id
stringlengths
2
8
url
stringlengths
31
306
title
stringlengths
1
102
text
stringlengths
32
113k
876221
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rhyacophila%20procliva
Rhyacophila procliva
Rhyacophila procliva là một loài Trichoptera trong họ Rhyacophilidae. Chúng phân bố ở miền Ấn Độ - Mã Lai. Tham khảo Động vật khu vực sinh thái Indomalaya Rhyacophila
19725894
https://vi.wikipedia.org/wiki/USS%20Brough%20%28DE-148%29
USS Brough (DE-148)
USS Brough (DE-148) là một tàu hộ tống khu trục lớp Edsall từng phục vụ cùng Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên Trung úy Hải quân David Atkins Brough (1914-1942), phi công phục vụ cùng Liên đội Tuần tra 42 tại khu vực Alaska và quần đảo Aleut, được tặng thường Huân chương Không quân nhưng tử nạn sau một phi vụ trinh sát. Nó đã phục vụ cho đến khi chiến tranh kết thúc, xuất biên chế năm 1946, nhưng được cho hoạt động trở lại từ năm 1951 đến năm 1965. Cuối cùng con tàu bị bán để tháo dỡ vào năm 1966. Brough được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và sau này thêm hai Ngôi sao Chiến trận khác khi hoạt động tại Nam Cực. Thiết kế và chế tạo Lớp Edsall có thiết kế hầu như tương tự với lớp Cannon dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu FMR do được trang bị động cơ diesel Fairbanks-Morse dẫn động qua hộp số giảm tốc đến trục chân vịt. Đây là cấu hình động cơ được áp dụng rộng rãi trên tàu ngầm, được chứng tỏ là có độ tin cậy cao hơn so với lớp Cannon. Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo /50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu. Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 , và được trang bị radar SC dò tìm không trung và mặt biển. Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 186 sĩ quan và thủy thủ. Brough được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Consolidated Steel Corporation ở Orange, Texas vào ngày 22 tháng 1, 1943. Nó được hạ thủy vào ngày 10 tháng 4, 1943, được đỡ đầu bởi bà Jack Bell, chị của Trung úy Brough, và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 18 tháng 9, 1943 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Kenneth James Hartley. Lịch sử hoạt động 1943 - 1946 Sau khi hoàn tất việc chạy thử máy huấn luyện tại vùng biển Caribe, Brough bắt đầu đảm nhiệm vai trò hộ tống cho những đoàn tàu vận tải vượt Đại Tây Dương sang các cảng Bắc Phi và Châu Âu. Trong gần hai năm tham gia hoạt động trong khuôn khổ Trận Đại Tây Dương, nó đã vượt đại dương 24 lần mà không để tổn thất một tàu buôn Đồng Minh nào, và trong năm lần đã bắt được tín hiệu sonar nghi ngờ là tàu ngầm U-boat đối phương, và đã tấn công các mục tiêu nghi ngờ với tổng cộng 200 mìn sâu và 372 quả đạn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog, nhưng đều không có kết quả. Xen kẻ giữa các chuyến đi, Brough vào ụ tàu để sửa chữa những hư hại trong chuyến đi, được đại tu, bảo trì và nâng cấp. Dàn vũ khí được trang bị ban đầu bao gồm ba pháo 3-inch/50-caliber, một khẩu đội Bofors 40 mm phòng không nòng đôi, tám pháo Oerlikon 20 mm phòng không cùng bốn ống phóng ngư lôi; nhưng do xu hướng trong chiến tranh dần chuyển sang chống không kích, các ống phóng ngư lôi được tháo dỡ, và bổ sung thêm một khẩu đội 40 mm nòng đôi và một khẩu đội 40 mm bốn nòng, và thêm hai nòng pháo 20 mm phòng không. Sau khi chiến tranh kết thúc tại Châu Âu, và cuối cùng Nhật Bản chấp nhận đầu hàng vào ngày 15 tháng 8, 1945, giúp chấm dứt vĩnh viễn cuộc xung đột, Brough được cho xuất biên chế tại Green Cove Springs, Florida vào ngày 22 tháng 3, 1946, và được đưa về Hạm đội Dự bị Đại Tây Dương. 1951 - 1965 Phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương Sau khi Chiến tranh Triều Tiên bùng nổ vào ngày 25 tháng 6, 1950, Hải quân Hoa Kỳ lâm vào tình trạng thiếu hụt tàu chiến sẵn sàng hoạt động, và phải huy động những chiếc đang bị bỏ không trong thành phần dự bị. Brough được đại tu bởi hãng Merrill-Stevens Shipyard tại Jacksonville, Florida, rồi được cho tái biên chế trở lại vào ngày 7 tháng 9, 1951 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân Harry Joseph Hulings. Con tàu trình diện để phục vụ cùng Hạm đội Đại Tây Dương. Vào mùa Thu năm 1952, Brough tham gia cuộc tập trận phối hợp của Khối NATO tại Đại Tây Dương, rồi sau đó ghé viếng thăm nhiều cảng Châu Âu, bao gồm Bergen, Na Uy; Greenock, Scotland; Cherbourg, Pháp; cùng nhiều cảng vùng biển Caribe. Quay trở về vào tháng 11, con tàu được đại tu tại Xưởng hải quân Philadelphia cho đến cuối tháng 2, 1953. Sau khi hoàn tất chạy thử máy sau đại tu trong một tuần, nó lên đường đi vịnh Guantánamo, Cuba để huấn luyện ôn tập. Sau khi ở lại Newport, Rhode Island một thời gian ngắn, Brough lên đường đi Key West, Florida vào đầu tháng 6, nơi nó phục vụ cùng Trường Sonar Hạm đội cho đến cuối tháng 8. Nó hoạt động chủ yếu như một tàu thực hành dành cho việc huấn luyện sonar cho sĩ quan và thủy thủ. Sau khi quay trở về con tàu neo đậu cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục để được bảo trì. Tuy nhiên do việc máy phát điện của động cơ chính cần được đại tu, chiếc tàu hộ tống khu trục được gửi đến Xưởng hải quân Portsmouth tại Kittery, Maine để sửa chữa. Vào tháng 11, 1953, trong vai trò soái hạm của Tư lệnh Hải đội Hộ tống 14, Brough tham gia cuộc Tập trận Spring Board tại vùng biển Caribe, và viếng thăm các cảng San Juan, Puerto Rico; Ciudad Trujillo, Cộng hòa Dominica; và Saint Thomas, quần đảo Virgin. Nó quay trở về Newport vào tháng 12 cho dịp nghỉ lễ Giáng Sinh, và ở lại cảng này cho đến tháng 3, 1954, khi nó được điều đến đến Key West cho đến tháng 7 cho một lượt phục vụ huấn luyện chống tàu ngầm. Sang tháng 8, nó cùng các tàu hộ tống khu trục , và thực hiện một chuyến đi đến Newfoundland, nơi họ thực hành huấn luyện cùng tàu ngầm trong ba tuần. Quay trở về vào giữa tháng 9, Brough chuẩn bị cho một cuộc tập trận phối hợp hạm đội tiếp theo. Nó cùng hải đội khởi hành vào ngày 20 tháng 10 để tham gia cuộc Tập trận LANTFLEX 1-55, đảm nhiệm hộ tống một đoàn tàu vận tải đi Labrador, rồi tuần tra chống tàu ngầm, và bảo vệ cho một lực lượng đổ bộ lên bờ biển North Carolina. Khi cuộc tập trận kết thúc, nó quay trở về Newport vào ngày 20 tháng 11, rồi đi đến Xưởng hải quân Boston để đại tu và cải tiến thiết bị từ tháng 2 đến ngày 30 tháng 4, 1955. Sang tháng 5, con tàu được bảo trì tại Xưởng hải quân Portsmouth ở Maine, huấn luyện trong ba tuần tại Newport trong tháng 6. Nó khởi hành từ Norfolk, Virginia vào ngày 9 tháng 7 cho một chuyến đi thực tập mùa Hè dành cho học viên sĩ quan, đưa họ đến Edinburgh, Scotland; Copenhagen, Đan Mạch; và vịnh Guantánamo, Cuba, hoàn tất chuyến đi khi quay trở về Norfolk vào ngày 3 tháng 9. Sau khi được bảo trì trong hai tuần tại Newport, Brough đi đến Key West, Florida vào ngày 25 tháng 9 để phục vụ như tàu huấn luyện cho Trường Sonar Hạm đội. Khi quay trở lại Newport vào tháng 11, nó được bảo trì trong hai tuần cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục trước khi huấn luyện ôn tập trong hai tuần ngoài khơi Newport. Sau một kỳ nghỉ và một đợt huấn luyện khác ngoài khơi Newport, nó tiếp tục được Yosemite bảo trì trong mười ngày từ ngày 30 tháng 1, 1956. Sáng sớm ngày 13 tháng 2, nó cùng Hải đội Hộ tống 14 lên đường đi Key West, nơi nó tiếp tục phục vụ cho Trường Sonar Hạm đội từ ngày 20 tháng 2 đến ngày 30 tháng 3. Con tàu lại huấn luyện ngoài khơi Newport trong tháng 4, rồi tham gia các cuộc Tập trận CONVEX và HOURGLASS trong tháng 5 và tháng 6. Sau ba tuần được bảo trì, nó đi đến Portsmouth, New Hampshire để chuẩn bị tham gia vào các Chiến dịch Deep Freeze. Các chiến dịch Deepfreeze Rời Newport, Rhode Island vào ngày 4 tháng 9, Brough gia nhập Lực lượng Đặc nhiệm 43 để tham gia Chiến dịch DEEPFREEZE II. Nó di chuyển độc lập qua kênh đào Panama và đi đến Dunedin, New Zealand một tháng sau đó. Từ tháng 10, 1956 đến tháng 3, 1957, nó hoạt động từ căn cứ đến vị trí canh phòng được chỉ định tại , làm nhiệm vụ quan trắc thời tiết, thông tin liên lạc và tìm kiếm-giải cứu, luân phiên những giai đoạn 5-6 ngày trong cảng và 19-21 ngày ngoài biển. Nó thường xuyên liên lạc với đảo Campbell, New Zealand. Lên đường vào ngày 2 tháng 3, 1957 để quay trở về Hoa Kỳ, Brough ghé đến Callao, Peru, trên đường đi và có chặng dừng ngắn tại Newport, Rhode Island trước khi đi đến Xưởng hải quân Boston vào ngày 8 tháng 5; con tàu được sửa chữa nhằm chuẩn bị cho lượt hoạt động tiếp theo. Khi công việc hoàn tất vào tháng 7, nó quay trở lại Newport để tiếp tục chuẩn bị, được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục từ ngày 19 đến ngày 23 tháng 8, rồi khởi hành từ Newport vào ngày 26 tháng 8 để tiếp tục tham gia Chiến dịch DEEPFREEZE III. Lặp lại hành trình ngang qua kênh đào Pananma, Brough đi đến Dunedin vào ngày 25 tháng 9. Trong Chiến dịch DEEPFREEZE III, nó đã thực hiện năm chuyến đi đến vị trí canh phòng được chỉ định tại , trong đó một chuyến đã đưa nó vượt vòng Nam Cực vào ngày 5 tháng 2, 1958, là một sự kiện diễn ra lần đầu tiên đối với một tàu hộ tống khu trục. Con tàu đôi khi phải chịu đựng sức gió lên đến nhưng không bị hư hại gì đáng kể. Nó rời Dunedin vào tháng 3 và về đến Newport vào ngày 2 tháng 4. Trong tháng 4, thủy thủ đoàn được nghỉ phép trong khi con tàu được bảo trì trước khi chuyển đến cảng nhà mới Key West, Florida. Nó hoạt động cùng Trường Sonar Hạm đội trong giai đoạn từ ngày 5 tháng 5 đến ngày 21 tháng 7; cũng trong thời gian này Hải đội Hộ tống 14 bị giải tán và nó được điều về Đội khu trục 601. Từ ngày 21 tháng 7 đến ngày 22 tháng 8, Brough được chuẩn bị cho lượt hoạt động tiếp theo, rồi khởi hành vào ngày 23 tháng 8 để tiếp tục tham gia Chiến dịch DEEPFREEZE IV trong thành phần Lực lượng Đặc nhiệm 43. Đi đến Dunedin vào ngày 22 tháng 9, nó lập tức làm nhiệm vụ quen thuộc tại trạm canh phòng giữa New Zealand và Châu Nam Cực. Trong giai đoạn từ ngày 23 tháng 8 đến ngày 19 tháng 11, con tàu trải qua 78 ngày ngoài biển và chỉ có tám ngày trong cảng. Khi nó rời Dunedin lần cuối cùng vào ngày 7 tháng 2, 1959, khoảng 4.000 cư dân thành phố đã có mặt lúc nó lên đường, thể hiện mối quan hệ tốt đẹp giữa con tàu và cộng đồng địa phương. Phục vụ tại Đại Tây Dương Hành trình quay trở về Key West đã khiến Brough trở thành chiếc tàu khu trục hộ tống đầu tiên đi một mình vòng quanh thế giới. Trong hơn hai tháng tiếp theo nó đã viếng thăm Perth, Australia; Colombo, Ceylon; Aden, Yemen; Athens, Hy Lạp; Naples, Ý; Cannes, Pháp; Barcelona, Tây Ban Nha và Gibraltar. Về đến vào ngày 14 tháng 4, con tàu được bảo trì và nghỉ ngơi, rồi lên đường vào ngày 22 tháng 5, đi đến ngoài khơi Puerto Rico để phục vụ cho việc phóng thí nghiệm tên lửa Jupiter đưa hai chú khỉ Alfa và Bravo lên không gian trong chuyến bay dưới quỹ đạo; hạm trưởng của Brough là người chỉ huy việc thu hồi tàu không gian. Sau đó con tàu được đại tu tại Key West từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 29 tháng 9, rồi phục vụ cho hoạt động huấn luyện của Trường Sonar Hạm đội tại Key West, Florida. Vai trò này được nó thực hiện cho đến hết quãng đời phục vụ, chỉ tạm dừng cho những lượt đại tu, bảo trì và huấn luyện. Sau khi trải qua một giai đoạn huấn luyện ôn tập tại vịnh Guantánamo, Cuba từ ngày 17 tháng 10 đến ngày 24 tháng 11, Brough được hưởng kỳ nghỉ cuối năm tại cảng nhà trước khi tiếp tục phục vụ cùng Trường Sonar Hạm đội tại Key West. Nó đã đi đến Charleston, South Carolina để được bảo trì từ ngày 29 tháng 2 đến ngày 10 tháng 3, 1960; rồi trong giai đoạn từ ngày 14 đến ngày 31 tháng 5 lại được bảo trì cặp bên mạn tàu tiếp liệu khu trục , và viếng thăm Tampa, Florida vào ngày 4 tháng 7. Đến cuối tháng 8, nó ghé viếng thăm Fort Lauderdale, Florida trước khi đi đến Norfolk, Virginia để được sửa chữa cặp bên mạn tàu sửa chữa . Từ ngày 8 đến ngày 12 tháng 10, chiếc tàu hộ tống hoạt động huấn luyện tại vịnh Guantánamo, Cuba, rồi được nghỉ phép tại vịnh Montego, Jamaica. Nó lại có một lượt bảo trì cặp bên mạn Sierra từ ngày 14 tháng 11 đến ngày 1 tháng 12. Khởi hành vào ngày 7 tháng 2, 1961, Brough đã viếng thăm Nassau, Bahamas trong ba ngày, rồi đi đến Norfolk, Virginia để được sửa chữa cặp bên mạn tàu sửa chữa từ ngày đến ngày 13 đến ngày 24 tháng 2. Nó viếng thăm Miami, Florida vào cuối tháng 4, rồi được sửa chữa tại Căn cứ Không lực Hải quân Key West từ ngày 1 đến ngày 12 tháng 5, có thêm một lượt ghé đến Miami từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 7, và đi đến Boston, Massachusetts vào tháng 8, 1962 trước khi cùng tàu hộ tống khu trục đi đến vùng biển Cuba vào tháng 9. Con tàu đã tham gia vào lực lượng hải quân tiến hành "cô lập hàng hải" Cuba nhân vụ Khủng hoảng tên lửa Cuba vào tháng 10, 1962. Brough được cho xuất biên chế vào ngày 30 tháng 6, 1965. