đề xuất Sáu điểm của Sheikh Mujibur Rahman. Ngày 3 tháng 3 năm 1971, hai nhà lãnh đạo của hai phần cùng với Tổng thống Yahya Khan họp tại Dacca để quyết định vận mệnh của quốc gia. Sau khi các cuộc thương thảo không đem lại kết quả khả quan, Sheikh Mujibur Rahman kêu gọi một cuộc đình công toàn quốc. Zulfikar Ali Bhutto lo sợ xảy ra một cuộc nội chiến nên cử Mubashir Hassan thương thảo. Một thông điệp được truyền đi và Sheikh Mujibur Rahman quyết định gặp Zulfikar Ali Bhutto. Cả hai chấp thuận về việc hình thành một chính phủ liên minh với thủ tướng là Sheikh Mujibur Rahman và tổng thống là Zulfikar Ali Bhutto. Tuy nhiên, quân đội không biết về những tiến triển này, và Zulfikar Ali Bhutto gia tăng áp lực với Sheikh Mujibur Rahman để đạt được một quyết định.
Ngày 7 tháng 3 năm 1971, Sheikh Mujibur Rahman phát biểu tại Racecourse Ground (nay gọi là Suhrawardy Udyan). Trong bài phát biểu này ông đề cập đến một điều kiện bốn điểm để xem xét tại kỳ họp Quốc hội vào ngày 25 tháng 3:
Ngay lập tức bãi bỏ thiết quân luật.
Rút ngay lập tức toàn bộ nhân viên quân sự về doanh trại của họ.
Một cuộc điều tra về thiệt hại sinh mạng.
Chuyển giao ngay lập tức quyền lực cho các đại diện được bầu của nhân dân trước kỳ họp quốc hội ngày 25 tháng 3.
Phản ứng với Cơn Bão Bhola (1970)
Cơn bão Bhola 1970 đổ bộ vào bờ biển Đông Pakistan trong tối ngày 12 tháng 11, đồng thời với thủy triều cao tại địa phương, ước tính khiến 300.000 đến 500.000 người thiệt mạng. Mặc dù không rõ về tổng thiệt hại về nhân mạng, song nó được cho là cơn bão nhiệt đới chí tử theo các ghi chép. Một tuần sau khi cơn bão Bhola đổ bộ, Tổng thống Yahya Khan thừa nhận rằng chính phủ của ông đã "sơ suất" và "sai lầm" trong việc điều khiển các nỗ lực cứu trợ do thiếu hiểu biết về mức độ của thiên tai.
Mười ngày sau khi cơn bão Bhola đổ bộ, 11 lãnh đạo chính trị tại Đông Pakistan phát hành một bản tuyên bố, trong đó buộc tội chính phủ "xao lãng, vô tình và hoàn toàn lãnh đạm". Họ cũng cáo buộc tổng thống làm giảm tầm quan trọng của vấn đề trong tin tức tường thuật. Ngày 19 tháng 11, các sinh viên tổ chức tuần hành tại Dacca để phản đối việc chính phủ phản ứng chậm.
Do xung đột giữa Đông và Tây Pakistan mở rộng trong tháng 3, các văn phòng tại Dacca của hai tổ chức chính phủ trực tiếp tham gia vào nỗ lực cứu trợ bị đóng cửa trong ít nhất hai tuần, đầu tiên là do tổng đình công và sau đó là lệnh cấm của Liên minh Awami. Do căng thẳng gia tăng, các nhân viên ngoại quốc được rút đi do lo ngại về bạo lực. Công tác cứu trợ vẫn tiếp tục, song các kế hoạch dài hạn bị rút ngắn.
Chiến dịch Đèn pha rọi
Quân đội Pakistan tiến hành một cuộc bình định bằng quân sự có kế hoạch, đặt hiệu là Chiến dịch Đèn pha rọi, bắt đầu vào ngày 25 tháng 3 nhằm kiềm chế phong trào dân tộc chủ nghĩa Bengal nắm quyền kiểm soát các thành phố lớn vào ngày 26 tháng 3, và sau đó tiêu trừ toàn bộ thế lực đối lập về chính trị hay quân sự, trong vòng một tháng. Trước khi bắt đầu chiến dịch, toàn bộ ký giả ngoại quốc bị trục xuất có hệ thống khỏi Đông Pakistan.
Giai đoạn chính của Chiến dịch Đèn pha rọi kết thúc khi thành thị lớn cuối cùng trong tay người Bengal thất thủ vào trung tuần tháng 5. Chiến dịch cũng khởi đầu cho các hành động tàn bạo, với những vụ giết người có hệ thống khiến người Bengal hết sức tức giận. Truyền thông quốc tế và các sách tham khảo bằng tiếng Anh công bố số liệu thương vong khác biệt rất lớn, từ 5.000 đến 35.000 tại Dacca, và 200.000–3.000.000 tại Bangladesh.
Sheikh Mujibur Rahman bị Quân đội Pakistan bắt giữ. Yahya Khan bổ nhiệm Rahimuddin Khan chủ tọa một phiên tòa đặc biệt để truy tố Sheikh Mujibur Rahman với nhiều tội danh. Kết án của tòa chưa từng được công khai, song dù sao Yahya Khan cũng đình chỉ phán quyết. Các lãnh đạo khác của Liên minh Awami cũng bị bắt giữ, trong khi một vài người chạy khỏi Dacca để tránh bị bắt. Yahya Khan ban hành lệnh cấm đối với Liên minh Awami.
Một lãnh đạo của Awami là M A Hannan được thuật là người đầu tiên công bố tuyên bố độc lập trên sóng phát thanh vào ngày 26 tháng 3 năm 1971. Ngày 26 tháng 3 năm 1971 được xem là Ngày Độc lập chính thức của Bangladesh, và tên gọi Bangladesh có hiệu lực kể từ đó. Tháng 7 năm 1971, Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi công khai gọi Đông Pakistan cũ là Bangladesh.