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 1 tháng 11, 1965, và con tàu bị bán cho hãng Buyer Boston Metals Co. tại Baltimore, Maryland để tháo dỡ vào ngày 13 tháng 10, 1966. Phần thưởng Brough được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II, và thêm hai Ngôi sao Chiến trận khác khi phục vụ tại Nam Cực. Tham khảo Chú thích Thư mục Liên kết ngoài A USS Brough webpage NavSource.org - Brough (DE 148) Lớp tàu hộ tống khu trục Edsall Khinh hạm và tàu hộ tống khu trục của Hải quân Hoa Kỳ Tàu hộ tống khu trục trong Thế Chiến II Tàu thủy năm 1943
2628473
https://vi.wikipedia.org/wiki/Leucolithodes%20panteata
Leucolithodes panteata
Leucolithodes panteata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Leucolithodes
325159
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hi%E1%BB%87p%20h%E1%BB%99i%20b%C3%A1o%20ch%C3%AD%20n%C6%B0%E1%BB%9Bc%20ngo%C3%A0i%20%E1%BB%9F%20Hollywood
Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood
Hiệp hội báo chí nước ngoài ở Hollywood (tiếng Anh: Hollywood Foreign Press Association viết tắt là HFPA) là một tổ chức gồm các ký giả của các báo xuất bản ngoài Hoa Kỳ, chuyên theo dõi tin tức ngành kỹ nghệ điện ảnh ở Hollywood (Hoa Kỳ). Hiệp hội này được thành lập năm 1943 bởi một thông tín viên của báo Daily Mail, một nhật báo của Vương quốc Anh. Mục đích chính của hiệp hội là loan tin nhanh về các hoạt động điện ảnh tại Hollywood của Hoa Kỳ tới các nước khác trên thế giới. Hiệp hội này nổi tiếng vì đã sáng lập ra Giải Quả cầu vàng, một giải thưởng điện ảnh gồm nhiều thể loại, được trao hàng năm cho các phim xuất sắc và các người có đóng góp nhiều cho điện ảnh. Các thành viên của Hiệp hội bỏ phiếu bầu chọn các phim và các người được đề cử nhận giải cũng như quyết định các phim và các người đoạt giải. Chỉ trích Theo báo The New York Times, Hiệp hội này "hoạt động giống như một câu lạc bộ riêng biệt, hàng năm chỉ thâu nhận tối đa 5 hội viên mới, tuy nhiên chỉ thường nhận 1 hội viên mới. Từng hội viên có thể đã không ưa các hội viên mới, khiến cho việc gia nhập hội trở nên quá khó. Hiệp hội cũng không đại diện cho các báo danh tiếng quốc tế như báo Le Monde của Pháp hoặc báo The Times của London, thực vậy hiệp hội đã nhiều lần từ chối đơn xin gia nhập của ký giả Sue Kim, một thông tín viên của báo Le Monde, trong khi lại chấp nhận các đơn xin gia nhập của các người làm nghề viết báo tự do (freelance writers) từ Bangladesh và Nam Triều Tiên". Hiệp hội cũng bị nghi là đã nhận các vận động ngoài hành lang của các phim trường và các nghệ sĩ để được đề cử và đoạt giải. Năm 1981, Hiệp hội đã bị chỉ trích nặng nề sau khi bị phát giác là một giải Quả cầu vàng được trao cho nữ diễn viên Pia Zadora sau khi các hội viên đã được chồng của nữ diễn viên này là nhà triệu phú Meshulam Riklis cho máy bay chở tới casino của ông ta ở Las Vegas để thết đãi. Năm 1999, các hội viên của Hiệp hội đã nhận lệnh trả lại các đồng hồ sang trọng là món quà của nữ diễn viên Sharon Stone để ủng hộ vai diễn của cô ta trong phim The Muse. Một chỉ trích chính khác là các hội viên quá ít để quyết định các giải thưởng. Giải năm 2009, Hiệp hội chỉ có 95 hội viên. Xem thêm Giải Quả cầu vàng Tham khảo Liên kết ngoài Official website Call for reform of HFPA by Sharon Waxman (Los Angeles Times, 11 tháng 1 năm 2008) Hiệp hội báo chí Giải Quả cầu vàng Hiệp hội
1559946
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Vanville%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Burke%2C%20B%E1%BA%AFc%20Dakota
Xã Vanville, Quận Burke, Bắc Dakota
Xã Vanville () là một xã thuộc quận Burke, tiểu bang Bắc Dakota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 20 người. Tham khảo Xem thêm American FactFinder Xã thuộc tiểu bang Bắc Dakota Quận Burke, North Dakota
2904975
https://vi.wikipedia.org/wiki/Acanthodelta%20distriga
Acanthodelta distriga
Acanthodelta distriga là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae. Chú thích Liên kết ngoài Acanthodelta
2246525
https://vi.wikipedia.org/wiki/Rajania%20porulosa
Rajania porulosa
Rajania porulosa là một loài thực vật có hoa trong họ Dioscoreaceae. Loài này được R.Knuth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1917. Chú thích Liên kết ngoài Rajania Thực vật được mô tả năm 1917
1422951
https://vi.wikipedia.org/wiki/Balatonf%C5%91kaj%C3%A1r
Balatonfőkajár
Balatonfőkajár là một thị trấn thuộc hạt Veszprém, Hungary. Thị trấn này có diện tích 21,92 km², dân số năm 2010 là 1337 người, mật độ 61 người/km². Tham khảo Hạt Veszprém Thị trấn của Hungary
2483660
https://vi.wikipedia.org/wiki/Megalastrum%20sparsipilosum
Megalastrum sparsipilosum
Megalastrum sparsipilosum là một loài dương xỉ trong họ Dryopteridaceae. Loài này được R.C. Moran & J. Prado mô tả khoa học đầu tiên năm 2010. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Megalastrum Thực vật được mô tả năm 2010 Unresolved names
1464112
https://vi.wikipedia.org/wiki/K%C4%B1l%C3%A7ak%2C%20Alapl%C4%B1
Kılçak, Alaplı
Kılçak là một xã thuộc huyện Alaplı, tỉnh Zonguldak, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 1337 người. Chú thích Tham khảo Làng thuộc tỉnh Zonguldak
2477219
https://vi.wikipedia.org/wiki/Polypodium%20filipes
Polypodium filipes
Polypodium filipes là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Christ in Schwacke mô tả khoa học đầu tiên năm 1900. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Chú thích Liên kết ngoài Polypodium Thực vật được mô tả năm 1900 Unresolved names es:Polypodium filipes
312693
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tignale
Tignale
Tignale là một đô thị thuộc tỉnh Brescia trong vùng Lombardia ở Ý. Đô thị này có diện tích 48 km², dân số 1270 người. Đô thị này có các làng sau: Gardola (sede comunale), Aer, Oldesio, Olzano Piovere, Prabione. Đô thị này giáp với các đô thị sau: Brenzone, Gargnano, Magasa, Malcesine, Tremosine, Valvestino. Biến động dân số Tham khảo Đô thị tỉnh Brescia Thành phố và thị trấn ở Lombardia
1918704
https://vi.wikipedia.org/wiki/Tetrastigma%20aplinianum
Tetrastigma aplinianum
Tetrastigma aplinianum là một loài thực vật hai lá mầm trong họ Nho. Loài này được (Collett & Hemsl.) Momiy. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1971. Chú thích Liên kết ngoài Tetrastigma Thực vật được mô tả năm 1971
2287163
https://vi.wikipedia.org/wiki/Bolbitis%20tibetica
Bolbitis tibetica
Bolbitis tibetica là một loài thực vật có mạch trong họ Lomariopsidaceae. Loài này được Ching & S.K. Wu mô tả khoa học đầu tiên năm 1983. Chú thích Liên kết ngoài Bolbitis Thực vật được mô tả năm 1983
1648412
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%93%20c%C3%A2u%20g%E1%BB%97%20ch%C3%A2u%20Phi
Bồ câu gỗ châu Phi
Bồ câu gỗ châu Phi, tên khoa học Columba unicincta, là một loài chim trong họ Columbidae. Chú thích Tham khảo U Động vật được mô tả năm 1860 Chim châu Phi Hạ Sahara
2605945
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eupithecia%20linda
Eupithecia linda
Eupithecia linda là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài L
780847
https://vi.wikipedia.org/wiki/Velenje
Velenje
Velenje là một thành phố và khu tự quản của Slovenia. Thành phố này có diện tích 83,5 km², dân số là 33.331 người. Thành phố kết nghĩa Esslingen am Neckar, Đức Neath Port Talbot, Wales Split, Croatia Pljevlja, Montenegro Udine, Ý Tham khảo Liên kết ngoài Official tourist guide to Velenje Travel guide to Velenje Thành phố Slovenia Khu tự quản của Slovenia
284849
https://vi.wikipedia.org/wiki/Montigny-la-Resle
Montigny-la-Resle
Montigny-la-Resle là một xã của Pháp,tọa lạc ở tỉnh Yonne trong vùng Bourgogne của Pháp. Tuyến quốc lộ 77 chạy qua đây. Xã này giáp với rừng Saint-Germain. Montigny-la-Resle là một phần của khu vực đô thị Auxerre, là một bộ phận của Cộng đồng các xã Auxerrois Hành chính Thông tin nhân khẩu Xem thêm Xã của Yonne Tham khảo Liên kết ngoài Trang mạng chính thức de la Communauté de l'Auxerrois Montigny-la-Resle trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Xã của Yonne
2290358
https://vi.wikipedia.org/wiki/Campylopus%20vesticaulis
Campylopus vesticaulis
Campylopus vesticaulis là một loài Rêu trong họ Dicranaceae. Loài này được Mitt. mô tả khoa học đầu tiên năm 1875. Chú thích Liên kết ngoài Campylopus Thực vật được mô tả năm 1875
1827456
https://vi.wikipedia.org/wiki/Nepeta%20rechingeri
Nepeta rechingeri
Nepeta rechingeri là một loài thực vật có hoa trong họ Hoa môi. Loài này được Hedge mô tả khoa học đầu tiên năm 1968. Chú thích Liên kết ngoài Nepeta Thực vật được mô tả năm 1968
2389113
https://vi.wikipedia.org/wiki/Colubrina%20cordifolia
Colubrina cordifolia
Colubrina cordifolia là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được Reissek mô tả khoa học đầu tiên năm 1861. Chú thích Liên kết ngoài Colubrina Thực vật được mô tả năm 1861
416619
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C6%B0%E1%BB%9Dng%20Peano
Đường Peano
Trong giải tích toán học, một đường cong phủ kín không gian là một đường cong mà miền của nó chứa toàn bộ 2 chiều của một hình vuông đơn vị (hoặc tổng quát hơn là một khối n chiều). Vì Giuseppe Peano (1858–1932) là người đầu tiên khám phá ra một đường cong phủ kín không gian nên một đường cong nhưng thế trong mặt phẳng thường được gọi là đường cong Peano. Tham khảo . . . . . Liên kết ngoài Multidimensional Space-Filling Curves Proof of the existence of a bijection at cut-the-knot Crochet Peano Curve Hilbert Open Peano Curve Crochet Peano Curve Sierpinski Closed Peano Curve Java applets: Peano Plane Filling Curves at cut-the-knot Hilbert's and Moore's Plane Filling Curves at cut-the-knot All Peano Plane Filling Curves at cut-the-knot Continuous mappings Fractal curves Giải tích toán học P de:FASS-Kurve en:Space filling curve es:Curva de Peano fr:Courbe de Peano hr:Beskonačno guste krivulje it:Curva di Peano he:עקום פאנו pms:Curva ëd Peano pl:Krzywa Peano pt:Curva de Peano ru:Кривая Пеано sv:Peanos kurva