Chiến tranh giải phóng
Tháng 3-tháng 6
Đầu tiên, sự kháng cự là tự phát và thiếu tổ chức, và không được dự kiến sẽ kéo dài. Tuy nhiên, khi Quân đội Pakistan đàn áp dân cư, kháng cự gia tăng. Quân đội giải phóng (Mukti Bahini) trở nên tích cực hơn. Quân đội Pakistan tìm cách để dẹp yên họ, song ngày càng nhiều binh sĩ người Bengal đào thoát sang "quân đội Bangladesh" hoạt động ngầm. Các đơn vị của người Bengal này dần sáp nhập vào Mukti Bahini và được giúp đỡ về vũ khí từ Ấn Độ. Pakistan phản ứng bằng việc không vận hai sư đoàn bộ binh và tái cấu trúc lực lượng của họ. Họ cũng xây dựng các lực lượng bán quân sự Razakar, Al-Badr và Al-Sham, cũng như những người Bengal khác phản đối độc lập, và người Hồi giáo Bihar định cư từ khi phân chia.
Ngày 17 tháng 4 năm 1971, một chính phủ lâm thời được thành lập ở huyện Meherpur phía Tây Bangladesh, gần biên giới với Ấn Độ. Sheikh Mujibur Rahman được cử làm Tổng thống mặc dù ông đang bị Pakistan giam giữ, Syed Nazrul Islam làm quyền Tổng thống, Tajuddin Ahmed làm Thủ Tướng, và Muhammad Ataul Ghani Osmani làm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Bangladesh. Do giao tranh giữa Quân đội Pakistan và Mukti Bahini tăng lên, ước tính có khoảng 10 triệu người Bengal tìm cách tị nạn tại các bang Assam và Tây Bengal của Ấn Độ.
Tháng 6-tháng 9
Tướng Muhammad Ataul Ghani Osmani có quan điểm khác biệt với giới lãnh đạo của Ấn Độ đối với vai trò của Mukti Bahini trong xung đột. Giới lãnh đạo Ấn Độ ban đầu cho rằng lực lượng Bengal nên được huấn luyện thành một nhóm du kích tinh nhuệ quy mô nhỏ gồm 8.000 thành viên, dẫn đầu là các binh sĩ của trung đoàn Đông Bengal còn sống hoạt động trong các chi bộ nhỏ quanh Bangladesh để tạo thuận tiện cho sự can thiệp cuối cùng của Ấn Độ, song chính phủ Bangladesh lưu vong và Tướng Ataul Ghani Osmani thì ủng hộ chiến lược sau:
Lực lượng Bengal quy ước sẽ chiếm giữ các khu vực công sự bên trong Bangladesh và sau đó chính phủ Bangladesh sẽ thỉnh cầu công nhận ngoại giao và can thiệp từ quốc tế. Ban đầu, Mymensingh được lựa chọn để tiến hành chiến dịch này, song Osmani sau đó quyết định chọn Sylhet.
Gửi tối đa số du kích vào trong Bangladesh nhanh nhất có thể với các mục tiêu sau:
Tăng thương vong cho Pakistan bằng cách đột kích và phục kích.
Làm tê liệt hoạt động kinh tế bằng cách đánh các nhà máy điện, đường sắt, kho lưu trữ và mạng lưới truyền thông.
Tiêu trừ khả năng di động của quân Pakistan bằng cách cho nổ cầu cống, kho nhiên liệu, xe lửa và tàu thủy.
Mục tiêu chiến lược là khiến cho quân Pakistan dàn trải lực lượng của họ trong tỉnh, để có thể tiến hành tiến công tại các phân đội Pakistan nằm cô lập.
Bangladesh được chia thành 11 quân khu vào tháng 7, mỗi quân khu có một sĩ quan chỉ huy được lựa chọn từ các sĩ quan đào ngũ từ quân Pakistan sang Mukti Bahini để chỉ huy các hoạt động du kích và huấn luyện chiến sĩ. Hầu hết các trại huấn luyện của họ nằm gần khu vực biên giới và hoạt động với sự trợ giúp từ Ấn Độ. Quân khu 10 nằm dưới quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng tư lệnh M. A. G. Osmani và gồm có cả đặc công hải quân cùng lực lượng đặc biệt. Ba lữ đoàn (11 tiểu đoàn) được kiến thiết cho chiến tranh quy ước; một lực lượng du kích lớn được đào tạo.
Ba lữ đoàn (8 tiểu đoàn bộ binh và 3 tiểu đoàn pháo binh) được đưa vào chiến đấu từ tháng 7 đến tháng 9. Trong tháng 6-tháng 7, Mukti Bahini tái tập hợp ở bên kia biên giới với sự hỗ trợ của Ấn Độ thông qua Chiến dịch Jackpot và bắt đầu đưa 2000 – 5000 quân du kích qua biên giới, được gọi là cuộc Tấn công Gió mùa, song không đạt được mục tiêu của mình. Quân chính quy Bengal cũng tấn công tại Mymensingh, Comilla và Sylhet, song kết quả là khác nhau. Nhà cầm quyền Pakistan kết luận rằng họ đã ngăn chặn thành công Chiến dịch Gió mùa, một quan sát gần chính xác.
Các chiến dịch du kích giảm bớt trong giai đoạn đào tạo, song tăng tốc sau tháng 8. Các mục tiêu kinh tế và quân sự tại Dacca bị tiến công. Trong Chiến dịch Jackpot, đặc công hải quân Bengal đặt mìn và cho nổ tung các tàu bỏ neo tại Chittagong, Mongla, Narayanganj và Chandpur vào ngày 15 tháng 8 năm 1971.
Tháng 10-tháng 12
Lực lượng quy ước Bangladesh tiến công các đồn biên giới, như tại Kamalpur, Belonia và Boyra. Các vụ du kích tấn công tăng cao, cùng xu hướng với các hành động trả đũa nhắm vào thường dân của quân Pakistan và Razakar. Quân Pakistan được tăng cường với tám tiểu đoàn từ Tây Pakistan. Binh sĩ Bangladesh thậm chí còn từng tạm chiếm các sân bay tại Lalmonirhat và Shalutikar.
Ấn Độ tham dự
Cảnh giác với sự tham dự ngày càng lớn của Ấn Độ, vào ngày 3 tháng 12 năm 1971, Không quân Pakistan tiến hành Chiến dịch Thành Cát Tư Hãn nhằm tấn công phủ đầu các căn cứ của Không quân Ấn Độ. Cuộc tấn công được mô phỏng theo Chiến dịch Tiêu điểm của Không quân Israel trong Chiến tranh Sáu ngày, và mục tiêu là vô hiệu hóa các máy bay của Không quân Ấn Độ trên mặt đất. Ấn Độ nhìn nhận cuộc tấn công là hành động gây hấn vô cớ, đánh dấu sự khởi đầu của Chiến tranh Ấn Độ-Pakistan 1971.
Phản ứng với cuộc tấn công, cả Ấn Độ và Pakistan đều chính thức thừa nhận "sự tồn tại một tình trạng chiến tranh giữa hai quốc gia", song không chính phủ nào tuyên chiến chính thức.
Ba quân đoàn của Ấn Độ tham gia vào chiến tranh giải phóng Đông Pakistan. Họ nhận được hỗ trợ từ ba lữ đoàn lân cận của Mukti Bahini. Cuộc chiến trở nên quá sức đối với Lục quân chỉ có ba sư đoàn của Pakistan. Người Ấn Độ nhanh chóng tràn qua Bangladesh, giao chiến có chọn lựa hoặc bỏ qua các đồn lũy được phòng thủ kiên cố. Lực lượng Pakistan không thể đánh chặn có hiệu quả cuộc phản công của Ấn Độ, do họ được dàn thành các đơn vị nhỏ quanh biên giới để đánh chặn các cuộc tấn công du kích của Mukti Bahini. Không thể phòng thủ Dacca, Pakistan đầu hàng vào ngày 16 tháng 12 năm 1971.
Đầu hàng và hậu quả
Ngày 16 tháng 12 năm 1971, Trung tướng Amir Abdullah Khan Niazi, sĩ quan chỉ huy của lực lượng Lục quân Pakistan đóng tại Đông Pakistan ký vào văn kiện đầu hàng. Vào thời điểm đó, chỉ có vài quốc gia công nhận ngoại giao Bangladesh. Trên 93.000 binh sĩ Pakistan đầu hàng lực lượng Ấn Độ, khiến đây trở thành cuộc đầu hàng lớn nhất kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai. Bangladesh tìm cách gia nhập Liên Hợp Quốc và nhận hầu hết phiếu ủng hộ, song Trung Quốc phủ quyết điều này do Pakistan là đồng minh chủ chốt của họ. Mãi đến năm 1974, sau khi Bangladesh được Pakistan công nhận, Trung Quốc mới chấm dứt phủ quyết và cho phép nước này gia nhập. Hoa Kỳ cũng là một đồng minh chủ chốt của Pakistan và nằm trong số các quốc gia cuối cùng chấp thuận công nhận Bangladesh. Để đảm bảo cho một quá trình chuyển tiếp êm thấm, Ấn Độ và Pakistan ký kết Hiệp định Simla năm 1972. Hiệp định đảm bảo rằng Pakistan công nhận tình trạng độc lập của Bangladesh để đổi lấy các tù binh chiến tranh Pakistan. Ấn Độ đối xử với các tù nhân chiến tranh này theo Công ước Genève có từ năm 1925. Ấn Độ phóng thích trên 93.000 tù binh chiến tranh Pakistan trong năm tháng.
Hơn nữa, như một cử chỉ thiện chí, Ấn Độ xá tội cho gần 200 quân nhân bị người Bengal cáo buộc phạm tội ác chiến tranh. Theo hiệp định, Ấn Độ trao trả mà họ đoạt được tại Tây Pakistan trong chiến tranh, song Ấn Độ vẫn giữ lại một vài khu vực có tính chiến lược;
Trước chiến bại và một nửa quốc gia ly khai, giới lãnh đạo quân sự và dân sự Pakistan sửng sốt. Chế độ độc tài của Yahya Khan sụp đổ và mở đường cho Zulfikar Ali Bhutto nắm quyền lực. Tướng Niazi bị nghi ngờ và khinh miệt khi ông trở về Pakistan. Chiến tranh cũng bộc lộ nhược điểm của học thuyết chiến lược mà Pakistan tuyên bố, đó là "bảo vệ Đông Pakistan nằm tại Tây Pakistan".
Tham khảo
Chiến tranh liên quan đến Ấn Độ
Lịch sử Bangladesh
Lịch sử Pakistan
Lịch sử Bengal
|
2586071
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ernassa%20justinia
|
Ernassa justinia
|
Ernassa justinia là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ernassa
|
1469374
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Samuh%20%28qu%E1%BA%ADn%29
|
Samuh (quận)
|
Samuh (tiếng Azerbaijan:Samux) là một quận thuộc Azerbaijan. Dân số thời điểm năm 2012 là 49697 người.
Tham khảo
Quận của Azerbaijan
Quận Samuh
|
668250
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sphinx%20chersis
|
Sphinx chersis
|
Sphinx chersis là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae.
Ấu trùng ăn nhiều loài cây trong họ Olive (Oleaceae) như (Syringa spp.), ashes (Fraxinus spp.), và privet (Ligustrum vulgare).
Nó phân bố ở bắc México và khắp Hoa Kỳ nơi có cây chủ nó sinh sống nhưng không phổ biến ở các bang trong vịnh Mexico.
Phụ loài
Sphinx chersis chersis (từ Mexico lên phía bắc qua hầu hết các nơi của Hoa Kỳ)
Sphinx chersis mexicanus Rothschild & Jordan, 1903 (Mexico)
Hình ảnh
Chú thích
Tham khảo
Liên kết ngoài
Great Ash Sphinx Moths of North America Guide
Sphinx
|
1161014
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oonopinus%20kilikus
|
Oonopinus kilikus
|
Oonopinus kilikus là một loài nhện trong họ Oonopidae.
Loài này thuộc chi Oonopinus. Oonopinus kilikus được miêu tả năm 1965 bởi Suman.
Chú thích
Tham khảo
Oonopinus
|
467871
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thou%2C%20Cher
|
Thou, Cher
|
Thou là một xã thuộc tỉnh Cher trong vùng Centre-Val de Loire miền trung Pháp.