343637
https://vi.wikipedia.org/wiki/Sanvignes-les-Mines
Sanvignes-les-Mines
Sanvignes-les-Mines là một xã ở tỉnh Saône-et-Loire trong vùng Bourgogne-Franche-Comté nước Pháp. Thông tin nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số người.Ước tính dân số năm 2007 là người. Xem thêm Xã của tỉnh Saône-et-Loire Tham khảo INSEE IGN Xã của Saône-et-Loire
13592510
https://vi.wikipedia.org/wiki/ITF%20World%20Champions
ITF World Champions
Liên đoàn quần vợt quốc tế trao giải World Champion mỗi năm dựa trên những thống kê trong năm, nhất là giải Grand Slam, và cả sự kiện đồng đội như Davis Cup và Fed Cup. Giải thưởng đơn nam và đơn nữ được trao lần đầu tiên vào năm 1978; giải thưởng bây giờ cũng có những vận động viên đôi, xe lăn, và trẻ. Đơn nam Đơn nữ Đôi nam Đôi nữ Nam trẻ Đơn nam trẻ (1978-2003) Đôi nam trẻ (1982-2003) Nam trẻ (từ năm 2004) Nữ trẻ Đơn nữ trẻ (1978-2003) Đôi nữ trẻ (1982-2003) Nữ trẻ (từ năm 2004) Nam xe lăn Nữ xe lăn Quad xe lăn Xem thêm Liên đoàn quần vợt quốc tế Giải thưởng ATP World Tour Giải thưởng WTA Tham khảo ITF Constitution Chú thích Liên kết ngoài Lịch sử quần vợt Giải thưởng quần vợt Kỷ lục và thống kê quần vợt Liên đoàn quần vợt quốc tế
1647539
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phalacrocorax%20georgianus
Phalacrocorax georgianus
Phalacrocorax georgianus là một loài chim trong họ Phalacrocoracidae. Chú thích Tham khảo Phalacrocorax Động vật được mô tả năm 1906
2567660
https://vi.wikipedia.org/wiki/Onychocerus%20giesberti
Onychocerus giesberti
Onychocerus giesberti là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Onychocerus
2321532
https://vi.wikipedia.org/wiki/Primula%20scopulorum
Primula scopulorum
Primula scopulorum là một loài thực vật có hoa trong họ Anh thảo. Loài này được Balf. f. & Farrer miêu tả khoa học đầu tiên năm 1917. Chú thích Liên kết ngoài Chi Anh thảo Thực vật được mô tả năm 1917
2269199
https://vi.wikipedia.org/wiki/Microthamnium%20oxypoma
Microthamnium oxypoma
Microthamnium oxypoma là một loài Rêu trong họ Hypnaceae. Loài này được (Schwägr.) Mitt. mô tả khoa học đầu tiên năm 1869. Chú thích Liên kết ngoài Microthamnium Thực vật được mô tả năm 1869
1903108
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syzygium%20kudatense
Syzygium kudatense
Syzygium kudatense là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được P.S.Ashton mô tả khoa học đầu tiên năm 2006. Chú thích Liên kết ngoài K Thực vật được mô tả năm 2006
1833859
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chamaecrista%20punctulata
Chamaecrista punctulata
Chamaecrista punctulata là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được (Hook. & Arn.) H.S.Irwin & Barn miêu tả khoa học đầu tiên. Chú thích Liên kết ngoài Chi Muồng trĩn
3432934
https://vi.wikipedia.org/wiki/B%E1%BB%87nh%20n%E1%BA%A5m%20Candida
Bệnh nấm Candida
Bệnh nấm Candida là một bệnh nhiễm nấm do bất kỳ loại nấm men Candida nào. Khi nó ảnh hưởng đến miệng, nó thường được gọi là thrush. Những dấu hiệu và triệu chứng bao gồm những đốm trắng trên lưỡi hoặc các khu vực khác của miệng và cổ họng. Các triệu chứng có thể, bao gồm đau nhức và khó nuốt. Khi nó ảnh hưởng đến âm đạo, nó thường được gọi là một bệnh nhiễm nấm (yeast infection). Những dấu hiệu và triệu chứng bao gồm ngứa bộ phận sinh dục, rát, và đôi khi có chất dịch trắng giống "pho mát" chảy ra từ âm đạo. Dương vật có thể bị ảnh hưởng, kết quả là cảm giác ngứa. Rất hiếm khi sự nhiễm trùng có thể trở thành xâm hại lan rộng khắp cơ thể, tạo ra sốt cùng với các triệu chứng khác tùy thuộc vào các bộ phận nào của cơ thể bị ảnh hưởng. Hơn 20 loại nấm Candida có thể gây nhiễm trùng với Candida albicans là loại nấm phổ biến nhất. Nhiễm trùng đường miệng là phổ biến nhất với trẻ sơ sinh ít hơn một tháng tuổi, người già, và với những người bị suy giảm hệ thống miễn dịch. Điều kiện dẫn đến suy giảm hệ thống miễn dịch bao gồm HIV/AIDS, các loại thuốc sử dụng sau khi cấy ghép nội tạng, tiểu đường, và sử dụng corticosteroid. Các rủi ro khác bao gồm việc sử dụng răng giả và sau khi dùng kháng sinh trị liệu. Nhiễm trùng âm đạo xảy ra thường xuyên trong khi mang thai, với những người có hệ thống miễn dịch yếu, và sau khi sử dụng thuốc kháng sinh. Nguy cơ để bệnh này lây lan rộng rãi bao gồm việc chữa trị trong một phòng chăm sóc chuyên biệt, sau phẫu thuật, trẻ sơ sinh sinh thiếu cân, và với những người có hệ thống miễn dịch bị suy yếu. Nỗ lực ngăn chặn nhiễm trùng đường miệng, bao gồm việc sử dụng chlorhexidine để rửa miệng với những người có khả năng miễn dịch thấp và rửa miệng nhổ ra ngoài sau khi sử dụng steroid bằng cách hít. Có ít bằng chứng cho thấy hiệu quả trong việc dùng probiotic để phòng ngừa hoặc điều trị ngay cả với những người thường xuyên bị nhiễm trùng âm đạo. Đối với nhiễm trùng đường miệng, điều trị với clotrimazole tại chỗ hay nystatin thường tỏ ra hiệu quả. Uống qua đường miệng hoặc tiêm tĩnh mạch các thuốc fluconazole, itraconazole, hoặc amphotericin B là phương pháp điều trị nếu các phương pháp trên không hiệu quả. Một số thuốc bôi kháng nấm như clotrimazole có thể được sử dụng cho nhiễm trùng âm đạo. Đối với những người bệnh bị nấm lây lan rộng một thuốc họ echinocandin như caspofungin hoặc micafungin được sử dụng. Có thể sử dụng tiêm ven thuốc Amphotericin B trong vòng vài tuần để thay thế cho các thuốc trên. Đối với nhóm người có nguy cơ cao nhiễm nấm, thuốc chống nấm có thể được sử dụng trước khi có bệnh để phòng tránh. Nhiễm nấm đường miệng xảy ra với khoảng 6% trẻ sơ sinh ít hơn một tháng tuổi. Khoảng 20% những người đang trải qua hóa trị liệu ung thư và 20% của những người mắc AIDS cũng phát bệnh này. Khoảng ba phần tư phụ nữ có ít nhất một lần nhiễm nấm trong cả đời. Hiếm khi bệnh này lây lan rộng rãi ngoại trừ với những người có nguy cơ cao. Tham khảo Liên kết ngoài RTT
2877662
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ga%20Eungbong
Ga Eungbong
Ga Eungbong là ga trên Tuyến Jungang. Trước khi mở cửa Tuyến 2 của Tàu điện ngầm Seoul, nó được biết đến với tên Ga Seongsu. Bố trí ga Vùng lân cận Lối thoát 1: Trường tiểu học Eungbong, trường trung học Gwanghui Ga kế cận Tham khảo Eungbong Eungbong
2787034
https://vi.wikipedia.org/wiki/Agrypon%20interstitiale
Agrypon interstitiale
Agrypon interstitiale là một loài tò vò trong họ Ichneumonidae. Chú thích Liên kết ngoài Agrypon
2763121
https://vi.wikipedia.org/wiki/Phasiatacta%20elongata
Phasiatacta elongata
Phasiatacta elongata là một loài ruồi trong họ Tachinidae. Chú thích Liên kết ngoài Phasiatacta
42096
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eo%20bi%E1%BB%83n%20%C4%90%C3%A0i%20Loan
Eo biển Đài Loan
Eo biển Đài Loan, hay eo biển Formosa, là một eo biển rộng khoảng chia tách đảo Đài Loan (của Trung Hoa Dân Quốc) với Trung Quốc đại lục (Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa). Eo biển là một phần của Biển Đông và tiếp nối với biển Hoa Đông ở phía bắc. Điểm hẹp nhất rộng . Xem thêm Địa lý Trung Quốc Tham khảo Eo biển châu Á Biển Hoa Đông Eo biển Trung Quốc Eo biển của Đài Loan Eo biển quốc tế Eo biển Biển Đông Thủy vực Phúc Kiến
577828
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cabez%C3%B3n%20de%20Cameros
Cabezón de Cameros
Cabezón de Cameros tỉnh và cộng đồng tự trị La Rioja, phía bắc Tây Ban Nha. Đô thị này có diện tích là 12,01 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2009 là 22 người với mật độ 1,83 người/km². Đô thị này có cự ly 43 km so với Logroño. Tham khảo Đô thị ở La Rioja
269304
https://vi.wikipedia.org/wiki/Danh%20s%C3%A1ch%20%C4%91%E1%BA%A3o%20c%E1%BB%A7a%20%C4%90an%20M%E1%BA%A1ch
Danh sách đảo của Đan Mạch
Vương quốc Đan Mạch có tất cả 1.419 đảo rộng từ 100 m2 trở lên, trong đó nhiều đảo nhỏ không có tên cũng như không có cư dân. Không kể đảo Greenland và Quần đảo Faroe, thì Đan Mạch có 443 đảo lớn và nhỏ có tên, trong đó 73 đảo có cư dân. Dưới đây là danh sách một số đảo theo thứ tự mẫu tự: A Æbelø Ærø Agerø Agersø Albuen Alrø Als Amager Anholt Årø Askø Avernakø B Baglhólmur Bågø Barneholm Barsø Birkholm Bjørnø Bogø Bornholm Brandsø C Christiansø D Dræet Drejø Dybsø E Egholm Egholm(trong Eo biển Storebælt) Ejlinge Endelave Enehøje Enø Ertholmene Eskilsø F Fænø Falster Fanø Farø Fejø Femø Fyn Fjandø Frederiksø(nhóm đảo Ertholmene) Fur G Gáshólmur Gavnø Gjøl Glænø Græsholm(nhóm đảo Ertholmene) H Halmø Helnæs Hesselø Hindø Hirsholm Hjarnø Hjelm Hjelmshoved Hjortø Hyllekrog Hans I Illumø J Jegindø K Kalvø L Læsø Langø Langeland Langli Lilleø Lindholm Lindholm Livø Lolland Lopranshólmur Lyø M Mandø Masnedø Møn Mors Musholm N Nekselø Nyord O Omø Orø P Peberholm R Rågø Rømø Romsø S Saltholm Samsø Sejerø Siø Skalø Skarø Slotø Slotsholmen Spirholm Sprogø Store Okseø Store Svelmø Strynø Strynø Kalv T Tærø Tåsinge Thurø Torø Tornø Trøllhøvdi Tunø V Vejlø Vejrø Venø Vendsyssel-Thy Vigelsø Vorsø Z Zealand Xem thêm Greenland Quần đảo Faroe Danh sách đảo có cư dân của Đan Mạch Tham khảo Đan Mạch Đảo
1895423
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eugenia%20ilalensis
Eugenia ilalensis
Eugenia ilalensis là một loài thực vật có hoa trong Họ Đào kim nương. Loài này được Hieron. mô tả khoa học đầu tiên năm 1895. Chú thích Liên kết ngoài I Thực vật được mô tả năm 1895
1830797
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brongniartia%20guerrerensis
Brongniartia guerrerensis
Brongniartia guerrerensis là một loài thực vật có hoa trong họ Đậu. Loài này được J.Jimenez Ram. & J.L.Contr. miêu tả khoa học đầu tiên. Chú thích Liên kết ngoài Brongniartia
1564389
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Rose%20Dell%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Rock%2C%20Minnesota
Xã Rose Dell, Quận Rock, Minnesota
Xã Rose Dell () là một xã thuộc quận Rock, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 216 người. Tham khảo Xem thêm American FactFinder Xã của Minnesota Quận Rock, Minnesota
1985280
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cyrtandra%20umbraticola
Cyrtandra umbraticola
Cyrtandra umbraticola là một loài thực vật có hoa trong họ Tai voi. Loài này được Schltr. mô tả khoa học đầu tiên năm 1923. Chú thích Liên kết ngoài Cyrtandra Thực vật được mô tả năm 1923
985768
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mordellina%20antennalis
Mordellina antennalis
Mordellina antennalis là một loài bọ cánh cứng trong họ Mordellidae. Loài này được Batten miêu tả khoa học năm 1990. Chú thích Tham khảo Mordellina
2561262
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hyllisia%20albocincta
Hyllisia albocincta
Hyllisia albocincta là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Liên kết ngoài Hyllisia Động vật được mô tả năm 1924
844933
https://vi.wikipedia.org/wiki/6778%20Tosamakoto
6778 Tosamakoto
6778 Tosamakoto (1989 TX10) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 4 tháng 10 năm 1989 bởi A. Takahashi ở Kitami. Tham khảo Liên kết ngoài JPL Small-Body Database Browser 6778 Tosamakoto Thiên thể phát hiện năm 1989 Tiểu hành tinh vành đai chính