Dân số
Xem thêm
Xã của tỉnh Cher
Liên kết ngoài
Thou on the Quid website
Ghi chú
Xã của Cher
|
19605312
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Captain%20America%3A%20Civil%20War%20%E2%80%93%20Original%20Motion%20Picture%20Soundtrack
|
Captain America: Civil War – Original Motion Picture Soundtrack
|
Captain America: Civil War – Original Motion Picture Soundtrack là album nhạc nền phim cho phim điện ảnh Captain America: Nội chiến siêu anh hùng (2016) của Marvel Studios. Album do Henry Jackman biên soạn và được hãng Hollywood Records phát hành vào ngày 6 tháng 5 năm 2016.
Bối cảnh
Tháng 8 năm 2014, hai anh em đạo diễn Anthony và Joe Russo cho biết Henry Jackman, nhà soạn nhạc của Captain America 2: Chiến binh mùa đông, tiếp tục trở lại thực hiện phần nhạc nền cho Captain America: Nội chiến siêu anh hùng. Jackman lưu ý rằng các chất liệu từ nhạc phẩm "The Winter Soldier" từ nhạc phim Captain America 2: Chiến binh mùa đông chính là thứ giúp định hướng cho phần nhạc nền của Captain America: Nội chiến siêu anh hùng. Anh cho rằng phần phim này có tông nền hoàn toàn khác so với phần phim trước đó, đòi hỏi Captain America: Nội chiến siêu anh hùng cần phải có phần nhạc nền đậm tính giao hưởng hơn. Điều này thể hiện rõ nhất ở trận chiến cuối cùng giữa Captain America, Chiến binh Mùa đông và Người Sắt, âm nhạc cho phân đoạn này được Jackman miêu tả như "một chút gì đó ca kịch và... gần như là cổ điển trong phong cách". Dù Jackman có biên khúc và phát triển các bản nhạc chủ đề của anh cho Captain America và Chiến binh Mùa đông từ phần phim trước, và giới thiệu những nét chủ đạo cho các nhân vật mới như Người Nhện, Black Panther và Zemo, anh cũng rất thận trọng để tránh việc đẩy khán giả nghiêng về một phe của cuộc mâu thuẫn bằng việc sử dụng phần nhạc nền đặc thù cho một nhân vật nào đó; Jackman cũng biên soạn một bản nhạc chủ đề mới cho bộ phim để đặc tả cuộc Nội chiến, "một bản nhạc chủ đề chung để giữ cân bằng mọi thứ", "và nhờ nó mọi nhân vật đều có một sức hút riêng. Nó bao bọc lấy họ và giúp kết nối cả bộ phim hơn là các bản nhạc tạp nham không hồi kết." Jackman cũng biên soạn một bản nhạc giật gân xuất hiện cứ mỗi khi những bí ẩn xung quanh kế hoạch của Zemo bị phanh phui. Bản nhạc này được lấy cảm hứng từ các nhạc phẩm của Jerry Goldsmith.
Danh sách bài hát
Âm nhạc bổ sung
Một bài hát bổ sung là "Left Hand Free" do alt-J trình bày đã được sử dụng trong bộ phim ở phân cảnh Peter Parker / Spider-Man được giới thiệu lần đầu cũng như cảnh end-credit cuối phim. Tuy nhiên bài hát này không nằm trong danh sách bài hát của album.
Xếp hạng
Tham khảo
Nhạc phim năm 2016
Nhạc phim Hollywood Records
Nhạc phim của Marvel Music
Nhạc phim của Henry Jackman
Album năm 2016
|
1356049
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Plega%20signata
|
Plega signata
|
Plega signata là một loài côn trùng trong họ Mantispidae thuộc bộ Neuroptera. Loài này được Hagen miêu tả năm 1877.
Chú thích
Tham khảo
Plega
|
1104728
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dicranota%20commutata
|
Dicranota commutata
|
Dicranota (Rhaphidolabis) commutata là một loài ruồi trong họ Pediciidae. Chúng phân bố ở vùng sinh thái Palearctic.
Chú thích
Tham khảo
Dicranota
|
1253617
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tr%C3%A0%20D%C6%B0%C6%A1ng
|
Trà Dương
|
Trà Dương là một xã thuộc huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam.
Xã Trà Dương có diện tích 32,23 km², dân số năm 2019 là 2.959 người, mật độ dân số đạt 92 người/km².
Chú thích
Tham khảo
|
265518
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alzano%20Lombardo
|
Alzano Lombardo
|
Alzano Lombardo là một đô thị ở tỉnh Bergamo, Lombardia, Italia. Đô thị này có dân số 12.065 với mật độ 898 người/km2. Đô thị này có 5 đơn vị cấp dưới.
Tham khảo
Đô thị tỉnh Bergamo
Thành phố và thị trấn ở Lombardia
|
1250592
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Minh%20Thanh
|
Minh Thanh
|
Minh Thanh là một xã thuộc huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang, Việt Nam.
Diện tích, dân số
Xã có diện tích 32,99 km², dân số năm 1999 là 4716 người, mật độ dân số đạt 143 người/km².
Chú thích
Tham khảo
|
1788824
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cryptocoryne%20elliptica
|
Cryptocoryne elliptica
|
Cryptocoryne elliptica là một loài thực vật có hoa trong họ Ráy (Araceae). Loài này được N.E.Br. mô tả khoa học đầu tiên năm 1893.
Chú thích
Tham khảo
Cryptocoryne
Thực vật được mô tả năm 1893
|
810429
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ry%C5%8Dtar%C5%8D%20Sugi
|
Ryōtarō Sugi
|
Ryōtarō Sugi (杉良太郎 Sugi Ryōtarō, tên thật: 山田勝啓 Yamada Katsuhiro) sinh ngày 14 tháng 8 năm 1944, là một diễn viên và ca sĩ người Nhật Bản. Anh sinh tại Kobe, Nhật Bản.