1052858
https://vi.wikipedia.org/wiki/Paulianoptinus%20sechellarum
Paulianoptinus sechellarum
Paulianoptinus sechellarum là một loài bọ cánh cứng trong họ Ptinidae. Loài này được Scott miêu tả khoa học năm 1924. Chú thích Tham khảo Paulianoptinus
14207353
https://vi.wikipedia.org/wiki/Hayasaka%20Ryunosuke
Hayasaka Ryunosuke
Ryunosuke Hayasaka (sinh ngày 7 tháng 6 năm 1994) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Sự nghiệp câu lạc bộ Ryunosuke Hayasaka đã từng chơi cho Thespakusatsu Gunma. Tham khảo Sinh năm 1994 Nhân vật còn sống Cầu thủ bóng đá nam Nhật Bản
1315653
https://vi.wikipedia.org/wiki/Khadir%20%28huy%E1%BB%87n%29
Khadir (huyện)
Khadir là một huyện thuộc tỉnh Daikondi, Afghanistan. Dân số thời điểm năm 1999 là người. Tham khảo Xem thêm Huyện của Afghanistan Huyện của tỉnh Daykundi
1891614
https://vi.wikipedia.org/wiki/Diuris%20callitrophila
Diuris callitrophila
Diuris callitrophila là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được D.L.Jones mô tả khoa học đầu tiên năm 2003. Chú thích Liên kết ngoài Diuris Thực vật được mô tả năm 2003
19209791
https://vi.wikipedia.org/wiki/Qu%E1%BB%91c%20ca%20C%E1%BB%99ng%20h%C3%B2a%20Kazakhstan
Quốc ca Cộng hòa Kazakhstan
Quốc ca Cộng hòa Kazakhstan (tiếng Kazakh: Қазақстан Республикасының Мемлекеттік Әнұраны, Qazaqstan Respýblıkasynyń Memlekettik Ánurany) là một bài quốc ca cũ của Kazakhstan. Nó được sử dụng từ năm 1992 đến năm 1996. Vào ngày 7 tháng 1 năm 2006, nó được thay thế bởi "Meniñ Qazaqstanım". Khi Kazakhstan giành độc lập từ Liên Xô vào tháng 12 năm 1991, phần nhạc của quốc ca CHXHCNXV Kazakhstan - được sáng tác bởi Mukan Tulebayev, Yevgeny Brusilovsky và Latif Khamidi - đã được giữ lại; và lời bài hát mới đã được thông qua vào năm 1992 sau một cuộc thi dài. Lời bài hát được viết chung bởi bốn người, bao gồm nhà thơ Zhadyra Daribayeva, một trong số ít phụ nữ đã từng tham gia viết một bài quốc ca. Lời Tiếng Kazakh Dịch sang tiếng Việt Xem thêm Meniñ Qazaqstanım - quốc ca hiện tại của Kazakhstan Tham khảo Liên kết ngoài MIDI file Lyrics - nationalanthems.info Lyrics score - Kazakhstan 1992–2006 Kazakhstan National Anthems Bài ca Kazakhstan Âm nhạc Kazakhstan Biểu tượng quốc gia Kazakhstan
2711615
https://vi.wikipedia.org/wiki/Neurophyseta%20arcigrammalis
Neurophyseta arcigrammalis
Neurophyseta arcigrammalis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Neurophyseta
1558209
https://vi.wikipedia.org/wiki/X%C3%A3%20Pleasant%2C%20Qu%E1%BA%ADn%20Franklin%2C%20Ohio
Xã Pleasant, Quận Franklin, Ohio
Xã Pleasant () là một xã thuộc quận Franklin, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của xã này là 6.671 người. Tham khảo Xem thêm American FactFinder Xã thuộc tiểu bang Ohio Quận Franklin, Ohio
2570947
https://vi.wikipedia.org/wiki/Prionus%20townsendi
Prionus townsendi
Prionus townsendi là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Prionus
1175812
https://vi.wikipedia.org/wiki/Monolistra%20sketi
Monolistra sketi
Monolistra (Microlistra) sketi là một loài chân đều trong họ Sphaeromatidae. Loài này được Deeleman-Reinhold miêu tả khoa học năm 1971. Chú thích Tham khảo Monolistra
2659052
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stenele%20onobra
Stenele onobra
Stenele onobra là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Stenele
1424054
https://vi.wikipedia.org/wiki/Kemenesp%C3%A1lfa
Kemenespálfa
Kemenespálfa là một thị trấn thuộc hạt Vas, Hungary. Thị trấn này có diện tích 13,72 km², dân số năm 2010 là 443 người, mật độ 32 người/km². Tham khảo Hạt Vas Thị trấn của Hungary
1767838
https://vi.wikipedia.org/wiki/Brachyurophis%20roperi
Brachyurophis roperi
Brachyurophis roperi là một loài rắn trong họ Rắn hổ. Loài này được Kinghorn mô tả khoa học đầu tiên năm 1931. Chú thích Tham khảo Kinghorn, 1931: Herpetological notes 3. Records of the Australian Museum, , , (texte intégral). Brachyurophis Động vật được mô tả năm 1931
867916
https://vi.wikipedia.org/wiki/Coenagrion%20lehmanni
Coenagrion lehmanni
Coenagrion lehmanni là một loài chuồn chuồn kim trong họ Coenagrionidae. Coenagrion lehmanni được Kolenati miêu tả khoa học năm 1856. Chú thích Tham khảo Coenagrion
1052074
https://vi.wikipedia.org/wiki/Oulimnius%20major
Oulimnius major
Oulimnius major là một loài bọ cánh cứng trong họ Elmidae. Loài này được Rey miêu tả khoa học năm 1889. Chú thích Tham khảo Oulimnius
1207362
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ammophila%20argyrocephala
Ammophila argyrocephala
Ammophila argyrocephala là một loài côn trùng cánh màng trong họ Sphecidae, thuộc chi Ammophila. Loài này được Arnold miêu tả khoa học đầu tiên năm 1951. Xem thêm Danh sách các loài trong họ Sphecidae Chú thích Tham khảo Ammophila (Sphecidae)
67269
https://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%A2n%20bay%20qu%E1%BB%91c%20t%E1%BA%BF%20Kuala%20Lumpur
Sân bay quốc tế Kuala Lumpur
Sân bay quốc tế Kuala Lumpur (viết tắt tiếng Anh: KLIA, IATA: KUL, ICAO: WMKK) là sân bay lớn nhất Malaysia và là một trong những sân bay nhộn nhịp nhất châu Á. Sân bay được xây dựng với kinh phí lên đến 3,5 tỷ USD và được khánh thành ngày 27/6/1998. Kiến trúc sư người Nhật Bản là Kisho Kurokawa thiết kế sân bay này. Sân bay cách thủ đô Kuala Lumpur 50 km. Năm 2009, sân bay này đã phục vụ 29,6 triệu hành khách (thấp hơn mức dự kiến là 35 triệu khách). Sân bay này có tháp kiểm soát không lưu cao 130 m, cao thứ 2 trong các tháp không lưu (chỉ đứng sau tháp tại Sân bay quốc tế Suvarnabhumi Bangkok) có 2 đường băng rộng 60 m dài hơn 4.000 m, có thể phục vụ 120 chuyến/giờ. Theo quy hoạch sân bay này sẽ có 4 đường băng. Công suất nhà ga giai đoạn 2 đến năm là 35 triệu khách/năm và năm 2008-đến 2012 là 45 triệu khách/năm. Các hàng hàng không và các điểm đến Sân bay này là trung tâm của Malaysia Airlines, và một nhà ga cuối của tuyến Kuala Lumpur-Singapore do hai hãng Malaysia Airlines và Singapore Airlines. Các hãng hàng không hoạt động tại sân bay này gồm: Hãng hàng không và tuyến bay Hành khách Hàng hóa Thư viện ảnh Liên kết ngoài Website của Kuala Lumpur International Airport Nhà ga vận tải giá rẻ (LCC) - KLIA SkyBus website Tham khảo Kuala Lumpur Kuala Lumpur
1836135
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crucianella%20macrostachya
Crucianella macrostachya
Crucianella macrostachya là một loài thực vật có hoa trong họ Thiến thảo. Loài này được Boiss. mô tả khoa học đầu tiên năm 1843. Chú thích Liên kết ngoài Crucianella Thực vật được mô tả năm 1843
85594
https://vi.wikipedia.org/wiki/Thi%20%C4%90%C3%ACnh
Thi Đình
Thi Đình (Đình thí, Điện thí) là một khóa thi nho học cao cấp nhất do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người thi đỗ được bổ nhiệm làm quan chức trong triều chính. Sau khi thí sinh đỗ khoa thi Hội thì mới được dự thi thi Đình. Đỗ đầu thi Đình gọi là đình nguyên hay điện nguyên. Gọi là thi Đình vì thi trong cung điện của vua. Thể thức thi Đình Gồm 3 bậc (tam giáp) Bậc 1: Đỗ tiến sĩ đệ nhất giáp (tiến sĩ cập đệ). Gồm ba thí sinh đỗ cao nhất (gọi là tam khôi): Đỗ hạng ba là thám hoa (ông thám), hạng nhì là bảng nhãn (ông bảng), đỗ đầu là trạng nguyên (ông trạng) Bậc 2: Đỗ tiến sĩ đệ nhị giáp (tiến sĩ xuất thân hay hoàng giáp) - ông hoàng Bậc 3: Đỗ tiến sĩ đệ tam giáp (đồng tiến sĩ xuất thân) - dân gian gọi là ông tiến sĩ. Từ 1829, thang điểm thi Đình là: Đạt 10 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhất danh (Đình nguyên, đỗ đầu thi Đình, tương đương với Trạng nguyên trước kia, vì nhà Nguyễn chủ trương không lấy Trạng nguyên). Đạt 9 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ nhị danh (Bảng nhãn). Đạt 8 điểm, đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa). Đạt 7 và 6 điểm, đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp). Đạt 5 điểm trở đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đồng tiến sĩ). Đạt 5 điểm trở xuống đỗ phó bảng. Từ năm 1851 vua Tự Đức có cho thêm một số Phó bảng có điểm số thi Hội gần với điểm chuẩn đỗ chánh bảng được tham dự thi Đình để có thêm cơ hội phấn đấu. Nếu đạt điểm chuẩn đỗ tiến sĩ thì được công nhận là tiến sĩ, nếu không đạt vẫn được công nhận là Phó bảng. Vua Tự Đức giữ nguyên tiêu chuẩn đỗ tiến sĩ cập đệ và tiến sĩ xuất thân, sửa lại tiêu chuẩn đỗ đồng tiến sĩ xuất thân như sau: Đạt 4 điểm đến 5 điểm đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân (đồng tiến sĩ). Đạt 3 điểm trở xuống đỗ phó bảng. Xem thêm Khoa bảng Việt Nam Quốc triều khoa bảng lục Chú thích Tham khảo Đình, thi Giáo dục Việt Nam thời Lê sơ Giáo dục Việt Nam thời Mạc Giáo dục Việt Nam thời Lê trung hưng Giáo dục Việt Nam thời Nguyễn
19705285
https://vi.wikipedia.org/wiki/D.A.F.T.%3A%20A%20Story%20About%20Dogs%2C%20Androids%2C%20Firemen%20and%20Tomatoes
D.A.F.T.: A Story About Dogs, Androids, Firemen and Tomatoes
D.A.F.T.: A Story About Dogs, Androids, Firemen and Tomatoes là bộ sưu tập video của bộ đôi nhạc điện tử người Pháp Daft Punk được phát hành vào ngày 15 tháng 11 năm 1999. Nó bao gồm các video âm nhạc của sáu bài hát trong album Homework (1997) của họ. Mặc dù tiêu đề của nó bắt nguồn từ sự xuất hiện của chó ("Da Funk" và "Fresh"), người máy ("Around the World"), lính cứu hỏa ("Burnin'") và cà chua ("Revolution 909") trong video, một cốt truyện gắn kết không kết nối được các tình tiết của nó. DVD chứa các video của bốn đĩa đơn và hai ca khúc trong album Homework. Mỗi video ca nhạc đều có một bộ phim tài liệu "đằng sau những cảnh quay", ngoại trừ "Rollin' & Scratchin'", có video âm nhạc là buổi biểu diễn trực tiếp tại Nhà hát Mayan, Los Angeles, California. Danh sách nội dung "Da Funk" Video âm nhạc với bản nhạc gốc Video âm nhạc với thuyết minh của Spike Jonze "Đằng sau những cảnh quay" với bản remix "Ten Minutes of Funk" của Armand van Helden "Đằng sau những cảnh quay" với tiếng ồn của đoàn làm phim tại điểm quay "Đằng sau cái đầu chó" với "On Da Rocks" của Thomas Bangalter "Around the World" Video âm nhạc với bản nhạc gốc Video âm nhạc với thuyết minh của Michel Gondry "Đằng sau những cảnh quay" với bản "Mellow Mix" của Masters at Work "Đằng sau những cảnh quay" với tiếng ồn của đoàn làm phim tại điểm quay Storyboard Trong phòng học với Michel Gondry "Burnin'" Video âm nhạc với bản nhạc gốc Video âm nhạc với thuyết minh của Seb Janiak "Đằng sau những cảnh quay" với bản "Cut Up Mix" của Ian Pooley "Đằng sau những cảnh quay" với tiếng ồn của đoàn làm phim tại điểm quay Storyboard "Revolution 909" Video âm nhạc với bản nhạc gốc Video âm nhạc với thuyết minh của Roman Coppola "Đằng sau những cảnh quay" với bản "Revolutionary War Mix" của Roger Sanchez và Junior Sanchez "Đằng sau những cảnh quay" với tiếng ồn của đoàn làm phim tại điểm quay "Fresh" Video âm nhạc với bản nhạc gốc Video âm nhạc với thuyết minh của Daft Punk "Đằng sau những cảnh quay" với bản nhạc gốc "Đằng sau những cảnh quay" với tiếng ồn của đoàn làm phim tại điểm quay "Diễn tập các cảnh quay" với bản nhạc gốc và tiếng ồn của đoàn làm phim tại điểm quay Storyboard Album ảnh "Rollin' & Scratchin'" Đạo diễn bởi Philip Richardson Đạo diễn bởi chính bạn Tham khảo Liên kết ngoài Album năm 1999