Sugi có một vai trong phim Sukima Kaze, bộ phim đã bán được khoảng 1 triệu bản. Trên truyền hình, anh thường đóng các vai jidaigeki. Anh là nhân vật chính trong Ōedo Sōsamō, xuất hiện từ năm 1970 đến năm 1974. Trong những năm 1971-1972, anh đóng vai Tasuke Isshin trong loạt chương trình cùng tên. Từ 1975 đến 1977, anh đóng vai Tōyama no Kin-san trong bộ phim mà bài hát Sukima Kaze của anh là bài hát chủ đề. Từ năm 1992 đến năm 1994, anh cùng cựu thí sinh hoa hậu hoàn vũ Hisako Manda đóng vai chính phim Kenka-ya Ukon.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Website chính thức
Ca sĩ Nhật Bản
Diễn viên Nhật Bản
Sinh năm 1944
Nhân vật còn sống
Người Kobe
|
1373708
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nazarje
|
Nazarje
|
Nazarje là một khu tự quản (tiếng Slovenia: občine, số ít – občina) trong vùng Savinjska của Slovenia. Nazarje có diện tích 43.4 km2, dân số là theo điều tra ngày 31 tháng 3 năm 2002 là 2711 người. Thủ phủ khu tự quản Nazarje đóng tại Nazarje.
Tham khảo
Khu tự quản của Slovenia
Vùng Savinjska
|
918781
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dactylispa%20multifida
|
Dactylispa multifida
|
Dactylispa multifida là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Gestro miêu tả khoa học năm 1890.
Chú thích
Tham khảo
Dactylispa
|
19562245
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ng%E1%BB%A5y%20V%C5%A9%20C%C3%B4ng
|
Ngụy Vũ Công
|
Ngụy Vũ Công (chữ Hán:魏武公) có thể là:
Danh sách
Đông Hán Ngụy Vũ Công Tào Tháo (trước từng làm Vũ Bình Vũ hầu, sau được tiến phong làm Ngụy Vũ Vương, sau nữa được truy tôn làm Ngụy Vũ Đế)
Bắc Chu Ngụy Vũ Công Lý Bật (truy tặng, thời Tây Ngụy từng làm Triệu Vũ quận công, sau đó được nhà Bắc Chu tiến phong làm Triệu Vũ quốc công)
Xem thêm
Vũ công
Triệu Vũ Công
Trung Vũ công
Trinh Vũ công
Túc Vũ công
Hiến Vũ công
Cảnh Vũ công
Chu Vũ công
Lỗ Vũ công
Tề Vũ Công
Ngụy Văn Chính Công
Ngụy Vũ Vương
Thụy hiệu
|
289576
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Li%C3%AAn%20%C4%91o%C3%A0n%20b%C3%B3ng%20%C4%91%C3%A1%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Trung%20Phi
|
Liên đoàn bóng đá Cộng hòa Trung Phi
|
Liên đoàn bóng đá Cộng hòa Trung Phi (RCA) () là tổ chức quản lý, điều hành các hoạt động bóng đá ở Cộng hòa Trung Phi. Liên đoàn quản lý đội tuyển bóng đá quốc gia Cộng hòa Trung Phi, tổ chức các giải bóng đá như vô địch quốc gia và cúp quốc gia. Liên đoàn bóng đá Cộng hòa Trung Phi gia nhập FIFA năm 1963 và CAF năm 1965.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cộng hòa Trung Phi trên trang chủ của FIFA.
Cộng hòa Trung Phi
Bóng đá Cộng hòa Trung Phi
|
1121784
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pardosa%20dentitegulum
|
Pardosa dentitegulum
|
Pardosa dentitegulum là một loài nhện trong họ Lycosidae.
Loài này thuộc chi Pardosa. Pardosa dentitegulum được Chang-Min Yin et al miêu tả năm 1997..
Chú thích
Tham khảo
Pardosa
|
1088480
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brontoliota%20monteithi
|
Brontoliota monteithi
|
Brontoliota monteithi là một loài bọ cánh cứng trong họ Silvanidae. Loài này được Thomas miêu tả khoa học năm 2004.
Chú thích
Tham khảo
Brontoliota
|
2698896
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ancylolomia%20agraphella
|
Ancylolomia agraphella
|
Ancylolomia agraphella là một loài bướm đêm trong họ Crambidae.
Chú thích
Liên kết ngoài
Ancylolomia
|
1569487
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Munising%2C%20Michigan
|
Xã Munising, Michigan
|
Xã Munising () là một xã thuộc quận Alger, tiểu bang Michigan, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 2.983 người.
Chú thích
Tham khảo
American FactFinder
Xã của Michigan
Quận Alger, Michigan
|
1387093
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cerotainia%20dasythrix
|
Cerotainia dasythrix
|
Cerotainia dasythrix là một loài ruồi trong họ Asilidae. Cerotainia dasythrix được Hermann miêu tả năm 1912. Loài này phân bố ở vùng Tân nhiệt đới.
Chú thích
Tham khảo
Cerotainia
|
2479964
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Gonocormus%20teysmani
|
Gonocormus teysmani
|
Gonocormus teysmani là một loài dương xỉ trong họ Hymenophyllaceae. Loài này được Bosch mô tả khoa học đầu tiên năm 1861.
Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ.
Chú thích
Liên kết ngoài
Gonocormus
Thực vật được mô tả năm 1861
Unresolved names
es:Gonocormus teysmani
|
1912314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Xyris%20cachimbensis
|
Xyris cachimbensis
|
Xyris cachimbensis là một loài thực vật hạt kín trong họ Hoàng đầu. Loài này được L.B.Sm. & Downs miêu tả khoa học đầu tiên năm 1965.
Chú thích
Liên kết ngoài
Xyris
Thực vật được mô tả năm 1965
|
295277
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A5t%20ph%C3%A8n%20ti%E1%BB%81m%20t%C3%A0ng
|
Đất phèn tiềm tàng
|
Đất phèn tiềm tàng (theo phân loại FAO: Proto-Thionic Fluvisols) là đơn vị đất thuộc nhóm đất phù sa phèn. Đất phèn tiềm tàng được hình thành trong vùng chịu ảnh hưởng của nước có chứa nhiều sulfat. Trong điều kiệm yếm khí cùng với hoạt động của vi sinh vật, sulfat bị khử để tạo thành lưu huỳnh và chất này sẽ kết hợp với sắt có trong trầm tích để tạo thành FeS2.
Thành phần khoáng vật của đất phù sa phèn vùng nhiệt đới có thể rất đa dạng và tùy thuộc chủ yếu vào nguồn gốc của vật liệu phù sa.
Phẫu diện
Để có thể nhận dạng đất phèn, một trong những đặc điểm quan trọng nhất là hình thái phẫu diện đất. Do hiện diện trong điều kiện khử và có tầng sinh phèn nên thường nền đất có màu xám đen, nhất là nơi có chứa khoáng pyrit (FeS2). Mật độ và phân bố của các khoáng pyrit đủ để hình thành một tầng sinh phèn (sulfidic). Ngoài ra, trong phèn tiềm tàng có thể có nhiều hợp chất khác như H2S, các oxide Fe, Al, các hợp chất hữu cơ...Một số nơi, nền đất có thể có màu xám hơi xanh nhưng quan sát kỹ thì chúng ta có thể nhận dạng ra được những đốm đen chen lẫn trong đất. Đất kém phát triển, không thuần thục nên thường không có cấu trúc hoặc có cấu trúc rất yếu trên tầng mặt. Thường đất có chứa nhiều chất hữu cơ phân hủy đến bán phân hủy và có thể quan sát bằng mắt thường. Do phẫu diện đất thường được bão hòa nước thường xuyên nên ẩm độ đất khá cao ngay cả trong mùa khô
Tính chất
Độ pH của đất phèn tiềm tàng nằm trong khoảng trung tính do môi trường đất ở điều kiện khử, chưa bị oxy hóa. Đối với đất phèn tiềm tàng bị ảnh hưởng mặn ở vùng duyên hải thì giá trị pH đất có thể lớn hơn 7,0. Tuy nhiên, khi bị oxy hóa thì pH có thể hạ xuống rất nhanh, khi đó pH có thể hạ thấp dưới 2,0.
Xem thêm
Pyrit
Tham khảo
Tiếng Anh
Bennema J. và Camargo M.N. 1979. Some remarks on Brazilian Latosols in relation to the Oxisols. In: Proceedings of the Second International Soil Classification Workshop. Part I.
Beinroth F.H. and Paramanthan S. (eds.) Malaysia, 28 August to ngày 1 tháng 9 năm 1978. Soil Survey Division, Land Development Department, Bangkok. pp. 233–261.
Driessen, P.M. and R. Dudal, 1991. The major soils of the world. Lecture notes on their geography, formation, properties and use. Wageningen University, Hà Lan and Katholieke Universiteit Leuven, Belgium. 310 pp.
Falkengren-Grerup, U. and Bergkvist, B.: 1995, ‘Effects of acidifying air pollutants on soil/soil solution chemistry of forest ecosystems’, Ann. Chim. 85, 317–327.
Lê Phát Quới, 2004. Basic of soil morphology in pedogenesis in the Plain of Reeds. Dotor thesis. The UAF.
Mohr, E.C.J., F.A. van Baren and J. van Schuylenborgh, 1972. Tropical soils. A comprehensive study of their genesis. 3rd Edition. Mouton, The Hague. 481 pp.
Moorman, F. R. and L. J. Pons, 1974. Characteristics of Mangrove soils in relation to their agricultural land use and potential. Proc. Int. Symp. on Biol. and Man. of mangro¬ves. Vol. II, p. 529-547.
Morman, F. R., 1961. The soils of the Republic of Vietnam, Min. of Agric. Saigon.
Nordstrom, D.K. (1982): Aqueous pyrite oxidation and the consequent formation of secondary iron minerals. In Acid Sulfate Weathering (J.A. Kittrick, D.S. Fanning, L.R.
Tiếng Việt
Giáo trình tài nguyên đất - Khoa Môi trường, Đại Học Bách Khoa Thành phố Hồ Chí Minh (2005)
Giáo trình Đất lâm nghiệp - Đại học Lâm nghiệp Việt Nam (2004)
Nhóm đất phèn
|
1798681
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Artemisia%20myriantha
|
Artemisia myriantha
|
Artemisia myriantha là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Wall. ex Besser mô tả khoa học đầu tiên năm 1834.
Chú thích
Liên kết ngoài
Chi Ngải
Thực vật được mô tả năm 1834
|
1136070
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ascyltus%20ferox
|
Ascyltus ferox
|
Ascyltus ferox là một loài nhện trong họ Salticidae.
Loài này thuộc chi Ascyltus. Ascyltus ferox được William Joseph Rainbow miêu tả năm 1897.
Chú thích
Tham khảo
Ascyltus
|
19519607
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85%20nh%E1%BA%ADm%20ch%E1%BB%A9c%20T%E1%BB%95ng%20th%E1%BB%91ng%20Hoa%20K%E1%BB%B3
|
Lễ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ
|
Lễ nhậm chức Tổng thống Hoa Kỳ là buổi lễ đánh dấu sự bắt đầu nhiệm kỳ mới 4 năm của Tổng thống Hoa Kỳ. Buổi lễ này diễn ra đối với mỗi nhiệm kỳ tổng thống mới, ngay cả khi tổng thống tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai. Kể từ năm 1937, lễ nhậm chức diễn ra vào trưa giờ EST ngày 20 tháng 1, ngày đầu tiên của nhiệm kỳ mới, khoảng 72 đến 78 ngày sau cuộc bầu cử tổng thống, ngoại trừ ba trường hợp khi ngày 20 tháng 1 rơi vào Chủ nhật. Trong những năm đó, lễ tuyên thệ nhậm chức của tổng thống được thực hiện vào ngày đó một cách riêng tư và sau đó được tổ chức lại trong một buổi lễ công khai vào ngày hôm sau, vào thứ 2, ngày 21 tháng 1. Lễ nhậm chức tổng thống gần đây nhất được tổ chức vào ngày 20/1/2021, khi Joe Biden chính thức nhậm chức. Lễ nhậm chức tiếp theo dự kiến diễn ra vào ngày 20/1/2025.