1852982
https://vi.wikipedia.org/wiki/Austrofestuca%20hookeriana
Austrofestuca hookeriana
Austrofestuca hookeriana là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (F.Muell.) S.W.L.Jacobs mô tả khoa học đầu tiên năm 1990. Chú thích Liên kết ngoài Austrofestuca Thực vật được mô tả năm 1990
1774621
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chalcides%20bedriagai
Chalcides bedriagai
Chalcides bedriagai là một loài thằn lằn trong họ Scincidae. Loài này được Bosca mô tả khoa học đầu tiên năm 1880. Hình ảnh Tham khảo Chalcides Động vật được mô tả năm 1880
955769
https://vi.wikipedia.org/wiki/Geranomyia%20snyderi%20snyderi
Geranomyia snyderi snyderi
Geranomyia snyderi là một phân loài ruồi của loài Geranomyia snyderi trong họ Limoniidae. Chúng phân bố ở miền Australasia. Chú thích Tham khảo Geranomyia Limoniidae ở vùng Australasia
1495654
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%B0smailiye%2C%20Re%C5%9Fadiye
İsmailiye, Reşadiye
İsmailiye là một xã thuộc huyện Reşadiye, tỉnh Tokat, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 368 người. Chú thích Tham khảo Làng thuộc tỉnh Tokat
19712454
https://vi.wikipedia.org/wiki/581%20%28s%E1%BB%91%29
581 (số)
581 (năm trăm tám mươi mốt) là một số tự nhiên ngay sau số 580 và trước số 582. 581 = 7 × 83 là số: Số nguyên Blum: các số có dạng p × q trong đó p và q là các số nguyên tố khác nhau đồng dư với 3(mod 4) Tổng của 3 số nguyên tố liên tiếp (191 + 193 + 197) Tham khảo Số Sơ khai toán học
2572336
https://vi.wikipedia.org/wiki/Pseudosybra%20cristata
Pseudosybra cristata
Pseudosybra cristata là một loài bọ cánh cứng trong họ Cerambycidae. Chú thích Tham khảo Pseudosybra
552914
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euphorbia%20lophogona
Euphorbia lophogona
Euphorbia lophogona là một loài thực vật thuộc họ Euphorbiaceae. Đây là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng khô nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. Hình ảnh Chú thích Tham khảo Haevermans, T. 2004. Euphorbia lophogona. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng 8 năm 2007. Thực vật Madagascar L Thực vật dễ tổn thương
2217226
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cung%20%C4%91i%E1%BB%87n%20Golestan
Cung điện Golestan
Cung điện Golestan (tiếng Ba Tư: کاخ گلستان, phát âm là "Kakheh Golestan") còn được gọi là Cung điện Gulistan là tổ hợp hoàng gia của triều đại Qajar nằm tại thủ đô của Iran. Đây là di tích lịch sử lâu đời nhất tại Tehran, là một di sản thế giới được UNESCO công nhận.. Cung điện Golestan thuộc về một nhóm các tòa nhà hoàng gia từng được bảo vệ trong trát bùn gắn liền với lịch sử của thành cổ Tehran. Nó bao gồm các khu vườn, tòa nhà hoàng gia, các bộ sưu tập hàng thủ công Iran và các món quà tặng từ châu Âu thế kỷ 18 đến 19. Lịch sử Tổ hợp được xây dựng dưới thời Tahmasp I (1524-1576) của triều đại Safavid (1502-1736), và sau đó được cải tạo bởi Karim Khan Zand (1750-1779). Agha Khan Mohamd Qajar (1742-1797) đã chọn Tehran là thủ đô của vương quốc. Golestan đã trở thành cung điện hoàng gia của Qajar (1794-1925). Từ đó Golestan trở thành nơi ở chính thức của gia đình hoàng gia Qajar. Cung điện được xây dựng lại giống như hiện tại của nó vào năm 1865 bởi Haji Abol-hasan Mimar Navai. Trong thời kỳ Pahlavi (1925-1979) Golestan đã được sử dụng để tiếp khách chính của hoàng gia và triều đại Pahlavi đã xây dựng cung điện của mình tại Niavaran. Các nghi lễ quan trọng nhất được tổ chức tại cung điện trong thời đại Pahlavi là lễ đăng quang của Reza Khan (1925-1941) ở Takht-e Marmar và lễ đăng quang của Mohammad Reza Pahlavi (1941-bị lật đổ năm 1979) tại Bảo tàng Hall. Trong giữa năm 1925 và 1945, phần lớn các tòa của cung điện đã bị phá hủy theo lệnh của Reza Shah. người tin rằng cung điện vào thế kỷ cũ Qajar không nên cản trở sự phát triển của một thành phố hiện đại như Tehran. Vị trí của các tòa nhà thương mại hiện đại những năm 1950 và 1960 đã được dựng lên khiến cung điện Golestan không còn lại nguyên vẹn như trước. Tổ hợp cung điện Tổ hợp Cung điện Golestan bao gồm 17 cung điện, bảo tàng, và tòa nhà. Hầu như tất cả các tổ hợp này được xây dựng trong suốt hơn 200 năm dưới thời vua Qajar nắm quyền. Các cung điện này được sử dụng cho nhiều dịp khác nhau như lễ đăng quang và lễ kỷ niệm quan trọng khác của đất nước. Dưới đây là các công trình, hạng mục chính của cung điện. Takht Marmar Khalvat Karim Khani Hoze Khaneh Negar Khaneh Talar Berelian Bảo tàng Gifts Talar Zoroof Talar Adj Talar Aineh Talar Salam Shams-ol-Emareh Emarat Badgir Talar Almas Cung điện Abyaze "Sân thượng" của cung điện được gọi là Takht-e Marmar, được xây dựng vào năm 1806 theo lệnh của Fath Ali Shah Qajar (1797-1834). Được trang trí bởi những bức tranh, đá cẩm thạch chạm khắc, ngói, vữa, các tấm gương, gạch men, khắc gỗ, và cửa sổ lưới mang phong cách kiến trúc Iran. Đây là một trong những tòa nhà lâu đời nhất của cung điện. Ngai vàng nằm ở giữa sân thượng (Iwan), được làm bằng đá cẩm thạch màu vàng nổi tiếng của tỉnh Yazd. Ngai vàng được làm bằng 65 miếng đá cẩm thạch và được thiết kế bởi Mirza Baba Naghash Bashi (họa sĩ hàng đầu của Qajar). Mohammad Ebrahim, Royal Mason giám sát việc xây dựng và một số bậc thầy nổi tiếng thời đó cũng tham gia để hoàn thành kiệt tác này. Các chi tiết kiến ​​trúc và đồ trang trí của Takht Marmar (Iwan) được hoàn thành trong triều đại của Fath Ali Shah và Nasser - ol-Din Shah (1848-1896). Lễ đăng quang của vua Qajar, và các nghi lễ chính thức đã được tổ chức trên sân thượng này (Iwan). Lễ đăng quang cuối cùng được tổ chức tại Takht-e-Marmar là lễ đăng quang của nhà vua tự xưng, Reza Khan Pahlavi vào năm 1925. Hiện nay, Golestan là kết quả của 400 năm xây dựng và nâng cấp. Các tòa nhà tại địa điểm hiện đại đều có một lịch sử độc đáo. Ngày 11 tháng 10 năm 2005, của Tổ chức Di sản văn hóa của Iran đệ trình UNESCO công nhận Golestan là di sản thế giới vào năm 2007. Tuy nhiên, phải đến ngày 23 tháng 6 năm 2013 nó mới chính thức được công bố là di sản thế giới trong kỳ họp của UNESCO tại Phnom Penh. Golestan hiện đang được điều hành bởi Tổ chức Di sản văn hóa của Iran. Hình ảnh Tham khảo Liên kết ngoài Official website of Golestan Palace Images of the Golestan Palace marbles , Iran Journal of Architecture, No. 14, October 2004. Photos from Golestan Palace Farnāz Khatibi, The First Museum of Iran, Jadid Online, 2008 .A slide show, by Amin Āzād and Farnāz Khatibi, Jadid Online, 2008. (4 min 54 sec). Information and pictures of Golestan Palace Horsham Museum with collections database access Di sản thế giới tại Iran Cung điện Iran Golestan
2105687
https://vi.wikipedia.org/wiki/Cassytha%20pedicellosa
Cassytha pedicellosa
Cassytha pedicellosa là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được J.Z.Weber miêu tả khoa học đầu tiên năm 1981. Chú thích Liên kết ngoài Cassytha Thực vật được mô tả năm 1981
2718434
https://vi.wikipedia.org/wiki/Scoparia%20latipennis
Scoparia latipennis
Scoparia latipennis là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài L
1807419
https://vi.wikipedia.org/wiki/Habracanthus%20enarthrocoma
Habracanthus enarthrocoma
Habracanthus enarthrocoma là một loài thực vật có hoa trong họ Ô rô. Loài này được Leonard mô tả khoa học đầu tiên năm 1953. Chú thích Habracanthus Thực vật được mô tả năm 1953 en:Habracanthus enarthrocoma
2333445
https://vi.wikipedia.org/wiki/Begonia%20stenophylla
Begonia stenophylla
Begonia stenophylla là một loài thực vật có hoa trong họ Thu hải đường. Loài này được A.DC. mô tả khoa học đầu tiên năm 1859. Chú thích Liên kết ngoài S Thực vật được mô tả năm 1859
14595667
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8D%20D%C3%B3t
Họ Dót
Họ Dót (danh pháp khoa học: Ehretiaceae) là một họ thực vật có hoa, từng được coi là phân họ Ehretioideae của họ Boraginaceae nghĩa rộng (sensu lato) trong bộ Boraginales. Các chi Bourreria P.Browne (gồm cả Beurreria, Crematomia, Hilsenbergia, Morelosia, Subrisia, Tetracoccus). Cortesia Cav. Ehretia P.Browne (gồm cả Carmona, Gaza, Lithothamnus, Menais, Rhabdia, Rotula, Traxilum, Zombiana). Halgania Gaudich. Lepidocordia Ducke (gồm cả Antrophora). Rochefortia Sw. (gồm cả Desmophyla, Diplostylus, Lutrostylis). Tiquilia Pers. (gồm cả Eddya, Galapagoa, Monomesia, Ptilocalyx, Stegnocarpus, Tiquiliopsis). Chuyển đi Ixorhea Fenzl: Sang họ Heliotropiaceae. Patagonula L.: Đồng nghĩa của Cordia (họ Cordiaceae). Phát sinh chủng loài Cây phát sinh chủng loài dưới đây vẽ theo Gottschling et al. (2014). Như cây phát sinh chủng loài này thì Ehretiaceae là cận ngành trong tương quan với Lennoaceae (gồm Lennoa và Pholisma) và tốt nhất nên gộp cả họ này. Tham khảo
2388841
https://vi.wikipedia.org/wiki/Valeriana%20senecioides
Valeriana senecioides
Valeriana senecioides là một loài thực vật có hoa trong họ Kim ngân. Loài này được Phil. miêu tả khoa học đầu tiên.. Chú thích Liên kết ngoài Chi Nữ lang
2376359
https://vi.wikipedia.org/wiki/Weinmannia%20laurina
Weinmannia laurina
Weinmannia laurina là một loài thực vật có hoa trong họ Cunoniaceae. Loài này được Kunth miêu tả khoa học đầu tiên năm 1823. Chú thích Liên kết ngoài Weinmannia Thực vật được mô tả năm 1823
1776942
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ophiodes%20striatus
Ophiodes striatus
Ophiodes striatus là một loài thằn lằn trong họ Anguidae. Loài này được Spix mô tả khoa học đầu tiên năm 1824. Chú thích Tham khảo Ophiodes Động vật được mô tả năm 1824 Loài ít quan tâm theo Sách đỏ IUCN Động vật bò sát Bolivia Động vật bò sát Brasil Động vật bò sát Paraguay sv:Ophiodes striatus
3647156
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BB%99ng%20%C4%91%E1%BA%A5t%20k%C3%A9p
Động đất kép
Các nhà địa trấn học đôi khi gọi một cặp động đất xảy ra tương đối gần nhau trong không gian và thời gian là động đất "kép". Nó khác với dư chấn. Dư chấn thường có độ lớn nhỏ hơn và xảy ra cùng địa điểm với động đất chính, động đất kép thường xảy ra ở các vị trí khác nhau. Trận động đất đầu tiên có thể có khoảng cách về không gian và thời gian tương đối lớn so với trận động đất thứ hai. Độ lớn của trận động đất thứ hai có thể lớn hơn trận động đất thứ nhất một chút. Loại động đất này xảy ra một hoặc hai lần một năm và hiếm hơn nhiều động đất bình thường. Ở những vùng dễ bị xảy ra động đất thường không có kế hoạch chuẩn bị trước cho động đất kép vì nó hiếm khi xảy ra. Tuy nhiên, khi nó xảy ra nó có tiềm năng phá huỷ lớn. Một trận động đất kép xảy ra khá gần đây ở ngoài khơi quần đảo Kuril Nhật Bản cuối 2006 đầu 2007, nơi đã không có một trận động đất quy mô lớn từ 1915. Trận động đất đầu tiên xảy ra ngày 15 tháng 11 và có độ lớn 8,3. Không lâu sau đó hoạt động địa chấn này bắt đầu ở mảng Thái Bình Dương nơi mà trận động đất xảy ra lần hai ngày 13 tháng 1, có độ lớn 8,1. Chỉ có một người bị thương từ trận động đất thứ nhất và không có ai bị thương trong trận động đất thứ hai vì chúng đều xảy ra ở đại dương. Tuy nhiên, mỗi trận động đất tạo ra một cơn sóng thần. Trận động đất ngày 15 tháng 11 tạo ra một cơn sóng thần đánh vào bờ biển California gây ra thiệt hại khoảng $500.000- $1.000.000. Cũng có những ví dụ về động đất ba ví dụ như động đất Mindanao 2010. Tham khảo Liên kết ngoài Các trận động đất kép và nông trên thế giới Một trận động đất kép xảy ra ở quần đảo Kuril Các loại động đất
2633664
https://vi.wikipedia.org/wiki/Naxa%20guttulata
Naxa guttulata
Naxa guttulata là một loài bướm đêm trong họ Geometridae. Chú thích Liên kết ngoài Naxa
232575
https://vi.wikipedia.org/wiki/T%C6%B0%20Nam
Tư Nam
Tư Nam (chữ Hán giản thể: 思南县 Sīnán Xiàn, âm Hán Việt: Tư Nam huyện) là một huyện thuộc địa cấp thị Đồng Nhân, tỉnh Quý Châu, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 2231 ki-lô-mét vuông, dân số năm 2002 là 610.000 người. Mã số bưu chính của huyện Tư Nam là 565100. Huyện lỵ đóng ở trấn Tư Đường. Huyện Tư Nam được chia thành 13 trấn và 12 hương dân tộc. Trấn: Tư Đường, Hứa Gia Bá, Đại Bá, Văn Gia Điếm, Anh Vũ, Hợp Minh Khê, Trương Gia Trại, Tôn Gia Bá, Thanh Uông Pha, Úng Khê, Lương Thủy Tỉnh và Chiêu Gia Kiều. Tham khảo Liên kết ngoài Tư Nam Đồng Nhân Đơn vị cấp huyện Quý Châu
1811342
https://vi.wikipedia.org/wiki/Echinops%20longisetus
Echinops longisetus
Echinops longisetus là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được A.Rich. mô tả khoa học đầu tiên năm 1848. Chú thích Liên kết ngoài Echinops Thực vật được mô tả năm 1848
1476558
https://vi.wikipedia.org/wiki/G%C3%BCnde%C4%9Fer%2C%20Musabeyli
Gündeğer, Musabeyli
Gündeğer là một xã thuộc huyện Musabeyli, tỉnh Kilis, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2010 là 307 người. Chú thích Tham khảo
206558
https://vi.wikipedia.org/wiki/Mandapam
Mandapam
Mandapam là một thị xã panchayat của quận Ramanathapuram thuộc bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Địa lý Mandapam có vị trí Nó có độ cao trung bình là 9 mét (29 feet). Nhân khẩu Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Mandapam có dân số 15.799 người. Phái nam chiếm 51% tổng số dân và phái nữ chiếm 49%. Mandapam có tỷ lệ 71% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 75%, và tỷ lệ cho phái nữ là 66%. Tại Mandapam, 13% dân số nhỏ hơn 6 tuổi. Tham khảo Thành phố thuộc bang Tamil Nadu
2154514
https://vi.wikipedia.org/wiki/Anotogaster%20chaoi
Anotogaster chaoi
Anotogaster chaoi là loài chuồn chuồn trong họ Cordulegastridae. Loài này được Zhou miêu tả khoa học đầu tiên năm 1998. Chú thích Tham khảo Anotogaster Động vật được mô tả năm 1998
15216294
https://vi.wikipedia.org/wiki/H%E1%BB%8Dc%20t%E1%BA%ADp%20c%E1%BA%A3i%20t%E1%BA%A1o%20t%E1%BA%A1i%20Vi%E1%BB%87t%20Nam
Học tập cải tạo tại Việt Nam
Học tập cải tạo tại Việt Nam là tên gọi hình thức giam giữ mà chính quyền Việt Nam thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại kết án vì cách hành vi vi phạm pháp luật, vướng vào tệ nạn xã hội hoặc là các nhân vật hoạt động chống chính phủ hoặc là tù binh chiến tranh. Đây là một hình thức xử phạt và lao động bắt buộc. Trước 1975 Thời kỳ Pháp thuộc Thời kỳ Pháp thuộc, chính quyền thực dân cho thành lập các trại tập trung, cải tạo để giam giữ những người chống đối. Đây thường được gọi dưới cái tên như trại cải tạo hay trại lao động đặc biệt. Tiêu biểu có trại Noong Nhai tại Điện Biên hay trại Bà Rá ở Phước Long. Khu tập trung Noong Nhai có hơn 3000 người dân, hầu hết là người dân tộc Thái. Tại trại Bà Rá thực chất là một trại giam để giam giữ tù chính trị và tội phạm chưa kết án. Đối với tội phạm thường, họ được sử dụng làm nhân công làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp và nông nghiệp. Các lao động tù nhân theo từng nhóm 25 hoặc 50 người phục vụ lao động công ích như đào đường, nạo nét kênh rạch, san lấp đường sá. Đối với tù chính trị, họ phải đi khai khẩn đất hoang và phải làm việc dưới sự giám sát của các lính canh đồn điền. Các tù chính trị cho thấy họ không tin tưởng vào lực lượng quản lý của trại. Cùng với sự đối xử dã man của cai ngục, địa thế hiểm trở, cách biệt của nhà tù Bà Rá đã khiến việc cung cấp, vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men, …cho trại tù rất hạn chế, do đó tù nhân tại đây sống rất thiếu thốn, khổ cực, bệnh dịch nặng nề và triền miên, nhiều tù nhân đã chết tại trại. 1954-1975 Chế độ cải tạo lao động rập theo khuôn mẫu của Trung Quốc đã được áp dụng tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngay từ năm 1954 với tội phạm hình sự, tù binh đối phương và tù nhân bị kết án chống đối chính quyền. Theo văn bản luật pháp thì quy chế giam giữ tại trại cải tạo chiếu theo nghị quyết 49 (49-NQTVQH) của Hội đồng Bộ trưởng thông qua ngày 20 tháng 6 năm 1961 và bắt đầu áp dụng kể từ 8 tháng 9, các đối tượng này là "thành phần phản cách mạng" và đe dọa an ninh công cộng. Theo đó, người từ 18 tuổi trở lên, có hành động nguy hại cho xã hội, đã được giáo dục nhiều lần mà không hối cải, nhưng xét thấy không cần đưa ra Tòa án nhân dân xử phạt thì sẽ áp dụng biện pháp đưa vào trại cải tạo lao động. Những người được giáo dục cải tạo không bị coi như phạm nhân có án phạt tù, nhưng trong thời gian giáo dục cải tạo không được hưởng quyền công dân. Những người này được hưởng chế độ về lao động, học tập, ăn ở theo quy định, và phải tuân theo kỷ luật giáo dục cải tạo, thời hạn giáo dục cải tạo là 3 năm. Những người cải tạo tốt sẽ được về trước thời hạn, những người hết 3 năm mà không chịu cải tạo thì thời hạn giáo dục cải tạo có thể bị kéo dài hơn. Tại miền Nam, chế độ tổng thống Ngô Đình Diệm cũng thành lập các trại tập trung trong chương trình Tố Cộng diệt Cộng. Từ đầu mùa hè năm 1955 đến giữa năm 1958, số lượng người bị đưa vào các trại tập trung, cải tạo được Hoa Kỳ ước tính từ 50.000 đến 100.000 người. và trong giai đoạn 1955-1960 là 500.000 người. Tình trạng binh lính Việt Nam Cộng hòa giết hại tù nhân trong trại thường xuyên xảy ra. Để che mắt dư luận, chính quyền Ngô Đình Diệm thường bố trí một sân tập bắn ngay cạnh khu trại giam. Chế độ trong trại cho người bị giam rất kham khổ với điều kiện sống không đảm bảo, với dịch bệnh thường xuyên. Dư luận chỉ biết tới tình trạng này khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính. Theo báo cáo đặc biệt năm 1973 của Tổ chức Ân xá quốc tế (amnesty international - AI), có tồn tại việc chính phủ Việt Nam Cộng hòa đàn áp những người cộng sản, trong đó có việc lạm dụng các điều luật mơ hồ để bắt giữ tuỳ tiện, tra tấn, và xét xử bằng toà án binh. Nhiều người đã bị bắt mặc dù họ không có liên hệ với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam hay Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Theo AI, tình trạng tra tấn, bức cung, nhục hình tại các trại cải tạo vẫn diễn ra thường xuyên. Từ năm 1972, hội Chữ thập đỏ bị ngăn cấm vào tiếp xúc và hỗ trợ cho tù chính trị. Về phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, AI cho biết, một số người bị giam giữ đã được chuyển ra ngoài Bắc. Sau khi Hiệp định Paris được ký, đã có hơn 600 tù nhân được họ trao trả cho phía đối phương. Đây là toàn bộ số lượng người bị giam dân sự mà họ có (con số này được AI cho là rất nhỏ khi xét thấy số lượng nhân viên dân sự của Việt Nam Cộng hòa là hơn 67.000 người). Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam không giam giữ những người thuộc lực lượng chính trị thứ ba, đồng thời họ cũng cung cấp danh sách 16.754 nhân viên dân sự của họ đang bị phía Hoa Kỳ/Việt Nam Cộng hòa giam giữ. AI thừa nhận không có tra tấn trong các trại của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam nhưng tình trạng cuộc sống của người bị giam giữ không được tốt. Phía Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam giải thích do đang trong tình trạng chiến tranh, các trại phải di chuyển liên tục, nguồn viện trợ từ miền Bắc hạn hẹp đến nỗi ngay cả binh lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam còn bị thiếu ăn, thương binh nhiều lúc đã thiệt mạng vì thiếu thuốc men. Do đó, họ chỉ có thể đảm bảo những nhu cầu đơn giản nhất của những người bị giam giữ là đảm bảo cho những người này được sống. Sau 1975 Trong bối cảnh hậu chiến (sau ngày 30 tháng 4 năm 1975), cụm từ "học tập cải tạo" nói đến chương trình tập trung để cải tạo của chính quyền Việt Nam đối với binh lính chế độ Việt Nam Cộng hòa hay những người tham gia phục vụ cho chính quyền Việt Nam Cộng hòa trước 1975. Hệ thống giam giữ tù binh này lấy mẫu từ trại cải tạo lao động của Liên Xô. Sau ngày 30/4/1975, số tàn quân của quân đội Việt Nam Cộng Hòa tan rã tại chỗ khá đông, một số vẫn tiếp tục lẩn trốn và tìm cách chống lại chính quyền mới (ném lựu đạn, ném đá vào rạp hát, cắm cờ Việt Nam Cộng hòa, dán khẩu hiệu ở thị xã, thị trấn, đặt chướng ngại vật gây tai nạn trên đường, lập các nhóm gây rối trật tự trị an...). Một số còn thu thập nhân lực, chôn giấu vũ khí, xây dựng kế hoạch hoạt động vũ trang để lập vùng ly khai. Để đảm bảo trật tự an ninh, tháng 6/1975, Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam ra thông cáo bắt buộc sĩ quan quân đội và viên chức thuộc chế độ Việt Nam Cộng hòa đi học tập cải tạo. Để phân định và có chính sách đối xử thỏa đáng, Chính phủ cũng phân biệt rõ "những công chức làm việc cho địch vì hoàn cảnh, vì đồng lương thì không coi là ngụy quyền". Theo nhà nước Việt Nam, một trong các mục đích của học tập cải tạo là thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước Việt Nam khi họ không đưa các cựu binh đối phương ra xét xử các tội ác chiến tranh, bởi nếu xét xử như vậy thì mức án với các đối tượng này còn nặng hơn nhiều, một số tù nhân có thể bị tử hình; đồng thời cũng để chính quyền mới tạm thời ngăn chặn sự chống phá của các thành viên cực đoan của chế độ cũ nhằm giữ ổn định xã hội miền Nam thời kỳ hậu chiến.. Còn tướng Lê Minh Đảo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thì cho rằng ông bị giam giữ mà không xét xử và không có điều kiện sinh hoạt tốt theo quy chế tù binh trong Công ước Genève. Trại cải tạo của chính quyền Việt Nam cũng là mô hình giam giữ tập trung tương tự với các trại cải tạo lao động của Liên Xô và một số nước khác, theo đó tù nhân tham gia các hình thức lao động trong trại giam. Theo Alain Wasmes, tác giả cuốn sách La peau du Pachyderme (Việt Nam tấm da voi), sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Chính quyền Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã nắm trong tay toàn bộ tài liệu ở trung tâm đăng kiểm của Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ ở Việt Nam (MACV), do Quân lực Việt Nam Cộng hòa tan rã quá nhanh nên không kịp tiêu hủy tài liệu, mà theo như ông mô tả là "Một trong năm máy tính của trung tâm đăng kiểm Mỹ, toàn bộ quân đội Sài Gòn, từ tổng chỉ huy cho đến anh binh nhì, đều được chương trình hóa với toàn bộ những chi tiết về lai lịch và chính trị cần thiết của họ. Thậm chí cả với lớp sắp tuyển, cũng có đầy đủ tất cả như thế". Trên thực tế, trong các báo cáo của sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa, rất nhiều hành động có thể được coi là tội ác chiến tranh đã được ghi lại và báo cáo như là một "chiến tích" trong sự nghiệp chống cộng. Nếu chính quyền mới muốn lập tòa án để xử tử tù binh chế độ cũ thì đó sẽ là bằng chứng rõ ràng để kết tội, nhưng chính quyền mới đã không làm vậy. Việc trừng phạt những đối tượng cộng tác với quân xâm lược nước ngoài diễn ra rất phổ biến ở các nước. Sau khi thoát khỏi sự đô hộ của Đế quốc Nhật Bản, tại Hàn