Việc đọc lời tuyên thệ nhậm chức của tổng thống là thành phần duy nhất trong nghi lễ này do Hiến pháp Hoa Kỳ quy định (tại Điều II, Mục một, Khoản 8). Mặc dù nó không phải là một yêu cầu trong hiến pháp, nhưng chánh án thường điều hành lễ tuyên thệ nhậm chức của tổng thống. Kể từ năm 1789, lời tuyên thệ đã được thực hiện tại 58 buổi lễ nhậm chức công khai theo lịch trình, bởi 15 chánh án, một phó tư pháp và một thẩm phán bang New York. Những người khác, ngoài chánh án, đã thực hiện lễ tuyên thệ nhậm chức cho một số trong chín Phó Tổng thống, những người đã kế nhiệm chức vụ Tổng thống sau cái chết hoặc từ chức của Tổng thống trong nhiệm kỳ.
Kể từ lễ nhậm chức năm 1981 của Ronald Reagan, buổi lễ này đã được tổ chức tại mặt trước phía tây của Điện Capitol Hoa Kỳ, đối diện với National Mall với Tượng đài Washington mang tính biểu tượng và Đài tưởng niệm Lincoln ở xa. Các nghi lễ tuyên thệ nhậm chức khác đã diễn ra trên một bục trên các bậc thang tại cổng phía đông của Điện Capitol thường xuyên trong 180 năm, và thỉnh thoảng bên trong Phòng Thượng viện cũ ở phía bắc cũ, phòng của Hạ viện ở phía nam cánh, và Rotunda trung tâm dưới mái vòm. Lễ nhậm chức theo lịch trình cuối cùng không diễn ra tại Điện Capitol là lễ nhậm chức thứ tư của Franklin D. Roosevelt vào năm 1945, được tổ chức tại Nhà Trắng.
Trong những năm qua, nhiều truyền thống khác nhau đã phát sinh đã mở rộng lễ khánh thành từ một buổi lễ tuyên thệ đơn giản thành một sự kiện kéo dài một ngày, bao gồm các cuộc diễu hành và nhiều cuộc họp mặt xã hội. Buổi lễ được truyền trực tiếp qua các mạng truyền hình thương mại và truyền hình cáp lớn của Hoa Kỳ; những kênh khác cũng phát trực tiếp buổi lễ này trên trang web của họ.
Khi một Tổng thống nhậm chức vào giữa nhiệm kỳ, lễ nhậm chức được tiến hành mà không phô trương. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao tổng thống nhanh chóng trong những trường hợp bất thường, Tổng thống mới tuyên thệ nhậm chức trong một buổi lễ đơn giản và thường là phát biểu trước quốc gia sau đó.
Tham khảo
Tổng thống Hoa Kỳ
Sự kiện tháng 1
Ngày lễ Hoa Kỳ
|
1383013
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Potosi%20%28th%E1%BB%8B%20tr%E1%BA%A5n%29%2C%20Wisconsin
|
Potosi (thị trấn), Wisconsin
|
Potosi là một thị trấn thuộc quận Grant, tiểu bang Wisconsin, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thị trấn này là 833 người.
Chú thích
Tham khảo
Thị trấn của Wisconsin
Quận Grant, Wisconsin
|
1090006
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Striganaspis%20congoana
|
Striganaspis congoana
|
Striganaspis congoana là một loài bọ cánh cứng trong họ Scraptiidae. Loài này được Ermisch miêu tả khoa học năm 1950.
Chú thích
Tham khảo
Striganaspis
|
14158832
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nishimura%20Koji
|
Nishimura Koji
|
Koji Nishimura (sinh ngày 7 tháng 7 năm 1984) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Koji Nishimura đã từng chơi cho Kyoto Sanga FC và Nagoya Grampus.
Tham khảo
Sinh năm 1984
Nhân vật còn sống
Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
Thủ môn bóng đá
Cầu thủ bóng đá từ Mie
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá Kyoto Sanga FC
Cầu thủ bóng đá Nagoya Grampus
|
1540823
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Menlo%2C%20Iowa
|
Menlo, Iowa
|
Menlo là một thành phố thuộc quận Guthrie, tiểu bang Iowa, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 353 người.
Dân số
Dân số qua các năm:
Năm 2000: 365 người.
Năm 2010: 353 người.
Tham khảo
Xem thêm
American Finder
Thành phố của Iowa
Quận Guthrie, Iowa
|
1832825
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Salvia%20prasiifolia
|
Salvia prasiifolia
|
Salvia prasiifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Benth. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1846.
Chú thích
Liên kết ngoài
P
Thực vật được mô tả năm 1846
|
2495993
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thysanomitrion%20jamaicense
|
Thysanomitrion jamaicense
|
Thysanomitrion jamaicense là một loài rêu trong họ Dicranaceae. Loài này được Müll. Hal. mô tả khoa học đầu tiên năm 1897.
Chú thích
Liên kết ngoài
Thysanomitrion
Thực vật được mô tả năm 1897
|
1471846
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Do%C4%9Faca%2C%20%C3%87an
|
Doğaca, Çan
|
Doğaca là một xã thuộc huyện Çan, tỉnh Çanakkale, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 400 người.
Chú thích
Tham khảo
|
1528877
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Dumantepe%2C%20Terme
|
Dumantepe, Terme
|
Dumantepe là một xã thuộc huyện Terme, tỉnh Samsun, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 745 người.
Chú thích
Tham khảo
Xã thuộc tỉnh Samsun
|
1509919
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C3%87ilingir%2C%20Arnavutk%C3%B6y
|
Çilingir, Arnavutköy
|
Çilingir là một xã thuộc huyện Arnavutköy, tỉnh Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ.
Chú thích
Tham khảo
|
903363
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Calais%20mahenus
|
Calais mahenus
|
Calais mahenus là một loài bọ cánh cứng trong họ Elateridae. Loài này được Fairmaire miêu tả khoa học năm 1892.
Chú thích
Tham khảo
Calais (chi bổ củi)
|
553841
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Balthasaria%20mannii
|
Balthasaria mannii
|
Balthasaria mannii là một loài thực vật thuộc họ Theaceae. Đây là loài đặc hữu của São Tomé và Príncipe.
Chú thích
Tham khảo
World Conservation Monitoring Centre 1998. Balthasaria mannii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 20 tháng 8 năm 2007.
Thực vật São Tomé và Príncipe
Balthasaria
Thực vật dễ tổn thương
|
925314
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Manobia%20vietnamica
|
Manobia vietnamica
|
Manobia vietnamica là một loài bọ cánh cứng trong họ Chrysomelidae. Loài này được Medvedev miêu tả khoa học năm 2004.