Quốc thì luật pháp có hẳn 1 quy định về đối tượng này, Trung tâm Sự thật và Công lý Lịch sử (CHTJ) đã lập ra cả 1 danh sách 4.389 người từng cộng tác với Nhật để xét lý lịch với con cháu của họ, năm 2019 Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in nói rằng "xóa sạch những dấu tích của việc cộng tác với Nhật Bản là điều nên được thực hiện từ lâu" Sau khi được quân Đồng Minh giải phóng năm 1945, hàng loạt các nước châu Âu đã trừng phạt những người cộng tác với quân xâm lược Đức Quốc xã: nước Pháp đã xử tử hơn 10.500 người, phạt tù 127.0000 người; Hà Lan đã bắt giam 60.000 người; Đan Mạch, Bỉ và Na Uy mỗi nước cũng đã bắt giam hàng chục nghìn người cộng tác với Đức Quốc xã (riêng Na Uy, Đan Mạch và Hà Lan đã khôi phục án tử hình trong dịp này sau hàng chục năm không áp dụng) (xem Épuration légale). Khi so sánh thì chính sách học tập cải tạo ở Việt Nam đã khá nhân đạo khi không tiến hành tử hình bất kỳ một ai. Một công bố của nhà chức trách nói rõ: "Việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước, có tác dụng phân hóa hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân." Chính phủ Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đề ra bốn thành phần cần phải tập trung đưa đi cải tạo: Ngụy quân: sĩ quan Quân đội từ cấp úy đến cấp tướng Ngụy quyền: cảnh sát, tư pháp, hành chính Đảng phái phản động: đảng viên chống Cộng Đầu hàng, phản bội: các phần tử bị chiêu hồi Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi trả lời chất vấn trước Nghị viện Pháp vào cuối thập niên 1980 đã tuyên bố học tập cải tạo là một chính sách nhân đạo, bởi nếu ở những nước khác, bao gồm cả Pháp, những tù nhân này lẽ ra đã bị xử tử hàng loạt vì tội phản quốc, cộng tác với quân xâm lược nước ngoài: Những khu trại mà các vị gọi là trại cải tạo, là sự thể hiện cực kỳ nghiêm túc quan điểm nhân quyền của chúng tôi... Những người này, những người đã phạm phải những tội ác tày trời chống lại đất nước, những người mà nếu ở những nước khác, mà chính quý vị ở đây (các nghị sỹ, nhà báo Pháp) ngay sau khi được giải phóng khỏi Đức Quốc xã, biết chuyện gì đã xảy ra (nước Pháp đã xử tử hơn 10.000 người cộng tác với Đức Quốc xã sau khi được quân Đồng Minh giải phóng năm 1945, xem Épuration légale)... Những người này được cho cơ hội trở lại làm một công dân bình thường, tham gia vào cộng đồng cả nước như bao người. Các vị còn đòi hỏi gì nữa? Ngoài ra có những người không thuộc bốn diện trên nhưng có hoạt động chống Cộng như nhà văn, nhà báo và "biệt kích cầm bút" bị nhà nước xem là chống Cộng cũng phải đi học tập cải tạo.Các tội phạm hình sự như trộm cắp, ma túy, cướp giật, cướp có vũ trang, hiếp dâm... nếu bị bắt cũng phải đưa vào trại. Lao động cải tạo còn áp dụng cho các công dân vi phạm pháp luật, vướng vào tệ nạn xã hội nói chung, đặc biệt là trong giai đoạn hơn mười năm hậu chiến. Tính từ 30/4/1975 đến hết năm 1975, lực lượng An ninh Sài Gòn - Gia Định điều tra làm rõ 5.305/6.959 vụ hình sự, truy quét, triệt xóa nhiều băng, ổ, nhóm trộm cướp chuyên nghiệp khét tiếng. Như băng cướp do Đoàn Đình Hùng (tức Hai Sang) đã gây ra 94 vụ giết người, cướp tài sản. Cách tiến hành tại miền Nam Công việc triệu tập các đối tượng để đưa đi học tập cải tạo bắt đầu từ Tháng Năm, 1975. Đối với hạ sĩ quan (cấp úy trở xuống), sau trình diện thì phải theo học một khóa chính trị ngắn rồi được cấp giấy chứng nhận để cho về. Đối với các cấp chỉ huy thì có lệnh trình diện bắt đầu từ ngày 13 đến 16 Tháng Sáu, 1975. Chiếu theo đó thì sĩ quan sẽ đi học tập 15 ngày trong khi các viên chức dân sự cùng những đảng viên các tổ chức chính trị của miền Nam thì thời gian học tập là một tháng. Người trình diện phải mang theo 21 kilôgam gạo làm lương thực trong đó có mọi ngành từ quận trưởng trở lên hoặc đối với các viên chức hành chánh là trưởng phòng trở lên. Các văn nghệ sĩ cũng phải ra trình diện. Nội dung trong trại Tổng cộng có hơn 80 trại cải tạo phân bố trên toàn đất nước, nhất là những vùng biên giới, nơi kinh tế của nhân dân còn khó khăn và cần nhiều hỗ trợ. Chương trình bắt đầu với 10 bài giảng với những đề tài: Tội ác của Mỹ và Việt Nam Cộng hòa Lý thuyết Xã hội chủ nghĩa Chính sách khoan hồng của đảng Cộng sản Việt Nam và nhà nước Việt Nam Người trong trước tiên phải viết "bài tự khai", bắt đầu với bản "sơ yếu lý lịch", tiếp theo là bài tự kiểm điểm và khai báo quá khứ: một tháng viết hai lần; mỗi bài khai dài khoảng 20 trang giấy viết tay. Viết xong thì có buổi tự khai báo tập thể để mọi người phê bình, khen chê. Ai khai nhiều thì được điểm là "tiến bộ". Tùy theo cấp bậc hoặc thời gian phục vụ cho Mỹ/Việt Nam Cộng hòa mà những người này phải học tập cải tạo theo thời gian thông thường từ vài ngày đến vài tháng, cá biệt có người bị 17 năm. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều người không bị đưa đi học tập cải tạo hoặc chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là những người hoặc là hoạt động tình báo cho phía Mặt trận giải phóng, hoặc là những người ôn hòa được coi là "không có tội ác với nhân dân", như trường hợp Tổng thống Dương Văn Minh và một số dân biểu khác. Vì chính sách dùng lao động để cải tạo tư tưởng nên lao động sản xuất là trọng điểm. Nghị quyết 49 đề ra 8 giờ lao động sản xuất mỗi ngày. Mỗi tuần thì có hai buổi học tập chính trị. Chiều thì có lớp dạy văn hóa dành cho những người có trình độ văn hóa thấp. Những người trong trại học tập cải tạo phải lao động làm việc ở các công trường, trong các trại cải tạo, mà nhiều người mô tả là cực nhọc, một phần trong số đó đã bị mắc bệnh và chết do điều kiện sống khó khăn, thuốc men thiếu thốn. Công việc thông thường là chặt cây, trồng cây lương thực, đào giếng, và hỗ trợ lực lượng gỡ bom mìn sót lại từ chiến tranh. Việc này xuất phát từ thực tế rằng kinh tế Việt Nam những năm hậu chiến rất khó khăn, khẩu phần ăn của những người bình thường cũng chỉ ở mức đủ để duy trì cuộc sống, tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng, thấp còi ở mức cao. Theo lời của Thiếu tướng Đỗ Năm (nguyên Cục trưởng Cục quản lý trại giam V.26, một trong những người tham gia quản lý học tập cải tạo) giải thích với những người đi học tập, cải tạo rằng: "Đất nước còn khó khăn, chế độ nhà nước cấp còn thiếu thốn. Việc các anh (người tham gia học tập, cải tạo) trồng trọt chăn nuôi không phải để sản xuất hàng hóa lưu thông trên thị trường, mà để phục vụ lại cho đời sống của trại. Như vậy là lao động tự phục vụ. Sĩ quan như chúng tôi còn phải lao động tăng gia, tại sao các anh không làm?". Ông cũng nói thêm rằng tiêu chuẩn ăn của cán bộ quản giáo và trại viên như nhau. Trại cũng có chính sách hỗ trợ người thân đến thăm nuôi, có cả tiêu chuẩn nghỉ lao động để ở cùng vợ trong 1 ngày tại phòng riêng. Số lượng người đi học tập Sau năm 1975 ở miền Nam có hơn 1.000.000 người thuộc diện phải ra trình diện. Riêng ở Sài Gòn có 443.360 người ra trình diện, trong số đó có 28 viên tướng, 362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sĩ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát, 1.932 nhân viên tình báo, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền, và 9.306 người trong các "đảng phái phản động". Theo Phạm Văn Đồng, con số người phải trải qua giam giữ sau này 30/4/1975 là hơn 200.000 trong tổng số 1 triệu người ra trình diện. Tính đến năm 1980 thì chính phủ Việt Nam xác nhận có 26.000 người vẫn còn ở trong trại cải tạo. Tuy nhiên một số quan sát viên nước ngoài ước tính khoảng 100.000 đến 300.000 vẫn đang ở trong trại cải tạo. Ước tính của Hoa Kỳ cho rằng khoảng 165.000 người bị giam. Tuy nhiên, ước tính của Mỹ và quan sát viên nước ngoài đã tính gộp cả những người thuộc diện vi phạm các tội về an ninh (giết người, trộm cướp...) chứ không chỉ gồm các cựu quân nhân, quan chức của Việt Nam Cộng hòa và con số đã bị thổi phồng. Theo báo cáo năm 1979 của Tổ chức Ân xá Quốc tế (AI), phía Việt Nam trong giai đoạn 1975-1979 có 40.000 người phải đi học tập cải tạo. Tới năm 1979, số người bị giam giữ được ước tính là 26.000 người. Phía AI cũng nhấn mạnh, số lượng này đã bao gồm cả các tội phạm về hình sự như trộm cắp, mại dâm, ma túy,... Theo Aurora Foundation thì việc bị giam giữ dài hạn thường bị chuyển từ trại này sang trại khác có dụng ý chia tách để tù nhân không liên kết với nhau được và đường dây liên lạc với gia đình thêm khó khăn. Điều này là nhằm ngăn chặn các hoạt động phản kháng, thù địch của những người bị giam giữ đối với chính quyền mới. Đánh giá Luật sư, nhân vật bất đồng chính kiến chống Nhà nước Việt Nam, Cù Huy Hà Vũ cho rằng: "...việc tập trung cải tạo hàng trăm nghìn cựu sĩ quan, cựu viên chức Việt Nam Cộng Hòa vào các trại tập trung cải tạo đó là một tội ác,...nếu ai phạm tội, thì phải đưa ra xử theo pháp luật, dù pháp luật đó là thế nào và phải có bản án. Chứ còn chuyện mà cứ đưa đi mà không có một bản án, kéo dài hết năm này, hết năm kia, thậm chí rất nhiều người mất mạng có thể do việc bị xử bắn, hoặc do chuyện rừng thiêng nước độc, hoặc do ăn đói kém, thì những chuyện đấy tôi cho là tội ác. Luật sư, nhân vật bất đồng chính kiến chống Nhà nước Việt Nam, Lê Công Định nhận định năm 2015: "Đối với những tù nhân cải tạo quân nhân của chế độ Sài Gòn ngày xưa chúng ta thấy nó thể hiện rõ một chính sách của chính quyền là trả thù những người từng là đối thủ của mình. Họ không có một sự khoan dung, không có sự hòa giải thật sự cho nên mới thực hiện việc đó." Nhận xét về việc đưa binh lính chế độ Việt Nam Cộng hòa đi học tập cải tạo sau 1975, luật sư Ngô Bá Thành cho là họ đã rất may mắn và được khoan hồng. Bởi nếu chính quyền mới học theo quân Đồng Minh trong thế chiến thứ hai và tổ chức một phiên tòa xét xử tù binh chiến tranh như Tòa án Nuremberg, thì rất có thể nhiều sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đã bị tuyên án tử hình với những chứng cứ rõ ràng thu được trong hồ sơ quân nhân của họ (Tòa án Nuremberg là tòa án của khối Đồng Minh trong thế chiến thứ 2 chuyên xét xử tù binh chiến tranh, tòa án này đã tuyên án tử hình hoặc chung thân với hàng trăm tù nhân là các nhân vật cao cấp của phe Đức-Ý-Nhật). Nhà bất đồng chính kiến với chính phủ Việt Nam, cựu đại tá Bùi Tín cho rằng: khi thiết lập một chính quyền mới, để đảm bảo an ninh cho xã hội thì tất yếu phải ngăn chặn những lực lượng quân sự tàn dư của chế độ cũ nổi loạn, chính sách học tập cải tạo là nhằm mục tiêu đó. Chính quyền mới hoàn toàn có thể bắt giam toàn bộ binh lính chế độ cũ để ngăn chặn nổi loạn, nhưng thực tế họ chỉ yêu cầu 1/10 số đó đi cải tạo dài hạn từ vài tháng trở lên, 9/10 còn lại thì được thả ngay. Những người tỏ ý hợp tác thì không phải đi và còn được bổ nhiệm chức vụ, đó đã là một sự nhân đạo lớn: Tôi đã gặp một số vị trong chế độ Sài-gòn cũ, có vị là trung tướng nói với tôi rằng: "Nếu chúng tôi chiến thắng, tức Việt Nam Cộng hòa thắng, không chắc chính sách của chúng tôi đối với các ông đã hơn gì so với chính sách của các ông đối với chúng tôi. Có khi chúng tôi lại có những trại giam tàn bạo hơn." Chẳng phải trong số trên dưới 1 triệu lính gọi là ngụy quân, ngụy quyền thì số bị đi cải tạo dài hạn chỉ bao gồm trên 10 vạn người, nghĩa là chừng 1 phần mười, còn 9 phần mười đã được hưởng quyền công dân ngay từ đầu rồi là