Chú thích
Tham khảo
Manobia
|
16300634
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aymeric%20Laporte
|
Aymeric Laporte
|
Aymeric Jean Louis Gérard Alphonse Laporte (; sinh ngày 27 tháng 5 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp hiện đang thi đấu ở vị trí trung vệ cho câu lạc bộ Al Nassr tại Saudi Pro League và đội tuyển quốc gia Tây Ban Nha.
Sau khi gia nhập Athletic Bilbao năm 2010 ở tuổi 16, anh chỉ trở thành cầu thủ người Pháp thứ hai — sau Bixente Lizarazu — thi đấu cho câu lạc bộ và đã ra sân thi đấu 220 trận. Vào tháng 1 năm 2018, anh đã ký hợp đồng với Manchester City. Anh là một phần của đội bóng giành cú ăn ba quốc nội đầu tiên của bóng đá nam ở Anh vào năm 2019.
Sinh ra ở Pháp, anh có 51 lần ra sân cho Pháp tại cấp độ trẻ, tuy vậy anh vẫn chưa được ra sân tại đội tuyển quốc gia nước này. Vào tháng 5 năm 2021, sau khi nhập quốc tịch Tây Ban Nha và được chấp thuận từ FIFA để chuyển đội tuyển quốc gia, Laporte được gọi lên đội hình của Tây Ban Nha tham dự UEFA Euro 2020.
Tuổi thơ
Laporte sinh ra ở Agen, Aquitaine. Anh có gốc gác Basque từ cụ của mình. Anh bắt đầu chơi bóng đá và bóng bầu dục khi mới 5 tuổi, và bắt đầu phát triển kỹ năng tại học viện bóng đá của Agen. Năm 2009, anh được mời gia nhập Athletic Bilbao qua các tuyển trạch viên; theo thỏa thuận với câu lạc bộ, anh đã dành một mùa giải với Aviron Bayonnais FC, vì anh còn quá trẻ để chuyển ra ngoài nước Pháp vào thời điểm đó.
Bàn thắng quốc tế
Danh hiệu
Câu lạc bộ
Athletic Bilbao
Supercopa de España: 2015
Manchester City
Premier League: 2017–18, 2018–19, 2020–21, 2021–22, 2022–23
FA Cup: 2018–19, 2022–23
EFL Cup: 2017–18, 2018–19, 2019–20, 2020–21
FA Community Shield: 2018, 2019
UEFA Champions League: 2022–23; á quân: 2020–21
UEFA Super Cup: 2023
Đội tuyển quốc gia
U19 Pháp
UEFA European Under-19 Championship á quân: 2013
Tây Ban Nha
UEFA Nations League: 2022–23; á quân: 2020–21
Tham khảo
Liên kết ngoài
Cầu thủ bóng đá nam Pháp
Hậu vệ bóng đá
Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C.
Cầu thủ bóng đá Premier League
Cầu thủ đội tuyển bóng đá U-21 quốc gia Pháp
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Anh
Cầu thủ bóng đá nước ngoài ở Tây Ban Nha
Cầu thủ bóng đá nam Pháp ở nước ngoài
Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022
|
1806842
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crepidiastrum%20platyphyllum
|
Crepidiastrum platyphyllum
|
Crepidiastrum platyphyllum là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được (Franch. & Sav.) Kitam. mô tả khoa học đầu tiên năm 1937.
Chú thích
Liên kết ngoài
Crepidiastrum
Thực vật được mô tả năm 1937
|
1161123
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Opopaea%20phineus
|
Opopaea phineus
|
Opopaea phineus là một loài nhện trong họ Oonopidae.
Loài này thuộc chi Opopaea. Opopaea phineus được miêu tả năm 2007 bởi Harvey & Edward.
Chú thích
Tham khảo
Opopaea
|
13582819
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kim%20Byeom-yong
|
Kim Byeom-yong
|
Kim Byeom-yong (김범용; sinh ngày 29 tháng 7 năm 1990 ở Hàn Quốc) là một cầu thủ bóng đá Hàn Quốc kể từ năm 2013 thi đấu ở vị trí Tiền vệ cho Suwon FC ở K League 2.
Sự nghiệp
Montedio Yamagata
Kim ra mắt chính thức cho Montedio Yamagata ở J. League Division 2 ngày 5 tháng 5 năm 2013 trước Fagiano Okayama ở City Light Stadium ở Okayama, Nhật Bản. Anh vào sân từ phút thứ 81 thay cho Tomoyasu Hirose. Kim và đội bóng thất bại với tỉ số 4-3.
Suwon FC
Sau mùa giải 2017, anh chuyển đến Suwon FC.
Thống kê sự nghiệp câu lạc bộ
Cập nhật đến ngày 10 tháng 12 năm 2017.
Tham khảo
Liên kết ngoài
Profile at JEF United Chiba
Sinh năm 1990
Nhân vật còn sống
Tiền vệ bóng đá
Cầu thủ bóng đá nam Hàn Quốc
Cầu thủ bóng đá J1 League
Cầu thủ bóng đá J2 League
Cầu thủ bóng đá K League 2
Cầu thủ bóng đá Montedio Yamagata
Cầu thủ bóng đá Sanfrecce Hiroshima
Cầu thủ bóng đá Shimizu S-Pulse
Cầu thủ bóng đá JEF United Chiba
Cầu thủ bóng đá Suwon FC
|
1123157
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Alpaida%20iquitos
|
Alpaida iquitos
|
Alpaida iquitos là một loài nhện trong họ Araneidae.
Loài này thuộc chi Alpaida. Alpaida iquitos được Herbert Walter Levi miêu tả năm 1988.
Chú thích
Tham khảo
Alpaida
|
1951012
|
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pachypodium%20lamerei
|
Pachypodium lamerei
|
Pachypodium lamerei là một loài thực vật có hoa trong họ La bố ma. Loài này được Drake mô tả khoa học đầu tiên năm 1899.
Hình ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
Pachypodium
Thực vật được mô tả năm 1899
Thực vật Madagascar
|
Subsets and Splits
No community queries yet
The top public SQL queries from the community will appear here once available.