gì? Chẳng phải đã có ông chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh tham gia Mặt trận tổ quốc thành phố Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Xuân Oánh, quyền thủ tướng cũ, được bầu làm đại biểu quốc hội rồi là gì? Đại tá Phạm Hữu Thắng cho rằng: "Rõ ràng là phía Việt Nam Cộng Hòa và phía nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hai lực lượng thù địch nhau. Đã xác định là đối thủ rồi thì khi khi giải phóng rồi, thì như bên ngoài tuyên truyền là sẽ có một cuộc tàn sát đẫm máu, nhưng thực chất không có tàn sát đẫm máu. Mà việc cho một số người từng là kẻ địch đi cải tạo, đi học tập, tôi nghĩ là quốc gia nào cũng làm thế thôi. Còn điều kiện kinh tế Việt Nam thời đó, thì rõ ràng không thể, ngay cả với quân đội, với nhân dân, cũng chưa chăm lo được hết, cho nên có thể người ta nghĩ đấy là sự ngược đãi, nhưng điều kiện sống, điều kiện kinh tế của Việt Nam lúc ấy, tôi cho rằng cũng không thể đối xử tốt hơn được... Và người ta chỉ tập trung cải tạo trong một thời gian nào đấy để xóa bỏ ngăn cách, bởi vì với những người từng là đối phương, người ta sợ rằng họ sẽ gây nguy hiểm cho xã hội nên mới có chính sách ấy, và không có chuyện chính sách nhà nước, hoặc pháp luật nhà nước đề ra cái việc giết hại để dằn mặt" Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng: "Tôi nghĩ rằng sau chiến tranh, Việt Nam không có ngược đãi đối với mọi người. Bởi vì chính sách lúc ấy của nhà nước Việt Nam là chính sách hòa hợp dân tộc. Chính sách này đã công bố công khai ngay từ thời chiến tranh, chứ không phải sau hậu chiến mới có chính sách đó. Thế còn việc tập trung học tập hay cải tạo, tôi nghĩ đấy là để học cho nó rõ chính sách của nhà nước Việt Nam thời bấy giờ. Nếu nói (học tập cải tạo) là tù đầy, thì tôi nghĩ đó là một sự xuyên tạc. Hơn nữa cũng cần lưu ý là có thể là ở những lớp học như vậy, đời sống không được tốt là do về mặt đời sống kinh tế không được tốt và có thể có một số anh em (cựu binh Việt Nam Cộng hòa) nào đó hiểu nhầm là mình bị khổ sở này khác. Không có nhà tù nào để giam cầm tất cả anh em sĩ quan binh sĩ quân đội Sài Gòn, cũng như (nhân viên) chính quyền Sài Gòn trước đây, trong nhà tù để mà đánh đập, để mà tra tấn, thì hoàn toàn không có." Thủ tướng Phạm Văn Đồng khi trả lời trước Nghị viện Pháp vào cuối thập niên 1980 đã tuyên bố học tập cải tạo là một chính sách nhân đạo, bởi nếu ở những nước khác, những tù nhân này có thể đã bị xử tử hàng loạt vì tội cộng tác với quân xâm lược nước ngoài: Những khu trại mà các vị gọi là trại cải tạo, là sự thể hiện cực kỳ nghiêm túc quan điểm nhân quyền của chúng tôi... Những người này, những người đã phạm phải những tội ác tày trời chống lại đất nước, những người mà nếu ở những nước khác, mà chính quý vị ở đây (các nghị sỹ, nhà báo Pháp) ngay sau khi được giải phóng khỏi Đức Quốc xã, biết chuyện gì đã xảy ra (nước Pháp đã xử tử hơn 10.000 người cộng tác với Đức Quốc xã sau khi được quân Đồng Minh giải phóng năm 1945, xem Épuration légale)... Những người này được cho cơ hội trở lại làm một công dân bình thường, tham gia vào cộng đồng cả nước như bao người. Các vị còn đòi hỏi gì nữa? Sau khi được thả Sau thời gian đi học tập cải tạo, những người này được phục hồi đầy đủ quyền công dân. Trong vòng 48h sau khi ra khỏi trại cải tạo, người được cải tạo sẽ tới trình diện tại Ban quản lý người học tập cải tạo, sau đó là về làm việc với tổ quản lý cấp phường, xã để trước khi trở về nhà. Đối với những người mà giấy ra trại có ghi: "không quản chế" thì không bị quản chế và được hưởng quyền công dân ngay, còn nếu người đó thuộc diện "bị quản chế" thì vẫn được về nhà nhưng khi đi khỏi phường, xã trên 24h phải xin phép công an xã hoặc phường, ra khỏi quận thì xin phép công an quận và ra khỏi tỉnh hoặc thành phố thì xin phép công an tỉnh hoặc thành phố. Thời hạn quản chế là từ 6 tháng đến 1 năm. Người bị quản chế vẫn được tuyển dụng vào các cơ quan, xí nghiệp của Nhà nước. Sau thời gian quản chế nếu không có vi phạm sẽ được phục hồi quyền công dân. Thời gian quản chế có thể được rút ngắn nếu lập thành tích nổi bật trong công tác bảo vệ trật tự an ninh hoặc trong lao động sản xuất. Các cơ quan công quyền có trách nhiệm tạo điều kiện để người hoàn thành học tập, cải tạo về được lao động sản xuất để có cuộc sống ổn định lâu dài. Trong những người đã bị đưa đi học tập cải tạo, đã có nhiều người ra định cư ở nước ngoài, theo các chương trình xuất cảnh như Chương trình Ra đi có Trật tự, một thỏa thuận giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ký năm 1989. Theo đó thì chính phủ Mỹ dành ưu tiên nhập cảnh cho những cựu quân nhân, viên chức của Việt Nam Cộng hòa giam từ ba năm trở lên. Các chương trình sau đã và đang được tiến hành: Chương trình Ra đi có Trật tự (Orderly Departure Program - ODP) kết thúc vào tháng 9 năm 1994. Chương trình này bao gồm đoàn tụ gia đình, con lai và bao trùm cả chương trình H.R. Chương trình Tái định cư nhân đạo (Humanitarian Resettlement Program - HR) Chương trình Tái định cư nhân đạo mới (hay Chương trình H.O. mới) chỉ dành cho những người phải học tập cải tạo sau năm 1975, chưa có cơ hội nộp đơn qua chương trình ODP. Chương trình Tái định cư nhân đạo HR, cứu xét đơn năm 2005 Theo Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó thủ tướng, kiêm Tổng trưởng Quốc phòng, đồng thời là Tổng tham mưu trưởng Việt Nam Cộng hòa mô tả cuộc sống sau khi hết Học tập, cải tạo như sau: Thời kỳ Đổi Mới Cải tạo lao động tiếp tục được duy trì sau thời kỳ Đổi mới là một cách kỷ luật giam giữ những đối tượng phạm tội hình sự, tệ nạn xã hội, bị kết án chống lại nhà nước CHXHCN Việt Nam. Ngoài ra, còn có hình thức "cải tạo không giam giữ" (người cải tạo được sống tại địa phương, không phải vào trại cải tạo) cho những tội phạm hình sự nhưng ít nghiêm trọng như gây rối trật tự công cộng ở mức nhẹ, buôn lậu quy mô nhỏ, trộm cắp tài sản có giá trị thấp... Bà Bùi Thị Minh Hằng đã bị Chủ tịch UBND TP Hà Nội ra quyết định đưa vào cơ sở giáo dục Thanh Hà (Vĩnh Phúc) từ ngày ngày 28 tháng 11 năm 2011 cho tới 28.04.2012 sau khi cho rằng bà này đã lợi dụng quyền tự do, dân chủ của công dân để gây rối trật tự công cộng trong lúc xuống đường tham gia biểu tình về vấn đề tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam-Trung Quốc.. Tham khảo Giam giữ
784597
https://vi.wikipedia.org/wiki/Heliodiaptomus%20pulcher
Heliodiaptomus pulcher
Heliodiaptomus pulcher là một loài động vật giáp xác Copepoda thuộc họ Diaptomidae. Đây là loài đặc hữu của Ấn Độ. Chú thích Tham khảo Động vật Ấn Độ Heliodiaptomus Động vật được mô tả năm 1907 Động vật giáp xác nước ngọt châu Á Diaptomus
19774351
https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A3ng%20C%E1%BB%99ng%20s%E1%BA%A3n%20Vi%E1%BB%87t%20Nam%20%28b%C3%A1o%29
Đảng Cộng sản Việt Nam (báo)
Đảng Cộng sản Việt Nam là một tờ báo điện tử trực thuộc cơ quan Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Lịch sử Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập vào ngày 30 tháng 1 năm 2000. Năm 2005, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cấp Giấy phép hoạt động báo điện tử, thay tên “Website Đảng Cộng sản Việt Nam” bằng tên gọi chính thức: “Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam” với tên miền dangcongsan.vn. Ngày 13 tháng 2 năm 2020 tại Hà Nội, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức Lễ kỷ niệm 20 năm ngày thành lập báo (30/1/2000 – 30/1/2020) và nhận Huân chương Lao động hạng Nhì. Giới thiệu Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam là cơ quan báo chí truyền thông đa phương tiện, hệ thống tư liệu, văn kiện điện tử của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; là trung tâm khai thác và tích hợp thông tin từ trang thông tin điện tử của các Ban Đảng Trung ương, Văn phòng Trung ương các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy thực thuộc trong cả nước. Báo hoạt động dưới sự chỉ đạo, định hướng và quản lý trực tiếp của Ban Tuyên giáo Trung ương. Tham khảo Báo điện tử Việt Nam
1470852
https://vi.wikipedia.org/wiki/Ye%C4%9Fenli%2C%20Silifke
Yeğenli, Silifke
Yeğenli là một xã thuộc huyện Silifke, tỉnh Mersin, Thổ Nhĩ Kỳ. Dân số thời điểm năm 2011 là 700 người. Chú thích Tham khảo Xã thuộc tỉnh Mersin Làng Thổ Nhĩ Kỳ theo tỉnh
2586749
https://vi.wikipedia.org/wiki/Eurata%20kohleri
Eurata kohleri
Eurata kohleri là một loài bướm đêm thuộc phân họ Arctiinae, họ Erebidae. Chú thích Liên kết ngoài Eurata
1923103
https://vi.wikipedia.org/wiki/Stelis%20scaphoglossa
Stelis scaphoglossa
Stelis scaphoglossa là một loài thực vật có hoa trong họ Lan. Loài này được Luer & Hirtz mô tả khoa học đầu tiên năm 2004. Chú thích Liên kết ngoài S Thực vật được mô tả năm 2004
1798967
https://vi.wikipedia.org/wiki/Aspilia%20paludosa
Aspilia paludosa
Aspilia paludosa là một loài thực vật có hoa trong họ Cúc. Loài này được Berhaut mô tả khoa học đầu tiên năm 1955. Chú thích Liên kết ngoài Aspilia Thực vật được mô tả năm 1955
2466028
https://vi.wikipedia.org/wiki/Schizoloma%20griffithianum
Schizoloma griffithianum
Schizoloma griffithianum là một loài dương xỉ trong họ Lindsaeaceae. Loài này được Hook. Fée mô tả khoa học đầu tiên năm 1852. Chú thích Liên kết ngoài Schizoloma Thực vật được mô tả năm 1852 es:Schizoloma griffithianum
2702831
https://vi.wikipedia.org/wiki/Crocidophora%20limbata
Crocidophora limbata
Crocidophora limbata là một loài bướm đêm trong họ Crambidae. Chú thích Liên kết ngoài Crocidophora
1793752
https://vi.wikipedia.org/wiki/Euphorbia%20renneyi
Euphorbia renneyi
Euphorbia renneyi là một loài thực vật có hoa trong họ Đại kích. Loài này được (S.Carter) Bruyns mô tả khoa học đầu tiên năm 2006. Chú thích Tham khảo R Thực vật được mô tả năm 2006
2108787
https://vi.wikipedia.org/wiki/Syndiclis%20anlungensis
Syndiclis anlungensis
Syndiclis anlungensis là loài thực vật có hoa trong họ Nguyệt quế. Loài này được H.W. Li miêu tả khoa học đầu tiên năm 1979. Chú thích Liên kết ngoài A Thực vật được mô tả năm 1979
1120078
https://vi.wikipedia.org/wiki/Walckenaeria%20allopatriae
Walckenaeria allopatriae
Walckenaeria allopatriae là một loài nhện trong họ Linyphiidae. Loài này thuộc chi Walckenaeria. Walckenaeria allopatriae được miêu tả năm 1986 bởi Rudy Jocqué & Scharff. Chú thích Tham khảo A
1351262
https://vi.wikipedia.org/wiki/Chrysopa%20nervulosa
Chrysopa nervulosa
Chrysopa nervulosa là một loài côn trùng trong họ Chrysopidae thuộc bộ Neuroptera. Loài này được Navás miêu tả năm 1924. Chú thích Tham khảo Chrysopa
1211872
https://vi.wikipedia.org/wiki/Staurastrum%20anatinum
Staurastrum anatinum
Staurastrum anatinum là một loài Song tinh tảo trong họ Desmidiaceae, thuộc chi Staurastrum. Các phân loài Staurastrum anatinum var. anatinum Staurastrum anatinum var. biradiatum Staurastrum anatinum var. curtum Staurastrum anatinum var. denticulatum Staurastrum anatinum var. grande Staurastrum anatinum var. lagerheimii Staurastrum anatinum var. longibrachiatum Staurastrum anatinum var. truncatum Staurastrum orbiculare var. depressum Staurastrum orbiculare var. extensum Staurastrum orbiculare var. hibernicum Staurastrum orbiculare var. protractum Staurastrum orbiculare var. ralfsii Chú thích Tham khảo Staurastrum